Responsive Menu
Add more content here...

Tập 160 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Tập 160

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 9 tháng 1 năm 2015.

Dịch giả: Cự Lang.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, Lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt-ma, Ly dục trung tôn; quy y Tăng-già, Chư chúng trung tôn. (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú trang 421, xem bắt đầu từ khoa đề hàng thứ 4: 願攝所依Nguyện Nhiếp Sở Y (Nguyện Nhiếp Những Gì Được Nghe). Chia ba khoa nhỏ, thứ nhất là: 聞睹發願 “Văn Đổ Phát Nguyện” (Thấy Nghe Phát Nguyện). Mời xem Kinh văn:

爾時法藏聞佛所說。皆悉睹見。起發無上殊勝之願。 “Nhĩ thời Pháp Tạng văn Phật sở thuyết, giai tất đổ kiến, khởi phát Vô thượng thù thắng chi nguyện” (Bấy giờ ngài Pháp Tạng nghe lời Phật nói, thảy đều nhìn thấy, khởi phát các nguyện thù thắng Vô thượng).

           “Nguyện” này chính là 48 nguyện. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão: 睹亦見也。《甄解》云:睹則眼見,見則慧見。如見分見 “Đổ diệc kiến dã. Chân Giải vân: đổ tắc nhãn kiến, kiến tắc huệ kiến. Như Kiến phần kiến” (Đổ cũng là thấy. Trong sách Chân Giải nói: đổ là mắt thấy, thấy là thấy bằng trí huệ, như thấy bằng Kiến phần). Tám thức đều có bốn phần: Kiến phần, Tướng phần, Tự chứng phần, Chứng tự Chứng phần, hết thảy có bốn phần này. Kiến này, mắt tiếp xúc với sắc pháp (sắc pháp là hiện tượng vật chất), đó gọi là kiến. Sau khi kiến rồi, nó có推求照察 “suy cầu chiếu sát” (mong tìm soi xét), cũng tức là nói, tốc độ này rất nhanh, nhanh đến mức chúng ta không cách nào tưởng tượng, nó thấy là biết, là hiểu rõ, biết những điều được thấy là gì, đó là Kiến phần kiến. Mắt, Nhãn thức có bốn phần, Ý thức Thứ sáu cũng có bốn phần, Thức thứ bảy cũng có bốn phần, A-lại-da thức cũng có bốn phần. Thể của tám thức là A-lại-da, A-lại-da là sở y của bảy thức trước. Mắt thấy sắc như vậy, tai nghe thanh cũng như vậy, cho đến mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, sẽ có cảm giác, đều là thuộc về Kiến, một chữ có thể thâu hết tất cả các pháp. Trong sách Chân Giải đã nói, Niệm lão ở đây giải thích cho chúng ta: 蓋謂睹指眼見,見指慧見,即如唯識中見分所指之見,以推求與照察為義 “Cái vị Đổ chỉ nhãn kiến, kiến chỉ Huệ kiến, tức như Duy Thức trung Kiến phần sở chỉ chi kiến, dĩ suy cầu dữ quán sát vi nghĩa” (Đại khái nói rằng Đổ chỉ cho mắt thấy, thấy chỉ Huệ kiến, tức như sự thấy được dựa vào Kiến phần trong Duy Thức, dùng ý nghĩa của sự tìm cầu và quán sát). Hiện tại trong Kinh đã nói rằng: “Giai tất đổ kiến”, hai ý nghĩa này đều có hết thảy, đều có đủ.   

          當爾所時 “Đương nhĩ sở thời” (Vào thuở lúc ấy), lúc bấy giờ, 法藏比丘於世間自在王佛所現二百一十億佛土,盡皆目睹心明 “Pháp Tạng Tỳ-kheo ư Thế Gian Tự Tại Vương Phật sở hiện nhị bá nhất thập ức Phật độ, tận giai mục đổ tâm minh” (Tỳ-kheo Pháp Tạng đối với 210 ức cõi Phật được hiện ra bởi Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tất cả đều mắt thấy tâm biết). 210 ức phần trước đã nói qua, đó không phải chữ số, mà là biểu pháp, đại biểu viên mãn. [Số] 21 biểu thị viên mãn, 210 ức là đại biểu cho đại viên mãn, viên mãn rốt ráo, cũng chính là trong kinh thường nói: cõi nước của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai trong khắp Pháp giới Hư không giới, không sót cõi nào, để Tỳ-kheo Pháp Tạng nhìn thấy toàn bộ. Như chúng ta hiện nay xem truyền hình, điều ngài nhìn thấy còn sát thực hơn truyền hình chúng ta, giống như hiện giờ, chúng ta mở mắt ra nhìn thấy tất cả mọi Cảnh giới tướng bên ngoài, vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, Phật có năng lực này. Ở trong Quán Kinh, phu nhân Vi Đề Hi gặp phải biến cố gia đình, con trai bất hiếu, đoạt lấy ngôi vua của phụ thân, giết cha hại mẹ. Phu nhân Vi Đề Hi gặp phải nạn này, không muốn sống ở thế giới này thêm nữa, thỉnh giáo với Phật, trong vũ trụ của thế gian này, có nơi nào tốt đẹp hơn [chỗ] chúng ta hay không, không có những tai biến này? Phật không giới thiệu cho bà, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng thần lực, cũng hiển hiện các quốc độ chư Phật ở trước mặt phu nhân Vi Đề Hi, để bà tự xem. Bà nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, bà nói nơi này tốt, xin Phật dạy cho bà, dùng phương pháp gì có thể được vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc. Đây là nhân duyên khởi phát Kinh Quán Vô Lượng Thọ, phu nhân Vi Đề Hi là người đương cơ, chân thật vãng sanh.

          Ở đây Tỳ-kheo Pháp Tạng từ bi tha thiết, hy vọng mình có được trí huệ, có được thần thông đạo lực, độ tận các chúng sanh khổ nạn trong cõi nước của tất cả chư Phật trong khắp Pháp giới Hư không giới, điều này rất quan trọng. Ngài Pháp Tạng thành Phật chính là A Mi Đà Phật, ngài là tiền thân của A Mi Đà Phật, từ bi đến cực độ, không có ai từ bi hơn ngài. Tâm từ bi sanh ra từ đâu? Thương xót tất cả chúng sanh khổ nạn. Ngài nhận biết được, thấy rõ ràng, những chúng sanh này vốn dĩ là Phật, đáng tiếc là mê mất Tự Tánh nên biến thành Lục đạo luân hồi, ở trong Lục đạo càng lún càng sâu, đời sau khổ hơn đời trước, thật sự là những kẻ đáng thương xót. Ngài Pháp Tạng phát nguyện muốn cứu những người này, bao gồm luôn chúng ta trong đó. Chúng ta thấy ngài phát tâm này, ngài Pháp Tạng phát tâm, thì tự nhiên sanh ra lòng cảm ơn. Chúng ta ở trong luân hồi này, đời đời kiếp kiếp, quá khứ vô lượng kiếp, vị lai cũng còn vô lượng kiếp. Chúng ta chịu khổ những ngày hôm nay, đó vẫn chưa tính là khổ, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục còn khổ hơn chúng ta, có những điều chúng ta thấy qua, có những điều còn chưa thấy được. Phước báo chư thiên lớn, phước báo đó mà hưởng tận, thọ mạng người cõi trời dài, nhưng cũng có lúc hết. Phước báo ở trên trời hưởng tận rồi, thiên nhân chết đi không thể đi lên được nữa, thì họ phải đoạ lạc đi xuống. Chỉ có người tu hành mới có thể đi lên được, đoạn ác tu thiện còn phải cộng thêm Thiền định, Tứ thiền Bát định. Thời gian dài, đến tột đỉnh, là Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đó là nơi cao nhất trong Lục đạo, đi lên nữa thì không có, khi thọ mạng tận không thể đi lên được nữa, chắc chắn đoạ lạc đi xuống, đoạ xuống tầng dưới khổ hơn tầng trên. Những chân tướng sự thật này, chúng ta đều phải nên nghĩ đến. 

