Responsive Menu
Add more content here...

Tập 109 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:

Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền

Tập 109

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 22 tháng 09 năm 2014.

Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang thứ 338, hàng sau cùng, khoa đề: 庚二、利他德 “Canh nhị, lợi tha đức” (G2: đức Lợi tha), chia làm bốn, đoạn thứ nhất tiếp đây: 妙行顯實 “Diệu hạnh hiển thật” (Hạnh vi diệu hiển bày chân thật).

          Hàng sau cùng của đoạn phía trước, có hai câu nói vô cùng quan trọng, đó chính là những Bồ-tát vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật (chính là 48 nguyện) gia trì, xuất hiện thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn, với khoảng một niệm dạo khắp cõi Phật, câu này rất quan trọng. Chúng ta biết cảnh giới ấy, cấp bậc thấp nhất: là Sơ trụ của Viên giáo, Sơ địa của Biệt giáo, những ngài ấy thực sự là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đức Thế Tôn khi 30 tuổi, ở dưới cây Bồ-đề: vì chúng ta mà thị hiện: là cảnh giới ấy; Ở Trung Hoa mọi người đều biết, Lục tổ Đại sư Huệ Năng của Thiền tông: cũng là cảnh giới ấy. Chúng ta rất may mắn, thực sự thiện căn phước đức nhân duyên trong đời quá khứ, cũng là không thể nghĩ bàn, có thể ở thời đại trước mắt đây: thấy được lão Hòa thượng Hải Hiền, một câu Phật hiệu của lão Hòa thượng Hải Hiền: cũng là cảnh giới ấy, ở Tịnh Độ tông gọi là Lý Nhất tâm Bất loạn, chính là Đại khai Viên giải của Giáo hạ, Minh tâm Kiến tánh của Tông môn, dùng thuật ngữ khác nhau, mà cảnh giới là bằng nhau, hoàn toàn tương đồng.

          Tuy chúng ta không đích thân nhìn thấy: lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài vãng sanh vào đầu năm ngoái, tháng 1 năm 2013, cách chúng ta rất gần, nhưng chúng ta biết đó không phải giả, là thật, 112 tuổi. Chúng ta nhìn thấy Vĩnh Tư Tập của ngài, xem được đĩa CD của ngài, ngài đến làm chứng cho chúng ta, chứng minh điều gì? Điều thứ nhất, chứng minh thật có thế giới Cực Lạc, thật có A Di Đà Phật. Ngài thường xuyên gặp mặt A Di Đà Phật, tiếp nhận lời căn dặn của A Di Đà Phật, để ngài lưu ở thế gian làm biểu pháp; Nói cách khác, nếu ngài không phải vì biểu pháp, thì ngài sớm đã vãng sanh rồi. Biểu pháp ấy: chính là kiên định tín tâm của chúng ta, làm kiên cố nguyện tâm của chúng ta, tín nguyện của chúng ta không còn nghi ngờ thêm nữa, thị hiện cho chúng ta công đức của câu Phật hiệu này: là không thể nghĩ bàn, không cách nào tưởng tượng. Chúng ta biết Quốc sư Hiền Thủ,: có một bài văn chương, gọi là: Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, quá khứ chúng ta đã học hai lần, dùng Sáu môn trong Hoàn Nguyên Quán: Nhất thể, Nhị dụng, Tam biến, Tứ đức, Ngũ chỉ, Lục quán, để xem 92 năm tu học: của lão Hòa thượng Hải Hiền, thì tương ưng, câu nào cũng tương ưng. Công đức của trụ thế biểu pháp ấy là vô lượng, khiến bao nhiêu [người] còn có nghi ngờ: đối với kinh giáo, với học tập: (nghi ngờ là chướng ngại lớn nhất), nhìn thấy phẩm hạnh đạo nghĩa cả đời của ngài, thì chúng ta trừ bỏ nghi hoặc rồi.

 

          Phần trước đã nói về đức Tự lợi, hôm nay chúng ta sắp học về đức Lợi tha. Trong đức Lợi tha chia làm bốn khoa, khoa thứ nhất: Diệu hạnh hiển thật, chú trọng ở chữ “thật” này, là chân thật. Chúng ta xem Kinh văn:

          【得佛辯才。住普賢行。善能分別眾生語言。開化顯示真實之際。超過世間諸所有法。】“Đắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh. Thiện năng phân biệt chúng sanh ngữ ngôn, khai hóa hiển thị Chân thật chi tế. Siêu quá thế gian chư sở hữu pháp.” (Được biện tài của Phật, trụ hạnh của Phổ Hiền. Giỏi có thể phân biệt ngôn ngữ của chúng sanh, khai thị giáo hóa hiển thị bờ mé chân thật. Vượt qua tất cả các pháp của thế gian).

          Ở trong đoạn Kinh văn này, Niệm lão đã khai thị tường tận cho chúng ta, chính là Chú Giải, chúng ta xem Chú Giải của ngài. 『得佛辯才』“Đắc Phật biện tài” (Được biện tài của Phật). 辯才者,善巧宣說法義之才能 “Biện tài giả, thiện xảo tuyên thuyết pháp nghĩa chi tài năng” (Biện tài là: tài năng khéo léo tuyên nói nghĩa của pháp). Quan trọng nhất ở trong đây chính là ‘thiện xảo’, đặc biệt là ‘thiện’, ‘thiện’ này chính là từ tán thán, không phải thiện của thiện ác, khen ngợi các ngài, tán thán các ngài về năng lực thuyết pháp lợi sanh ấy. Phật pháp, ở trong Đại thừa đức Thế Tôn nhắc nhở chúng ta, có Liễu nghĩa, có Bất liễu nghĩa. Thế nào là Liễu nghĩa? Tất cả pháp mà đức Phật nói đều không có dự tính, hoàn toàn là từ trong Tự Tánh, chúng sanh có cảm, Phật Tánh có ứng. Phật Tánh chính là Tự Tánh, chính là Pháp thân. Tự Tánh đầy đủ viên mãn vô lượng trí huệ, cho nên trí huệ không phải đến từ bên ngoài, bên ngoài không có trí huệ, trí huệ là lưu xuất từ trong Tự Tánh. Câu thứ ba của Đại sư Huệ Năng: nói lúc khai ngộ là: 何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), đầy đủ điều gì? Ở trên Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn nói với chúng ta: 一切眾生皆有如來智慧德相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng” (Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai), đầy đủ mà Đại sư Huệ Năng đã nói chính là câu ấy, đầy đủ hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, trí huệ, đức năng (năng lực đạo đức), tướng hảo bình đẳng, đều là rốt ráo viên mãn, trí huệ rốt ráo viên mãn, đức hạnh rốt ráo viên mãn, năng lực rốt ráo viên mãn, tướng hảo rốt ráo viên mãn. Tướng hảo đến trình độ nào? Giống như trên Quán Kinh: đức Thế Tôn giới thiệu cho chúng ta Báo thân của đức Di Đà, thân có 84 ngàn tướng: (không phải 32 tướng, là 84 ngàn tướng), mỗi tướng có 84 ngàn Tùy hình hảo, mỗi một Tuỳ hình hảo: phóng ra 84 ngàn ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có chư Phật Như Lai, chư Đại Bồ-tát ở trong đó làm Phật sự, Phật sự chính là giảng kinh dạy học. Không cách nào tưởng tượng, là Báo thân, trong Báo thân hiện toàn bộ vũ trụ. Dùng thuật ngữ của Phật pháp để nói, thì khắp Pháp giới hư không giới ở đâu? Ở một phần của tướng hảo trong Báo thân, trong ấy hoàn toàn hiển thị ra. Việc ấy: đến thế giới Cực Lạc thì được chứng minh rồi, vì sao vậy? Bởi đã hoàn toàn hưởng thụ được, chư vị đạt được rồi.

          Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, Pháp môn này ở trong 84 ngàn Pháp môn, ở ngay trong vô lượng Pháp môn, là Pháp môn đặc biệt nhất, Pháp này rất dễ dàng giúp chư vị chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, vô cùng dễ dàng. Nhưng Pháp này rất khó để người tin tưởng, vì sao vậy? Bởi không Pháp môn nào là ngoại lệ, vì sao chư vị lại ngoại lệ? 84 ngàn Pháp môn, môn nào cũng cần đoạn phiền não chứng Bồ-đề, không đoạn phiền não, thì chư vị chắc chắn không thể nâng lên. Từ bậc cửa thứ nhất, là Sơ quả của Tiểu thừa, Sơ tín vị Bồ-tát trong Thập tín vị của Đại thừa, nhất định phải đoạn: Kiến phiền não trong Kiến tư phiền não. 88 phẩm Kiến hoặc, đức Thế Tôn để dạy học thuận lợi: mà đem Kiến hoặc quy nạp thành năm loại lớn, nói ra là đã thuận tiện rồi. 88 phẩm Kiến hoặc chia thành năm loại lớn: đầu tiên là Thân kiến, chấp trước thân là ta; Thứ hai là Biên kiến, hai bên đối lập, không biết vạn pháp là một thể, nên sanh ra Biên kiến; Thứ ba là Kiến thủ và Giới thủ, người Trung Hoa chúng ta gọi là Thành kiến, Thành kiến của người nào đó rất sâu, Thành kiến nói hai loại, một là Thành kiến ở trên quả, là Kiến thủ kiến, hai là Thành kiến ở trên nhân, là Giới thủ kiến; Loại thứ năm: không thuộc về bốn loại lớn ở phía trước, cho nên tất cả cách nhìn sai lầm: toàn bộ quy về một loại, gọi là Tà kiến, không phải Chánh tri Chánh kiến. Đoạn hết năm loại Kiến hoặc này rồi, chính là điều đã nói ở nửa bộ trước của Kinh Kim Cang: 無我相、無人相、無眾生相、無壽者相 “Vô ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô chúng sanh tướng, Vô thọ giả tướng” (Không Tướng ta, không Tướng người, không Tướng chúng sanh, không Tướng thọ giả), thực sự vào cửa Phật, tuy là quả rất nhỏ, Sơ quả, Sơ tín vị, nhưng các ngài là Thánh nhân, các ngài không phải người phàm. Mặc dù ở trong sáu đường như xưa, chưa ra khỏi sáu đường, nhưng các ngài ở trong sáu đường là có kỳ hạn, chính là bảy lần sanh tử ở trên trời và nhân gian, hết thọ mạng ở nhân gian thì sanh thiên, sanh thiên tiếp tục tu hành, hết thọ mạng ở trên trời lại sanh đến nhân gian, các ngài sẽ không đọa ba đường ác, các ngài cũng sẽ không biến thành A-tu-la.

          Thọ mạng của nhân gian ngắn, thọ mạng trên trời dài, bảy lần qua lại cần thời gian dài bao lâu, chúng ta không dám tưởng tượng, quá dài rồi. Trời thì xét trời Đao Lợi, không lên trên thêm nữa, một ngày của trời Đao Lợi là 100 năm của nhân gian, họ cũng là một năm có 365 ngày, thọ mạng của họ là 1000 tuổi. Lịch sử 5000 năm của Trung Hoa, chẳng qua là hơn một tháng ở trời Đao Lợi, 50 ngày, một ngày của họ là 100 năm ở nhân gian chúng ta, 5000 năm lịch sử, là 50 ngày của trời Đao Lợi. Chúng ta cũng cần có khái niệm về những điều này, vì sao vậy? Bởi có thể giúp chúng ta: hạ quyết định tâm tu Tịnh Độ, tu Tịnh Độ thành công rồi, ở ngay trong đời này: thì giải quyết xong vấn đề ấy. A-la-hán không giải quyết nổi vấn đề ấy, Bích-chi-phật cũng không giải quyết xong, nhất định là hai tầng cao nhất: của Pháp giới Tứ Thánh là: Phật, Bồ-tát. Thực sự giải quyết là Phật, Phật của mười Pháp giới, Ở trong Lục tức Phật, Đại sư Thiên Thai: xưng các ngài là Tương tự Tức Phật, các ngài không phải Phật thực sự, vì sao vậy? Bởi các ngài vẫn dùng A-lại-da. Theo tiêu chuẩn của Đại thừa, bậc dùng Chân Tâm là Phật; bậc dùng Vọng tâm, cao nhất chính là Tương tự Tức Phật.

          Lý tức Phật trong Lục tức Phật, từ trên Lý nói rằng tất cả chúng sanh vốn là Phật, đó là thật, không thể biện luận. Nhưng chúng sanh đã mê, mê này sinh ra chướng ngại, thì Tánh đức của Tự Tánh chư vị không thể hiện tiền, chư vị có trí huệ đức năng tướng hảo: giống như Như Lai, thảy đều không thể hiện tiền, chư vị hiện đang bị trải qua: là ngày tháng sanh tử luân hồi trong sáu đường. Trên Lý là bình đẳng, nhưng trên thực tế không bình đẳng, là phàm phu sáu đường. Cho nên chắc chắn phải tu đức, chúng ta mới có thể dần dần nâng cao lên trên, phải chân tu. Tu là tu sửa, tu sửa điều gì? Tu sửa lỗi lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm, ngôn luận sai lầm, hành vi sai lầm. Sai đến quá xa chuẩn mực rồi, mà chính chúng ta hoàn toàn không biết, đều cho rằng điều chính mình nghĩ là chính xác, việc làm là chính xác, nếu không phải là đức Phật xuất thế, đức Phật nói rõ ràng tường tận điều ấy cho chúng ta, giảng giải thấu triệt, để chúng ta dần dần giác ngộ được, quay đầu lại xem chính mình, sai thực sự rồi, không phải sai giả.

          Quay đầu lại từ lỗi lầm, đó gọi là tu hành, tu sửa tư tưởng, lời nói, hành vi sai lầm. Tam học Giới Định Huệ, chính là ba sự việc ấy, Giới tu sửa hành vi của thân chúng ta, Định tu sửa hành vi của ý chúng ta, Giáo tu sửa hành vi của ngôn luận chúng ta. Ba chữ này đều không thể nghĩ bàn, ba chữ rộng lớn không có biên giới, sâu không có đáy, bởi vì là xứng Tánh, hoàn toàn là Tánh đức, nhiệm mầu của Phật pháp chính là diệu ở đây. Cho nên kinh giáo mà Phật nói: không có ý nghĩa, cả đời đức Phật chưa từng nói câu nào, nếu ai nói đức Phật giảng kinh thuyết pháp đó là báng Phật, ấy là do chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói, ấy là lời thật không phải lời giả. Vì sao đức Phật có thể xuất hiện ở đời? Đức Phật không xuất hiện ở đời, là chư vị có cảm, Ngài tự nhiên có ứng. Chư vị có hỏi, Ngài tự nhiên có đáp; Hành vi của chúng ta làm không đúng, thì Ngài tự nhiên hiện tướng trì Giới, để giúp chúng ta sửa chữa. Cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Cho nên mỗi câu mỗi chữ trên kinh Phật đều không có ý nghĩa, Nếu chư vị học tập, vậy sẽ hiện vô lượng ý nghĩa, hoàn toàn tương ưng với Tánh đức.

          Khi Tánh đức không khởi tác dụng: thì chẳng có thứ gì, cho nên Chân Tâm: thường dùng chữ “không”: để hình dung. Chân Không chẳng không, Chân Không là giảng về Tâm, Tâm Tánh. Vì sao chẳng không? Vì có thể hiện, có thể hiện muôn pháp. Câu nói sau cùng của Đại sư Huệ Năng là: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn pháp), nó có thể sanh, nó có thể hiện; Không có duyên thì nó không sanh, nó không hiện, đó chính là Không. Không, chẳng thể nói nó không, hiện không thể nói nó có, nó có thể hiện vạn pháp, vạn pháp được hiện [với] sát-na không ngừng, giống như liên tục. Trong Kinh Lăng Già đã nói: 自心現量,不斷之無 “Tự tâm hiện lượng, bất đoạn chi vô”(Từ tâm hiện lượng, không của chẳng dứt), không dứt là tướng liên tục. Vì sao không nói nó liên tục? Bởi vì tướng phía trước đó không phải hoàn toàn tương đồng: với tướng phía sau, hoàn toàn tương đồng mới có thể nói là liên tục, không tương đồng, niệm nào cũng khác nhau.

          Thời gian một ý niệm tồn tại là bao lâu? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ của giây, cũng chính là nói trong một giây, số lần sanh diệt là 2 triệu 100 ngàn tỷ. Chính ở trước mắt chúng ta, từ sáng đến tối đều không rời khỏi một phút giây nào, chúng ta hoàn toàn bất giác, hoàn toàn không biết, mê ở trong ấy. Nếu đã hiểu rõ thì thế nào? Hiểu rõ chư vị liền giác ngộ rồi. Vì sao vậy? Bởi chư vị không chấp trước nữa, chư vị hiểu được tướng là giả, tướng sanh diệt trong sát-na. Sát-na ấy là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần: trong một giây, đó là Thật tướng của các pháp. Bất luận là ý niệm (Khởi tâm động niệm), là Phân biệt, là Chấp trước, đây là hiện tượng tâm lý, bên ngoài là ảo tướng của vật chất, sắc thanh hương vị xúc pháp, đó là Lục trần, Lục căn, Lục trần, Lục thức, thảy đều được sinh ra từ: sóng dưới tần số cao, cho nên “diệu hữu phi hữu”; diệu hữu, là trong ‘không’ sanh ‘có’, ‘không’ ấy là Tự Tánh.

