Responsive Menu
Add more content here...

Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập – Tập 1

Giảng Ký Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập

 Đại Sư Ngẫu Ích Tập hợp và Chú thích

 Bài 001: Tam Quy Y Và Ngũ Giới. Tam Quy

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

          Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

          Nam Mô A Mi Đà Phật!

Kính chào toàn thể quý vị đồng tu. Như đã hứa, Thiện Trang chia sẻ một tháng một lần về Giới Luật. Chúng ta học tựa đề lần này là Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập của Đại sư Ngẫu Ích. Chúng ta luôn “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”, tức là chúng ta không sáng tạo, chúng ta chỉ thuật lại những lời mà người xưa, lời của đức Phật, lời của chư Tổ, lời của những người khai ngộ, lời của những bậc đi trước, chúng ta chỉ thuật lại. Dù giảng về Giới Luật, nhưng Thiện Trang cũng dùng tài liệu của bậc Tổ sư Tịnh Độ tông là Đại sư Ngẫu Ích, ngài là vị Tổ thứ 9 của Tịnh Độ tông chúng ta. Nếu như bổ sung thêm hai vị nữa là ngài Đàm Loan, ngài Đạo Xước thì ngài Đại sư Ngẫu Ích là Tổ sư thứ 11.

Việc học Giới Luật chúng ta đã nghe qua quá nhiều, nhưng mà thời nay đa phần chúng ta vì không tiếp cận được một bản chánh giáo nào. Chúng ta chỉ nghe người nào giảng vấn đề trên tầm hiểu biết nào đó, mình nghe lại cho nên thường không được đầy đủ. Cho nên mọi người có tâm lý khinh thường Giới Luật. Thiện Trang cũng nghĩ là nếu học Giới Luật, chia sẻ Giới Luật không biết bắt đầu từ đâu thì Thiện Trang nghĩ là tìm một bộ của chư Tổ là chắc ăn nhất và rất mãn nguyện khi tìm được bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập của Đại sư Ngẫu Ích.

Bản này chúng ta nghe tên thôi có vẻ nhẹ nhàng, tại gia thôi, #luật là Giới luật, #yếu là trọng yếu, quan trọng; #quảng là rộng; #tập có nghĩa là tập hợp. Đây là Đại sư Ngẫu Ích tập hợp lại chứ ngài cũng không sáng tạo và ngài chú thích. Nhưng nội dung trong đó Thiện Trang thấy cũng không đơn giản, tức là không thấp như mình tưởng, cũng rất cao. Đúng là bậc khai ngộ thì dù viết lời nào, dù vào một môn nào cũng đưa môn đó lên tầm cao. Cho nên pháp không có thấp có cao mà do người có cao có thấp, hay nói cách khác: pháp không có cạn không có sâu, mà do cảnh giới của người hoằng truyền, cảnh giới của người học có sâu có cạn. Cho nên quý vị đừng xem thường Tam quy Ngũ giới. Nhiều khi mình nói mình học rất lâu rồi, thậm chí mình học tới đâu rồi nhưng thực tế mà nói sau khi học, nếu như hôm nay chúng ta đi kịp một buổi trọn vẹn theo những gì Thiện Trang chuẩn bị thì chúng ta thấy điều căn bản nhất chúng ta không làm được đó là Tam quy. Tam Quy y: chúng ta học rất lâu rồi nhưng mà điều căn bản không làm được. Vì chúng ta không có học từ gốc. Người xưa học từ gốc, cho nên có gốc rồi thì khi lên cây mới kết hoa, ra trái mới được. Còn chúng ta học kiểu gốc chưa vững, rễ chưa bám chắc mà ham lấy hoa lấy trái cho nên hoa trái không được tốt đẹp. Hay nói cách khác là chúng ta học thiếu nền tảng.

Vì vậy Thiện Trang cố gắng sắp xếp trong một tháng cố gắng chia sẻ một lần phần Giới Luật. Tuy hơi chậm nhưng mà chúng ta cứ đi từ từ cũng như là đổi món ăn cho quý vị thay vị. Giống như hằng ngày mình ăn cơm hoài ngán rồi, người thế gian người ta thèm phở, mình nói là mình đổi ăn cháo, lâu lâu học Giới Luật, đổi món ăn cho quý vị đỡ ngán.

Nếu như chúng ta biết Giới luật quan trọng thì chúng ta sẽ biết là học quan trọng. Đơn giản nói về Tam Quy y quý vị biết có công năng rất lớn. Tam Quy y là quy y Tam Bảo. Trong Kinh Hy Hữu Giảo Lượng Công Đức ghi: ‘Tôn giả A Nan bạch với đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch đức Thế Tôn, như có Thiện nam, Thiện nữ nào phát nguyện: Nay con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng thì họ được bao nhiêu công đức? Con thật chưa hiểu, cúi mong đức Như Lai chỉ dạy để con và tất cả chúng sinh nhận biết đúng đắn”’.

Đức Thế Tôn bảo: “Này A Nan! Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ giảng giải thích cho ông rõ. Giả sử người khắp cõi Diêm Phù Đề này đều chứng quả Tu-đà-hoàn, có một Thiện nam, Thiện nữ nào đem tất cả vật dụng vui chơi ở thế gian và tứ sự cúng dường cho vị ấy suốt một trăm năm. Sau khi các vị ấy diệt độ lại thâu xá lợi xây tháp bảy báu tôn thờ cúng dường. Ông nghĩ sao? Người này được phúc nhiều chăng?

Ngài A Nan thưa: “Rất nhiều thưa Thế Tôn.”

Phật dạy: “Cúng dường như thế cũng không bằng người nào với tâm thanh tịnh phát nguyện: Nay con nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Công đức của người này hơn phước đức của người cúng dường kia gấp trăm nghìn vạn lần cho đến không thể tính đếm thí dụ mà biết được”.

Đoạn ví dụ vừa rồi ý nói là quý vị gặp được một vị chứng quả Tu-đà-hoàn, quý vị cúng dường cho vị ấy cả một trăm năm, suốt một trăm năm đủ các món ăn, tứ sự cúng dường về thức ăn, ăn mặc, chỗ ở và thuốc men. Chúng ta chăm sóc cúng dường 100 năm rồi vị ấy tu chứng quả Tu-đà-hoàn thì nhập diệt, tiếp tục thu xá lợi xây tháp thờ để cúng dường tiếp. Nhưng phước báu đó, công đức đó không bằng một người với tâm thanh tịnh phát nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cho nên quý vị thấy, ngay vào cửa Phật quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng cũng đã có công đức rất nhiều như vậy rồi. Cho nên không thể khinh thường những điều đơn giản.

Ngày nay chúng ta học, chúng ta tưởng là mình đã quy y rồi, bữa nay chúng ta học thử xem có phải đúng quy y chưa. [Về] Tam Quy.

《在家律要廣集》卷1

Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập – Quyển Nhất

Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập – Quyển 1

Quyển này do Đại sư Ngẫu Ích [soạn]. Mới đầu có hai lời tựa khá dài, có trích thêm một đoạn Kinh, Thiện Trang xin phép bỏ qua phần này. Chúng ta vào thẳng luôn phần thứ nhất.

No. 1123-2 附優婆塞受三歸五戒法

Phụ Ưu Bà Tắc Thọ Tam Quy Ngũ Giới Pháp

Phụ Lục Pháp Thọ Tam Quy Ngũ Giới của Ưu-bà-tắc

古吳比邱 智旭 彚釋

Cổ Ngô Tỳ-kheo Trí Húc vị thích.

Cổ Ngô Tỳ-kheo Trí Húc tập hợp chú thích.

Giải:

#Cổ ngô: là nước Ngô trong thời Xuân Thu chiến quốc. Thời Tam quốc có nước Ngô. Cổ Ngô là nước Ngô, nơi mà Đại sư Ngẫu Ích ở.

#Tỳ-kheo Trí Húc: là Đại sư Ngẫu Ích.

#Vị thích: có nghĩa là tập hợp lại; #thích là chú thích. Có nghĩa là ngài tập hợp ở trong Đại Tạng Kinh ra để mà chú giải, chú thích cho bộ này.

初受三歸法

Sơ thọ Tam Quy pháp

Pháp thọ Tam Quy ban đầu

(本應自說。如或不能。師應教授)。

(Bổn ưng tự thuyết. Như hoặc bất năng, sư ưng giáo thụ).

(Vốn nên tự nói. Nếu như không thể nói, thì vị thầy nên chỉ dạy).

          Khi mình quy y vốn mình tự nói, nếu như không thể nói (tức là không biết đường mà nói) thì vị thầy truyền lễ Quy y sẽ chỉ dạy cho quý vị nói. Đây là những điều căn bản, dưới đây là cách quy y, Thiện Trang xin đọc:

我某甲。盡形壽歸依佛。歸依法。歸依僧(三說)。我某甲。盡形壽歸依佛竟。歸依法竟。歸依僧竟(三說)。

Ngã mỗ giáp. Tận hình thọ quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (tam thuyết). Ngã mỗ giáp. Tận hình thọ quy y Phật cánh, quy y Pháp cánh, quy y Tăng cánh (tam thuyết).

Giải:

#Ngã mỗ giáp: con tên là. Ví dụ quý vị mới đầu chưa có Pháp danh thì xưng tên ở đời, con tên là gì đó.

#Tận hình thọ quy y Phật: #tận hình thọ là trọn hết thọ mạng của thân hình này. Nói ngôn ngữ văn phong một chút là từ nay cho đến hết đời, hết thọ mạng của thân hình này xin quy y Phật. [Trong]Tam Quy.

#Quy y Pháp, quy y Tăng (tam thuyết): nói ba lần quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

#Ngã mỗ giáp: con tên là

#Tận hình thọ quy y Phật cánh, quy y Pháp cánh, quy y Tăng cánh (tam thuyết): từ nay cho đến hết đời quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, xin quy y Tăng rồi (nói ba lần). Chữ #cánh là xong rồi.

          Tạm dịch: Con tên là … từ nay cho đến hết đời xin quy y Phật, xin quy y Pháp, xin quy y Tăng (nói ba lần). Con tên là … từ nay cho đến hết đời quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, xin quy y Tăng rồi (nói ba lần).

          Lúc làm lễ Quy y sẽ có nghi thức là đọc qua. Nếu đơn giản nhất là chỉ vậy thôi, còn nếu dài dòng thì có Tam quy Ngũ giới rất dài. Chúng ta có pháp đơn giản và chúng ta sẽ được học ở trong đây và cũng có nghi thức dài hơn. Quý vị thấy Tam quy đơn giản như vậy nhưng không phải đơn giản. Chúng ta sẽ học thế nào là Tam quy ở phần sau. Tiếp theo Đại sư Ngẫu Ích trích ra:

薩婆多論云。以三寶為所歸。欲令救護。不得侵淩故也。歸依佛者。歸於法身。謂一切智無學功德。五分所成。歸依法者。歸於自他盡處。謂斷欲無欲。滅諦涅槃。

Tát Bà Đa Luận vân: Dĩ Tam Bảo vi sở quy, dục linh cứu hộ, bất đắc xâm lăng dã. Quy y Phật giả, quy y Pháp thân, vị Nhất thiết trí Vô học công đức, ngũ phần sở thành. Quy y Pháp giả, quy ư tự tha tận xử, vị đoạn dục vô dục, diệt đế Niết-Bàn.

Giải:

#Tát Bà Đa Luận vân: một bộ Luận tên là Tát Bà Đa, trong đó nói:

#Dĩ Tam Bảo vi sở quy: lấy Tam Bảo làm chỗ quay về, tức là chỗ nương tựa. Tam Bảo gồm có: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo.

#Dục linh cứu hộ: quý vị muốn được hộ trì, muốn cứu độ, cứu giúp mình.

#Bất đắc xâm lăng dã: thì không được khinh thường mạo phạm. Tức là mình quy y Phật rồi, quy y Tam Bảo rồi thì không được phạm lại, không được khinh thường mạo phạm.

#Quy y Phật giả: quy y Phật là:

#Quy y Pháp thân: quay về với Pháp thân.

#Vị Nhất thiết trí Vô học công đức: là tất cả công đức Nhất thiết trí Vô học. Dịch đúng là công đức Vô học của Nhất thiết trí.

          Chúng ta nghe nhưng không hiểu, tại vì thực ra mà nói chỗ này cũng hơi cao. Đơn giản là như thế này, chúng ta quy y Phật là chúng ta quay về với Pháp thân Phật, đó là đúng nghĩa Quy y. Pháp thân Phật được tạo bởi công đức của Nhất thiết trí. Nhất thiết trí là một trong ba trí. Cho nên vô đây cũng cao chứ đâu có đơn giản đâu đúng không. Ở bên bộ Giảng Kinh Vô Lượng Thọ chúng ta đã nói qua về ba trí này rồi, còn ở bộ giảng này thì mới vô mà đã nói điều này [là] hơi sâu. Cho nên Thiện Trang cứ từ từ lướt, đằng sau còn nhiều điều cũng sâu lắm, không thấp đâu.

#Ngũ phần sở thành: #ngũ phần là năm phần tạo thành. Pháp thân Phật được tạo thành bởi năm phần, nên chúng ta gọi là Ngũ phần Pháp thân.

          Ở đây Thiện Trang có chú thích Ngũ phần Pháp thân là: Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến. Giống như trong bài Nguyện Hương gồm có Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương. Năm phần đó tạo nên Pháp thân.