          Hiện tại học Phật, Phật nói với chúng ta, Lục đạo Mười pháp giới không phải là thật, là giả thôi, ảo tướng này giống như gặp cơn ác mộng, là những điều từ trong 8 thức 51 tâm sở biến hiện ra, toàn bộ Lục đạo luân hồi đều không phải là thật. Cho nên nói với chúng ta, phàm tất cả tướng đều là hư vọng, bao gồm Mười pháp giới. Người thông minh thật sự: phải thấy rõ ràng, phải nghĩ rõ ràng, hoàn cảnh này giống như trong cơn ác mộng, cần phải thức tỉnh dậy, vĩnh viễn không bị cơn ác mộng này nữa, vĩnh viễn thoát ly Lục đạo luân hồi, thoát ly Mười pháp giới. Phải tu đến quả A-la-hán, mới có thể rời khỏi luân hồi, phải chứng đắc Pháp thân Bồ-tát, mới có thể ra khỏi Mười pháp giới, khó, thật khó! Tám vạn bốn ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp môn, là chư Phật Bồ-tát khai mở vì tất cả chúng sanh khổ nạn, nói trên lý luận thì: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp), nhưng từ căn tánh chúng sanh mà nói, thì khác biệt rất lớn. Dựa vào tự lực tu hành của phàm phu thì thời gian rất dài, nâng cao đi lên rất khó, rất dễ thoái chuyển, chúng ta có thể lý giải điều này. Thấy rõ ràng, thấy sáng tỏ rồi, chúng ta đối với ngài Pháp Tạng, đối với A Mi Đà Phật, tự nhiên sẽ sanh ra lòng cung kính.

          Tỳ-kheo Pháp Tạng biết nỗi khổ của chúng ta, cho nên mới giúp đỡ chúng sanh khổ nạn như chúng ta, hy vọng chúng ta có thể thành tựu ngay trong một đời. Bao gồm những người nào? Phía trên đến Đẳng giác Bồ-tát, phía dưới đến chúng sanh địa ngục, các chúng sanh trong Lục đạo, trong toàn bộ Mười pháp giới, thảy đều bao quát hết. Chỉ cần có duyên gặp được Pháp môn này, ngay trong một đời thì có thể chứng đắc viên mãn Vô thượng Bồ-đề. Đó là điều không có trong tám vạn bốn ngàn Pháp môn, thật sự là một Pháp môn đặc biệt thù thắng. Điều kiện của Pháp môn này: chỉ cần có hai sự việc, thứ nhất là tin tưởng thật sự, thứ hai là thật sự nguyện sanh Thế giới Cực Lạc. Có thể vãng sanh hay không là hai sự việc này. Không có mảy may nghi ngờ, ta tin rằng Phật Bồ-tát chắc chắn sẽ không lừa người, lời các ngài nói nhất định là lời thật, thật sự tin tưởng, thật sự nguyện sanh Thế giới Tây phương Cực Lạc. Đại sư Ngẫu Ích nói, có thể vãng sanh hay không quyết định ở có tín nguyện hay không, có tín có nguyện thì chắc chắn được sanh. Sanh đến Thế giới Cực Lạc có phẩm vị, bốn độ ba bậc chín phẩm trong Thế giới Cực Lạc, quý vị sanh đến cấp bậc nào? Điều đó liên quan với công phu niệm Phật của quý vị cạn hay sâu, chính là chúng ta niệm câu Phật hiệu này công phu cạn hay sâu. Thế nào gọi là công phu? Niệm Phật Công phu Thành phiến. Công phu này cạn, cạn thì thế nào? Có thể vãng sanh, vãng sanh đến ba bậc chín phẩm trong Đồng Cư độ, công phu này cạn. Gọi cạn có nghĩa là vừa mới đoạn dứt sự hoài nghi, tâm nghi đã dứt rồi. Nếu có một chút tâm nghi xen tạp vào trong đó thì không thể vãng sanh, chúng ta phải biết điều này.

          Phải kiến lập tín tâm đối với Phật Bồ-tát, Phật Bồ-tát còn biết lừa người hay sao? Người biết lừa người, còn Phật Bồ-tát, Thánh hiền nhân thì chắc chắn sẽ không lừa người, phải tin rằng Ngài dạy cho chúng ta Ngũ giới Thập thiện, thì ở trên thân Ngài nhất định là viên mãn rốt ráo. Trong Ngũ giới có điều không vọng ngữ, trong Thập thiện có điều không vọng ngữ, không nói hai lời, không thêu dệt, không nói thô ác. Đại Thánh Đại Hiền giáo hoá chúng sanh: không có vị nào không lấy lời nói đi đầu, ngài muốn dạy người khác, thì điều ngài nói ra ngài phải làm được hết, mới có thể làm người khác tin tưởng, mới có thể được người ta phục tùng. Chúng ta đối với Phật Bồ-tát còn một chút nghi ngờ, đó là không đạo đức, đó là không cung kính với Phật Bồ-tát. Quý vị nghi ngờ Ngài, quý vị nhìn nhận xem là loại người gì? Sai rồi, Pháp không có sai, Phật không có sai, tự chúng ta sai rồi. Tại sao không sanh khởi được tín tâm? Bởi sự hiểu đối với chân tướng sự thật không đạt đến mức. Làm sao để kiến lập tín tâm? Thế thì phải dựa vào dạy học làm đầu. Phương pháp của Phật Bồ-tát, phương pháp của cổ Thánh tiên Hiền dạy dỗ chúng ta: “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, kiến lập niềm tin từ chỗ này. Công phu quý vị học tập càng sâu, thì tín tâm sẽ càng lớn càng sâu, giúp cho quý vị kiến lập tín tâm.

          Có một số người, như lão Hoà thượng Hải Hiền, Pháp sư Hải Khánh, các ngài không biết chữ, chưa từng đi học, cả đời chưa từng niệm qua một bộ kinh, các ngài có thành tựu, có thành tựu lớn. Nguyên nhân đó là gì? Thiện căn thâm hậu! Thiện căn này không phải do học trong một đời này, mà là thiện căn được bồi dưỡng từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. Thiện căn này chính là lời thông thường chúng ta nói: người thật thà, chân lão thật, quý vị nói điều gì thì ngài cũng tin tưởng, quý vị lừa ngài, ngài cũng tin tưởng. Như lão Hoà thượng Lão Đức, người khác lừa ngài, trêu chọc ngài, ngài thích niệm Phật, thích lạy Phật, người ta nói với ngài, chỉ vô cục đá, trong cục đá này có Phật, ngài lập tức dập đầu, bèn lễ bái, ngài xem như thật; Phân bò, chỉ vô phân bò, nói trong đó có Phật, ngài bèn dập đầu lạy phân bò. Người khác cười to ha hả trêu chọc ngài, ngài là gì? Ngài tu công đức chân thật. Ngài dập đầu xuống, đích thực như có Phật, người khác không nhìn thấy, nhưng ngài có thể nhìn thấy. Tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng, sanh từ tâm tưởng của chính mình, trong tâm mình có Phật, người ta nói ở đó có Phật, ngài xem thật sự có Phật. Pháp thân Phật không nơi đâu không có, không lúc nào không có, Pháp thân Phật là ánh sáng, trong ánh sáng có Phật, chân thành đến cực điểm, người khác không nhìn thấy, nhưng ngài nhìn thấy.