          Thực sự nhận thức Chân tướng, thì tâm thanh tịnh rồi, vì sao vậy? Bởi đã buông xuống. Cho nên Đại đức xưa dạy chúng ta cứ buông xuống, buông xuống là được: chỉ cần chư vị chịu buông xuống, sau khi buông xuống, buông xuống hư ảo thì dùng Chân Tâm. Chân Tâm ở đâu? Buông xuống Vọng tâm, Chân Tâm liền hiện tiền. Chân Tâm không sanh không diệt, Chân Tâm mãi mãi không mất đi, giống như màn hình của chúng ta vậy, mãi mãi không mất đi. Vọng Tâm là hình tượng trên màn hình, do A-lại-da biến ra, tướng được biến là sanh diệt trong sát-na. Hiện nay chúng ta xem ti-vi, Đây là tiên tiến nhất, kỹ thuật số, một giây sanh diệt bao nhiêu lần? 100 lần, chúng ta xem ti-vi mỗi ngày, một giây sanh diệt 100 lần. Vậy hoàn cảnh hiện thực của chúng ta, sanh diệt bao nhiêu lần trong một giây? Là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt. Đó là Chân tướng, thường quán sát như vậy, thì người ấy cũng có thể khai ngộ. Sáu căn ở trên cảnh giới sáu trần, nhìn thấy là giả, nghe được giả, ngửi được, tiếp xúc được toàn là giả cả; năng tiếp xúc, [là] căn thân của chúng ta; sở tiếp xúc [là] sáu trần ở bên ngoài, không một thứ nào là thật. Chân thật là không sanh không diệt, Tự Tánh là chân thật, Tự Tánh không sanh không diệt, cùng với ảo tướng hiện tại của chúng ta: nhu hợp lại với nhau. Liền giống như chúng ta vừa mở màn hình ti-vi, chúng ta đang xem ti-vi, chân vọng đều hiện ra, màn hình là chân, sắc tướng là giả, giả không che lấp chân, chân cũng không trở ngại giả, cùng lúc khởi tác dụng. Chân thì mãi mãi không biến đổi, giả thì biến đổi [trong] từng sát-na, nhất định không có cách nào nắm giữ được. Từ đây chúng ta dần dần thể hiện Tánh đức, thực sự là huyền diệu không thể nghĩ bàn.

          Về Lợi tha, ba nghiệp thân khẩu ý, trong tâm thường xuyên nghĩ đến chúng sanh khổ nạn, ở trong sáu đường mê hoặc điên đảo, vô lượng kiếp đến nay không thể vượt qua, khổ không nói hết. Nhìn người khác, sau đó quay lại nhìn chính mình, hồi quang phản chiếu, chính mình cũng như vậy. Vì sao nhìn người khác trước nhìn chính mình sau? Bởi vì dễ nhìn thấy khuyết điểm của người khác, mà không dễ thấy khuyết điểm của chính mình. Cho nên nhìn người khác, mà quay lại soi chiếu chính mình, liền có thể đem vấn đề của chính mình: thảy đều phát hiện ra, rốt cuộc là đã xảy ra khuyết điểm ở đâu: liền biết được. Nhìn Phật Bồ-tát, nhìn Thanh văn Duyên giác, nhìn chư Thiên, nhìn người thiện, nhìn người ác, nhìn súc sanh, nhìn ngạ quỷ, nhìn địa ngục, chính mình sẽ khai ngộ; không khai ngộ nổi, là đã mê quá sâu, cũng chính là Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước quá nghiêm trọng, rất khó quay đầu.

          Thực sự có thể buông xuống, dùng tâm tỉ mỉ mà quán chiếu, trên Hoàn Nguyên Quán, đó là lời được nói trên Kinh Hoa Nghiêm, bài văn chương Hoàn Nguyên Quán đó: là phương pháp tu của Kinh Hoa Nghiêm, văn tự không nhiều, vô cùng vắn tắt, căn cứ theo phương pháp ấy mà tu hành: thì có thể đắc Hoa Nghiêm Tam-muội, sau khi tu thành công, là thế giới Hoa Tạng. Thực sự cần thời gian vô cùng dài, không thuận tiện như thế giới Cực Lạc, vì sao vậy? Bởi không ai gia trì chư vị. Thế giới Cực Lạc: hoàn toàn cần nương nhờ A Di Đà Phật, đều dựa vào Phật lực, phải biết điều này. Đối với A Di Đà Phật là cảm ân đến vô cùng, thực sự là Ngài đến cứu ta, trừ Ngài ra thì không ai cứu. Đức Thích Ca từ bi, giới thiệu A Di Đà Phật cho chúng ta, chúng ta nhận biết A Di Đà Phật; Mười phương chư Phật Như Lai từ bi, khác miệng đồng âm: cũng giới thiệu thế giới Cực Lạc cho chúng ta, chư Phật Như Lai xưng tán đức Di Đà là: 光中極尊,佛中之王 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quý nhất trong các ánh sáng, là vua trong chư Phật), tán thán đến tận cùng. Đức Phật không có tâm tư lợi, đều là muốn đem điều tốt nhất cho chúng ta, nhưng chư vị không tin, không tin thì mở thêm Pháp môn khác để dẫn dắt chư vị, mở 84 ngàn Pháp môn, mở vô lượng Pháp môn để tiếp dẫn chư vị. Đến lúc nào căn tánh chín muồi rồi, thế nào gọi là căn tánh chín muồi? Là chư vị đối với Tịnh tông, đối với thế giới Cực Lạc có thể tin, có thể phát nguyện, muốn cầu vãng sanh, đó gọi là chúng sanh căn tánh chín muồi, căn tánh chín muồi thì đức Phật chỉ dạy chư vị Pháp môn này. Chư vị xem Hòa thượng Hải Hiền [là] căn tánh chín muồi, Sư phụ ngài thực sự tuyệt vời, điều gì cũng không dạy, chỉ dạy một câu Nam Mô A Di Đà Phật, cứ tiếp tục niệm mãi. Ngài thật thà, nghe lời, vâng lời đã niệm 92 năm không chuyển hướng, chưa từng nghi ngờ, nên ngài thành công rồi, hơn nữa thành công vô cùng nhanh.

          Sư phụ dặn dò ngài, sáng tỏ rồi, không được nói lung tung, không được nói, ngài cũng làm được rồi. Sự biểu pháp ấy: chính là nói với người hiện đại chúng ta, khai ngộ rồi nếu chư vị nói, người khác sẽ bảo chư vị nói lời bịa đặt, lời tà mê hoặc đại chúng, không những không nghe chư vị, mà có thể sẽ còn muốn hại chư vị, còn muốn phán tội, chư vị nói lời tà mê hoặc đại chúng, quấy nhiễu trị an của xã hội, có thể phán tù tội. Vậy nên lão Hòa thượng nói: không thể nói, không nên nói, vô cùng thật thà làm việc bổn phận của chư vị. Bổn phận của lão Hòa thượng Hải Hiền, là làm ruộng, từ nhỏ: ngài chính là lớn lên ở trong đồng ruộng, cho nên đối với trồng trọt, ngài là chuyên gia, tuy ngài chưa từng đi học Nông nghiệp, chỉ học với người lớn, mà không điều gì ngài không biết. Đặc biệt là ở thời đại ấy, trồng trọt tốt, có thể giúp rất nhiều người khổ nạn, không có thức ăn, không có đồ mặc, cứu tế những người ấy, là việc tốt. Đó là thời đại ấy, bất luận đi đến nơi nào, mọi người đều hoan nghênh chư vị, đều yêu mến chư vị, bởi chư vị mang đến cho họ: lợi ích chân thật trước mắt. Cho nên biểu pháp 92 năm của ngài: truyền đạt điều gì? Loại phương tiện khéo léo ấy, [dùng] tâm tỉ mỉ để quan sát, để học tập, thì lợi ích vô lượng vô biên, Hiền công có đắc được biện tài của Phật hay không? Có; Có trụ hạnh Phổ Hiền hay không? Có. Thỉnh thoảng lộ một chút, mọi người cũng không nghi ngờ, chư vị hỏi nhiều thì ngài chỉ cười, cười mà không đáp. Cho nên tài năng khéo léo tuyên nói pháp nghĩa, lão Hòa thượng có thiện xảo, thực sự, hơn nữa dùng thân thể, cử chỉ, động tác, thị hiện từ những nơi ấy, phải biết xem, biết nghe.