#Quy y Pháp giả: quy y Pháp là:

          Ở trên quy y Phật là quay về với Pháp thân, là công đức của Nhất thiết trí Vô học. Tức là đạt đến công đức của Phật rồi, là công đức của Nhất thiết trí. Tức là lúc đó quý vị không cần học nữa, chứ không như chúng ta, chúng ta vẫn phải học, học đủ các kiểu mà cũng không thông. Còn khi thành Phật rồi thì không cần học gì cả, cho nên mới gọi là Nhất thiết trí Vô học.

Quy y là như thế, quy y với Pháp thân. Đó mới là đúng nghĩa của Quy y. Nhưng mà đây là nói trên Lý, nói trên cao rồi. Và được thành bởi năm phần: Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến. Cho nên người tu hành nếu như chúng ta không có Giới thì coi như chúng ta không đạt được gì. Phải có Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ. Có Giới, Định, Huệ rồi, mới có giải thoát. Giải thoát thì có kèm theo Giải thoát Tri kiến.

Giải thoát Tri kiến là những gì chúng ta thấy biết. Thấy biết của chúng ta là thấy biết của người giải thoát. Ví dụ quý vị nhìn thế gian khác người bình thường. Người thế gian không biết, người ta thấy thế gian nào người đau, người ốm, khổ v.v… thấy mê mờ cho nên khổ. Còn người mà có Giải thoát Tri kiến rồi thì không có ràng buộc, không khổ nữa. Tri kiến của giải thoát là thấy thế gian này vốn như vậy, thế gian vốn vô thường, vạn vật vốn sanh diệt. Tất cả pháp Hữu vi giống như mộng, như huyễn, như hóa, tất cả như thế. Chỉ có pháp Vô vi mới là chân tối thắng, chỉ có pháp Vô vi mới không sanh không diệt. Pháp Vô vi chính là Niết-Bàn tịch tĩnh. Chúng ta nói đơn giản, Tây Phương Cực Lạc chúng ta mong cầu về cũng là Tương tự Vô vi rồi, bởi vì chúng ta gần vào Vô vi.

Cho nên chúng ta tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là chúng ta đi từ Hữu vi này tới Hữu vi kia, nhưng mà cái Hữu vi đó thông luôn với Vô vi, cho nên nó thông với Pháp thân. Cho nên nếu không tu từ căn bản là Giới, Định, Huệ thì chúng ta không thể đạt được Ngũ phần Pháp thân này.

#Quy ư tự tha tận xử: quay về với hết sạch đối đãi tự tha. #Tận là hết, hết sạch đối đãi giữa ta và người khác. Nói chung là không còn đối đãi bên này bên kia. Mình bỏ được Biên kiến, cho nên quy y Pháp này không làm được. Cái này là nói theo Lý, chúng ta không làm được. Lát nữa nói theo Sự. Sự chúng ta cũng không làm được luôn. Lý không làm được, Sự cũng không làm được.

#Vị đoạn dục vô dục: là đoạn dục và vô dục. Tức là mình phải dứt đi hết các ham muốn, không có ham muốn nữa.

#Diệt đế Niết-Bàn: #diệt đế trong Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo thì đây là diệt đế Niết-Bàn tịch tĩnh.

          Tạm dịch: Trong Luận Tát Bà Đa nói: Lấy Tam Bảo làm chỗ quay về, muốn được hộ trì, thì không được khinh thường mạo phạm. Quy y Phật là: quay về với Pháp thân, là công đức Nhất thiết trí Vô học, được thành bởi năm phần. Quy y Pháp là: quay về với hết sạch đối đãi tự tha, là đoạn dục vô dục, diệt đế Niết-Bàn.

          Quý vị thấy lời của Đại sư Ngẫu Ích viết rất cao, mới quy y Phật, quy y Pháp chúng ta đã thấy chỗ này cao quá, chúng ta không làm được. Lát sau ngài đưa ra mấy tầng bậc nữa của Quy y, chúng ta coi xem chúng ta làm được tầng bậc nào.

歸依僧者。歸於第一義僧。謂良祐福田。聲聞學無學功德也(投心正教。翻破邪歸。故有結云。從今以徃。稱佛為師。更不歸依天魔外道等。此則反邪歸正之初門。尚未受行戒法。名為但三歸優婆塞。然既歸依三寶。必須斷惡修善。豈容淫殺盜妄。一任舊習者也)。

Quy y Tăng giả: quy y Đệ nhất nghĩa Tăng, vị lương hựu phước điền, Thanh văn học Vô học công đức dã (đầu tâm chánh giáo, phiên phá tà quy). Cố hữu kết vân: Tùng kim dĩ vãng, xưng Phật vi sư, cánh bất quy y thiên ma ngoại đạo đẳng, thử tắc phiên tà quy chánh chi sơ môn, thượng vị thọ hành giới pháp, danh vi đãn tam quy Ưu-bà-tắc. Nhiên ký quy y Tam Bảo, tất tu đoạn ác tu thiện, khởi dung dâm sát đạo vọng, nhất nhậm cựu tập giả dã).

Giải:

#Quy y Tăng giả: Quy y Tăng là.

#Quy y Đệ nhất nghĩa Tăng: Quy y Đệ nhất nghĩa Tăng. #Đệ nhất nghĩa Tăng là thanh tịnh. Những người chứng đắc đệ nhất nghĩa chính là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, không đơn giản.

#Vị lương hựu phước điền: là ruộng phước tốt lành. Chữ #hựu là tốt lành, phúc lành; #lương cũng là tốt lành, cho nên chúng ta có thể dịch là ruộng phước rất tốt lành.

          Những bậc Đệ nhất nghĩa Tăng là ruộng phước rất tốt lành. Giống như ngài Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát là Đệ nhất nghĩa Tăng rồi.

#Thanh văn học Vô học công đức dã: ở đây hạ thấp xuống, bậc Thanh-văn còn Hữu học hay là Vô học.

Chúng ta những bậc phàm phu còn hữu học, hoặc chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn lên Tam quả gọi là Hữu học. Nếu Vô học là chứng quả A-la-hán rồi, công đức của hàng Thanh văn Hữu học và Vô học. Tam Quy

#Đầu tâm chánh giáo: chữ #đầu này có nghĩa là nương nhờ, hướng về. Ở đây chúng ta tạm dịch là hướng tâm về chánh giáo. Chánh giáo là giáo của đức Phật.

#Phiên phá tà quy: chữ #phiên là lật ngược lại, phá đi quy y tà lúc trước.

          Tức là lúc trước không biết, mình đi quy y với quỷ thần, quy y với ngoại đạo, v.v… hoặc mình quy y với những giáo pháp của thế gian ví dụ Tam Quy, người ta nói chết đi là hết. Những quy y đó sai lầm, bây giờ mình hiểu rồi mình quay về, quay ngược trở lại quy y với chân giáo. Đó gọi là phá đi tà quy y.

Điều này rất nhiều người gặp chướng ngại, đặc biệt những người lúc trước quy y theo ngoại đạo, bây giờ đến lúc muốn quy y theo chánh đạo cũng khó lắm. Muốn quy y với Phật giáo tự nhiên có người này cản, người kia cản, không cho mình quy y. Vì mình đã lỡ quy y với bên đó rồi cho nên bên đó có quỷ thần hộ vệ, họ lôi kéo. Cho nên những người muốn bỏ từ một giáo pháp nào đó để trở về Phật giáo nhiều khi cũng chướng ngại vô cùng. Thiện Trang cũng đã thấy như vậy. Có người đã từng quy y theo một môn nào đó, tự nhiên bây giờ tu hành theo Phật giáo, thời gian đầu, nhiều chướng ngại lắm, họ không muốn bỏ mình. Quý vị phải phát tâm lớn lên, phải phát tâm mạnh mẽ vượt qua những chướng ngại đó để quy y. Khi quy y thì được 36 bộ thần hộ Tam Quy cho quý vị. Mỗi một điều quy y là 12 bộ thần, 12 x 3 là 36 bộ thần, từ đó mới yên thân từ đó tu hành được. Thọ Ngũ giới cũng vậy, mỗi giới có 5 bộ thần hộ giới, 5 x 5 là 25 bộ thần hộ giới nữa, từ đó mình tu mới yên bình.

Còn bây giờ mình tu gặp nhiều chông gai, nhiều khó khăn quá, đủ chuyện này chuyện kia, lý do là chưa làm tốt Tam quy Ngũ giới. Hay nói người xuất gia, Tỳ-kheo có 250 giới nếu như không làm được, thì đoạn sau có nói rất quan trọng ở điểm Tam Quy. Cho nên Tam quy y là điều căn bản mà chúng ta lơ là không học.

#Cố hữu kết vân: cho nên có cam kết rằng. Khi quy y quý vị sẽ có cam kết.

#Tùng kim dĩ vãng: từ nay về sau.

#Xưng Phật vi sư: xưng Phật làm thầy. Quý vị nhận Phật là thầy của quý vị. Vì Phật là thầy thì mình không có quy y ngoại đạo nữa.

#Cánh bất quy y thiên ma ngoại đạo đẳng: tuyệt đối không quy y thiên ma ngoại đạo.

          Tức là khi quý vị quy y Phật rồi thì có cam kết là từ nay về sau xưng Phật là thầy, là gọi Phật làm thầy. Không phải đơn giản đâu! Quý vị sẽ nhận Phật làm thầy của mình, mình là Đệ tử của Phật. Chữ #cánh là tuyệt đối, tuyệt đối không quy y với thiên ma ngoại đạo v.v… có cam kết như vậy đó.

          Quý vị có làm được vậy không? Có nhiều người không biết, sau đó mất Tam quy y. Quy y Phật rồi, Phật là thầy, là vua trong Tam giới. Phật không phải là vua trong Tam giới nữa mà xuất ra ngoài Tam giới. Ngài là “Pháp Vương vô thượng tôn”, là đấng Pháp Vương tôn quý nhất, không có ai cao hơn nữa. “Tam giới vô luân thất” là trong Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới hay chúng ta nói từ Địa ngục đến tầng trời thứ 28 không có một ai có thể sánh bằng Phật. Cho nên trong bài cúng ngọ có câu:

“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật

Thập phương thế giới diệc vô tỷ”.

Tức là trên trời dưới đất không có ai bằng Phật; Thập phương thế giới diệc vô tỷ tức là mười phương thế giới cũng như vậy, không có ai so sánh bằng được hết. Vậy bữa nay mình là phàm phu mình quy y Phật, Phật là thầy của con, con là Đệ tử của Phật. Ngon như vậy mà không chịu, lại đi quy y với thiên ma ngoại đạo.

Ở đây nói thiên ma là ma lớn, còn chúng ta khỏi cần thiên ma, tới thành tới miếu nào đó có bà nào đó, hay ông nào đó v.v… là mình quy y rồi. Cho nên nhiều người không biết, ở Việt Nam cũng vậy đi hành hương lên miếu này miếu kia v.v… đó là đều không biết. Cho nên nếu quý vị quy y rồi thì pháp Tam Quy bị mất hiệu lực [vì] có cam kết rõ ràng, giống như mình đăng ký kết hôn. Ở nhân gian kết hôn là có cam kết mà quý vị phá vỡ cam kết là hết hiệu lực rồi. Hoặc cam kết hợp đồng [mà] quý vị quy y với thiên ma ngoại đạo hoặc tà ma ngoại đạo thì thôi rồi, các vị thần hộ trì Tam Quy bỏ đi hết, cho nên từ đó trở về sau tu hành gian nan khó khăn.

Cho nên phải học từ những điều này, nhiều đồng tu Tịnh Độ không biết điều đó, học cao lắm nhưng điều căn bản này không biết. Và điều thứ hai phải biết: đã xưng Phật làm thầy là quy y Phật cho nên xưng Phật là thầy, là Bổn sư của mình, chứ đâu có quy y với thầy nào đâu. [Quý vị] quy y thì nhớ, các vị Thầy, các Sư cô làm lễ quy y chỉ là A-xà-lê tức là bậc chứng minh, bậc thầy giáo thọ thôi, không phải là quy y với thầy đó, không phải là quy y với cô đó. Hôm qua có người hỏi: “Vậy thưa thầy, con có thể tự quy y được không?”

Được trong thời nào mà pháp diệt rồi, không có người xuất gia nữa. Khi không có người xuất gia, quý vị có thể đối trước một người tại gia Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di để thọ Tam quy cũng được. Nhưng bây giờ còn mà, ở trong một ngàn dặm vẫn còn có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thì quý vị phải đối diện trước Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà Tam quy y. Phải có người truyền, không có người truyền thì không được.

Cho nên nhiều đồng tu Tịnh Độ nghe nói học cao quá rồi cuối cùng nói bỏ chấp luôn không có thực hành quy y, cho nên thành ra sai. Còn có người hiểu sai là quy y với thầy đó, quy y với cô đó, quy y với chùa đó. Không phải! [Trong] lễ quy y nói rõ ràng: không phải từ nay trở đi quý vị đã quy y với chúng tôi rồi, không phải. Mà là quy y với Phật rồi, quy y với Pháp rồi, quy y với Tăng rồi, tức là quy y Tam Bảo rồi thì gọi là Phật tử. Phật tử chùa nào cũng gọi là Phật tử cả, thầy nào cũng là thầy A-xà-lê, thầy cô nào cũng được hết. Chứ không phải quy y với thầy đó, nhớ nha, đừng có nói [như vậy].