          Do vậy chắc chắn không thể có nghi ngờ, người nghi ngờ là không có phước, người nghi ngờ là có nghiệp chướng. Khi nào nghiệp chướng của chúng ta tiêu hết rồi, thì tự mình sẽ biết. Giống như ngài Hải Khánh, ngài Hải Hiền, đối với Phật Bồ-tát không nghi ngờ một chút nào, đó chính là nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn phước đức hiện tiền rồi. Có thiện căn phước đức như vậy, đức Phật trong tâm không bao giờ mất, bất luận niệm Phật hay không niệm Phật, trong tâm luôn có Phật. Chỉ cần trong tâm có Phật, ngoại trừ Phật ra, không có vọng niệm, không có tạp niệm, người này chắc chắn vãng sanh, hơn nữa phẩm vị rất cao. Người thế gian thường hay xem thường, đó là gì? Nghiệp chướng nặng, nhìn thấy những người này còn phê bình các ngài, huỷ báng các ngài, sỉ nhục các ngài, tạo vô lượng tội nghiệp. Phật Bồ-tát có thể tha thứ cho quý vị, nhưng quỷ thần không tha quý vị. Người tạo nghiệp thì ai quản? Quỷ thần quản, Phật Bồ-tát không quản. Thiện căn phước đức của quý vị hiện tiền, có tín có nguyện, niệm Phật không gián đoạn, khi đến lúc, A Mi Đà Phật sẽ đến đón quý vị vãng sanh, sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật sự là quý vị chứng đắc viên mãn rốt ráo. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, không có một ai không phải viên mãn rốt ráo, bổn nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng, bổn nguyện của ngài đã thành hiện thực. 

          Đời này của chúng ta rất may mắn, được thân người, gặp Phật Pháp, lại gặp được Tịnh tông. Trong thời đại này mà gặp ba vị Đại đức ấy, ngài Hạ Liên Cư hội tập cho chúng ta thiện bản này, thiện bản Kinh Vô Lượng Thọ, lão Hoàng Niệm vì chúng ta mà làm Tập Chú, lão Hoà thượng Hải Hiền vì chúng ta mà biểu pháp, đã trọn vẹn. Hạ lão làm Thị chuyển, Hoàng Niệm lão làm Khuyến chuyển, lão Hoà thượng Hải Hiền làm Chứng chuyển cho chúng ta, Tam chuyển Pháp luân mà Đại thừa nói đã đầy đủ rồi, gặp gỡ hết thảy, nếu còn không tin tưởng nữa, thì đó là tội nghiệp của chính mình quá nặng. Quý vị có duyên, chứng tỏ quý vị có cơ hội, ngay trong đời này đi đến Thế giới Cực Lạc để làm Phật, quý vị có cơ hội. Cơ hội này thì phải xem quý vị có thể nắm bắt được hay không. Nắm bắt được thì không thể buông lơi, phải buông xuống thế gian này. Thế gian không gì ngoài tình thân, tài sắc danh lợi, đó đều không phải là những thứ tốt lành, gọi là ma, đem Tập khí Phiền não trong vô thuỷ kiếp đến nay của quý vị, lôi chúng ra hết, gọi là tham–sân–si–mạn–nghi, quý vị tạo nghiệp luân hồi, tiếp tục chịu luân hồi, đời sau còn khổ hơn đời này. Không thể không biết điều này, không thể không đề cao cảnh giác.

          Nhất là độ 60 tuổi trở đi, phải làm đại sự cho đời sau. Chúng tôi khi còn trẻ tuổi, Lão sư giảng cho chúng tôi bài Thu Thanh Phú của Âu Dương Tu, dùng bốn mùa để tỉ dụ cho một đời người. Từ lúc sanh ra đến 20 tuổi là mùa xuân của đời người; 20 đến 40 là mùa hạ của đời người; 40 đến 60 là mùa thu của đời người; 60 đến 80 là mùa đông của đời người. Cho nên từ độ 60 trở đi thì biết đó là mùa đông của đời người, xuân–hạ–thu–đông, chúng ta hiện nay đã đến mùa cuối cùng sau rốt, phải làm những việc cho năm sau, mấy người giác ngộ được? Khi đến mùa thu này, phải buông xuống vạn duyên, không nhất định sẽ còn mùa đông. Đời người đích thực là ngắn ngủi khổ đau, ngay trong anh em, ngay trong đồng học, ngay trong bạn bè, người 4-50 tuổi ra đi, người 5-60 tuổi ra đi, rất nhiều, người có thể sống đến 80 tuổi không nhiều, không có mấy người. 80 tuổi trở đi như ngọn đèn trước gió, không xác định sẽ ra đi lúc nào, nói đi là đi thôi. Nhất định phải có tâm cảnh giác này, còn thời gian một ngày, thì niệm Mi Đà một ngày, đó là việc chính đáng, đó là thật sự muốn đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu còn làm danh văn lợi dưỡng ở thế gian, thì xong rồi, dù cho quý vị đạt được, thì quý vị còn có thể hưởng thụ mấy năm? 80 tuổi trở đi, từng phút từng giây đều rất đáng quý, nắm bắt được, thì đời sau có triển vọng, nếu sơ suất, thì đời sau ở trong tam đồ, quý vị nói xem đáng sợ lắm sao! Chúng ta cần phải ghi nhớ, nhất định không thể vào Tam đồ, vào Tam đồ là có lỗi với chính mình, có lỗi với cha mẹ, có lỗi với thầy, có lỗi với Phật Bồ-tát, đó chính là tội nhân. Phải làm thế nào? Buông xuống vạn duyên, chân tín, chân nguyện, lão thật niệm Phật, luôn luôn lúc nào trong tâm cũng A Mi Đà Phật, không bao giờ quên mất, đó gọi là Công phu, đó chính là có nắm chắc sự vãng sanh. Thường xuyên quên mất A Mi Đà Phật, còn có rất nhiều vọng tưởng tạp niệm, đó là không tốt, đó là không có nắm chắc sự vãng sanh. Không thể không nghĩ đến vấn đề này, đó là vấn đề lớn số một ngay trong đời này của chúng ta. 

          Đoạn kinh văn ở chỗ này, đã thuyết minh 48 nguyện của A Mi Đà Phật đến từ đâu, Ngài nhìn thấy mọi Cảnh giới tướng trong cõi nước của tất cả chư Phật, Mười pháp giới, Lục đạo [đều] được nhìn thấy vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ. Những điều nào cần lấy, những điều nào cần bỏ, chọn sở trường bỏ sở đoản, Thế giới Cực Lạc được thành như thế. Cho nên sau khi Thế giới Cực Lạc thành tựu, xác thực là vượt trội hơn cõi nước của tất cả chư Phật, cũng xác thực là có thể giúp cho tất cả chúng sanh một đời thành tựu viên mãn, thù thắng không gì sánh bằng.

          Chúng ta lại xem đoạn tiếp: 或疑法藏比丘在因地中 “Hoặc nghi Pháp Tạng Tỳ-kheo tại nhân địa trung” (Hoặc nghi rằng Tỳ-kheo Pháp Tạng ở trong nhân địa), nhân địa là trước khi chưa thành Phật, ở trong nhân địa, 何能遍見十方諸佛淨妙國土 “hà năng biến kiến thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ” (sao có thể thấy khắp các cõi nước tịnh diệu của chư Phật trong mười phương), ngài làm sao có thể nhìn thấy cõi nước của tất cả chư Phật trong mười phương? Phần sau答曰 “đáp viết” (trả lời rằng), trong Kinh Pháp Tập có hai câu này: 菩薩摩訶薩,得彼諸佛如來天眼 “Bồ-tát Ma-ha-tát, đắc bỉ chư Phật Như Lai Thiên nhãn” (Bồ-tát Ma-ha-tát: được Thiên nhãn của chư Phật Như Lai kia). Thứ ngài đắc là Thiên nhãn của Phật, Phật gia trì, không phải do tự ngài tu được, nhờ Thiên nhãn của Phật để sử dụng, ngài thấy được. Trong Đại Trí Độ Luận cũng nói, 天眼徹視 “Thiên nhãn triệt thị” (Thiên nhãn nhìn thấu), không có gì không nhìn thấy được, 則不動而遍至 “tắc bất động nhi biến chí” (dù chẳng động mà đi khắp). Thiên nhãn của Như Lai, Pháp thân Bồ-tát thực sự là như như bất động, khắp Pháp giới Hư không giới, còn nhìn thấy quá khứ, còn nhìn thấy vị lai, rất là rõ ràng, rất là sáng tỏ. Mười phương có đến không? Không có đến, 比丘亦不往 “Tỳ-kheo diệc bất vãng” (Tỳ-kheo cũng không đi). Tại sao? Bởi trong cảnh giới ấy, không có thời gian và không gian, quá khứ–hiện tại–vị lai là giả, không phải là thật, cõi này phương khác cũng không phải là thật. Nói cách khác, đến khi tâm bất động, thì quý vị nhìn thấy vũ trụ này, không có không gian, cũng không có thời gian, quý vị nhìn thấy hết, không có chướng ngại không gian, cũng không có chướng ngại thời gian, ở đâu? Ở ngay hiện tiền, từ xưa đến nay đều đang hiện tiền. Đó đều là thật, không phải là giả đâu. Phần sau nói: 如佛天眼故 “Như Phật Thiên nhãn cố” (Ví như Thiên nhãn của Phật), như Thiên nhãn của Phật, 十方國土皆悉一時睹見 “Thập phương quốc độ giai tất nhất thời đổ kiến” (Cõi nước mười phương thảy đều nhìn thấy trong nhất thời). Nhất thời, là đồng thời, đồng thời thấy được, đồng thời thấy được tất cả mọi Thế giới trong mười phương.  