          此則《淨影疏》所謂,言能辯了 “Thử tắc Tịnh Ảnh Sớ sở vị, ngôn năng biện liễu” (Đây là Tịnh Ảnh Sớ đã nói, có thể biện liễu ngôn từ), biện là có thể nói, liễu là hiểu rõ, có thể hiểu rõ được ngôn từ , 語能才巧 “ngữ năng tài xảo” (có thể tài khéo ngôn ngữ), ‘ngôn’ là một chữ, ‘ngữ’ là một câu nói, nói được vô cùng thỏa đáng, đơn giản sáng tỏ. 又《嘉祥法華疏》曰:速疾應機名辯,言含文采曰才 “Hựu Gia Tường Pháp Hoa Sớ viết: tốc tật ứng cơ danh biện, ngôn hàm văn thái viết tài” (Thêm nữa Gia Tường Pháp Hoa Sớ nói rằng: mau chóng ứng cơ gọi là biện, lời nói hàm chứa văn chương gọi là tài). Về biện, chúng ta hiện nay gọi là phản ứng, hiện nay thông thường nói là phản ứng rất nhanh, đó là ý nghĩa của biện. Lời nói có thể ứng cơ, nhanh chóng ứng cơ, rất nhanh có thể ứng cơ, đó gọi là biện tài. Trong Hội Sớ nói: 言音開惑 “Ngôn âm khai hoặc” (Âm thanh của lời nói khai hoặc), khai là khai thị, hoặc là mê hoặc, vừa nghe liền đã sáng tỏ, giác ngộ rồi, đó là ý nghĩa của biện, 隨機巧妙為才 “tùy cơ xảo diệu vi tài” (tùy cơ khéo léo là tài). Cho nên lời nói không có nguyên tắc nhất định, hoàn toàn hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức, 無不皆出於聖智 “vô bất giai xuất ư Thánh trí” (chẳng gì không phải đều hiện ra từ Thánh trí). 三疏之中,此說為上 “Tam sớ chi trung, thử thuyết vi thượng” (Ở trong ba sớ, thuyết này là hay nhất), thuyết ấy là Hội Sớ, cách nói của Tịnh Ảnh Sớ, Gia Tường Sớ: không nói được hay như Hội Sớ, Hội Sớ là do Tổ sư của Tịnh tông Nhật Bản nói. Đó là giải thích ý nghĩa: của hai chữ 辯才 “biện tài”.

          Tiếp theo lại trích dẫn Tịnh Ảnh Sớ: 謂如來得四無礙智。如來由無礙之智,興無礙之四辯 “Vị Như Lai đắc Tứ vô Ngại trí. Như Lai do vô ngại chi trí, hưng vô ngại chi Tứ biện” (Nói rằng Như Lai đắc Tứ vô Ngại trí. Bởi Như Lai thuận theo Trí vô ngại, mà khởi sự Tứ biện vô ngại). Đây là danh từ Phật học, Tứ biện, Tứ vô Ngại trí, đều tra được ở Tự điển Phật pháp. Rất khó được, Niệm lão trích dẫn Tứ vô ngại biện ở đây. Thứ nhất là: 義無礙辯 “Nghĩa vô Ngại biện”, ‘nghĩa’ là nghĩa lý. 謂了知一切諸法義理,通達無滯 “Vị liễu tri nhất thiết chư pháp nghĩa lý, thông đạt vô trệ” (Là liễu tri nghĩa lý của tất cả các pháp, thông đạt không trở ngại), liễu là hiểu rõ, tri là giác biết, tất cả các pháp, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, đều thông đạt sáng tỏ nghĩa lý. Vậy thì chúng ta liền hiểu được, chúng ta thoạt nhìn, có người nói không làm được điều ấy, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian: đều có thể thông đạt hiểu rõ. Nhà Khoa học ngày nay, trên thế giới này đều cho rằng: đó là người thông minh nhất, có thể đem bí mật sâu xa của vũ trụ, họ có thể khai thác ra. Những nhà Cơ học lượng tử hiện nay: đều được gọi là người thông minh bậc nhất của thế gian, họ phát hiện vấn đề từ Toán học cao sâu, sau đó dùng thêm kỹ thuật của Khoa học: để giải đáp, để chứng thực. Cho nên đầu tiên của Khoa học là cần nghi ngờ, không nghi ngờ thì không thể khai thác vấn đề. Nhà Khoa học đề xuất câu hỏi, vật chất rốt cuộc là thứ gì? Đó là nghi ngờ, vật chất rốt cuộc là gì? Sau đó lại đi khai thác chúng, dùng thiết bị Khoa học để quan sát, để chứng minh. Suốt 400 năm, vấn đề ấy: đời sau tiếp nối đời trước để lần theo dấu vết nghiên cứu, đến 20 năm gần đây: mới làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều ấy, sau khi sáng tỏ, kết luận nói với chúng ta là gì? Vật chất là giả, không phải thật. Nói lời thật, ở trên thế giới này: chắc chắn không có sự tồn tại của vật chất. Vật chất là gì? Vật chất là ảo tướng sinh ra từ sóng của ý niệm. Tương ưng cùng Phật pháp rồi, Phật pháp nói sắc do tâm sanh, tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm, toàn bộ đều chứng minh rồi. Họ phí sức lực lớn như thế, đời sau nối đời trước, đã làm 400 năm mới làm rõ ràng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ 3000 năm trước, đã giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ rồi, còn nói được rõ ràng hơn họ, nên nhà Khoa học bội phục kinh Phật Đại thừa.

          Làm sao đức Phật biết được? Đức Phật không dùng phương pháp Khoa học, không dùng Toán học, cũng không dùng bất kỳ thiết bị nào, đức Phật dùng Thiền định, nội công. Chỉ có dụng công hướng vào trong, không cần hướng ngoại, hướng ngoại chính là Khoa học, chính là Triết học, hướng nội đó là Phật học, Thần học, đều hướng nội. Hướng nội quan trọng nhất là lòng tin, nhất định không cho phép nghi ngờ, hướng nội là tìm Tự Tánh, đức Phật dạy học cùng với Văn hóa Truyền thống Trung Hoa, mục đích là gì? Minh tâm Kiến tánh. Câu đầu tiên trong sách Đại Học: 大學之道,在明明德 “Đại học chi đạo, tại minh minh đức” (Đạo của Đại học, là làm sáng tỏ Đức sáng), câu thứ nhất đã nói ra tông chỉ rồi, đạo học của Đại học là gì? Là làm sáng tỏ Đức sáng. Minh đức là danh từ, chính là Bổn Tánh, Chân Tâm, Pháp Tánh, danh từ của Phật giáo rất nhiều, người xưa của Trung Hoa nói ‘Minh đức’. Đức sáng hiện nay không sáng nữa, chúng ta mê rồi, chúng ta phải học, học thế nào để tìm trở về đức sáng của mình, cho nên làm sáng tỏ Đức sáng, chữ ‘minh’ phía trước là động từ. Chỉ cần minh đức rồi, là Minh tâm Kiến tánh, thì gần gũi dân chúng, dừng nơi Chí thiện: đó là việc tự nhiên, pháp vốn như vậy. “Thân dân” là gì? Chính là đại từ đại bi mà nhà Phật giảng. Dùng tâm đại từ bi, Vô duyên đại từ, Đồng thể đại bi đối đãi nhân dân, đó chính là Phật Bồ-tát, Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chư vị đều dừng nơi thiện tột cùng, là phương tiện khéo léo đã nói trên Kinh Phật. Cho nên Phật giáo truyền đến Trung Hoa, là đã nâng cao Văn hóa vốn có của nước ta.

          Minh đức là thể, bản thể của Tự Tánh, trong đó vốn là đầy đủ: vô lượng trí huệ đức tướng, ‘thân dân’ cùng với dừng nơi chí thiện ở phía sau, đó là dụng, từ thể khởi dụng, ‘chí thiện’, là Vô ngại biện tài nói ở nơi đây. Cho nên các ngài biết rõ nghĩa lý của tất cả các pháp, vậy chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cho nên Trung Hoa dạy học nói cầu ngộ, rất ít người Triệt ngộ, nhưng đã không ít người Đại ngộ, Đại ngộ thì rất hữu hiệu rồi. Tiểu ngộ, chưa Đại ngộ, chỉ Tiểu ngộ, Tiểu ngộ có thể nói, chính mình ngay trong đời này: sống được vô cùng hạnh phúc, tự tại, nhất định đạt được, Tự lợi viên mãn, mà Lợi tha còn chút chưa làm được, nhưng Tự lợi là viên mãn. Họ sẽ viên mãn thế nào? Họ đã nhìn thấu, họ buông xuống rồi. Giống như Sơ quả Tu-đà-hoàn, Sơ tín vị Bồ-tát của Đại thừa, được nói trong Phật pháp, các ngài đã buông xuống thân tâm thế giới rồi, đã phá Thân kiến, buông ngã xuống rồi; Đã phá Biên kiến, hết thảy tất cả đối lập: đều không còn nữa, không còn tồn tại, toàn bộ vũ trụ là một thể với chính mình, các ngài có khái niệm ấy. Nên đời sống của các ngài rất hạnh phúc, rất tự tại, chúng ta thường nói là nhìn thấu được, buông xuống được, các ngài sẽ không tự tìm phiền não, nên được thọ dụng chân thật.