Ví dụ như Thiện Trang làm lễ quy y chẳng hạn, rồi quý vị nói con quy y với thầy Thiện Trang. Không có! Thầy Thiện Trang chỉ là chứng minh cho quý vị về lễ Quy y đó mà thôi, gọi là A-xà-lê, không phải là quy y. Mình quy y với Phật mà. Quý vị thấy quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, lát nữa chúng ta sẽ học lại ở đoạn đằng sau, Phật Pháp Tăng là gì theo tầng lớp đàng hoàng.

Chúng ta phải học, đôi khi học cao quá, nhưng những điều căn bản không học thì nhiều khi mình lên trên cao giống như xây nhà mấy tầng mà ở dưới cái móng không chắc thì đổ sập, cho nên tu hành không đắc lực. Những điều căn bản trong Kinh Vô Lượng Thọ, trong Tịnh nghiệp Tam phước, có bất phạm oai nghi. Thọ trì Tam quy mình cũng chưa thọ được, bất phạm oai nghi mình cũng không làm được. Đây là Thiện Trang giảng ở trong Tịnh nghiệp Tam phước của Quán Kinh tức là Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Cho nên đừng khinh thường, đừng nghĩ rằng cái này không quan trọng. Rất quan trọng. Quý vị học đi rồi thấy, rất nhiều điều xưa nay mình chưa học, mình thiếu sót rất nhiều, và đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích, chứ không phải lời của Thiện Trang. Quý vị nên nhớ đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích, lời trong Giới Luật trích ra, lời của Phật không phải lời bình thường.

Giống như lúc nãy Thiện Trang đã dẫn [một đoạn trong Kinh ra]. Quý vị cứ tưởng là quý vị phải đi cúng dường nơi này nơi kia, tiền bạc nhiều lắm, quý vị [có] công đức lớn. Thật ra quý vị chỉ quy y [thôi] là công đức phước báu lớn rồi, lớn hơn cả cúng dường cho cả bao nhiêu người đều chứng quả Tu-đà-hoàn trong cõi Nam Thiệm Bộ châu. Hay nói đơn giản là trên Trái đất này có bao nhiêu người, tất cả đều chứng quả Tu-đà-hoàn, mà quý vị cúng dường hết cho họ cũng không bằng quý vị Tam quy y đúng như pháp [với] tâm thanh tịnh. Nhất tâm thanh tịnh Tam quy y đúng thì phước báo công đức lớn hơn.

Tốt mà sao mình không làm! Việc dễ hơn không làm thích làm việc khó, việc khó mà phước nhỏ. Phước lớn thì không chịu làm, lại làm phước nhỏ. Công đức lớn không chịu làm mà làm công đức nhỏ mà tưởng là lớn. Đó rõ ràng là điên đảo. Vì không có ai dạy, thời nay Giới Luật dần dần đi vào Mạt pháp, Mạt pháp cho nên người nào cũng sợ Giới Luật, nghe nói Giới Luật khó quá, khó trì. Học tới nghe [thấy mình] phạm không à, nhưng đâu biết học Giới Luật có lợi ích. Quy y thôi đã công đức lớn như vậy rồi, sau này chúng ta học Ngũ giới cũng có công đức lớn như thế nào v.v… rất nhiều lợi ích.

Tất nhiên lợi ích thì cũng có, [chỉ là] không có lợi ích cho những người phá giới, người phá như thế thì mất lợi ích. Vì tất nhiên đi buôn không lỗ thì lời, quý vị không lời thì phải chịu lỗ thôi, quý vị không biết buôn thì quý vị sẽ phải lỗ. Nếu mình biết buôn thì buôn bán có lời mình giàu, người biết buôn bán thì sẽ rất giàu, còn không buôn bán thì nghèo cả đời nếu như mình không làm. Cho nên mình làm ăn là phải cố gắng có lời, mà muốn cố gắng có lời thì phải học nghề buôn bán, phải biết cách buôn bán.

Cũng vậy, tu hành Phật pháp muốn có lợi ích thì phải học, học từ Giới Luật. Cho dù [tu] bất cứ môn nào, cũng phải có Giới Luật. Chúng ta không cần học sâu lắm, chúng ta chỉ học đủ xài là được rồi. Thiện Trang chọn bộ này là đủ xài, học hết bộ này tầm khoảng 300 trang, học chắc cũng nhanh thôi, nếu chúng ta học nhanh thì cũng nhanh hết, là có cả Bồ-tát giới trong đó luôn rồi, có giới tại gia đầy đủ hết. Cho nên Bát quan trai cũng có, Ngũ giới cũng có đầy đủ trong bộ này và mở màn là Tam quy y, toàn là những điều rất căn bản, rất hay. Thật sự Thiện Trang thấy rất căn bản, rất hay, chúng ta có thể mang được lợi ích rất lớn. Cho nên mình biết [thì] chịu khó học, lâu lâu chịu khó học.

Thiện Trang không có đủ thời gian để chia sẻ cho quý vị, nhưng chia sẻ được phần nào, mình học được phần nào sẽ có lợi ích phần đó. Đừng nghĩ học môn này không lợi ích, người đời nay không biết học, không học cho nên tưởng là khó, tưởng là ép buộc người ta. Không phải! Quý vị thấy Tam quy y đoạn hồi nãy, nghi thức quy y cũng đơn giản, sau này cũng đơn giản thôi nhưng mà có lợi ích.

Như vậy quý vị nhớ khi quy y rồi thì cam kết từ nay về sau xưng Phật làm thầy, mình gọi Phật là thầy của mình rồi, trọn tuyệt đối không quy y với thiên ma ngoại đạo v.v…

#Thử tắc phiên tà quy chánh chi sơ môn: đây chính là cái cửa đầu tiên của bỏ tà về chánh.

Chúng ta nói bỏ tà về chánh là phản là quay trở lại, quay tà mà quy chánh là về chánh đạo, đó là đầu tiên. Cho nên nhớ, quy y Phật rồi đừng có theo thiên ma ngoại đạo, người ta có Thần thông biểu diễn một chút chạy theo ào ào. Đó là mới quỷ thần thôi chứ chưa có tới thiên ma mà đã chạy theo ào ào rồi.

#Thượng vị thọ hành giới pháp: #thượng là vẫn, vẫn chưa thọ và thực hành giới pháp. Tức là lúc này mới Tam quy y thôi, chưa có thọ giới.

#Danh vi đãn tam quy Ưu-bà-tắc: chỉ được gọi là Tam quy Ưu-bà-tắc.

Tức là chúng ta nếu chưa thọ Ngũ giới, quý vị thọ Tam quy thôi, như lời của Đại sư Ấn Quang là ngài cả đời không truyền giới cho người khác, ngài chỉ truyền Tam quy thôi. Nếu quý vị chỉ truyền Tam quy, không truyền Ngũ giới, hoặc quý vị không nhận Ngũ giới, thì quý vị sẽ được Tam quy Ưu-bà-tắc hoặc Tam quy Ưu-bà-di. Tức là Cư sĩ nam tại gia hoặc Cư sĩ nữ tại gia nhưng mà chỉ Tam quy thôi, không có Ngũ giới.

Đằng sau sẽ có thọ mấy giới được thế nào thế nào v.v… chúng ta sẽ học ở những phần sau, còn bây giờ mới giới thiệu sơ sơ. Như vậy thọ Tam quy không là quý vị cũng được gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di rồi đó. Ưu-bà-tắc là người nam, còn người nữ là Ưu-bà-di.

#Nhiên ký quy y Tam Bảo: #nhiên là như thế; #ký là đã. Đã quy y Tam Bảo rồi, tức là như thế đã quy y Tam Bảo.

#Tất tu đoạn ác tu thiện: chắc như thế rồi, tất phải đoạn ác tu thiện.

Chứ không phải mình quy y xong về mình cũng nói dối như xưa, vẫn làm ác như xưa, vẫn sát sanh như xưa, vẫn làm như thế, như vậy thì quy y Tam Bảo đâu đúng nghĩa đâu, đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích nói. Cho nên người đời nay quy y thì con cũng quy y, nhưng con về con vẫn làm như xưa, cho nên quy y như vậy thì không có đúng. Đúng theo tiêu chuẩn Đại sư Ngẫu Ích nói là đã quy y Tam Bảo rồi thì chắc chắn phải đoạn ác tu thiện. Quý vị phải đoạn ác là dứt ác đi và làm việc thiện, tu thiện.

#Khởi dung dâm sát đạo vọng, nhất nhậm cựu tập giả dã: chữ #khởi có nghĩa là há, sao; #dung là cho phép, chấp nhận. Sao có thể hay là há có thể cho phép dâm, có nghĩa là quý vị vẫn làm tà dâm, đối với người tại gia là tà dâm, sát sanh, trộm cắp và nói dối (vọng ngữ). Vọng ngữ nói chung là nói dối, nói lưỡi đôi chiều v.v… #Nhất nhậm: là để mặc; #tập là tập khí; #cựu là cũ; để mặc tập khí như cũ.

Có nghĩa là mình thọ Tam quy rồi thì tự nhiên mình phải đoạn ác tu thiện, không có tà dâm, không có sát sanh, không có trộm cắp, không có vọng ngữ và không có để mặc cho các tập khí như cũ, mình phải sửa đổi. Quý vị thấy Đại sư Ngẫu Ích cũng để chữ dâm lên trước. “Vạn ác dâm vi thủ”, cho nên đổi chữ dâm ra trước, ở đây cần để ý.

Tạm dịch: Quy y Tăng là: Quy y Đệ nhất nghĩa Tăng, là ruộng phước rất tốt lành, công đức của hàng Thanh văn Hữu học và Vô học (hướng tâm về chánh giáo, ngược lại phá đi sự quy y tà). Cho nên có cam kết rằng: Từ nay về sau, gọi Phật là thầy, tuyệt đối không quy y thiên ma ngoại đạo v.v.. Đây chính là cửa đầu tiên của bỏ tà quay về chánh, vẫn chưa thọ hành giới pháp, chỉ gọi là Tam quy Ưu-bà-tắc. Như thế đã quy y Tam Bảo, tất phải đoạn ác tu thiện, sao có thể chấp nhận dâm sát đạo vọng, để mặc cho các tập khí như cũ).

Tức là mình phải thay đổi, chứ không phải mình quy y rồi mình cũng như xưa. Đây là quý vị thấy sơ sơ, chúng ta học quy y, như vậy quy y Tam Bảo có rất nhiều lợi ích. Ví dụ như quý vị thấy trong câu chuyện lúc trước Thiện Trang có kể: Khi đức Phật lên cung trời Đao Lợi giảng kinh, có một vị chư thiên bị năm tướng suy hao, lúc đấy biết là mình mạng chung sẽ đọa vào loài súc sanh rất đáng thương. Lúc đó đang lo lắng không biết làm sao thì có một vị trời khác tới nói: Bây giờ đức Phật đang lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho Thánh mẫu nghe, ông chỉ cần tới đó quy y Phật thôi, chắc chắn sẽ được giải thoát. Vị đó chỉ cần tới đó quy y đức Phật, đức Phật truyền Tam quy y thôi mà vị đó thoát khỏi nạn đọa vào súc sanh.

Quý vị thấy có một câu chuyện cũng tương tự như vậy: Vua trời Đế Thích khi thọ mạng sắp hết, đáng lẽ quán thấy đời sau mình sẽ đọa vào bụng của một con heo, có chỗ ghi là con lừa, hoặc nói là con heo của nhà thợ gốm. Cho nên vua trời Đế Thích rất lo lắng, do quán sát thấy như vậy, nên vẫn còn một chút Thần thông, tranh thủ chạy tới tìm Phật, xin quy y với đức Phật. Đức Phật truyền Tam quy y cho ông. Sau đó thì thọ mạng hết, vua trời Đao Lợi vẫn đọa vào trong thai của con heo nhà thợ gốm. Nhưng nhờ công đức phước đức của quy y đó, cho nên con heo của nhà thợ gốm chạy chạy, ông thợ gốm thấy con heo mẹ này mang thai mà chạy kỳ quá, tức quá, ổng đá con heo mẹ sảy thai. Cho nên vua trời Đế Thích sau khi nhập vào thai xong bị sảy thai, trở lại làm vua trời Đế Thích.

Quý vị thấy công đức của Quy y lớn như vậy, phước báo lớn như vậy, có thể đưa một chúng sanh từ cõi súc sanh lên cõi trời, có thể thoát nạn ác đạo, vậy tại sao chúng ta không quy y? Nhiều đồng tu cứ chấp, (đặc biệt lát nữa chúng ta học) chấp tôi tự quy y được rồi, tâm quy y được rồi v.v… thực ra đó là mấy tầng bậc lận. Chúng ta chưa làm được thì làm hình tướng trước, hãy làm từ hình tướng trước. Cho nên cũng phải cần quy y, cũng phải tới chùa để quy y, lát nữa chúng ta sẽ học tới đoạn đó.