          據上經論,可知法藏菩薩摩訶薩,承世間自在王如來威神加被 “Cứ thượng Kinh Luận, khả tri Pháp Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát, thừa Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai oai thần gia bị” (Theo các Kinh Luận trên, có thể biết Bồ-tát Ma-ha-tát Pháp Tạng: nhận sự gia bị từ oai thần của đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai), Phật gia trì ngài, được Phật gia trì, 得如佛之天眼 “đắc như Phật chi Thiên nhãn” (được như Thiên nhãn của Phật). Ngài đã tự tu nên có Thiên nhãn, nhưng Thiên nhãn không viên mãn. Chúng ta biết rằng, Thiên nhãn từ Sơ quả trong Tiểu thừa đã đắc rồi. Sơ quả Tiểu thừa, Thiên nhãn của các ngài có thể nhìn thấy Dục giới, Dục giới có sáu tầng trời, phía dưới cõi người có súc sanh, có ngạ quỷ, có địa ngục, các ngài đều có thể nhìn thấy, Sơ quả Tiểu thừa. Chúng ta bèn hiểu được, đến Nhị quả, thì các ngài có thể sẽ thấy được Trời Sắc giới, Sơ thiền, Nhị thiền trong Sắc giới; Tam quả, chúng ta tin rằng có thể nhìn thấy Tam thiền, Tứ thiền trong Sắc giới, A-la-hán có thể nhìn thấy được trời Tứ Không, Thiên nhãn của Bồ-tát có thể thấy được Mười pháp giới. Thiên nhãn của Pháp thân Bồ-tát rất tiếp cận với Phật, có thể thấy được khắp Pháp giới Hư không giới, mười phương ba đời, [đó là] Pháp thân Bồ-tát. Nếu lại được Phật lực gia trì, vậy còn có lời nào để nói? Chúng ta tin rằng Tỳ-kheo Pháp Tạng vào khi ấy, ngài là Bồ-tát, chắc chắn vượt qua A-la-hán, lại được Phật lực gia trì, thì Thiên nhãn của ngài là không có khác so với Phật. 故能不動而遍見十方,於佛說國土皆悉睹見 “Cố năng bất động nhi biến kiến thập phương, ư Phật thuyết quốc độ giai tất đổ kiến” (Nên có thể chẳng động mà thấy khắp mười phương, với các cõi nước do Phật nói thảy đều nhìn thấy). 21 ức mà Phật đã giảng, đó là biểu pháp, biểu thị cho cõi nước của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, nhìn thấy tất cả. Như đức Thế Tôn ở trong Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, phẩm Thế Giới Thành Tựu, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, hai phẩm Kinh này giới thiệu Thế giới cho chúng ta, hiện nay nói là Thiên văn học, trong Kinh Hoa Nghiêm có Thiên văn học. 

          Đều nhìn thấy thì có chọn có bỏ, cho nên, 起發無上殊勝之願 “khởi phát Vô thượng thù thắng chi nguyện” (khởi phát nguyện thù thắng Vô thượng), nguyện thù thắng này chính là 48 nguyện, phẩm sau sẽ nói tiếp. Khởi cũng có nghĩa là phát, phát khởi. 更無有上 “Cánh vô hữu thượng” (Hoàn toàn không có trên), gọi là Vô thượng. Nguyện này là viên mãn. 殊勝者,事之超絕希有者,曰殊勝。《會疏》曰:無有此上,故云無上。超勝諸願 “Thù thắng giả, sự chi siêu tuyệt hy hữu giả, viết thù thắng. Hội Sớ viết: Vô hữu thử thượng, cố vân Vô thượng. Siêu thắng chư nguyện” (Thù thắng: là sự vượt trội tột cùng hiếm có về sự, gọi là thù thắng. Trong sách Hội Sớ nói: Không có gì hơn đây, nên gọi là Vô thượng. Vượt trội hơn các nguyện), các nguyện này là đại nguyện của chư Phật Như Lai, vượt qua các nguyện đó, 故曰殊勝。謂莊嚴無上故,受樂無上故,光壽無上故 “cố viết thù thắng, vị trang nghiêm vô thượng cố, thọ lạc vô thượng cố, quang thọ vô thượng cố” (nên gọi là thù thắng. Là vì trang nghiêm vô thượng, vì thọ lạc vô thượng, vì quang minh thọ mạng vô thượng), ba câu này thuộc về quả báo. Trang nghiêm, tốt đẹp không ai có thể sánh được, cõi nước chư Phật mười phương đều không hơn được nơi đó, [là] Vô thượng! Thọ lạc, không những không có những việc khổ này, sanh–già–bệnh–chết, mong cầu không được, oán ghét gặp nhau, yêu nhau phải chia lìa, không có những sự này, ngay cả những tên gọi này cũng nghe không được. Quang minh, thọ mạng, quang là trí huệ, thọ là phước báo. Trong phước báo, thì phước báo bậc nhất chính là thọ mạng, bởi dù phước báo lớn đi nữa, mà không có thọ mạng thì ai hưởng? Vậy uổng không rồi, cho nên thọ mạng là đức bậc nhất trong các phước báo. Vô lượng thọ, vô lượng quang, quang thọ vô thượng.

          名號無上 “Danh hiệu vô thượng”, Phật là dạy người tu điều gì? Chính là niệm danh hiệu Phật. Niệm danh hiệu Phật thì có thể vãng sanh Tịnh Độ, niệm danh hiệu Phật thì có thể Nhất tâm Bất loạn, niệm danh hiệu Phật thì có thể Minh tâm Kiến tánh, thế còn gì bằng! Danh hiệu của A Mi Đà Phật, chúng ta nhất định phải biết, danh hiệu này: bao gồm viên mãn danh hiệu của tất cả chư Phật, danh hiệu của tất cả Bồ-tát, không sót một vị nào, viên viên mãn mãn. Lại bao gồm danh hiệu của tất cả các Pháp môn, danh hiệu của tất cả Kinh giáo, quý vị niệm câu danh hiệu này, bằng với nói rằng đã niệm hết toàn bộ Kinh điển, một bộ trong Đại Tạng Kinh cũng không có bỏ sót, đều ở trong danh hiệu. Do đó chúng ta hiểu được, lão Hoà thượng Hải Khánh, lão Hoà thượng Hải Hiền, còn có vị Hoà thượng Lão Đức, các ngài cả đời chính là một câu danh hiệu. Phương pháp mà các ngài tu hành: lạy Phật, niệm Phật, kinh hành, đời sống không có rời khỏi Phật hiệu, làm việc cũng không rời khỏi Phật hiệu, đãi người tiếp vật, danh hiệu đều không có gián đoạn qua. Chỉ có lúc nằm ngủ không niệm Phật, nhưng hễ tỉnh dậy thì tiếp tục Phật hiệu, dưỡng thành một thói quen, trong tâm thật sự có A Mi Đà Phật. Như khai thị trong Phật sự Tam Thời Hệ Niệm của Thiền sư Trung Phong, ngài giảng rằng: 我心即是阿彌陀佛,阿彌陀佛即是我心;此方即是淨土,淨土即是此方 “Ngã tâm tức thị A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức thị ngã tâm; Thử phương tức thị Tịnh Độ, Tịnh Độ tức thị thử phương” (Tâm ta tức là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức là tâm ta; Nơi này tức là Tịnh Độ, Tịnh Độ tức là nơi này). Nói hay lắm, tâm của mình với tâm của đức Mi Đà hoà nên một thể, Thân độ của mình với Thân độ của Thế giới Cực Lạc trộn thành một khối, danh hiệu vô thượng.