          Cho nên người Trung Hoa đều muốn đọc sách, vì sao vậy? Bởi loại thanh tịnh, hạnh phúc, tự tại, mỗi người đều muốn đạt được. Điều ấy không phân chia giàu nghèo sang hèn, thảy đều có thể đạt được. Sau khi đạt được, thì trong mạng chư vị [có] giàu sang, chư vị sẽ an với giàu sang, trong mạng nghèo thì họ cũng an với nghèo. An này rất quan trọng, an phận giữ mình. Tâm thanh tịnh hiện ra, thì ngay trong cuộc sống thường ngày, họ không có trí huệ lớn cũng có trí huệ nhỏ, nói cách khác, họ không tạo nghiệp, họ hiểu được tích công lũy đức, họ biết đoạn ác tu thiện. Ngạn ngữ có nói rằng: đời trước tu không tốt, ta đã biết, thì chăm chỉ tu đời này, thì đời sau sẽ tốt thôi. Người không phải một đời, quá khứ không bắt đầu, vị lai không kết thúc, họ sáng tỏ đạo lý ấy. Nhân quả báo ứng tơ hào không sai, tuyệt đối không thể nói không có nhân, mà họ đạt được quả báo giàu sang, không có đạo lý ấy. Sáng tỏ đạo lý ấy, thì tu nhân của chính mình, mệnh của chính mình không tốt có thể sửa. Giống như Tiên sinh Liễu Phàm, mệnh của ông là không ra gì, nhưng gặp được Thiền sư Vân Cốc, dạy ông đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, vận mệnh đã sửa rồi, thọ mạng cũng đã kéo dài. Ông không cầu trường thọ, thọ mạng trong mệnh của ông là 53 tuổi, mà 74 tuổi ông mới đi, kéo dài 20 năm. Trong mạng không có con trai, mà được con trai ngoan, đời thứ ba tốt, con trai ông sanh ra sáu người con, cho nên lập tức liền đã biến thành gia đình lớn, rất náo nhiệt. Cả đời của chính ông, làm quan lớn ra sao? Là một Tri huyện, là Huyện trưởng, huyện rất nhỏ của Tứ Xuyên, ông làm Huyện trưởng ở đó. Không có công danh, công danh giống như Học vị hiện nay vậy, ông chỉ có Tú tài, không có Cử nhân, không có Tiến sĩ, là do trong mạng không có. Đoạn ác tu thiện cầu công danh, kết quả thi đỗ Cử nhân, thi đỗ Tiến sĩ, đều không có trong mạng. Không có con, mà có con rồi, thế hệ cháu thì có sáu người. Ông làm quan, làm Tri huyện của Bảo Trì, Bảo Trì thuộc vùng do Hoàng thượng quản trực tiếp, nên địa vị ấy cao rồi, giống như Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương ngày nay. Đây đều là nói rõ: người thực sự sáng tỏ đạo lý, hễ mê chỉ cần đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức thì được rồi, sau đó xem hồi hướng của chư vị, xem nguyện vọng của chư vị, chư vị muốn làm nghề nào, thì nhất định rất thuận lợi. Chư vị không tu công đức, thiện căn phước đức nhân duyên giảng trong Phật pháp: nếu chư vị không tu tích, thì làm sự việc gì cũng không làm thành, việc tốt không làm thành, việc xấu cũng không làm thành. Việc xấu cũng là do đời trước tu, đời trước không tu, thì trong mạng chư vị không có. Ví như làm quan tham ô, của cải mà chư vị tham được là do trong mạng chư vị có, nếu vượt qua, vượt qua sẽ xảy ra vấn đề, tai họa liền đến rồi. Trong mạng của chư vị có bao nhiêu của cải, người xưa tin điều này, hiện nay không tin, hiện nay cho rằng đều là bản lãnh của ta, không tin nhân quả, không tin tích đức, cho rằng công danh đó là do tranh được, cạnh tranh, đấu tranh, là như vậy mà được. Cạnh tranh, đấu tranh vẫn là có trong mạng, trong mạng không có, chư vị đấu không lại người khác, chư vị tranh không vượt qua người khác. Đó là chân tướng sự thật, chân tướng sự thật của thế gian.

          Nghĩa vô Ngại biện nhất định là Minh tâm Kiến tánh, các ngài hoàn toàn đều đã hiểu rõ tất cả các pháp, vì sao vậy? Bởi thấy Tánh rồi. Tất cả pháp không rời khỏi Tự Tánh, tất cả pháp đều được sanh được hiện từ Tự Tánh, chư vị đã thấy Tánh, thì không thể không biết về tất cả pháp, Tánh tướng, sự lý, nhân quả của tất cả pháp: đều đã thông đạt. Hòa thượng Hải Hiền là: do Sư phụ dặn dò không được nói, nếu Sư phụ nói với ngài là: sáng tỏ rồi thì có thể nói, vậy ngài sẽ là Đại sư thực sự của thời đại, ngài thuyết pháp giống như đức Phật thuyết, ngài không có chướng ngại. Giống như Đại sư Huệ Năng vậy, bất luận là kinh luận nào, chư vị thỉnh giáo với ngài, ngài đều giảng cho chư vị nghe, chư vị niệm cho ngài nghe, ngài giảng cho chư vị nghe. Đây là chúng ta hiểu được hoàn cảnh khác nhau, lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế ấy, hoàn cảnh của Ấn Độ: cho phép Ngài dùng thân Phật để xuất hiện ở thế gian. Đại sư Huệ Năng xuất hiện ở triều nhà Đường lúc thịnh thế, sau khi Ngũ tổ ấn chứng cho ngài, hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, ngài không có địa vị, không có bối cảnh, cho nên Ngũ tổ Hòa thượng Hoằng Nhẫn bảo ngài đi lánh nạn. Ngài đến trong nhóm thợ săn, ở trong ấy ẩn thân 15 năm, thay thợ săn trông coi thú săn, phục vụ cho thợ săn. 15 năm, mọi người dần dần quên lãng sự việc ấy rồi, ngài mới đi ra, [giúp] hưng vượng lại Thiền tông, là thời Tượng pháp của đức Thế Tôn, nối Huệ mạng của Phật. Hiện nay chúng ta cách Đại sư Huệ Năng: hơn 1000 năm, quan niệm của người trong xã hội hiện nay: hoàn toàn đã khác với trước kia, trước đây có cơ sở, biết bao người đều có giáo dục cắm gốc, có giáo dục luân lý đạo đức nhân quả Thánh Hiền, hiện nay đều không còn nữa, nếu muốn hưng vượng lên lại, thì chư vị biết rất khó khăn. Dùng điều gì để hưng khởi được? Nhất định phải được Tổ tông phù hộ, Tam Bảo gia trì. Làm sao có thể đạt được? Thật tu thật làm. Giả thì có thể lừa người, nhưng không gạt được quỷ thần, không gạt được Phật Bồ-tát, Đạo lý ấy: nhất định phải rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Phát tâm Bồ-đề thực sự, chính là Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Chánh giác, Từ bi, đó là tâm Bồ-đề. Lấy chân thành để xử việc đối người tiếp vật, người khác lừa gạt tôi không để trong tâm, tôi không lừa gạt người, chư vị mới có thể cảm hóa người khác, mới có thể kiến lập Đạo tràng. Đạo tràng không phải hình thức, mà là đức hạnh của chính mình, là trí huệ của chính mình, là biện tài của chính mình.

          Thứ nhất: nghĩa lý, đó là gốc của Vô ngại Biện tài. Thứ hai: 法無礙辯。謂達一切諸法名字,分別無滯 “Pháp vô Ngại biện: vị đạt nhất thiết chư pháp danh tự, phân biệt vô trệ” (Pháp vô Ngại biện: là thông suốt tên gọi của tất cả các pháp, phân biệt không trở ngại). Vậy nếu là đọc sách, người Triệt ngộ đều thông hết, đạt được một loại thì đạt được cả bốn loại. Không dễ dàng Triệt ngộ. Tiểu ngộ, Đại ngộ thì cần phải đọc tụng, học rộng nghe nhiều. Học rộng nghe nhiều có nguyên tắc, người xưa nói được rất hay, không thể tự độ mà muốn độ người, thì vô hữu thị xứ, [tức là] không có đạo lý ấy. Cho nên nhất định cầu tự độ trước, có năng lực tự độ: thì có phương tiện khéo léo độ người. Tự độ cần thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đi con đường Giới Định Huệ này, con đường này là con đường mà tất cả chư Phật: trong mười phương ba đời cùng đi chung, không có ngoại lệ nào. Chúng ta phải ghi nhớ, đi đường cũ, đường người trước từng đi, thì sẽ không có sai lầm; Không đi đường của người trước, tự mình mở một con đường mới, không biết đã đi đến đâu nữa, đó chính là đặc biệt sai lầm rồi. Nói về Tịnh Độ tông, thực sự niệm đến chính mình có nắm chắc vãng sanh, chư vị lại độ hóa chúng sanh thì yên tâm, vì sao vậy? Bởi tôi có nơi đến của tôi rồi, cảnh giới bên ngoài sẽ không chướng ngại tôi nữa.