按此乃翻前邪歸而歸正。故名翻邪三歸。律無受法。諸論具出。今准取之。又龍畜鬼神。不能受五戒者。惟得受三歸依。及八關戒齋一日夜耳。然此三歸。即是一切戒之本源。五戒。八戒。十戒。皆於說三歸竟之時。便得無作戒體。比邱菩薩律儀。亦緣三寶而發無作。

Án thử nãi phiên tiền tà quy nhi quy chánh, cố danh phiên tà Tam quy. Luật vô thọ pháp, chư luận câu xuất. Kim chuẩn thủ chi. Hựu long súc quỷ thần, bất năng thọ Ngũ giới giả, duy đắc thọ Tam quy Tam Quy, cập bát quan giới trai nhất nhật dạ nhĩ. Nhiên thử Tam quy, tức thị nhất thiết giới chi bổn nguyên. Ngũ giới, Bát giới, Thập giới, giai ư thuyết Tam quy cánh chi thời, tiện đắc Vô tác Giới thể. Tỳ-kheo Bồ-tát Luật nghi, diệc duyên Tam Bảo nhi phát Vô tác.

Giải:

#Án thử nãi phiên tiền tà quy nhi quy chánh: #án là chiếu theo; #thử là đây; #nãi là bèn; #phiên là lật lại, bỏ đi. Bỏ đi quy y tà lúc trước mà quy y chánh, quay về chánh.

#Cố danh phiên tà Tam quy: cho nên gọi là bỏ Tam quy tà.

          Hồi xưa quy y tà, bây giờ quy y chánh lại. Quy y tà là quý vị thay vì quy y Phật, thì quý vị quy y với thiên ma ngoại đạo. Thay vì quy y với giáo pháp của Phật, thì quý vị quy y với giáo pháp ngoại đạo. Thay vì quy y với Tăng, Tăng là những người xuất gia, mà quý vị đi quy y với những người nào đó, bùa chú chẳng hạn, thì đó là mình quy y tà, giờ mình bỏ đi.

#Luật vô thọ pháp: trong các bộ Luật thì không có nêu lên cách thọ pháp, là cách truyền thọ Tam quy như thế nào.

#Chư luận câu xuất: chỉ trích ra từ các bộ Luận. Tức là các bộ Luận có nêu ra cách thọ Tam quy, nhưng trong các bộ Giới Luật thì không có thấy ghi cách truyền Tam quy như thế nào, cách thọ tam quy như thế nào.

#Kim chuẩn thủ chi: #chuẩn là dựa theo; #thủ là động từ diễn tả động tác tiến hành. Dịch đơn giản là ở đây dựa theo đó.

#Hựu long súc quỷ thần: thì các loài rồng, súc sanh, quỷ thần.

#Bất năng thọ Ngũ giới giả: không được thọ Ngũ giới.

#Duy đắc thọ Tam quy y: chỉ được thọ Tam quy y thôi.

Quý vị nhớ, ở đây nêu ra rất rõ là mình là người hơn được các loài rồng. Rồng có Thần thông, quỷ thần có Thần thông, súc sanh thua mình. Thua mình ở chỗ đoạn vừa rồi nói, thân người khó được, Phật Pháp khó nghe là ở chỗ vừa rồi. Quý vị nghe cho kĩ, những loài đó không được thọ Ngũ giới nhưng mà chỉ được thọ Tam quy thôi. Cho nên mình có thân người quý lắm, mình mới được thọ Ngũ giới, vừa thọ Tam quy vừa thọ Ngũ giới. Còn các loài rồng có Thần thông, Long vương cũng có Thần thông tha hồ, rồi quỷ thần cũng có Thần thông, súc sanh thì nhiều lắm, đủ các loài mà không được thọ Ngũ giới. Loài người quý cho nên mới là “nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”.

Lúc trước khi mà [mới] tu Thiện Trang nhớ năm đó, lúc đó mới tu Kinh Vô Lượng Thọ có chú đó tu theo bùa năm ông. Khi vào nhà anh rể, chị gái của Thiện Trang tụng Kinh Vô Lượng Thọ thì bùa năm ông của chú đó nhập vô tụng luôn, niệm Phật luôn. Bùa năm ông thuộc về cảnh giới thần, họ cũng thích Kinh Vô Lượng Thọ, họ cũng quý giá trị tu Kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật như vậy. Thần thông mà họ muốn tu họ cũng phải mượn thân của người.

Có câu chuyện: Có con quỷ mượn thân xác của người nữ đó nó tu, làm phước này kia. Nó kêu tôi mượn thân con bé đó cho nên tôi chỉ được có 30%, còn con bé đó có cái thân thôi. Tôi mượn thân, tôi điều khiển cái thân nó đi làm các việc mà nó được 70%. Cho nên có thân người là đáng quý vô cùng, tại sao mình không thọ Tam quy, tại sao mình không thọ Ngũ giới, tại sao mình không làm phước?

Quý vị làm Long vương, quý vị lên thọ Ngũ giới cũng không được kìa. Quý vị làm cõi A-tu-la, quý vị thọ Ngũ giới cũng không được kìa. Vậy mình đang ở cõi người quý giá như vậy, có điều kiện như vậy [sao mình] không chịu làm không chịu tu, uổng quá. Cho nên mình không học ở đây mình đâu có biết giá trị, mình cứ tưởng là Ngũ giới khó quá thôi con không thọ đâu, thọ rồi phạm này kia. Mình đâu biết lỡ vô loài rồng, loài quỷ thần, loài súc sanh thì không được thọ Ngũ giới, chỉ được thọ Tam quy thôi.

Cho nên đi phóng sanh quý vị thấy truyền Tam quy thôi, có đọc bài kệ Quy y, đầu tiên sám hối là: “Các chúng sanh xưa đã tạo các vọng nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý mà phát sanh, nay các chúng sanh xin sám hối. Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát, Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát, Nam mô Cầu Sám Hối Bồ-tát” (3 lần).

Rồi sau đó chúng sanh hãy lắng nghe quy y, bắt đầu đọc Tam quy y, sau đó nói: “Quy y Phật cánh, quy y Pháp cánh, quy y Tăng cánh” tức là quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi. Chúng sanh đã quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, nhưng mà đâu có truyền Ngũ giới cho chúng sanh đâu.

Quý vị nhớ, Ngũ giới rõ ràng là [chỉ] cõi Người mới được. Cho nên hồi đức Phật còn tại thế có câu chuyện: Có con rồng hâm mộ người xuất gia, muốn thọ giới, nên biến thành hình người vô trong Tăng đoàn để thọ được giới Tỳ-kheo. Thọ giới Tỳ-kheo xong về ở với Tăng đoàn, ở với Tỳ-kheo. Ở với Tỳ-kheo thì lúc ngủ vì con rồng có hai trường hợp sẽ mất Thần thông trở lại hình rồng, đó là khi giao hợp hoặc khi ngủ say. Nó mất Thần thông không biến thành hình người được mà biến thành rồng. Thì con rồng đó khi ngủ say, nó trở thành con rồng lại. Các vị Tỳ-kheo nhìn thấy ôi sao có con rồng như vậy ở trong này, con rồng cũng giống như con rắn thôi. Các vị ấy sợ nên la hét, thì con đó nghe thấy sợ quá giật mình biến lại thành vị Tỳ-kheo. Các vị Tỳ-kheo, Tăng chúng mới lên bạch đức Thế Tôn, đức Thế Tôn nói với con rồng đó rằng: “Ngươi không được, chỉ có loài người mới được thọ giới Tỳ-kheo thôi, mời ông đi về”. Rồng cũng không được đâu quý vị, Thần thông biến hoá không được. Cho nên quá quý, chúng ta có thân người, chúng ta được thọ Ngũ giới tuyệt vời, các loài khác chỉ thọ được Tam quy.

#Cập bát quan giới trai nhất nhật dạ nhĩ: chỉ được thọ Tam quy y và Bát quan Trai giới một ngày một đêm. Tức là cảnh giới kia họ được thọ Bát quan Trai giới.

          Có nghĩa là những loài súc sanh, loài rồng, loài quỷ được thọ Bát quan Trai giới một ngày một đêm, đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích. Hồi trước hình như Thiện Trang có trả lời câu này nhưng mà hình như không đúng, nếu mà theo ở đây thì rõ ràng Đại sư Ngẫu Ích nói. Chắc ngài nói có căn cứ là các loài cảnh giới khác kia, họ cũng được thọ Bát quan Trai giới trong một ngày một đêm, nhưng mà họ không được thọ Ngũ giới. Ở đây chúng ta phải để ý chỗ này.

#Nhiên thử Tam quy: nhưng mà ba Tam quy này.

#Tức thị nhất thiết giới chi bổn nguyên: tức là nguồn cội của tất cả giới. #Nguyên là nguồn, nguồn nước, nước chảy phải có nguồn, cây thì phải có gốc, gọi là nguồn cội.

Quý vị nhớ Tam quy y là nguồn cội của tất cả giới. Tức là tất cả giới nhờ nương vào Tam quy y, chứ không phải là mình bỏ qua Tam quy y mà vô giới luôn.

#Ngũ giới, Bát giới, Thập giới: #Ngũ giới là Ngũ giới tại gia; #Bát giới là Bát quan Trai giới; #Thập giới là Mười giới Sa-di, hay sau này chúng ta có thêm Thập thiện.

#Giai ư thuyết Tam quy cánh chi thời, tiện đắc Vô tác Giới thể: đều ở vào lúc nói Tam quy đó xong rồi, thì liền đắc được Vô tác Giới thể.

Có nghĩa là tất cả các giới như là Ngũ giới, Thập giới, hay là Bát quan Trai giới (tám giới) thì đều nương nhờ vào Tam quy y. Khi quý vị quy y, chỉ cần nói quy y Phật xong rồi, quy y Pháp xong rồi, quy y Tăng xong rồi. Khi mà nói như vậy xong rồi hoặc là khi quý vị được quý Thầy quý Cô truyền xong rồi, thì ngay lúc đó quý vị đắc được Vô tác Giới thể hay chúng ta hay nói là Giới thể.

Giới thể là vô hình vô tướng nhưng mà có công năng nhậm vận hành thiện, phòng phi chỉ ác. Có nghĩa là giúp chúng ta giữ gìn được việc làm thiện và ngăn ngừa việc ác.

Đời nay, chúng ta thọ [giới] đa phần không đắc giới tại vì chỗ Tam quy này chúng ta làm không được. Quý vị nhớ, khi thọ Tam quy này là đắc giới rồi, chưa có truyền giới, còn truyền giới là việc đằng sau. Giới thể là hình thành khi Tam quy vừa xong, vừa nói Tam quy xong là đắc Giới thể như pháp.

Giới thể giống như là một cái vô hình, vô tướng, chúng ta nói truyền trong tâm ta giống như chủng tử trong A-lại-da thức vậy. Khi mà chúng ta có được năng lực, có được Giới thể, ví dụ như quý vị muốn sát sanh, thấy con ruồi bay qua bay lại, đáng lẽ bình thường mình sẽ giết ngay nhưng bữa nay vì người đó đã thọ Tam quy rồi, họ vừa thọ Tam quy về, họ nhớ không thể giết con ruồi này, tự nhiên mình nhớ lại liền.

Giống như ra đường lái xe, gặp chuyện gì tự nhiên phản xạ đạp thắng hoặc lách qua né liền, đó là Vô tác Giới thể. Vô tác Giới thể này, quý vị thấy rõ nhất trong khi mơ, mơ quý vị cũng nhớ ôi mình đã thọ giới rồi, mình không được phạm giới. Hoặc có khi mình quên, Vô tác Giới thể vẫn hoạt động giúp cho mình giữ giới, giúp cho mình bảo vệ được để không mất giới.

Thời nay người ta dễ phạm tà dâm chẳng hạn, sát tới lúc hai người nam nữ vô trong đó rồi, thì tự nhiên lúc đó có người qua gõ cửa cộc cộc, rồi họ dừng lại, khiến như vậy. Đó là Vô tác Giới thể hoạt động, cho nên người đắc giới là có Vô tác Giới thể, người không đắc giới là người không có Vô tác Giới thể. Mà đắc giới này là lúc thọ Tam quy vừa nói xong thì đắc giới. Quý vị nghe nha, đây là lời trong này nói. Cho nên mình không chú trọng Tam quy thì mình không có đắc Vô tác Giới thể, gọi là không đắc giới.

Ngay cả Tịnh tông Học viện Úc (Australia), chính Hòa thượng Tịnh Không mời Hòa thượng Quả Thanh và Pháp sư Thiên Nhân, Pháp sư Quả Lương đến Tịnh tông Học viện Úc năm 2014 một tháng để [Học viện] học Giới luật, để dạy Giới luật cho đồng tu tại Tịnh tông Học viện Úc. Nhưng rất tiếc là người Việt chúng ta học không hiểu, bởi lúc đó dịch trực tiếp là cô Diệu Hà, cô cũng không hiểu Giới luật, làm sao cô dịch cho mình hiểu được, mà dịch trực tiếp nữa, không được. Cuối cùng mình nghe xong cũng mơ mơ màng màng không biết gì cả.

Cho nên Giới thể là vô hình vô tướng, một công năng đặc biệt giống như tâm truyền tâm, giống như nguồn năng lượng rót vào trong đầu chúng ta, rót vào đâu, lúc nào, vô hình nhưng có tác dụng tuyệt vời, có thể giúp chúng ta phòng phi chỉ ác, tức là ngăn ngừa dừng ác, rồi nhậm vận hành thiện, có nghĩa là duy trì những việc làm thiện của chúng ta.