          生因無上 “Sanh nhân vô thượng” (Nhân vãng sanh vô thượng), nhân của vãng sanh Tịnh Độ, [là] chân tín chân nguyện, có tín có nguyện thì có thể vãng sanh. Niệm Phật đã có công phu, có công phu gì? Trong Kinh thường nói Công phu Thành phiến, chúng ta làm được, Nhất tâm Bất loạn thì rất khó. Có Công phu Thành phiến thì chắc chắn được sanh, sanh đến đâu? Phàm Thánh Đồng Cư độ, Thượng phẩm Thượng sanh. Công phu thuần một chút, họ đi đến Phương Tiện Hữu Dư độ, họ vượt qua Đồng Cư độ, thù thắng lắm! Niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, là vãng sanh Thượng thượng phẩm trong Phương Tiện độ. Niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn, là Thượng bối vãng sanh trong Thật Báo độ. Nhân đơn giản đến thế, rõ ràng đến thế. 利益無上 “Lợi ích vô thượng”, lợi ích là sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, được 48 nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, đều làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Vì vậy Thế giới Cực Lạc là Thế giới bình đẳng, tuy có bốn độ ba bậc chín phẩm, nhưng trên thực tế trí huệ, thần thông, đạo lực, thọ dụng của các ngài: toàn bộ đều bình đẳng, người vãng sanh Đồng Cư độ, người vãng sanh Phương Tiện độ đều hưởng thụ trí huệ, thần thông, đạo lực của Bồ-tát cõi Thật Báo, lợi ích này là vô thượng chân chánh. 是總四十八願大體 “Thị tổng tứ thập bát nguyện đại thể” (là tổng kết đại thể của 48 nguyện). Nói tỉ mỉ chính là 48 nguyện ở phần sau, đó là nói về thể của 48 nguyện, là hoằng nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng.

          Khoa tiếp theo đây: 大願所依 “Đại nguyện sở y“ (Chỗ y cứ của đại nguyện), 48 nguyện phát nhờ điều gì. Tiếp theo chia làm bốn đoạn nhỏ, đoạn thứ nhất觀察 Quán sát, điều ngài nhìn thấy:

          【於彼天人善惡。國土粗妙。思惟究竟。】 “Ư bỉ thiên nhân thiện ác, quốc độ thô diệu, tư duy cứu cánh” (Đối với sự thiện ác của trời người, sự thô hay diệu của quốc độ, suy nghĩ rốt ráo).

          Thật làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, tương lai ngài thành Phật, quốc độ Phật của ngài: hy vọng sẽ đạt đến cấp bậc như thế nào? Vượt qua tất cả cõi nước của chư Phật. Thế thì tuy có bốn độ ba bậc chín phẩm, nhưng là dùng đẳng cấp cao nhất để làm lợi ích bình đẳng, trí huệ, thần thông, đạo lực không có gì khác với Pháp thân Bồ-tát. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão: 『於彼天人善惡』,「判定善惡之性,諸說不一。茲撮要介紹如下。」“Ư bỉ thiên nhân thiện ác”, “phán định thiện ác chi tánh, chư thuyết bất nhất. Tư toát yếu giới thiệu như hạ” (về câu ‘ư bỉ thiên nhân thiện ác’, phán định về tánh của thiện ác, các thuyết không giống nhau. Ở đây rút lấy những điều quan trọng [để] giới thiệu như sau). Trong đoạn này chính là thiện ác, thiện ác là nhân, sự thô hay diệu của quốc độ là quả, có rất nhiều loại cách nói, Niệm lão đều trích dẫn tại đây.

          Thứ nhất, 《菩薩瓔珞經》以順第一義諦為善,違第一義諦為惡 “Bồ Tát Anh Lạc Kinh dĩ thuận Đệ nhất Nghĩa đế vi thiện, vi Đệ nhất Nghĩa đế vi ác” (Kinh Bồ Tát Anh Lạc cho rằng thuận với Đệ nhất Nghĩa đế là thiện, trái với Đệ nhất Nghĩa đế là ác). Chúng ta lại đọc tiếp: 經曰:一切眾生識,始起一想住於緣。順第一義諦起名善,背第一義諦起為惡 “Kinh viết: Nhất nhiết chúng sanh thức, thuỷ khởi nhất tưởng trụ ư duyên. Thuận Đệ nhất Nghĩa đế khởi danh thiện, bội Đệ nhất Nghĩa đế khởi vi ác” (Kinh nói: thức của tất cả chúng sanh, bắt đầu phát sinh một tưởng trụ nhờ duyên. Thuận với Đệ nhất Nghĩa đế là thiện, trái với Đệ nhất Nghĩa đế là ác). 經云第一義諦 “Kinh vân Đệ nhất Nghĩa đế” (Kinh nói: Đệ nhất Nghĩa đế), thế nào gọi là Đệ nhất nghĩa đế? Đệ nhất nghĩa đế là 真諦 Chân đế, là 聖諦 Thánh đế, là 勝義諦 Thắng nghĩa đế, là 真如 Chân Như, là 實相 Thật tướng, là 中道 Trung đạo, 亦即實際理體 “diệc tức Thật tế Lý thể” (cũng tức là Thật tế Lý thể). Ba điều chân thật mà Phật giảng trong Kinh này, đây là điều trong các Kinh điển khác rất ít nói, thứ nhất là真實之際 “Chân thật Chi tế”, Chân thật Chi tế là thể 48 nguyện của A Mi Đà Phật, chỗ nương tựa của 48 nguyện. Chân thật Chi tế chính là Chân Như, Tự Tánh mà chúng ta nói, ở chỗ này nói là Đệ nhất Nghĩa đế, rất nhiều danh từ, ý nghĩa đều là cùng một ý nghĩa, cùng một cảnh giới như nhau. Chân đế, chân, không phải là giả. Phàm tất cả tướng đều là hư vọng, đó là giả, đó không phải là thật. Tiêu chuẩn của thật giả là gì? Điều giả, có sanh có diệt chính là giả; Không có sanh diệt, vậy mới là thật.

          Chúng ta quan sát kỹ lưỡng, tất cả mọi loài động vật trên thế giới này, người là động vật, có sanh–già–bệnh–chết, đó là điều không phải thật; Thực vật có sanh–trụ–dị–diệt, là giả, không phải là thật; Khoáng vật có thành–trụ–hoại–không, cho nên phàm tất cả tướng đều là hư vọng. Khoa học hiện tại đã chứng minh cho chúng ta, trước đây không có, các nhà khoa học hiện tại nói với chúng ta. Khởi tâm động niệm là hiện tượng sanh diệt, chúng ta nói đó là hiện tượng sanh diệt rất thô, rất rõ ràng, hiện tượng sanh diệt thật sự đã được nói trong kinh Đại thừa, đều không phải là cảnh giới của chúng ta, chúng ta nhìn không thấy. Ví như Bồ-tát Di-lặc nói với chúng ta, hiện tượng sanh diệt trong A-lại-da, một khảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, chúng ta làm sao biết điều này? Thời gian một khảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn ý niệm, một ý niệm chính là một hiện tượng. Một khảy ngón tay có bao nhiêu hiện tượng? 32 ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là đơn vị, một trăm ngàn là 10 vạn, 32 ức nhân 10 vạn, là 320 ngàn tỉ. Chúng ta ngày nay dùng giây làm đơn vị, một giây đồng hồ có thể khảy bao nhiêu lần? Có người nói với tôi, có thể 7 lần. Được, số 7 là được thường dùng trong kinh Phật, đại biểu viên mãn. 320 ngàn tỷ nhân 7, là 2 triệu 100 ngàn tỉ lần, 1 giây đồng hồ, chính ngay trước mặt, mà chúng ta hoàn toàn không biết. Cảnh giới sáu trần được tiếp xúc bởi sáu căn của chúng ta, căn, trần, thức hết thảy là tần số này. Ảo tướng được sinh ra trong tần số cao đến thế, không có một tướng nào là thật, chúng ta phải biết rằng, toàn là giả thôi. Cho nên phàm tất cả tướng đều là hư vọng, tất cả các pháp trọn không thể được. Bất khả đắc, mà quý vị tự cho rằng có sở đắc, sai rồi, quý vị nhìn sai, nghĩ sai rồi, đích thực là vô sở đắc. Hiện tượng thân thể của chúng ta, một giây đồng hồ sanh diệt 2 triệu 100 ngàn tỉ lần, chúng ta không biết, tưởng là nó tồn tại. Trên thực tế thời gian tồn tại thực sự bao lâu? Một phần của 2 triệu 100 ngàn tỉ giây. Một phần của 2 triệu 100 ngàn tỉ giây.