          Trong Kinh Hoa Nghiêm, Quốc sư Hiền Thủ dạy chúng ta Ngũ chỉ Lục quán, đó chính là Giới. Điều đầu tiên trong Ngũ chỉ là lìa duyên. Cảnh giới là duyên, không thể phan duyên; tùy duyên không phan duyên, phan duyên là đã lập nên duyên ấy rồi, thứ ấy là quả báo của sáu đường luân hồi, thiện duyên sanh ba đường thiện; ác duyên sanh ba đường ác. Cần lìa duyên, thì không bị cảnh giới ảnh hưởng, nếu bị cảnh giới ảnh hưởng thì mau chóng ra đi. Thứ hai là Tuyệt dục, tuyệt là đoạn tuyệt, dục chính là Ngũ dục, tài sắc danh ăn ngủ, Phải đoạn dứt Thất tình Ngũ dục. Thứ ba là, dùng lời hiện tại để nói, lão Hòa thượng Hải Hiền thường nói tự nhiên đúng là tốt, đừng tìm cầu thứ gì cảm ứng hiếm lạ, lìa khỏi thật xa, tất cả đều là tự nhiên thì tốt, pháp vốn như vậy. Thứ tư là Vô niệm. Thứ năm là chẳng phải tướng, biết những gì có tướng đều là hư vọng. Về Vô niệm, trong tâm người niệm Phật: chỉ có một niệm A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra: thì không có ý niệm nào cả. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chư vị nhìn thấy, nghe thấy: đều không cần đặt ở trong tâm, thì tâm của chư vị không bị ô nhiễm, tâm của chư vị không có chướng ngại, tâm của chư vị thanh tịnh, tâm của chư vị bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng liền chiếu kiến, đó là cảnh giới giống như Phật Bồ-tát, chiếu kiến. Hiện nay chúng ta không phải chiếu kiến, hiện nay chúng ta bị dính rồi, mắt thấy sắc, mắt dính vào sắc rồi, tâm liền bị ô nhiễm; Tai nghe tiếng, bị dính vào âm thanh rồi. Sáu căn không thoát khỏi sáu trần, bị sáu trần làm ô nhiễm, bị sáu trần chướng ngại, đời đời kiếp kiếp làm sáu đường luân hồi, sức mạnh của thiện nghiệp lớn, thì thọ báo ở ba đường thiện; sức mạnh của ác lớn, thì thọ báo ở ba đường ác, cứ làm việc ấy. Cho nên Ngũ chỉ này là Giới.

          Lục quán là cách nhìn, đức Phật nhìn thế giới này thế nào, Bồ-tát nhìn thế giới này thế nào. Bồ-tát nhìn thế giới này, vạn pháp đều không, Chân không quán, quán ấy quan trọng hơn bất kỳ điều gì, quán ấy có thể thấy Tánh. Chân không chẳng không, gặp được duyên thì hiện tướng, hiện điều gì? Hiện vạn hữu, có thể sanh ra vạn pháp, vạn pháp là diệu hữu. Diệu hữu là thế nào? Có mà chẳng có, không phải là thật. Trong diệu hữu bao gồm Phật pháp, Phật pháp cũng là tướng, Phật pháp cũng là diệu hữu, cho nên Phật dạy chúng ta, chúng ta dùng Phật pháp, trên tâm đừng bị Phật pháp làm ô nhiễm, nếu chư vị có Chấp trước, thì Phật pháp ô nhiễm chư vị; Nếu chư vị có Phân biệt, thì Phật pháp sẽ chướng ngại chư vị. Cho nên Bồ-tát Mã Minh: trong Luận Khởi Tín dạy chúng ta rằng: cần học Phật như thế nào? Đừng chấp trước tướng Ngôn thuyết, xem kinh văn đừng chấp trước tướng Văn tự. Chữ viết là ký hiệu của ngôn ngữ, nếu chúng ta dùng, thì không bị hại, nhưng Chấp trước thì đã bị hại, Phân biệt cũng bị hại rồi, phải dùng tâm bình thường để đối đãi, “bình” là tâm bình đẳng, “thường” là tâm thanh tịnh, để học Phật. Đừng chấp trước tướng Danh tự, danh tự là Phật vì phương tiện dạy học: mà giả lập ra, chính là như Lão tử đã nói: 名可名,非常名 “Danh khả danh, phi thường danh” (Tên [mà] có thể gọi là tên, thì không phải là tên thường), danh tự không phải thật, là do người đặt tên cho chúng. Không chấp trước tướng Tâm duyên, Tâm duyên, sau khi chư vị đã nghe, sau khi chư vị đã đọc, nghĩ đến điều ấy có ý nghĩa gì, điều đó không có ý nghĩa. Chúng ta đều có khuyết điểm, đọc xong sẽ nghĩ đến ý nghĩa, không phải ý nghĩa của điều ấy, là ý nghĩa của chúng ta, đã bị dẫn dắt rồi, vậy thì là phàm phu. Trong tâm Phật Bồ-tát là không, như như bất động, dẫn thế nào cũng dẫn không ra. Chúng ta thì người khác vừa lôi kéo, chư vị thấy hoan hỉ, lập tức liền cười rồi; Không vui mừng, thì khí sắc trên mặt lại nổi lên lo lắng rồi. Đây là gì? Đây là chư vị chuyển theo cảnh giới bên ngoài, đều không thể được. Cho nên đọc kinh, mục đích của đọc kinh ở đâu? Là đọc cho mất Vọng tưởng. Không đọc kinh thì Vọng tưởng; Đọc kinh, tâm chuyên chú ở trên kinh văn, thì Vọng tưởng dần dần đã rời khỏi, dụng ý ở chỗ này, chúng ta đi nghiên cứu ý nghĩa ở trong kinh: thì không phải lại nghĩ Vọng tưởng rồi sao? Cho nên Phật nói với chúng ta: kinh không có ý nghĩa, nếu chư vị dùng lời ấy, thì kinh có vô lượng nghĩa. Vậy thì chúng ta hiểu rõ, chư vị xem một bộ kinh từ xưa đến nay, mà người xưa làm chú giải, đại khái chú giải của Kinh Kim Cang là nhiều nhất, có mấy trăm loại chú giải, đó chính là mấy trăm loại ý nghĩa. Chúng ta đều có thể tham khảo, nhưng đều không thể chấp trước, chấp trước thì đã mắc lừa, liền sai rồi.

          Ba phương pháp trong Khởi Tín Luận tuyệt diệu, lìa tướng Ngôn thuyết, bao gồm lìa tướng Văn tự; Lìa tướng Danh tự, danh từ thuật ngữ; Lìa tướng Tâm duyên, chỉ cần đọc thôi, căn bản không cần nghĩ là có ý nghĩa gì. Có lúc ý nghĩa là chính mình nghĩ ra, vậy thì có thể, đó là cảm ứng, cũng không cần ghi ý đó xuống, không cần. Tâm càng thanh tịnh, thì hiện tượng ấy càng nhiều, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, kinh Phật sẽ dẫn phát trí huệ của chư vị ra. Phàm phu sáu đường, sẽ dẫn phiền não của chư vị ra. Có thể thấy được, cùng đọc một bộ sách, một bộ luận giống nhau, nhưng cảm thụ của mỗi người khác nhau, đây là thật không phải giả, tùy theo trình độ tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của chư vị mà phản ứng khác nhau. Kinh có vô lượng nghĩa, cho nên càng đọc càng hoan hỉ, ngày ngày có chỗ ngộ, ngày ngày xem thấy khác nhau, như vậy chư vị mới sẽ đối với kinh điển: bội phục đến năm vóc sát đất. [Điều mà] sách vở thế gian không làm được, thì Phật pháp có thể làm được, kinh điển Đại Tiểu thừa đều là như vậy, vi diệu không thể nói. Cho nên Pháp vô ngại.

          Thứ ba là: 辭無礙辯 “Từ vô ngại biện”, ‘từ’ là ngôn từ, 於諸法名字義理,隨順一切眾生殊方異語,為其演說,能令各各得解故 “ư chư pháp danh tự nghĩa lý, tùy thuận nhất thiết chúng sanh thù phương dị ngữ, vị kỳ diễn thuyết, năng linh các các đắc giải cố” (với tên gọi nghĩa lý của các pháp, tùy thuận theo nơi chốn ngôn ngữ khác biệt của tất cả chúng sanh, mà diễn nói cho họ, nên có thể khiến mỗi mỗi đều hiểu được). Trong giảng đường Phật pháp, diễn giảng như vậy, ngày trước thầy Lý thường nói gọi đó là Đại giảng đường. Chữ “đại” ở đây là ý nghĩa gì? Khác với trường học thông thường, thính chúng của giảng đường trường học, trình độ của học trò ngang nhau, giảng đường Tiểu học, giảng đường Trung học, Đại học, là đồng đều, chư vị dễ giảng. Đại giảng đường là gì? Trình độ của thính chúng trong ấy không ngang nhau, có Tiểu học, có Trung học, có Đại học, chư vị cần giảng đến người nào cũng nghe hiểu, người nào cũng hoan hỉ, đó thật là không phải việc dễ dàng. Với Tiểu học cần nói cạn, với những người thực sự đang công phu phải nói sâu, cho nên sâu cạn phối hợp được vô cùng khéo léo, chỗ sâu có cạn, chỗ cạn có sâu, vậy thì không dễ dàng, Cao tăng Đại đức Phật môn đều có khuôn khổ ấy. Có phải do các ngài học được không? Không phải, học không được, học chỉ có thể học một một phạm vi, không thể học đến khéo léo vi diệu, khéo léo vi diệu là Tánh đức của chư vị, Tánh đức là do tâm chân thành lưu xuất ra, chân thành cảm ứng với Tánh đức; Không có chân thành, thì không cảm ứng với Tánh đức, mà cảm ứng với A-lại-da. Đây là như Phật pháp nói về: tán thán Như Lai thuyết pháp, có thể khiến mỗi một chúng sanh đều lý giải được, đều có thể sanh tâm hoan hỉ, đều đắc được thọ dụng chân thật, chúng ta giảng là cảm ứng của tâm linh.