Cho nên, người nếu quy y Tam quy vừa xong, chưa truyền giới, quý vị đắc được Giới thể, từ đó trở đi đời quý vị tu dễ dàng. Vì sau đó, quý vị hầu như không phạm giới. Còn ngày nay chúng ta tại sao phạm giới nhiều như vậy? Vì chúng ta không có quy y đúng pháp, chúng ta không quy y, chúng ta không có hiểu được. Cho nên trước khi truyền giới là phải học giới v.v… học hiểu rồi [mới thọ giới]. Cho nên là tu hành khi mà không có giới thì sao? Không có Giới thì không có Định, không có Định, cho nên vô ngồi ngủ, [chỉ] ngủ thôi hoặc là mình niệm Phật tâm tán loạn quá vì quý vị không có định. “Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ”, trên Kinh Lăng Nghiêm nói như vậy. Bây giờ mình không có giới thì tất nhiên là tâm mình tán loạn, tâm mình buồn ngủ, trừ khi mệt quá nhưng mà mấy trường hợp đó ít, không nói. Mình nói thường xuyên ngày nào cũng mệt quá là do phá giới quá nhiều.

Cho nên phải giữ từ Tam Quy mà có đắc được Vô tác Giới thể tức là được Giới thể rồi gọi là đắc giới. Nói ngôn ngữ đơn giản là đắc giới rồi tự nhiên tu dễ.

          Quý vị để ý ai mà thọ Tam Quy về, mà làm đúng nghiêm minh hoặc đi thọ giới Tỳ-kheo, giới Sa-di về thì tu khác hẳn, từ đó trí huệ sanh, đời tu mình cũng thơi thới, nhẹ nhàng, tự nhiên ngồi vô nhập định được, dễ lắm, ngồi niệm Phật có thể nhẹ nhàng trôi qua. Còn mình không làm từ những việc nhỏ đó, mình khinh thường, mình thường lấy Lý bác Sự nên không cần thọ Tam Quy, cuối cùng tu khó khăn.

Cho nên những ai mà thọ Tam Quy chưa đúng, sau khi chúng ta học, nếu chúng ta thấy chưa đúng thì nên thọ lại. Bên Phật giáo Nam truyền cứ nửa tháng truyền lại một lần, họ huân tập nửa tháng truyền lại một lần. Cho nên Hòa thượng Tịnh Không sau khi qua bên nước Nam truyền thì vị sư Nam truyền ở Tích Lan (Srilanka đó) nói với Hòa thượng là hãy thay bài Kệ Khai Kinh bằng Tam Quy khi giảng kinh. Và từ đó quý vị thấy Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú năm 2014 là Hòa thượng bắt đầu thay đổi hoàn toàn. Trước khi giảng, Hoà thượng truyền Tam Quy: “Mời quý vị cùng tôi Quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm …””. Đó là Quy y Tam Bảo nhưng thật ra là nhắc nhở thôi, chứ còn quy y mà mình không hiểu thì với pháp Tam Quy, cũng không được lợi ích lớn.

Cho nên ai để ý những điều này, cũng phải cần phải coi lại. Mà khi nào mình đắc được Giới thể rồi quý vị tu dễ lắm. Tự nhiên giữ giới nhẹ nhàng giống như có một nguồn, nói theo Duy Thức học đó là một ấn tượng cực kỳ mạnh ghi vào trong A-lại-da-thức khiến cho A-lại-da-thức có một chủng tử có thể ngăn ngừa ác, gặp chuyện ác là không làm, gặp chuyện thiện là mình tự nhiên làm.

          Tại sao mình làm ác nhiều? Tại vì mình không có đắc được Giới thể. Nếu ai không đắc Giới thể thì sau này chúng ta có thể thọ trở lại. Giống như người thọ Tỳ-kheo rồi, Hòa thượng Minh Thông nói ai mà cảm thấy chưa đắc giới thì xin thọ lại. Người tại gia thì Thiện Trang cũng đề xướng như vậy, nếu như cảm thấy mình chưa đắc giới mình có quyền thọ lại. Tất nhiên không nhiều chùa chấp nhận điều này thì mình cứ thọ dự thính thôi. Người ta có lễ đó, mình tới ngồi chung đó mình thọ, còn mình không có đăng ký, mình xin phép thọ dự thính thôi, không cần phải xin Chứng điệp v.v…

          Đó là hình thức thôi, quan trọng nhất là Tam Quy. Hồi thời xưa đức Phật có đưa Chứng điệp đâu, phải đưa Chứng điệp chứng nhận cô này tên gì đó, năm sinh bao nhiêu, ở tại đâu đó đã thọ Tam Quy Ngũ giới, Pháp danh gì đó, đâu cần đâu. Điều đó không quan trọng. Nhưng tất nhiên thời nay cũng nên làm để có Chứng điệp Quy Y cầm lên cho nhớ, mỗi lần đi qua đi lại thấy cũng có hiệu quả. Chứ không phải là tới lúc chết, đem theo bỏ trong hòm để cho quỷ thần sợ. Xin lỗi! Quỷ thần không sợ đâu. Tại vì chỉ là một tờ giấy thôi mà, tuy là có cũng có một chút nhắc nhở nhưng mà bỏ như vậy thì nhắc nhở người ra đi nhớ là mình đời này đã được Tam Quy rồi. Họ nhớ Tam Quy, nhớ mình đã quy y rồi là mình có phước báo, tự nhiên có thể sanh lên cõi lành. Cho nên cũng có lợi ích lớn lắm quý vị. Nương Sự để vào Lý, nương Tướng để vào Tánh, nên tuy là nói là không cần nhưng cũng nên cần, chứ không phải bác hết. Nói Lý không mà bác Sự là không đúng. Cho nên chúng ta học, chúng ta phải hiểu từng yếu tố.

          Quý vị hiểu Giới thể hay còn gọi là Vô tác Giới thể. Chữ Vô tác Giới thể có nghĩa là không cần mình suy nghĩ mà tự nhiên làm được, đó là Giới thể. Hay như vậy đó quý vị. Ví dụ như có con con muỗi nó bay qua đáng lẽ theo phản xạ mình đập. Nhưng do mình thọ Tam quy Ngũ giới rồi, mình đắc Giới thể rồi, cho nên mình nhớ ôi con muỗi này không được đập, tự nhiên phản xạ rất nhanh, không cần phải tác [ý] gì hết, không đập. Khi sắp phạm giới, tự nhiên có những hiện tượng ngăn ngừa để mình không phạm giới, đó là những điều mà mình có Vô tác Giới thể.

Ví dụ như Thiện Trang hay nói giới Bồ-tát, có những người thọ đắc được một phần nào đó giới Bồ-tát nên đời sau sinh ra tự nhiên ăn thịt không được. Đời sau sinh ra tự nhiên không thể ăn các loại ngũ vị tân được, thấy hành hôi, không ăn được. Đó là đắc được Bồ-tát giới ở đời trước đó quý vị. Cho nên nhờ những điều đó dù mình chưa vãng sanh Tây Phương Cực Lạc nhưng có lợi ích vô cùng lớn, rất nhiều lợi ích. Cho nên không thể không học giới, không thể không quy y, không thể không học không làm, rất là lợi ích thì tại sao mình không làm đúng không?

           Không ai nói, nhưng bây giờ mình nghiệm lại đi, đó là những điều mà chúng ta thấy rõ ràng. Vì Vô tác Giới thể của Bồ-tát giới theo ta đến tận đời vị lai cho đến khi thành Phật. Cho nên chúng ta phải hiểu được điều đó.

#Tỳ-kheo Bồ-tát Luật nghi diệc duyên Tam Bảo nhi phát Vô tác: ở đây nói cao hơn nữa, giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát, rồi những Luật nghi, những oai nghi mà được thì #diệc duyên: chữ diệc là cũng, #duyên là do, nhờ, vì. Cũng nhờ vì Tam Bảo, tức là quy y Tam Bảo đó mà phát được Vô tác Giới thể.

Cho nên muốn đắc giới Tỳ-kheo hay đắc giới Bồ-tát cũng từ đây, nên là không quy y Tam Bảo mà quý vị bay vô thọ giới là quý vị vượt cấp, cho nên không đắc giới. Tại sao không đắc giới là nguyên nhân vậy đó. Cho nên giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát, giới cao đây, những Luật nghi v.v… mà cũng phải nương nhờ vào Tam Bảo mới phát được Vô tác Giới thể. Mà mình không nương nhờ Tam Bảo, mình khinh thường Tam Bảo thì làm sao mà đắc được Vô tác Giới thể, hay nói là mình không đắc giới. Cho nên, phải coi lại từ đầu, nhiều khi mình sai từ đây.

Tạm dịch: Chiếu theo đây bèn bỏ tà quy y lúc trước mà quay về chánh, nên gọi là bỏ tam quy tà. Trong [bộ] Luật không [nêu] cách thọ, [cách thọ] đều xuất [từ trong] các bộ Luận. Ở đây dựa theo đó, thì [loài] Rồng, Súc sanh Quỷ thần, không được thọ Ngũ giới, chỉ được thọ Tam Quy Y và Bát Quan Giới trai một ngày đêm thôi. Nhưng Tam quy này, chính là nguồn cội của tất cả giới, Ngũ giới, Bát giới, Thập giới: đều ở vào lúc thuyết Tam Quy rồi, mới đắc Vô tác Giới thể. Luật nghi của Tỳ-kheo và Bồ-tát, cũng nhờ Tam Bảo mà phát Vô tác [Giới thể].

          Cho nên đầu tiên phải bắt đầu từ đó, không phải bay vô tôi làm Tỳ-kheo, không có, Tỳ-kheo cũng phải từ đây. Cho nên, học cho rõ ràng nha.

故雖初門。實通奧義。該羅四教。收括六即。須略明之。言四教者。謂藏。通。別。圓。此之四教。各論三歸。

Cố tuy sơ môn, thật thông áo nghĩa, cai la Tứ giáo, thâu quát Lục tức. Tu lược minh chi. Ngôn Tứ giáo giả. Vị Tạng, Thông, Biệt, Viên. Thử chi Tứ giáo, các luận Tam Quy.

Giải:

#Cố tuy sơ môn: cho nên tuy là môn mở đầu, môn bắt đầu. Tức là đây môn căn bản [để] nhập đạo Phật, đây là môn bắt đầu.

#Thật thông áo nghĩa: tức là nhưng mà thật là thông vào #áo nghĩa tức là nghĩa sâu xa, nghĩa sâu màu; chữ “áo” trong áo chỉ, Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán. #Áo tức là sâu xa, sâu màu, rất là sâu.

#Cai la tứ giáo: chữ #cai la: là bao quát, là không hết, là trùm khắp Tứ giáo.

Tứ giáo ở đây là Tứ giáo của Tông Thiên Thai: Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, lát nữa chúng ta sẽ học.

#Thâu quát Lục tức: tức là thâu gồm hết được cả Lục tức, Lục tức trong Tông Thiên Thai là Lục tức Phật.

Ở đây chúng ta cũng nên nói sơ sơ qua về Tứ giáo và Lục tức của Tông Thiên Thai. Quý vị thấy mặc dù học Giới luật nhưng mà cũng phải có kiến thức của Tông Thiên Thai. Tại vì đây rất là sâu, Tứ giáo của Tông Thiên Thai gồm có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng giáo có nghĩa là Tiểu thừa, giáo pháp hoàn toàn Tiểu thừa thì đó gọi là Tạng giáo. Thông giáo tức là mở một chút từ Tiểu thừa sang Đại thừa, có thông Tiểu thừa và Đại thừa, gọi là Thông giáo. Biệt giáo có nghĩa là hoàn toàn Đại thừa cho nên gọi là Biệt giáo. Viên giáo là giáo pháp viên mãn, viên đốn, tức là nhanh chóng và tròn đầy.

Ai muốn hiểu điều này thì chúng ta có học ở lần trước, ở bên bộ Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú, tức là Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng, Thiện Trang có giảng Tạng, Thông, Biệt, Viên một cách rốt ráo. Ở đây chúng ta hiểu được sơ sơ nôm na thế là được rồi.

Lục tức trong Tông Thiên Thai đưa ra sáu điều Lục tức Phật thì có đầu tiên là Danh tự tức. Ví dụ như Lục tức này không phải Lục tức Phật không, mà có thể nói là Lục tức Bồ-tát, Lục tức Thanh văn, Lục tức Đệ tử v.v… thì chúng ta hay dùng chữ Phật trước. Lục tức Phật đầu tiên là Lý tức Phật, tức là nói về Lý thì ai cũng là Phật hết. Lý tức Phật rồi đến Danh tự tức Phật, tức là ai bản chất cũng là [hiểu] danh tự. Quán hạnh tức Phật, quán hạnh là là mình đã quán là làm được rồi. Bắt đầu tới Tương tự tức Phật và Phần chứng tức Phật, Cứu cánh tức Phật.

Có sáu mức độ đó, nếu chúng ta nói như vậy thì từ trên là Phật, ở trong giáo nghĩa Tông Thiên Thai dùng chữ Phật rồi bắt đầu Lục tức Bồ-tát và Lục tức Thanh Văn, Lục tức Trời, Lục tức Người, Lục tức tới Địa ngục, chia ra 10 Pháp giới Lục tức. Mỗi cảnh có sáu thì chúng ta nhân ra. Đây là Thiện Trang chỉ nói sơ sơ vậy thôi, chứ đây là môn Giới Luật, muốn học về những giáo nghĩa này thì chúng ta hãy gặp nhau ở trong bộ Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú mà Thiện Trang đang giảng, gọi là Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng sẽ học kỹ về phần đó.