          Kinh Kim Cang giảng rõ ràng, “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Có tướng thì có sanh diệt, có tướng không có sanh diệt, ấy là Pháp tánh. Tướng của Pháp tánh rất kỳ lạ, nó không có sanh diệt, nó có ẩn hiện, có duyên thì hiện, không có duyên thì không hiện. Không hiện, không thể nói nó không; Hiện, không thể nói nó có. Điều này phải nhận thức chân tướng của nó rõ ràng, tất cả các vọng tướng đều là tướng sanh diệt, vọng tướng là biến hiện ra từ A-lại-da. Nhất chân Pháp giới, Thật Báo Trang Nghiêm độ, Thật là chân thật, không phải là giả, sanh diệt là giả, Thật Báo độ không có hiện tượng sanh diệt, nhưng có ẩn hiện. Ẩn hiện đến từ đâu? Phải đến từ Tập khí của Vô thuỷ Vô minh trong A-lại-da. Bồ-tát trong Thật Báo độ, đều đoạn dứt Vô minh, cũng tức là chúng ta thường nói, không khởi tâm không động niệm, các ngài ở trong tất cả cảnh giới, cảnh giới Phật, cảnh giới Bồ-tát, cho đến cảnh giới Lục đạo, các ngài sẽ không khởi tâm động niệm, Thích Ca Mâu Phật năm xưa tại thế, vì chúng ta mà thị hiện tám tướng thành đạo. Trong tám tướng thành đạo có sanh diệt hay không? Có. Những điều Phật hiện ra xác thực có sanh có diệt, giống như thân thể của chúng ta có sanh–lão–bệnh–tử, cũng thị hiện tần số giống với chúng ta, một giây đồng hồ 2 triệu 100 ngàn tỷ, trong tần số này. Nhưng Ngài tự tại, an định, như Kinh Lăng Nghiêm đã nói rằng: 隨眾生心,應所知量 “Tuỳ chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (Tùy theo tâm chúng sanh, mà ứng vừa với khả năng biết [của họ]), tâm chúng sanh là duyên, tương ưng với Ngài, Ngài bèn hiện thân vì chúng ta mà thuyết pháp, thị hiện tám tướng thành đạo. Ngài là đến để biểu diễn, không phải là thật, việc tu hành chứng quả làm sao để thành tựu, biểu diễn cho mọi người nhìn thấy. Buông xuống Phiền não chướng, buông xuống Sở tri chướng, giữ Giới, tu Định, khai Huệ, sau đó lại thị hiện: giảng Kinh 49 năm, thuyết Pháp hơn 300 hội. Thuyết nhiều Kinh điển đến vậy, là do trong Tự Tánh lưu lộ ra. Ai dạy Ngài? Không ai dạy. Mặc dù Ngài có 12 năm tham học, tất cả các tôn giáo ở Ấn Độ, Ngài đều học qua, tất cả các trường phái (các trường phái Triết học), Ngài cũng đều học qua, Ngài đều không dùng đến, buông xuống. 30 tuổi buông xuống, buông xuống Sở tri chướng, ở dưới cây Tất-bát-la nhập định, khi xuất định, nhìn thấy sao sáng, thì Đại triệt Đại ngộ, biểu diễn cho chúng ta thấy. Ngộ là gì? Điều gì cũng sáng tỏ, chính là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, trong Tự Tánh, có vô lượng trí huệ, đức năng hiện tiền hết thảy, Phật dùng những thứ này để giáo hoá chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh giác ngộ, giúp đỡ chúng sanh quay đầu. Một đời dạy học, giúp đỡ người phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, toàn là dùng trí huệ chân thật trong Tự Tánh. Có tác dụng, hơn nữa không có tác dụng phụ.  

          Khoa học công nghệ có sự phát minh, mang lại cho chúng ta rất nhiều tiện lợi, nhưng tác dụng phụ rất lớn, người hiện đại cảm nhận được. Phát triển khoa học phải trả giá như thế nào? So sánh cả hai điều này, chúng ta mới nhận biết rõ ràng được, lợi bất cập hại, điều chúng ta được không nhiều, giá chúng ta trả quá lớn. Do đó cuộc sống người thời nay từ lúc sanh ra đến khi già chết, quý vị hưởng thụ niềm vui mấy ngày? Quán sát kỹ lưỡng, một ngày đều không hưởng thụ được, đều đang sống trong cảnh khổ nạn, đời người tại thế không có phương hướng, không có mục tiêu. Thời xưa tốt hơn thời chúng ta, tại sao? Bởi có lời dạy Thánh hiền, hiện tại không có, người thời nay không tin tưởng. Thời xưa người học Phật thành tựu nhiều, người hiện nay học Phật thành tựu ít, nguyên nhân là gì? Tín tâm khác nhau. Người xưa tin, người thời nay nghi ngờ, mặc dù tin, nhưng họ vẫn có nghi ngờ, bán tín bán nghi, người như vậy chiếm số đông. Có nghi thì không thể thành tựu, một đời này tu một chút thiện căn, đợi đời tới kiếp sau. Đến khi nào có thành tựu? Khi nào không nghi ngờ, gặp được thì có thành tựu. Gặp được còn nghi ngờ, sẽ không có thành tựu, không thể vãng sanh, chúng ta không thể không biết đạo lý này.

     Chúng ta lại xem tiếp sau nữa: 諦者,真實之道理。此道理為諸法中第一,故云第一義 “Đế giả, chân thật chi đạo lý. Thử đạo lý vi chư pháp trung đệ nhất, cố vân Đệ nhất nghĩa” (Đế: là đạo lý chân thật. Đạo lý này là bậc nhất trong các pháp, nên gọi là Đệ nhất nghĩa). Đệ nhất nghĩa chính là nói, lý lẽ này, ở trong tất cả các pháp nó là bậc nhất, Đệ nhất nghĩa chính là chân lý. Quý vị xem, xem những danh từ khác thì hiểu ra ý nghĩa, Chân đế chính là chân lý, Thánh đế chính là Chân đế, Thắng nghĩa đế, Thắng là thù thắng, không có gì thù thắng hơn điều này, cũng gọi là Chân Như, cũng gọi là Thật tướng, Thật tướng chính là chân tướng, chúng ta nói là Bản lai Diện mục, còn gọi là Trung đạo. Ý nghĩa này trong kinh Phật, mấy chục danh tướng được sử dụng, ở đây nêu sơ qua vài từ. Phật giảng kinh dạy học, cùng một sự việc tại sao dùng nhiều danh từ thuật ngữ đến thế? Đó là nghệ thuật dạy học của đức Phật, điểm cao minh trong dạy học. Phật không chủ trương chấp trước danh tướng, cho nên名可名,非常名 “danh khả danh, phi thường danh” (tên có thể gọi, thì không phải là tên thường hằng), Đạo gia đã nói vậy, Phật pháp Đại thừa cũng là cách nói này.