          Thứ tư là: 樂說 “Nhạo thuyết”, ‘nhạo’ là ưa thích, yêu chuộng, ưa thích vì người diễn nói. Diễn là biểu diễn, làm ra cho người xem, đó là diễn. Sau khi họ xem xong, họ có nghi vấn đến thỉnh giáo với chư vị, chư vị mới đem ra giảng rất rõ ràng, rất sáng tỏ, khiến họ thực sự nghe hiểu rồi, họ đã có cảm nhận, thì họ muốn học rồi, đó gọi là “nhạo thuyết”. 謂隨順一切眾生根性所樂聞法而為說之,圓融無滯 “Vị tùy thuận nhất thiết chúng sanh căn tánh sở nhạo văn pháp nhi vị thuyết chi, viên dung vô trệ” (Là tùy thuận theo căn tánh yêu thích nghe pháp của tất cả chúng sanh mà nói cho họ, viên dung không ngăn ngại). Căn Tánh khác nhau, thuyết pháp thực sự không phải là việc dễ dàng. Chúng tôi đã giảng cả đời, trước nay không dám nói vì người diễn nói, không dám. Là tâm thái thế nào? Tâm thái làm học trò, thính chúng phía dưới đều là Giám học của tôi, đều là thầy của tôi, tôi ở đây làm báo cáo tâm đắc học tập, giữ loại tâm thái ấy. Vì sao vậy? Bởi chiếu theo tiêu chuẩn của người xưa, ngày nay chúng tôi không lên nổi Giảng đài, Tiêu chuẩn của người xưa: là phải Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, chư vị mới có thể lên tòa giảng kinh, chư vị mới có thể trước tác kinh luận, đó đều là điều chúng ta không làm được. Tôi ở Đài Trung học Phật với thầy Lý, nghe thầy giảng kinh, trước nay chưa có ý niệm, tôi muốn lên Giảng đài. Tôi từ Am tranh của Pháp sư Sám Vân ở Phố Lý, sau khi rời khỏi đến Đài Trung thân cận thầy, thầy đã thu nhận và giúp đỡ. Vừa đúng lúc Liên xã Đài Trung: thành lập một lớp Kinh học, bồi dưỡng nhân tài giảng kinh hoằng pháp, mở lớp dạy học mới một tháng. Lớp ở Đài Trung, một tuần học một lần, trong ba giờ, mỗi tuần học một buổi, cho nên một tháng: đại khái tôi là chưa được nghe bốn buổi, bốn buổi phía trước. Lúc buổi thứ năm, thầy liền bảo tôi đi xem thử, tôi không dám, thầy nói con đi thử xem, tôi nói vâng, [rồi] tôi đi xem cùng thầy. Lúc lên lớp tôi ngồi ở hàng sau cùng, tôi thấy thầy dạy học. Tôi nhìn thấy một bà lão, là lão Cư sĩ Lâm Khán Trị, tôi nhớ rằng năm ấy tôi 31 tuổi, Cư sĩ Lâm Khán Trị đại khái ngoài 60, cháu gái của bà đều đang làm giáo viên ở Tiểu học. Bà Lâm Khán Trị hơn 60 tuổi, là lớn tuổi nhất trong số đồng học chúng tôi, trình độ là tốt nghiệp Tiểu học, tôi nhìn thấy tình hình của bà, lòng can đảm của tôi liền lớn lên rồi, lại quan sát tiếp, ngay trong đồng học hơn một nửa đều tốt nghiệp Tiểu học, có vài vị tốt nghiệp Trung học, không nhiều, không có ai tốt nghiệp Đại học, chỉ có Cư sĩ Chu Phi, ông từng học Đại học, học được một năm thì đã thôi học, lớp Kinh học của thầy Lý, trình độ chính là trình độ như vậy.

          Phương pháp dùng là phương pháp rất không linh hoạt, chính là giảng lại, thầy giảng thế nào, chư vị lên đài thì y theo dáng vẻ của thầy mà giảng, không cho phép tăng thêm, không cho phép chèn vào ý nghĩ của chính mình, bỏ sót thì không sao, nhưng không thể tăng thêm, tốt nhất là có thể làm đến không tăng không giảm, dùng phương pháp ấy. Thầy nói với tôi, phương pháp ấy là từ xưa đến nay: do bao đời thế hệ truyền tiếp. Thời xưa không có mở lớp dạy học, làm sao bồi dưỡng ra Pháp sư giảng kinh? Là nghe kinh, giảng lại. Pháp sư học giảng kinh, đều ngồi ở ngay giữa hàng thứ nhất của Giảng đường, đối diện với thầy. Chư vị nghe một buổi kinh, đến ngày hôm sau, chư vị đem buổi giảng: trong một tiếng ấy của thầy, giảng ra giống y hệt thầy. Huân tu thời gian lâu thì được rồi, họ liền có thể lên đài giảng. Phương thức phúc giảng như vậy, trong tâm chúng ta rất thật thà, sẽ không giảng sai kinh, sai là gì? Là thầy giảng sai, thầy chịu trách nhiệm, chúng ta không chịu trách nhiệm; chúng ta không căn cứ theo phương pháp của thầy để giảng, giảng sai rồi thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm. Phương pháp rất không linh hoạt, nhưng hiệu quả vô cùng rõ ràng. Tôi ở lớp ấy tôi là học trò dự thính, bởi vì tôi đến sau cùng, thứ tự sắp xếp là theo trước sau, nên tên của tôi ở sau cùng, lúc mà xếp đến tôi: đại khái phải đợi hai năm, sau hai, ba năm mới xếp đến tôi, cho nên tôi là học trò dự thính. Ưu điểm của tôi là sức ghi nhớ tốt, tôi nghe thầy giảng một lần, nội trong một tuần, tôi lên đài giảng có thể giảng đến chín phần, sẽ không thấp hơn chín phần. Đó là vốn quý thuận lợi của học giảng kinh, sức ghi nhớ tốt, sức lí giải tốt, điều thầy giảng tôi đều có thể nghe hiểu. Thầy gọi học trò, bảo họ lên đài giảng kinh, một lần là hai người, trên thực tế hai người đều là giảng lại, trên bề ngoài thì thấy một người giảng Quốc ngữ, một người giảng tiếng Đài, giống như có phiên dịch, kỳ thực bản thảo của họ: là hoàn toàn giống nhau. Tôi ở trên lớp tôi có điểm mạnh ấy, chính là sức ghi nhớ tốt, sức lý giải tốt, thầy dạy một, tôi ở bên cạnh đều đã học hiểu, tôi lên đài chắc chắn giảng hay hơn họ, tín tâm đầy đủ.