Lần trước mới giới thiệu qua, khi chúng ta nghe quen quen rồi thì sau này mới đào sâu. Chứ mình mới vô mà đào sâu quá thì quý vị chóng mặt, cho nên Thiện Trang chỉ tạm nói sơ sơ qua giới thiệu cho quý vị biết thôi.

#Tu lược minh chi: #lược là làm sáng tỏ những điều đó, chữ#chi này là đại từ, là những điều đó. Tức là phải làm sáng tỏ thế nào là Tứ giáo và Lục tức.

#Ngôn tứ giáo giả: nói về Bốn giáo là.

#V: tức là là:

#Tạng, Thông, Biệt, Viên: tức là Bốn giáo như hồi nãy Thiện Trang nói là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.

#Thử chi Tứ giáo: tức là Bốn giáo này

#Các luận Tam quy: mỗi giáo đó luận về Tam Quy, tức là Tam Quy của mỗi giáo.

Chúng tasẽ nói về Tam Quy theo đúng bốn giáo. Thế nào là Tam Quy theo Tạng giáo, thế nào làTam Quy theo Thông giáo, thế nào Tam Quy theo Biệt giáo và thế nào là Tam Quy theo Viên giáo.

Đồng tu chúng ta thường không có bốn tầng này, chúng ta bay một phát lên hoặc là Biệt giáo hoặc là Viên giáo. Cho nên chúng ta bỏ luôn Tạng giáo với Thông giáo thành ra chúng ta tu không được. Đây là lỗi của chúng ta hiện nay. Giống như chúng ta cứ nói suốt ngày chúng ta cần gì quy y, tôi tự quy y được rồi, đâu cần phải nương tựa Tam Bảo v.v… tôi tự ở nhà tôi quy y rồi. Đó là quý vị phạm điều đằng trước không có Tạng giáo, quý vị bay luôn đến đằng sau.

Giống như nhà có nhiều cửa, quý vị không đi vô cửa ngoài mà quý vị vô cửa trong, thì quý vị vô bằng cách nào, quý vị chạy vào à? Chưa vào cổng mà đòi vô trong nhà, trèo rào vô, cho nên vi phạm rồi, gọi là đột nhập trái phép.

Ở nước ngoài, bên Mỹ quý vị mà đột nhập trái phép, người ta xách súng bắn chết ráng chịu. Người ta có quyền tự do, vô đột nhập, không báo người ta trước, người ta bắn chết ráng chịu. Ở đây cũng vậy, mình đi vô tu hành mà mình không tu theo tầng lớp, mình bay một phát vô trong, thì cuối cùng mình cũng như kẻ trộm, có nghĩa là mình bỏ qua thì thiếu khuyết. Cho nên, tu hành không đắc lực, nhiều khi do như vậy. Tất nhiên có những người đi vô cửa kia mở rồi, họ thông rồi thì vô được, nhưng đó là hên thôi chứ không phải, mình học có tầng lớp.

Tạm dịch: Cho nên tuy là môn bắt đầu, nhưng thật là thông Áo nghĩa (nghĩa sâu xa), trùm khắp Tứ giáo, thâu gồm Lục tức. Phải sơ lược làm sáng tỏ điều đó. Nói về Tứ giáo, là: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Bốn giáo này đây, luận về Tam Quy của mỗi giáo [như sau]:

          Ở đây Đại sư Ngẫu Ích nói Bốn giáo như vậy, luận về Tam Quy của mỗi giáo, chúng ta học thử coi quy y thứ nhất là gì.

初藏教者(破前邪執。歸心三寶。即藏教三歸)。佛在世時。樹王得道為佛寶。說四諦法為法寶。度五比邱等為僧寶。

Sơ Tạng giáo giả (phá tiền tà chấp, quy tâm Tam Bảo, tức Tạng giáo Tam Quy). Phật tại thế thời, Thọ Vương đắc đạo vi Phật Bảo, thuyết Tứ đế pháp vi Pháp Bảo, độ ngũ Tỳ-kheo đẳng vi Tăng Bảo.

Giải:

#Sơ Tạng giáo giả: thứ nhất nói về Tạng giáo. Tức là nói về Tam Quy của Tạng giáo.

#Phá tiền tà chấp, quy tâm Tam Bảo, tức Tạng giáo Tam Quy: tức là phá đi tà chấp tức là chấp trước, tà là sai lệch lúc trước, #tiền là lúc trước; #quy tâm Tam Bảo: tức là chúng ta hướng tâm về Tam Bảo; #tức Tạng giáo Tam Quy: tức là Tam Quy của Tạng giáo.

Nói như vậy cũng mơ hồ quá, chưa hiểu! Không sao, Đại sư Ngẫu Ích giải thích cho chúng ta đằng sau.

#Phật tại thế thời: tức là khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại thế.

#Thọ Vương đắc đạo vi Phật bảo: #Thọ Vương là cây vua, [đọc] thọ hay thụ cũng được, Thụ vương hay Thọ Vương đều được. Thiện Trang đọc Thọ Vương theo âm miền Nam, là cây vua mà đắc đạo thì gọi là Phật.

Không phải như thế, đây là nói tắt. Tức là ở dưới cây vua, cây vua là cây cây Bồ-đề, thật ra là cây Tất-bát-la. Cây đó sau này được đổi gọi thành cây Bồ-đề, mà Thái tử Tất Đạt Đa ở dưới đó đắc đạo thì trở thành Phật Bảo.

Cho nên, Phật Bảo là gì? Khi Phật ở tại đời thì Phật Bảo là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không còn nói gì khác hết. Đó là đúng nghĩa Phật Bảo, chúng ta phải hiểu thế nào là Phật Bảo. Tại vì Tam Quy là Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Phật Bảo chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi Phật tại ở đời, đây là nói điều thứ nhất.

#Thuyết Tứ đế pháp vi Pháp Bảo: lúc đó Phật thuyết pháp Tứ đế, đó chính là Pháp Bảo.

#Độ ngũ Tỳ-kheo đẳng vi Tăng Bảo: độ năm vị Tỳ-kheo v.v… là Tăng Bảo. Đây là nói rất đơn giản rất rõ ràng.

Tức là khi đức Phật tại thế, khi Ngài ở dưới cây Bồ-đề 49 ngày tọa thiền nhập định, cuối cùng khi đêm nhìn sao sáng ngộ được đắc đạo thì trở thành Phật Bảo. Như vậy Phật Bảo khi đức Phật tại thế chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn giáo pháp Ngài giảng ra, khi đó ngày giảng pháp Tứ đế.

Thật ra pháp nào cũng là pháp Tứ đế hết, có nhiều người nói Kinh Vô Lượng Thọ đâu phải pháp Tứ đế. Tứ đế là gồm có Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ Đế tức là sự thật về khổ. Ví dụ như chúng ta sanh trên đời thì có những điều khổ ví dụ: sanh ra khổ, đời sống gian khổ phải đi làm lụng, rồi sanh khổ, bệnh khổ, già khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ. Ái biệt ly là yêu thương mà phải chia lìa cho nên khổ. Oán tắng là thù ghét nhau mà gặp nhau hoài, không ưa mà cứ gặp hoài.

Giống như là hai người hồi xưa chưa là vợ chồng thì không biết như thế nào, nhưng mà về bây giờ ghét quá mà cũng phải ở với ổng, ghét quá mà phải ở với bà đó, đó là oán tắng hội khổ. Rồi Ngũ ấm xí thạnh khổ tức là thân ngũ ấm gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, năm cái đó cứ biến đổi hoài lúc thì mạnh lúc thì yếu, cho nên là khổ. Ví dụ như có lúc tâm mơ mơ màng màng, đó là yếu, có lúc thì tâm hừng hực hưng phấn đến mức độ ngủ không được, căng thẳng v.v… Đó thuộc về Ngũ ấm xí thạnh khổ.

Chúng ta có Bát khổ: Sanh khổ, Bệnh khổ, Già khổ, Tử khổ, Ái biệt Ly khổ, Oán tắng Hội khổ, Cầu bất Đắc khổ và Ngũ ấm Xí thạnh khổ, đó là tám nỗi khổ của chúng sanh cõi người. Còn nếu Tam giới thì có ba loại khổ: Khổ khổ, Hành khổ và Hoại khổ. Đó là sự thật về khổ, gọi là Khổ đế.

Tập đế là nguyên nhân của khổ, nguyên nhân của khổ thế nào? Chúng sanh mê mờ, có các nghiệp: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi; Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ, Tà kiến, cho nên khổ. Rồi bây giờ Phật dạy cho làm sao để thoát khổ gọi là Đạo đế. Còn trước đó chỉ cho kết quả nếu thoát khổ được, đó gọi là Diệt đế.

Bộ Kinh nào cũng vậy, cũng giảng bốn điều đó. Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh A Mi Đà cũng vậy, quý vị thấy có giảng về khổ không? Khổ quá trời, quý vị học với Phẩm Ba Mươi Lăm Trược Thế Ác Khổ, đúng là khổ luôn. Cho nên đó là Khổ đế, chết rất là khổ, hôi thối bất tịnh không có gì vui v.v… nói đủ các loại khổ, rồi chết đọa vào ba đường ác. Đó là Kinh Vô Lượng Thọ nói Khổ đế đó. Rồi xong có nói nguyên nhân khổ là do Sát sanh, Trộm cướp, Tà dâm, nói chung là mê mờ cho nên khổ. Rồi [Kinh Vô Lượng Thọ] dạy cho cảnh giới Niết-Bàn an vui. Diệt đế đó chính là Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc, Tây Phương Cực Lạc chính là Diệt đế. Và có dạy cho cách để về Tây Phương Cực Lạc để thoát khổ là niệm Phật, dạy rất nhiều gọi là phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Mi Đà Phật hay A Di Đà Phật.

Cho nên Kinh Vô Lượng Thọ cũng là Tứ đế. Tứ đế đó chính là Pháp Bảo. Đây là nói thời đức Phật, những gì Phật thuyết, thuyết pháp Tứ đế. Chúng ta đừng nghĩ pháp Tứ đế không có trong Kinh Vô Lượng Thọ, những pháp của Phật thuyết đó là Pháp Bảo. Chúng ta dễ hiểu, đây là thời Phật tại thế.

          Độ năm Tỳ-kheo v.v… thì lúc đầu đức Phật thành đạo độ năm vị Tỳ-kheo đó là năm anh em Kiều Trần Như. Năm anh em Kiều Trần Như được độ đầu tiên ở vườn Lộc Dã, năm vị đó rồi sau đó độ thêm một số nhóm của Tỳ-kheo Da Xá v.v… lên tới 60 người. Sau đó bắt đầu tới nhóm của ngài Xá Lợi Phất, nhóm ngài Mục Kiền Liên v.v… dần dần Tăng đoàn tăng lên. Những vị Tỳ-kheo đó gọi là Tăng Bảo, đây là nói thời Phật.

          Như vậy hoàn toàn là quy y theo hình tướng. Phật Bảo là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp Bảo là những lời Phật giảng, pháp Tứ đế hay nói chung kinh Phật giảng là Pháp Bảo. Những vị Tăng thời Đức Phật gọi là Tăng Bảo. Quy y vậy đơn giản đâu có nói gì sâu xa đâu. Đây là Tạng giáo, mà mới nói là thời Phật tại thế thôi.

Tạm dịch: Thứ nhất Tạng giáo là (phá tà chấp lúc trước, quy tâm Tam Bảo, chính là Tam Quy của Tạng giáo). Khi Phật tại thế, ở dưới cây Thọ Vương đắc đạo thành Phật Bảo, thuyết pháp Tứ đế là Pháp Bảo, độ năm vị Tỳ-kheo v.v.. là Tăng Bảo.

          Tức là những vị Tỳ-kheo được độ là Tăng Bảo. Nên nói đơn giản là Phật, Pháp, Tăng. Đối với việc Quy y đâu phải Giác, Chánh, Tịnh gì đó đâu. Bây giờ mình mà nói Giác, Chánh, Tịnh là tuốt đằng sau. Cho nên chưa học đằng trước mà học đằng sau là lấy Lý bác Sự, cho nên đồng tu Tịnh Độ nhiều khi tu cao quá, bác Sự luôn, không có quy y. Quy y Giác, Chánh, Tịnh đợi đằng sau, giờ chưa tới đâu. Đó là thời Phật còn tại thế, còn bây giờ Phật diệt độ rồi thì sao? Ở đây có nói luôn:

佛滅度後。範金合土。紙素丹青為佛寶。黃卷赤牘為法寶。剃髮染衣為僧寶。

Phật diệt độ hậu, phạm kim hiệp thổ, chỉ tố đan thanh vi Phật Bảo. Huỳnh quyển xích độc vi Pháp Bảo. Thế phát nhiễm y vi Tăng Bảo.

Giải:

#Phật diệt độ hậu: tức là sau khi Phật diệt độ.

#Phạm kim hiệp thổ, chỉ tố đan thanh vi Phật Bảo: bây giờ Phật diệt độ rồi, đức Phật nhập Niết-Bàn mất rồi, thì bây giờ Phật Bảo là gì? Chữ #phạm này có nghĩa là khuôn, chúng ta lấy khuôn để mà đúc ra hình tượng Phật, cho nên chữ #phạm đây chính là cái khuôn đúc; #kim là vàng, nói lấy vàng cho chính thôi, chứ lấy sắt đồng thép gì cũng được; #hiệp thổ: thổ là đất, hợp với đất để mà tạo ra tượng Phật.