          Trong Luận Đại Thừa Khởi Tín dạy cho chúng ta thái độ tu học Đại thừa, đã nói ba sự việc, thứ nhất, là không chấp trước tướng ngôn thuyết; Không chấp trước tướng danh tự, đây là danh từ thuật ngữ, không chấp trước, đó là một loại cách thức, cách thức phương tiện, không phải là mục đích, không thể chấp trước, chấp trước là sai rồi; Thứ ba, không chấp trước tướng tâm duyên. Tâm duyên là gì? Ta đọc đến đoạn văn này, thể hội được ý nghĩa trong đó, tốt, nhưng mà như thế nào? Không thể chấp trước, chấp trước là sai rồi, vì sao? Khi ngày mai đọc ta lại có ý nghĩa mới. Rốt cuộc có bao nhiêu ý nghĩa? Không có cùng tận, quý vị từ từ mà thể hội. Hễ đắm tướng là xong, đắm tướng thì chỉ một, không đắm tướng thì vô lượng nghĩa. Vì sao? Tự Tánh, Tự Tánh chính là vô lượng. Những danh từ này toàn bộ là miêu tả về Tự Tánh, Tự Tánh là Đệ nhất nghĩa, Tự Tánh là Chân đế, Tự Tánh là Thánh đế, chính là Chân Tâm. Chúng ta nói Chân Tâm, không phải là Vọng Tâm, Tự Tánh chính là Chân Tâm. Chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, là Vọng Tâm. Chân Tâm như thế nào? Chân Tâm, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, có vô lượng nghĩa, quý vị mỗi gần gặp được đều khác nhau. Do đó niệm một bộ kinh, một bộ kinh niệm chân thật, niệm ra được nghĩa chân thật của bộ kinh đó, quý vị sẽ không muốn niệm bộ kinh thứ hai, quý vị niệm một bộ Kinh này một đời đến cùng, vì sao? Vô lượng nghĩa. Vì sao vô lượng nghĩa? Tất cả mọi kinh đều ở trong một bộ Kinh này, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, là ý nghĩa này. Đừng nói là một bộ kinh, phần trước đã nói, một câu danh hiệu, A Mi Đà Phật, vô lượng nghĩa! Một câu A Mi Đà Phật này chính là vô lượng Kinh điển đều ở trong đó. 

          Cư sĩ Lưu Tố Vân xem đĩa CD về lão Hoà thượng Hải Hiền, đã xem hơn 1000 lần, dường như trong thời gian tám tháng đã xem hơn 1000 lần, nói với chúng tôi mỗi một lần đều có ý nghĩa mới xuất hiện, niềm vui ấy không gì sánh bằng. Vì sao? Bởi bà dùng tâm thanh tịnh để xem, giữ lấy phương pháp trong Luận Đại Thừa Khởi Tín, không chấp trước tướng ngôn thuyết; Xem Kinh, không chấp trước tướng văn tự, không chấp trước tướng danh tự, chính là danh từ thuật ngữ, những Đệ nhất Nghĩa đế, Chân đế, Thánh đế này, những danh tự này, không chấp trước điều này, đó đều là pháp phương tiện; Không chấp trước tướng tâm duyên, mỗi lần đọc đều có ý nghĩa mới tuôn ra. Nếu chấp trước vào một ý nghĩa, thì sẽ không có ý nghĩa thứ hai tuôn ra, đó là gì? Sa vào trong A-lại-da. Cho nên kinh là sống động, vũ trụ vạn pháp là sống động, không có một dạng nào là chết cứng. Quý vị suy nghĩ xem, một khảy ngón tay 32 ức trăm ngàn niệm, chính là 32 ức trăm ngàn cảnh giới khác nhau, không phải là giống nhau, mỗi thứ đều là độc lập, độc lập có tương tự, không hoàn toàn giống nhau, hết thảy là hư vọng, quá khứ không trở lại được nữa. Có thể nhìn thấy quá khứ, có thể nhìn thấy vị lai, vì nó là ảo tướng, nó không phải là thật, chân thật chỉ có Tự Tánh, Tự Tánh không bị dao động. Đại sư Huệ Năng nói hay lắm: 本自清淨,本不生滅(不生不滅),本自具足,本無動搖 “Bổn tự thanh tịnh, bổn bất sanh diệt (bất sanh bất diệt), bổn tự cụ túc, bổn vô động dao” (Vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt (chẳng sanh chẳng diệt), vốn tự đầy đủ, vốn không dao động), nó gặp được duyên có thể sanh vạn pháp, duyên biến mất, thì  không hiện tướng nữa.

          Vì vậy, đoạn sạch sẽ Tập khí Vô thuỷ Vô minh, thì không thấy Nhất chân Pháp giới nữa. Chúng ta biết rằng, Nhất chân Pháp giới đến từ đâu? Đến từ Tập khí Vô minh. Chúng ta ở trong Y Chánh trang nghiêm của Mười pháp giới đến từ đâu? Đến từ Vô minh. Đoạn Vô minh rồi, không thấy Mười pháp giới nữa, Nhất chân Pháp giới hiện tiền,  chưa đoạn Tập khí Vô minh; Nếu  đoạn Tập khí Vô minh rồi, thì Nhất chân Pháp giới không có nữa, quay về Thường Tịch Quang, quay về Thường Tịch Quang mới là viên mãn rốt ráo. Thường Tịch Quang là Pháp thân, 大光明藏 Đại Quang Minh Tạng, Tịnh tông gọi là Thường Tịch Quang. Thường, bất sanh bất diệt gọi là Thường; Tịch, thanh tịnh vô nhiễm, không có mảy may ô nhiễm, chính là điều ngài Lục tổ nói: “Bổn tự thanh tịnh, bổn vô động dao”, đó là ý nghĩa của Tịch; Quang, không nơi đâu không có, không lúc nào không có. Đó là tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, Bản thể của Y báo Chánh báo, đó là thật, cho nên gọi là Tự Tánh, cũng gọi là Pháp Tánh. Nó có thể hiện, có thể sanh, nó không biến đổi, cũng tức là nó không có sanh diệt. Biến đổi thành gì? Là Nhất chân Pháp giới, chính là Thật Báo độ, bị biến thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo luân hồi, là do A-lại-da thực hiện. A-lại-da là Vọng Tâm, tâm sanh diệt, tâm sanh diệt chính là ý nghĩ chúng ta, khởi tâm động niệm, niệm trước diệt niệm sau sanh, đó là giả, không phải là thật. Hiện tượng vật chất là sanh ra từ ý niệm, trong kinh Phật nói rằng: 相由心生 “Tướng do tâm sanh”, 色由心生 “Sắc do tâm sanh”, sắc với tướng đều là hiện tượng vật chất, 境隨心轉 “Cảnh tuỳ tâm chuyển”, cảnh là cảnh giới, Mười pháp giới là mười cảnh giới khác nhau. Cảnh giới là đến từ đâu? Do A-lại-da sanh ra. A-lại-da có thể biến, A-lại-da không thể sanh, không thể hiện, nó đem nó biến, biến chất rồi, biến hình rồi. Sâm la vạn tượng toàn là A-lại-da, toàn là vọng niệm. Thật sự thông suốt đạo lý này rồi, thì chúng ta cũng giải quyết rất nhiều vấn đề.   

          Thiện niệm, cảnh giới thiện hiện tiền; Ác niệm, tai nạn hiện tiền. Chúng ta muốn tiêu tai miễn nạn phải làm cách nào? Đoan chánh tâm niệm là làm được. Tâm phải tốt, đừng nghĩ đến tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm nghĩ đến người khác, đó chính là ý niệm tốt. Nghĩ cho mình là sai rồi, tại sao? Bởi thân mình là giả, quý vị chăm lo nó, oan uổng. Niệm Phật dưỡng tâm, dưỡng Chân Tâm của quý vị, dưỡng Tự Tánh của quý vị, tốt, vô lượng vô biên công đức. Hư không Pháp giới này, mười phương ba đời, ý niệm tốt nhất, xếp danh bậc nhất, đó chính là A Mi Đà Phật, Phật hiệu này, cho nên danh hiệu vô thượng. Tại sao không khởi ý niệm này? Không có một ý niệm nào có thể trội hơn ý niệm này, quý vị phải có tín tâm với danh hiệu. Quý vị không khởi niệm thì thôi, khởi niệm thì là A Mi Đà Phật, mặc dù quý vị hiện tại chưa thành Phật, nhưng Thế giới Cực Lạc đã đăng ký rồi, quý vị chắc chắn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, quý vị chắc chắn thấy A Mi Đà Phật, không có gì thù thắng hơn điều này. Sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì như phần trước đã nói, Trang nghiêm vô thượng, thọ lạc vô thượng, quang thọ vô thượng, mọi kiểu đều vô thượng, quý vị chứng đắc Vô thượng, thành tựu Vô thượng.