          Trước khi chưa xuất gia, 15 tháng tôi đã học 13 bộ kinh, 13 bộ kinh tôi đều có thể giảng, hơn nữa đều giảng được rất hay. Cho nên tôi vừa xuất gia liền dạy ở Phật học viện, Pháp sư Bạch Thánh, ngài ở chùa Thập Phổ: đã mở Học viện Tam Tạng, tôi dạy một môn ở đấy. 13 bộ kinh mà tôi học ở Đài Trung, ở trong Học viện Tam Tạng, một học kì chỉ có thể dạy một bộ, ba năm họ tốt nghiệp, sáu học kì tôi đã dạy sáu bộ kinh, vẫn còn bảy bộ chưa dùng đến. Trong tâm này của tôi đối với Phật học viện: thì thực sự rất xúc động, tôi ở Đài Trung một tháng học một bộ, chư vị xem 15 tháng: tôi học 13 bộ như vậy, ở Phật học viện: ba năm, sáu năm đều không học được. Cho nên Pháp sư Tinh Vân mời tôi đến dạy học, Phật Quang Sơn vừa mới sáng lập, đã mở một Học viện Đông Phương Phật giáo, mời tôi đến làm giáo vụ chủ nhiệm, tôi đã ở đó mười tháng, ý kiến không hợp với họ, tôi không tán thành Phật Học viện, tôi nói việc ấy hao tài tốn của, mà không dạy ra. Lúc ấy họ cũng có sáu vị thầy, ba người xuất gia chúng tôi, còn có ba Cư sĩ tại gia, Cư sĩ Đường Nhất Huyền, Cư sĩ Phương Luân, còn có một vị dạy tiếng Phạn, cũng là một vị Cư sĩ tại gia, một vị xuất gia, hai là tôi, [và] Pháp sư Hội Tánh, ba người chúng tôi. Lúc ấy tôi kiến nghị với họ, học trò của họ có hơn 130 người, ba người một nhóm, có thể chia thành: xấp xỉ có 40 tổ như vậy, mỗi nhóm chuyên công một bộ kinh, kì hạn 10 năm, sau mười năm, hơn 40 nhóm nhỏ ấy nếu khấu hao, thì vẫn ra được hơn 20 vị Pháp sư, họ giảng kinh tuyệt đối không kém hơn tôi, mười năm sau, những Pháp sư giảng kinh do Phật Quang Sơn mà ra, thì Phật quang rộng chiếu toàn cầu. Họ không đáp ứng, không thể tiếp nhận, họ nói như vậy không giống trường học. Tôi nói trường học không bồi dưỡng nổi học trò, Tư thục có thể bồi dưỡng học trò. Họ không thể tiếp nhận [ý kiến của] tôi, tôi cũng không bằng lòng tiếp nhận của họ, nên tôi đã rời khỏi. Năm nay, vào hai tháng trước, tôi đã ở Đài Nam mấy ngày, có người bạn nói với tôi, Pháp sư Tinh Vân bây giờ cảm thấy hối hận. Vừa đúng lúc ấy, 44 năm trước, hai chúng tôi bằng tuổi, lúc ấy 44 tuổi, hiện nay 88 tuổi, nghĩ lại 44 năm trước, lúc ấy nếu chúng tôi hợp tác mật thiết, thầy ấy giữ chắc tôi, cả đời tôi dạy học ở Phật Quang Sơn, thì đã bồi dưỡng không ít Pháp sư giảng kinh. Duyên không chín muồi, vô cùng đáng tiếc.

          Duyên phận lần thứ hai thì ở Singapore, chúng tôi mở lớp thực nghiệm ngắn hạn, đã mở năm khóa, mỗi khóa ba tháng, chuyên học một bộ kinh, làm được rất thành công, một khóa chỉ học một bộ kinh, học trò ai nấy đều có thể giảng. Lúc ấy chúng tôi hi vọng: lần này làm thành công, nên chúng tôi có lòng tin, thì chúng ta chính thức thành lập một Phật Học viện. Cũng là duyên không chín muồi, tôi cũng rời khỏi Singapore sang đến bên này. Sang đến bên này rồi tôi khuyên mọi người, chúng tôi lưu truyền rất nhiều đĩa CD, nếu các đồng học mỗi người chuyên học một bộ, thì mười năm nhất định có thành tựu, mười năm ấy đi qua. Vấn đề xảy ra ở đâu? Xảy ra ở tham nhiều nhai không nát, không thể chuyên công, muốn học thứ này, cũng muốn học thứ kia, vậy thì không được. Nhất định phải phát tâm làm chuyên gia, đừng làm thông gia, học ngài Quán Thế Âm thì học Phẩm Phổ Môn, cả đời tôi chỉ chuyên giảng Phẩm Phổ Môn. Trung Quốc Đại Lục có mấy ngàn huyện thị, mỗi huyện thị giảng một lần, giảng một vòng quay lại người đều đã già, hơn 100 tuổi rồi. Người giảng Phẩm Phổ Môn chính là Bồ-tát Quán Thế Âm; người giảng Kinh Di Đà chính là A Di Đà Phật. Giảng kinh ở một nơi đừng vượt hơn một tháng, giảng xong lại đổi sang nơi khác, giảng từng nơi từng nơi một, chính mình chắc chắn vãng sanh Tịnh Độ. Bất luận là thâm nhập một môn với bộ kinh nào, chính mình đều đem quay về Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn, chư vị xem đoạn sau cùng của三輩往生 “Tam bối vãng sanh” (Ba bậc vãng sanh), Đại sư Từ Châu phán là Nhất tâm Tam bối, đó là gì? Là người học Đại thừa, thậm chí với người học Tôn giáo khác cũng được, chỉ cần công phu của chư vị thành phiến, có năng lực này mà hồi hướng: cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì một niệm, mười niệm lúc lâm chung đều được vãng sanh.

          Các đồng học nhất định phải hiểu được, tôi học kinh ở Đài Trung là thâm nhập một môn, cùng lúc học hai bộ kinh là thầy không đồng ý. Tổng cộng hơn 30 bộ kinh nhỏ của tôi, là do tôi nghe thầy giảng, tôi vừa nghe liền hiểu. Thế nhưng chủ tu của tôi là Lăng Nghiêm, thầy giảng một lần, tôi cũng giảng một lần, thứ tư thầy giảng, tối thứ năm tôi giảng lại. Thính chúng của tôi có sáu người, ba năm như một ngày, tôi cắm gốc ở đó, cắm gốc Lăng Nghiêm.
Tôi nghe một quyển Hoa Nghiêm, nghe thầy giảng một quyển, quyển thứ nhất, sau khi nghe xong quyển thứ nhất, sau đó tôi đều có thể giảng tiếp được, cho nên thông một kinh thì thông tất cả kinh. Chuyên quá quan trọng rồi! Lúc tôi học Lăng Nghiêm, ba năm ấy chuyên ở trên Lăng Nghiêm. Không chuyên không được, nhất định phải chuyên.

          Tiếp theo đây nói viên dung không chướng ngại, tiếp tục xem phần sau: 上表諸大士契於聖智 “Thượng biểu chư Đại sĩ khế ư Thánh trí” (Phía trước thể hiện các Đại sĩ khế hợp với Thánh trí), đây là gốc, Thánh trí chính là trí huệ vốn có trong Tự Tánh, 得無礙之辯才,善應根機,廣宣妙辯,故曰:得佛辯才 “đắc vô ngại chi biện tài, thiện ứng căn cơ, quảng tuyên diệu biện, cố viết: đắc Phật biện tài” (được biện tài không ngăn ngại, khéo ứng căn cơ, rộng tuyên diệu biện, nên nói rằng: đắc được biện tài của Phật). Tiếp theo:《甄解》復進一解曰:若依根本教,但說一字,亦為得佛辯才,傳如來如實言故。不但此菩薩爾,凡夫說亦同諸佛辯才,讚揚佛慧功德,開化十方有緣而已 “Chấn Giải phục tiến nhất giải viết: nhược y Căn bổn giáo, đãn thuyết nhất tự, diệc vi đắc Phật biện tài, truyền Như Lai như thật ngôn cố. Bất đãn thử Bồ-tát nhĩ, phàm phu thuyết diệc đồng chư Phật biện tài, tán dương Phật huệ công đức, khai hóa thập phương hữu duyên nhi dĩ” (Sách Chấn Giải lại đề cử một cách giải rằng: nếu y theo Căn bản giáo, thì chỉ nói một chữ, cũng là đắc biện tài của Phật, bởi truyền lời như thật của Như Lai. Không chỉ Bồ-tát ấy như vậy, mà phàm phu nói cũng đồng với biện tài của chư Phật, tán dương công đức trí huệ của Phật, khai thị giáo hóa hạng hữu duyên ở mười phương mà thôi), đoạn trong sách Chấn Giải này: ý nghĩa rất sâu. Bây giờ thời gian đã hết, đúng lúc nói đến đây, nói một chữ cũng có thể được biện tài của Phật, cũng có thể Đại triệt Đại ngộ. Ngài Hải Hiền đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, thực sự là vô cùng khó được, ngài chỉ một câu A Di Đà Phật, chỉ trong một câu Phật hiệu này. Thầy có Pháp nhãn, có Huệ nhãn, nhận biết được người. Người như thế nào là đương cơ? Thật thà, nghe lời, thật làm, dạng người ấy chính là người đương cơ, nếu họ gặp được cao nhân truyền pháp cho họ, chắc chắn không quá mấy năm, họ sẽ thành tựu. Người chưa thành thục thì tâm họ là động, họ thích thú nhiều phương diện, họ không biết đức hạnh căn bản: đã được cắm gốc ở đây, hễ mê muốn học rộng nghe nhiều, vậy thì đã biến thành chướng ngại, không thể không biết đạo lý này.

          Thực sự thâm nhập một môn, thì bộ kinh nhỏ rất dễ dàng, chính mình vừa xem liền hiểu rồi, đó là do tiếp dẫn đại chúng, ưa thích bộ nào thì tôi giảng cho chư vị bộ ấy, có nền tảng của mười mấy, hai mươi bộ, thì bộ nhỏ ấy không có chướng ngại nữa. Nhưng kinh lớn là gốc rễ, nhất định phải hạ công phu trên kinh lớn, sau đó mới có thể thông suốt. Phải giải hạnh tương ưng, học rồi phải đem thực hành trong đời sống, thực hành ở công việc, chính mình thực sự được thọ dụng, thì dạy người người ta mới tin, mọi người sẽ không nghi ngờ, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 109)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0