Quý vị biết ngày xưa muốn tạo tượng Phật thì phải dùng khuôn bằng đất rồi lấy kim (vàng), lấy sắt, đồng v.v… làm nóng chảy đổ vô khuôn rồi để khô lại thành tượng Phật, thì đó là tượng Phật. #Chỉ là giấy; #tố có nghĩa là tơ, tơ mà trắng rất quý; #đan có nghĩa là quặng đá màu đỏ, tức là một loại đá quý; #thanh là cỏ hay vỏ tre, nói chung là cỏ quý; #vi Phật Bảo.

Ở đây nói là mình phải dùng các kim loại đúc tượng, hoặc bằng đất, hay là làm hình tượng Phật bằng cách vẽ tranh hoặc làm bằng các loại quý. Thường là người ta quý Phật cho nên làm bằng các loại [vật liệu]quý, đó chính là Phật Bảo.

Sau Phật nhập Niết-Bàn rồi thì Phật Bảo chính là hình Phật, tượng Phật. Vì Phật được đúc bằng các kim loại và gỗ quý, vẽ hình thôi đó cũng là Phật Bảo. Chứ không phải là chúng ta học tới cao rồi nói Phật đất đi qua sông không giữ được thân, Quy y Phật như vậy là không được. Đó là học về sau. Người ta mê tín nên lấy Lý để phá đi Sự mê tín. Còn bây giờ mới vô cứ Quy y, phải nương Sự mà hiển Lý. Chứ không phải là bỏ luôn Sự mà không có Lý. Cho nên thời nay nhiều người sai lầm ở chỗ này. Không phải đồng tu Tịnh Độ mà nhiều người bên ngoài cũng bị sai ở chỗ này, không thờ hình Phật gì hết, không thờ tượng Phật gì hết. Đó là hiểu sai, không hiểu ý của đức Thế Tôn.

#Huỳnh quyển xích độc vi Pháp Bảo: chữ #huỳnh là vàng; #quyển là quyển sách. Quyển sách hồi xưa làm bằng vàng, bằng đồng v.v… rất quý, nói chung là quyển sách quý. #Xích là màu đỏ; #độc là quý; hồi xưa giấy tờ, sách vở, văn kiện, văn thư v.v… làm bằng thẻ gỗ cho nên gọi là độc là quý; #vi Pháp Bảo: đó chính là Pháp Bảo. Nói đơn giản Kinh sách tức là Pháp Bảo. Những Kinh sách là Pháp Bảo, chứ không phải chúng ta nói ‘Quy y với Pháp là chánh mà không tà’, rồi bỏ luôn Kinh quyển, đó là sai. Pháp Bảo là Kinh sách.

#Thế phát nhiễm y vi Tăng Bảo: #thế phát là xuống tóc, cạo tóc; #nhiễm y là đắp lên chiếc y màu không được đẹp, màu bị nhiễm gọi là y hoại sắc, đó là Tăng Bảo, là những người xuất gia. Tóm lại những người xuất gia gọi là Tăng Bảo. Quy y Phật sau khi Phật diệt độ rồi thì Quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng là như thế.

Tạm dịch: Sau khi Phật diệt độ, [dùng] khuôn vàng cùng đất đá đỏ gỗ quý, [hoặc] giấy trắng [làm thành hình tượng Phật] làm thành Phật Bảo. Sách vàng gỗ đỏ [ghi chép lời Phật] làm thành Pháp Bảo. Xuống tóc đắp y là [bậc] Tăng Bảo.

Cho nên quý vị nhớ, có nhiều người không quy y, bây giờ [nói] tôi quy y với Tự Tánh Tam Bảo không à! Đây là Đại sư Ngẫu Ích nói chứ không phải là do Thiện Trang nói.

由金土等像。表示一切智五分功德。由黃卷赤牘。詮顯滅諦涅槃。由剃染緇流。修證聲聞功德。

Do kim thổ đẳng tượng, biểu thị Nhất thiết trí ngũ phần công đức. Do huỳnh quyển xích độc, thuyên hiển Diệt đế Niết-Bàn. Do thế nhiễm truy lưu, tu chứng Thanh văn công đức.

Giải:

#Do kim thổ đẳng tượng: #do là nương, nương theo tượng bằng vàng, bằng đất, v.v…

#Biểu thị Nhất thiết trí ngũ phần công đức: biểu thị năm phần công đức của Nhất thiết trí, Nhất thiết trí là trí của Phật.

#Do huỳnh quyển xích độc: tức là nương theo những sách quý, những Kinh sách quý.

#Thuyên hiển Diệt đế Niết-Bàn: #thuyên là giải thích, giảng giải ra. Mà giải thích ra được, hiển bày được pháp Diệt đế Niết-Bàn.

Tức là pháp để đi vào con đường Niết-Bàn an vui. Mình phải dựa vào Kinh sách, nếu không có Kinh sách thì làm sao [tu].

#Do thế nhiễm truy lưu: #thế là xuống tóc, cạo tóc; #lưu là hàng, bậc, tức là nương theo hàng bậc mà đắp y cạo tóc; chữ #truy là nhà sư, mà thường chữ truy có nghĩa là màu đen. Nhà sư phải mặc áo màu đen, hồi xưa nhà sư ở Trung Quốc là như vậy. Cho nên ở đây nói chung là nương theo những người hàng xuất gia.

#Tu chúng Thanh văn công đức: mà tu chứng được công đức của hàng Thanh văn.

Tạm dịch: Nương theo tượng bằng vàng đất v.v.., biểu thị năm phần công đức của Nhất thiết trí. Nương theo [kinh] sách bằng vàng gỗ đỏ, giải thích hiển bày Diệt đế Niết-Bàn. Nương theo bậc xuống tóc đắp y, mà tu chứng công đức Thanh văn.

Cho nên ở đây mình phải nương theo Sự, chứ không phải là bỏ luôn. Nhiều người học Tịnh Độ hay là học theo bên ngoài nói: Bây giờ quy y điều gì, Kinh sách đâu phải Tam Bảo đâu mà quy y, tượng Phật đâu phải để Quy y.  Đó là sai lầm. Đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích nói. Đây là lời trong Kinh luận trích ra, Đại sư Ngẫu Ích cũng chỉ chú giải như vậy.

Cho nên đừng có bác, học chưa tới đâu mà bác hết, bác là không cần thờ tượng Phật, không cần thờ hình Phật v.v… đó là sai lầm. Rồi không có nương theo Pháp là Kinh sách cũng khỏi cần luôn. Vậy thì lấy đâu ra mà học. Phải nhờ kinh sách mới giảng giải, mới giải thích ra [để] hiểu. Có nhiều người bây giờ nói khỏi đọc Kinh sách, đó cũng là một sai lầm. Rồi họ nói bây giờ Tăng toàn phàm phu không, khỏi cần quy y. Không phải nói [như vậy]. Ở đây nói mình chỉ cần nương theo những người phàm phu Tăng đó để mình tu chứng được, chứ nếu mà không nương vào đó thì lấy đâu ra mà tu chứng. Cho nên đây là những lỗi mà người đời nay do không học nên không biết. Đằng sau Đại sư Ngẫu ích giải thích cho chúng ta.

能表。能詮。能修者。名為住持三寶。所表。所詮。所證者。名為勝義三寶。事不即理。故須雙歸事理二種三寶。皆令救護。不被邪外所侵淩也。

Năng biểu, năng thuyên, năng tu giả, danh vi Trụ trì Tam Bảo. Sở biểu, sở thuyên, sở chứng giả, danh vi Thắng nghĩa Tam Bảo. Sự bất tức Lý, cố tu song quy Sự Lý nhị chủng Tam Bảo, giai linh cứu hộ, bất bị tà ngoại sở xâm lăng dã.

Giải:

#Năng biểu, năng thuyên, năng tu giả: tức là bậc có thể biểu thị ra, có thể giải thích ra, có thể tu.

#Danh vi Trụ trì Tam Bảo: gọi là Trụ trì Tam Bảo.

Năng biểu ở đây chính là nói hình tượng, những hình tượng Phật chính là năng biểu. Có thể biểu được pháp, biểu thị ra. Năng thuyên là những Kinh sách thì mới giảng giải được những lời của phật, ghi ra lời của Phật. Năng tu là những người xuất gia có tu, chỉ cần có tu thôi. Thì gọi là trụ trì Tam Bảo. Cho nên nếu quý vị không có nương trụ trì Tam Bảo là tiêu rồi. Nên trụ trì Tam Bảo là mình phải có.

#Sở biểu, sở thuyên, sở chứng giả, danh vi Thắng nghĩa Tam Bảo: đây nói cao hơn, đã biểu diễn được rồi, đức Phật đã thành đạo rồi. #Sở thuyên là những giáo pháp đã được giảng giải ra; #sở chứng tức là người đã tu chứng rồi; #danh vi Thắng nghĩa Tam Bảo: gọi là Thắng nghĩa Tam Bảo.

          Cho nên đây cũng là Tam Bảo. Tam Bảo này ngon là Thắng nghĩa Tam Bảo. Cho nên có Trụ trì Tam Bảo và Thắng nghĩa Tam Bảo. Chúng ta sẽ quy y cả hai, chứ không phải là quy y mỗi Thắng nghĩa Tam Bảo.

#Sự bất tức lý: Sự thì không phải là Lý,

#Cố tu song quy Sự Lý nhị chủng Tam Bảo: chữ #tu là phải, cho nên mình phải song quy y là mình phải quy y cả hai, cả Sự và Lý, hai loại Tam Bảo ấy. Tức là mình phải quy y cả Sự và Lý. Chứ không phải lấy Lý bác Sự không quy y, hoặc là lấy Sự bác Lý thì cũng sai.

Đây là bệnh của người đời nay chúng ta, đặc biệt là Tịnh Độ tông chúng ta, nhiều người thời nay không học nên bị dính vào trong đây, tức là bác hoàn toàn trên Sự. Cho nên mình bác Sự rồi thì mình không đi vào cửa đầu tiên được. Tức là quy y Tạng Giáo, mình đang học quy y Tạng Giáo mà mình không có đạt được. Mà không có đạt được cửa thứ nhất, thì quý vị làm sao đi vô các cửa sau. Cho nên nói là hay vậy thôi.

Mà đặc biệt, người tại gia bây giờ học nương theo Hòa thượng Tịnh Không mà cống cao ngã mạn, không coi người xuất gia ra gì cả, là phạm vào đây. Thậm chí không chú trọng, thế này thế kia, khinh thường quá, thì như vậy là mình đã phạm. Ở đây Đại sư Ngẫu ích nói rất rõ Sự không phải Lý, Sự đâu phải là Lý đâu. Cho nên phải song quy y cả hai loại. Tức là mình phải tu, mình phải quy y cả hai Sự và Lý Tam Bảo, Sự và Lý điều phải quy y.

#Giai linh cứu hộ, bất bị tà ngoại sở xâm lăng dã: #giai linh là đều được cứu hộ, tức là đều được khiến cho cứu hộ.

Là cả hai đều cứu hộ được, là cả Sự Tam Bảo (chúng ta nói là Thế gian Trụ trì Tam Bảo) và cả xuất thế gian chúng ta nói là Thắng nghĩa Tam Bảo, là những bậc đã tu đã chứng rồi. Hai điều này đều giúp đỡ cho chúng ta và cứu hộ cho chúng ta. Chứ không phải là mình nương trên Lý mà bỏ Sự thì không có đạt được. Thì sẽ không bị tà ma ngoại đạo xâm lăng tức là xâm phạm.

Cho nên ở đây quý vị thấy, tại sao chúng ta tu hành bị ma nhập là do điều này, do Quy y không đúng. Tại sao mình tu hành mà bị tà ma ngoại đạo xâm hại, xâm phạm? Vì quý vị không làm được hai điều này, chúng ta phải làm được cả hai Lý và Sự, gọi là Lý Sự viên dung. Cho nên đều cứu hộ được hết, Trụ trì thế gian Tam Bảo mặc dù là phàm phu cũng có, hình tượng Phật trước mắt cũng có.

Quý vị thấy có câu chuyện, người đó họ đeo hình Phật ở trên cổ thôi, khi bắt đầu tai nạn họ ngã xuống, có mấy người cầm [dao] hay cầm cái gì chạy tới. Họ thấy khó chịu quá, khó chịu quá tụi bây ơi! Tại sao trên người đó có hình Phật kìa. Sau đó có người đến cứu. Người bị tai nạn tỉnh lại và kể: lúc đó, tôi thấy có mấy người như thế… Họ nói chúng tôi ở gần đây, đâu có thấy ai đâu, ông tự té xuống mà. Thì mới nói là do mình có đeo sợi dây, có chiếu ra ánh sáng.

Cho nên hình Phật cũng quan trọng lắm quý vị, cũng nương cũng cứu hộ được đó. Kinh quyển, mặc dù quý vị cầm quyển Kinh không phải là gì ghê gớm, nhưng ở đâu cầm quyển Kinh có thần hộ pháp già trì, đứng trên không gia trì cho quý vị. Cầm quyển Kinh Vô Lượng Thọ lên là phải cung kính, được thần hộ pháp gia trì. Không phải Kinh Vô Lượng Thọ mà Kinh nào cũng vậy. Cho nên ở đâu mà thờ được một bộ Đại Tạng Kinh, hoặc là một bộ Kinh Hoa Nghiêm v.v… hay là những bộ Kinh lớn là nơi đó có Phật rồi.