          Chúng ta lại xem tiếp: 若眾生起一念 “Nhược chúng sanh khởi nhất niệm” (Nếu chúng sanh khởi một niệm), một niệm này thuận theo Lý thể đó gọi là thiện, trái với Lý thể đó gọi là ác. Lý thể là Tự Tánh, chúng ta khởi lên ý niệm, Lý thể là vô cùng sạch sẽ. Không biết thế nào gọi là Lý thể, thì quý vị nghĩ đến năm câu mà Đại sư Huệ Năng đã nói khi khai ngộ, đó chính là Lý thể. Trong bộ Kinh này của chúng ta, đoạn nửa sau đề Kinh chính là giảng về điều này, 清淨平等覺Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, tương ưng với Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác là thiện, trái ngược thì chính là ác, Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác là nhân, Đại Thừa Trang Nghiêm Vô Lượng Thọ là quả. Cho nên Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì quý vị chứng đắc Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, Đại Thừa là trí huệ, trí huệ viên mãn, Vô Lượng Thọ là phước báo viên mãn, Trang Nghiêm, sự diệu hảo vô lượng, Thế giới Cực Lạc. Lý này chúng ta thu nhỏ phạm vi của nó lại, người bình thường chúng ta dễ hiểu, cổ Thánh tiên Hiền nước ta dùng Ngũ luân để giải thích Lý thể này, hoặc giả thông thường dùng hai chữ “đạo đức”. Đạo, đạo chính là Lý thể. Đức là gì? Đức là thuận theo Lý thể gọi là đức, tuỳ thuận Lý thể này. Lý thể là gì? Ngũ luân, Ngũ thường. Ngũ luân là đạo, đạo là quy luật tự nhiên, không phải do người phát minh, không phải do người sáng tạo, quy luật của đại tự nhiên. Thuận theo quy luật của đại tự nhiên, chính là đức, chính là thiện, trái ngược thì chính là ác. Điều trong nhà Phật giảng chính là Thập thiện, thuận với Thập thiện là thiện, trái ngược lại là ác. Mặt trái của Thập thiện là Thập ác, đầy đủ Thập ác thì đoạ địa ngục Vô Gián. Đầy đủ Thập thiện thì sanh thiên, không có tu Định, là sáu tầng Trời Dục giới, tầng trên thù thắng hơn tầng dưới. Người cần phải nên tuỳ thuận đại tự nhiên, đại tự nhiên chính là đạo, đại tự nhiên chính là Tự Tánh, chính là Tánh Đức, chắc chắn không thể trái nghịch. 此之判定,以理體為準 “Thử chi phán định, dĩ Lý thể vi chuẩn” (Phán định ở đây: lấy Lý thể làm chuẩn). Đây là Niệm lão ở đây nêu ví dụ vì chúng ta, ví dụ đầu tiên.  

          Thứ hai sau đây là dùng Luận Duy Thức: 《唯識論》以順益此世他世之有漏無漏行法為善 “Duy Thức Luận dĩ thuận ích thử thế tha thế chi Hữu lậu Vô lậu hành pháp vi thiện” (Luận Duy Thức cho rằng thuận theo lợi ích Hữu lậu hay Vô lậu của đời này đời khác mà hành pháp là thiện), đó là hạ thấp đi, không cao như phần trước nói, phần trước nói Lý thể, ở chỗ này nói Hữu lậu. Hữu lậu là gì? Phàm phu Lục đạo, chúng ta rất dễ dàng hiểu, lậu là đại từ chỉ Tập khí Phiền não. Phật đem vô lượng vô biên Phiền não quy nạp thành mười loại lớn, năm loại là Kiến phiền não, năm loại là Tư phiền não. Kiến là gì? Nhìn sai rồi. Tư là nghĩ sai, năm loại nghĩ sai, quy nạp lại năm chữ này, tham–sân–si–mạn–nghi, năm loại nghĩ sai này. Nhìn sai, thân, đều xem thân là chính mình, Phật nói với chúng ta, thân không phải là chính ta. Đó là sai lầm thứ nhất, những tổn hại do sai lầm này mang lại rất lớn rất lớn. Thân là gì? Thân là sở hữu của ta, giống như y phục vậy. Chỗ này chú ý một sự việc là biết rõ, ta chẳng sanh chẳng diệt, thân có sanh có diệt. Ai là ta? Linh tánh là ta. Tánh chính là Bổn Tánh, Bổn Tánh vô cùng linh mẫn, đó là ta, thân không phải ta. Thân, chúng ta ở trong Lục đạo này có sanh–tử, sanh–tử không biết bao nhiêu lần rồi, có lần nào là ta? Thân nào là ta? Đích thực không phải ta, ta chỉ có một thôi, nhưng thân thì vô lượng vô biên. Do vậy thân, giống như y phục chứ không phải ta, là y phục của ta, mặc dơ rồi, không sạch sẽ, cởi ra thay bộ khác. Thân thể cũng như vậy, thân thể dùng mấy chục năm không dùng được nữa, thay thân thể đi, ta không có đổi, thân đổi, cho nên thân không phải là ta. Nhất định phải làm rõ ràng khái niệm này, tuyệt đối đừng vì thân mà tạo nghiệp, thế thì rất đáng tiếc. Nếu quý vị đem Tập khí Phiền não này từ bỏ hết thảy, thì thân thể của quý vị khoẻ mạnh sống lâu, trụ thế có thể tự tại, muốn sống bao nhiêu năm thì sống bấy nhiêu năm, muốn ra đi lúc nào, thì có thể ra đi lúc nấy, sanh–tử tự tại. Tìm ra được chân ngã, không cần lưu luyến giả ngã, phải buông xuống giả ngã.  

          Do đó điều thiện của Hữu lậu, chưa có đoạn Phiền não. Giới luật Phật môn là thiện, tổ tiên nước ta để lại cho chúng ta đó là Lễ, như Lễ đã nói, điều đã dạy là thiện, trái ngược với lễ tiết là ác. Sự thực hành của người nước ta không thể không học Lễ. Trong sách vở, trong Thập Tam Kinh có Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký. Chu Lễ là pháp lệnh quy tắc để trị quốc vào thời nhà Chu, tương đương với như Hiến pháp ngày nay, là một bộ sách hay. Tôi chưa đọc qua, Lão sư khuyên tôi đã khuyên mấy lần, Tiên sinh Phương Đông Mỹ nói với tôi, Chu Lễ là luật lệ được toàn thế giới, được các quốc gia cai trị xưa nay trong ngoài [nước] căn cứ, Chu Lễ là số một. Ngài nói rằng nếu con cháu nhà họ Cơ đều có thể y giáo phụng hành, Tiên sinh Phương nói rằng, ngày nay quốc gia của chúng ta vẫn là nhà Chu. Lời đánh giá này nhận xét cao! Khi ấy bảo tôi xem Kinh, tôi từ đầu đến giờ chưa xem bộ đó, Tam Lễ tôi chỉ đọc qua Lễ Ký. Lễ Ký thuộc về tạp ký, Nghi Lễ là quy củ trong đời sống của chúng ta, làm người ngay trong đời sống hàng ngày làm việc đãi người tiếp vật phải tuân thủ. Do đó Trung Hoa được gọi là nước lễ nghĩa, nói nhân, nói nghĩa, nói lễ, nói trí, nói tín, nhân–nghĩa–lễ–trí–tín, đó gọi là Ngũ thường. Thường là vĩnh viễn không được bỏ mất, ngày ngày phải làm, rời bỏ đạo thường là sai rồi, đó là làm ác. Chúng ta không thể không biết điều này. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.   

(Hết tập 160)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.