Thầy Thiện Luận có kể một câu chuyện, Thiện Trang xin kể lại. Là nơi nào đó, có vị thầy nào đó thấy chỗ đó tu hành bị nhiều chướng ngại quá, có nhiều người phá hoại này kia giống như là ma quỷ vậy đó. Cho nên phát tâm là thỉnh tượng Địa Tạng Vương Bồ-tát về thờ. Vừa mới phát tâm thỉnh, nghĩ trong đầu là đặt tượng Địa Tạng Vương Bồ-tát ở chỗ đó. Thì tối hôm đó có giấc mộng báo là: “Ôi, chỗ đó sáng quá là sáng, bữa nay thầy đặt cái gì mà sáng vậy?”

Quý vị thấy không, chưa thỉnh tượng về mà ngay chỗ đó là sáng quắc lên rồi, rất là sáng lên rồi, có nghĩa là đã có thần hộ pháp bảo hộ rồi, nhất thiết pháp từ tâm tưởng sanh. Cho nên nơi nào có Kinh điển, nơi nào có hình tượng Phật là có lợi ích rồi. Chúng ta nói có căn cứ, Đại sư Ấn Quang có chỉ cho phương pháp là nơi nào có tai nạn nhiều thì viết chữ “A Di Đà Phật” hay “A Mi Đà Phật” viết Thánh hiệu vô. Hoặc là chúng ta bây giờ có thể dùng các bản điện tử chiếu ra chữ Nam Mô A Di Đà Phật, A Mi Đà Phật hoặc là những câu chú đó v.v… Thật sự mà nói là có tác dụng, đó mới là hình tượng thôi cũng đã có tác dụng rồi.

Rồi người tại gia, người xuất gia chẳng hạn. Xuất gia cũng có tướng xuất gia. Hồi trước ở chùa Sư phụ của Thiện Trang có một Sư cô kể câu chuyện là: Sư cô đi từ Đồng Nai lên chùa của Sư phụ của Thiện Trang, đi qua khu vực Trảng Bom, cô té xuống ngất xỉu. Mọi người thấy té nên họ lại đỡ dậy và hỏi cổ, thì cổ nói: Lúc mà té xuống, có thấy hai ba người chạy tới chụp cô dở lên, họ thấy là Sư cô nên họ kêu: Là Sư cô tụi bây ơi, Sư cô tụi bây ơi! Họ nói vậy, họ sợ chạy mất. Mấy người xung quanh kia nói tôi không thấy điều đó. Tôi chỉ thấy là cô té xuống rõ ràng, trước mặt chỉ có mình cô mà.

Đó là do chỗ đó là khúc [thường xuyên] bị tai nạn, cõi âm người ta kéo, nói như vậy đó quý vị. Nhưng vì thấy hình tướng của người xuất gia, do ở Việt Nam đội mũ bảo hiểm, mặc áo khoác vô nên không thấy người xuất gia. Đi qua chỗ đó (có thể nói theo kiểu mê tín một chút) là bị kéo ngã, thế nhưng đến khi kéo ngã, định hại thì lúc đó thấy là một Sư cô nên không dám đụng.

Cho nên hình tướng cũng có tác dụng đó quý vị. Quý vị ở nhà tu chỉ cần mặc cái áo tràng vô là cũng có tác dụng rồi. Cho nên đừng bỏ những hình tướng, có hình tướng rồi mình có lý nữa thì mới thành công, gọi là Lý Sự viên dung, viên mãn. Đừng lấy Sự bác Lý, lấy Lý bác Sự. Những người đời nay chấp Sự bỏ Lý và lấy Lý bác Sự rất nhiều, cho nên tu hành cuối cùng không đạt được lợi ích lớn.

Tạm dịch: Bậc có thể biểu thị, bậc có thể giải thích, có thể tu, (ở đây chúng ta nói là bậc, dịch phải là hình tượng, chữ “năng sở” mình dịch tạm thôi nhưng dịch như vậy hơi khó hiểu) gọi là Trụ trì Tam Bảo. Bậc được biểu thị, được giải thích, đã chứng đắc, gọi là Thắng nghĩa Tam Bảo. (Những người chứng quả gọi là Thắng nghĩa Tam Bảo mới tuyệt vời. Còn nếu mình chỉ được Trụ trì Tam Bảo thì cũng tốt rồi, tại vì Phật pháp trường tồn phải có Trụ trì Tam Bảo, không có Trụ trì Tam Bảo thì cũng không được. Quý vị thấy, không có người xuất gia thì Phật pháp diệt, không có Kinh sách thì Phật pháp diệt, không có hình tượng Phật thì Phật pháp cũng diệt. Cho nên vẫn cần có Trụ trì Tam Bảo, tất nhiên phải có Lý nữa). Sự không phải là Lý, cho nên phải quy y cả hai loại Tam Bảo Sự và Lý, đều cứu hộ được, (tức là cả Sự Tam Bảo là Thế gian Trụ trì Tam Bảo và Lý là Thắng nghĩa Tam Bảo đều cứu hộ chúng ta được, giúp đỡ chúng ta được) [khiến] không bị tà [ma] ngoại [đạo] xâm phạm.

Cho nên mình khiến cho tà ma ngoại đạo xâm hại không được, rồi thì mình tu dễ dàng, mình tu sẽ không bị ma nhập. Người tu hành mà còn bị ma nhập, còn bị người khác điều khiển thì nói thật là mình quy y có vấn đề, Giới luật mình có vấn đề.

Nếu như quý vị thực sự quy y, quý vị giữ giới đàng hoàng, dù người ta có sử dụng bùa chú đối với quý vị [thì] cũng chỉ bị nhẹ nhẹ thôi, chỉ mệt mỏi v.v… ngủ nhiều thôi, bệnh thôi, chứ không thể nào điều khiển quý vị được. Còn khi Tam Quy y khuyết (Thiện Trang chỉ nói Tam Quy y thôi chưa nói Ngũ giới) thì bắt đầu bị người khác [bỏ bùa] điều khiển, tức là quỷ thần điều khiển quý vị.

Cho nên đời nay bùa chú khắp nơi, người tại gia cũng xài, người xuất gia cũng xài. Chúng ta muốn bảo vệ chúng ta để không bị người ta [bỏ bùa] điều khiển thì hãy ráng quy y làm cho đúng. Cho nên nếu chưa quy y thì hãy quy y, nếu đã quy y rồi mà cảm thấy chưa được, chưa đúng thì ráng quy y lại. Chùa nào có tổ chức mình tới mình dự thính, quy y lại chân thành, chí thành xin phép quy y. Mình cứ nói con xin quy y thôi, đừng nói là quy y rồi. Pháp danh thì mình cứ dùng Pháp danh cũ. Tới chùa mới thì dùng Pháp danh mới, đâu có cấm đâu, mình cứ quy y không sao hết, quan trọng là thực chất.

Còn nếu không thì mình có thể đối trước tượng Phật Bồ-tát phát nguyện cho con quy y. Hồi trước con quy y rồi nhưng mà con chưa được, bây giờ Phật Bồ-tát cho con quy y, con tự quy y, vì hồi trước con quy y rồi. Những hình thức đó cũng tạm tạm, chúng ta cố gắng làm được như vậy thì lợi ích, Thiện Trang nghĩ là rất lớn. Và nếu mà mình quy y được trên hình tướng thì công đức vô lượng vô biên.

Giống như câu chuyện lúc trước Thiện Trang kể ở trong Kinh Hiền Ngu: Vào thời xa xưa, ở đất nước đó có một vị Bích-chi-Phật xuất hiện. Vị Bích-chi-Phật hằng ngày đi khất thực trong thành, rồi về ngồi dưới gốc cây tọa thiền. Ở đó có một con sư tử lông vàng rất là mến mộ đức của vị Bích-chi-Phật. Sư tử thì ăn thịt người) nhưng nó mến mộ ngài cho nên thường xuyên tới ngồi bên cạnh ngài, nó không có sợ. Ngồi bên cạnh ngài Bích-chi-Phật để nghe thuyết pháp, được an ủi, có khi ngài cho nó ăn v.v…

Lúc đó có một người thợ săn thấy con sư tử này có bộ lông vàng quý như vậy, cho nên nghĩ nếu mà ta lấy được bộ lông vàng đó thì quá tuyệt vời, dâng lên cho Vua thì ta sẽ được ban thưởng trịnh trọng, giàu có vô biên. Cho nên nghĩ cách giết con sư tử, nhưng làm sao giết được vì sư tử mà, dễ gì giết. Cho nên ông giả bộ, sắm bộ y giống như vị Bích-chi-Phật kia, rồi ngồi dưới gốc cây, đợi vị Bích-chi-Phật đi khất thực trong thành thì ngồi giả bộ, chuẩn bị sẵn.

Khi đó con sư tử lông vàng không biết, tiến tới gần gốc cây thì ông thợ săn bắn mũi tên độc. Con sư tử bị trúng mũi tên độc, lúc đó, nó tức lên, muốn vồ chết ông [thợ săn] vì nó vẫn còn sức. Nhưng mà nghĩ lại, biết ông ta là thợ săn rồi nhưng ông ta đắp trên mình y của Tỳ-kheo như vậy. Vì kính trọng màu y cho nên thà chết chứ không trả thù, không nhào vô cắn ông.

Một thời gian sau thì con sư tử chết, trước khi chết con sư tử đó có phát ra âm thanh gồm có tám chữ: Na La La Bà Sà Sa Toá Ha. Lúc đó trời đất chấn động, trời không mây nhưng đổ mưa, chư thiên lúc đó nghe được tiếng chấn động đó tới rải hoa khắp nơi. Sau đó vị thợ săn lột da của con sư tử lông vàng đem vào thành dâng lên cho Vua, báo là con đã có được bộ lông vàng của con sư tử quý như vậy. Lúc đó Vua tên là Đề Tỳ nghĩ: sao có bộ lông tuyệt vời như vậy, vua định ban thưởng cho người kia nhưng nghĩ bộ lông này chắc là không phải bình thường, cho nên mới hỏi trước khi con sư tử chết, nó có biểu hiện gì không?

Người thợ săn nói: lúc đó, nó có biểu hiện thứ nhất là phát ra 8 tiếng nói của người là Na La La Bà Sà Sa Toá Ha. Và đồng thời trời đất lúc đó chấn động, trời không mây nhưng đổ mưa, tự nhiên ở trên trời rớt xuống rất nhiều hoa. Vua biết con sư tử này chắc chắn không phải bình thường nên lúc đó triệu tập lại các vị tiên nhân, những vị nào mà giỏi về tiên đoán, hỏi thử 8 chữ ấy có nghĩa là gì. Rồi cũng có một vị tiên nhân tới, cắt nghĩa chữ Na La La có nghĩa là người cạo tóc, đắp Cà sa, sớm được giải thoát sanh tử. Bà Sà Sa là người cạo tóc đắp y biểu hiện cho các bậc Hiền Thánh trong ba đời gần Niết-Bàn. Còn Toá Ha là người cạo tóc đắp y hoại sắc mà được tất cả người trời thấy được đều cung kính. Ý nói là trước khi chết con sư tử vẫn khởi lên tâm như vậy.

Sau đó vua làm một nghi thức rất trịnh trọng, xây tháp thờ để tỏ lòng cung kính đối với con sư tử. Đức Phật nói rằng, sau khi chết con sư tử đó được chuyển làm Chuyển Luân Thánh Vương.

Quý vị nghe cho kỹ, cung kính Tăng như thế, cung kính Pháp như thế, cho nên sau khi chết được làm Chuyển Luân Thánh Vương. Và con sư tử đó chính là tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vua Đề Tỳ vì làm lễ đó với tâm cung kính như thế, vì tâm học pháp như thế, ngày nay sắp đắc đạo thành Phật, đó là đức Di Lặc Bồ-tát. Còn tiên nhân ngày xưa ấy, giải thích được như thế chính là ngài Xá Lợi Phất ngày nay. Còn thợ săn là Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa chuyên hại Phật, cho nên đời quá khứ cũng hại Phật.

Quý vị thấy rõ ràng, tâm niệm cung kính rất quan trọng, dù là hình tướng thôi cũng được phước báu vô lượng, cho nên dù thế nào chúng ta cũng phải quy y.

Hôm nay chúng ta học tới đây thôi, học nhiều quá không nhớ. Học Giới Luật học bấy nhiêu là đủ rồi. Chúng ta mới học đến Quy y của Tạng giáo, buổi sau chúng ta sẽ học của Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo. Chúng ta mới vào học phần Tam Quy và chúng ta thấy học Giới Luật cũng đâu có khô đâu, cũng hấp dẫn mà. Lâu lâu học một bữa, không học được nhiều nhưng học một bữa. Buổi sau chúng ta sẽ trở lại với Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú Tuyển Giảng, tức là Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng.

Hôm nay chúng ta học tới đây, kính chúc quý vị hoan hỉ. Chắc quý vị nghe hôm nay hấp dẫn, đúng không ạ? Lâu lâu đổi món ăn mà, đổi món nên ngon. Và chúng ta học thấy hiệu quả, lợi ích chứ không phải học Giới Luật khô khan. Có thể một tháng Thiện Trang giảng một buổi về Giới Luật vì giảng hết bộ này cũng không nhiều lắm, khoảng 300 trang, bữa nay học được 5 trang rồi. Thực ra chữ to thôi, chứ chữ nhỏ thì ngắn hơn bộ kia. Chúng ta xin dừng ở đây. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng!

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đồng sanh về Tịnh Độ”.