TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập 117
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 12 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng
học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm,
ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung
tôn” (3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang thứ
346, trang 346, hàng thứ nhất, Khoa đề: 悲演濟度 “Bi diễn tế
độ” (Từ bi diễn thuyết cứu độ). Mời xem Kinh văn:
【興大悲。愍有情。演慈辯。授法眼。杜惡趣。開善門。於諸眾生。視若自己。拯濟負荷。皆度彼岸。】“Hưng
đại bi, mẫn hữu tình. Diễn từ biện, thọ Pháp nhãn, đỗ ác thú, khai thiện môn. Ư chư chúng sanh, thị nhược tự
kỷ, chẩn tế phụ hạ, giai độ bỉ ngạn” (Hưng khởi lòng đại bi, thương xót chúng hữu tình. Từ bi diễn
thuyết biện tài, truyền trao Pháp nhãn, ngăn dứt đường ác, mở cửa lành. Đối với
chúng sanh, xem như chính mình, mà gánh vác nhiệm vụ cứu vớt, đều độ sang bờ giải
thoát).
Chúng ta xem Chú
Giải của Niệm lão. Kinh văn từ “Hộ Phật chủng tánh”, làm sao để thực hiện bảo hộ
chủng tánh của Phật? Đoạn Kinh văn này đã đầy đủ rồi, thực hiện ở dùng chân
thành, từ bi rộng độ chúng sanh. 『興大悲』“Hưng
đại bi” (Hưng khởi
lòng đại bi), từ câu này thẳng đến: 『拯濟負荷,皆度彼岸』“Chẩn tế phụ hạ, giai độ bỉ ngạn” (Gánh vác nhiệm vụ cứu vớt,
đều độ sang bờ giải thoát), tổng cộng có mười câu, 表諸大士 “biểu chư Đại sĩ” (tỏ rõ các Đại sĩ), các Đại sĩ nói theo Kinh này: là chỉ 16 Chánh sĩ dự hội. 16 là biểu pháp, không phải
con số, mà đại biểu viên mãn. Mật tông dùng 16, 21 để đại biểu viên mãn, trong
Hiển giáo, dùng 7, Kinh Di Đà dùng 7, Kinh Hoa Nghiêm dùng 10, đều là đại biểu
ý nghĩa của đại viên mãn. Cho nên 16 vị Đẳng giác Bồ-tát tại gia đó, các ngài đại
biểu cho Pháp thân Bồ-tát của thế gian và xuất thế gian, tại gia cũng có thể chứng
đắc Pháp thân Bồ-tát, không khác biệt với Bồ-tát của xuất gia.
Vận dụng: 同體大悲 “Đồng
thể đại bi” (Đại
bi của cùng một thể), hai chữ ‘đồng
thể’ quan trọng hơn bất kì điều gì, đã Minh tâm Kiến tánh, mới thực sự nhận thức
được, sáng tỏ được, chúng ta nói là nhận biết, nhận là nhận thức, biết là hiểu
rõ, hiểu rõ điều gì? Hiểu rõ khắp Pháp giới Hư không giới: là một thể với chính
mình, gọi là đồng thể. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: 一即是多,多即是一 “Nhất tức thị đa, đa tức thị nhất” (Một chính là nhiều, nhiều
chính là một), một chính là Nhất thể, Nhất thể
này là Tự Tánh. Đại sư Huệ Năng giảng được rõ ràng, đơn giản, rất dễ dàng hiểu
rõ, Tự Tánh là gì? Hình dáng ra sao? Ngài đã nói năm câu. 本自清淨 “Bổn tự thanh tịnh” (Vốn tự thanh tịnh), đó là hình dạng của Tự
Tánh, nói cách khác: Tự Tánh trước giờ chưa từng bị ô nhiễm. Tự Tánh chính là
Chân Tâm, chính là Bổn Tánh, người xưa Trung Hoa đã nói Bổn Tánh vốn thiện, được
viết trong câu đầu tiên của Tam Tự Kinh: 人之初,性本善 “Nhân chi sơ, Tánh bổn thiện” (Người thuở đầu, Tánh vốn
thiện). Khái niệm đó, là trước khi: Phật pháp chưa
truyền đến Trung Hoa, thì lão Tổ tông của chúng ta đã từng nói rồi, chính là đề
xuất Bổn Tánh vốn thiện. Thiện chính là mãi mãi sẽ không bị ô nhiễm, mãi mãi sẽ
không dao động. Cho nên Đại sư Huệ Năng nói rằng: 本自清淨 “Bổn tự thanh tịnh” (Vốn tự thanh tịnh), không có ô nhiễm. 本不生滅 “Bổn bất sanh diệt” (Vốn không sanh diệt), Tự Tánh không sanh không
diệt.
本自具足 “Bổn tự cụ túc” (Vốn tự đầy đủ), trong câu nói
này: nội dung bao hàm vô lượng vô biên, đem quy nạp thành ba điều, thứ nhất là
trí huệ. Đức Thế Tôn từng nói trên Kinh Hoa Nghiêm: 一切眾生皆有如來智慧、德、相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ, đức,
tướng” (Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ, đức, tướng của Như Lai), đã quy nạp [thành] ba
loại lớn đó, dùng câu Kinh văn này để giải thích: khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ:
câu thứ ba là ‘vốn tự đầy đủ’. Đầy đủ điều gì? Trí huệ giống như Phật, trí huệ
của Phật không phải do tu mà đến, là do Tự Tánh vốn có, Tự Tánh của tất cả
chúng sanh là giống nhau, Tự Tánh là một thể. Đồng thể đại bi, đại bi là đức, đầu
tiên là trí huệ đồng thể, thứ hai là từ bi đồng thể, đó là đức, thứ ba là tướng
hảo đồng thể. Y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc: là do Tự Tánh của
chúng ta vốn có, không phải đến từ bên ngoài, chư vị Minh tâm Kiến tánh, thì
chư vị có thể chứng được. Tốt đẹp đến trình độ nào? Vậy thì chư vị không cách
nào tưởng tượng, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc chư vị liền thấy được thôi, chư
vị liền tiếp xúc được, chư vị liền hưởng thụ được. Cho nên ngàn vạn lần: đừng bị
quả báo nhỏ đó của trời người mê hoặc nữa, chư vị đã quên mất chân thiện mỹ huệ:
trong Tự Tánh rồi. Người nào có thể chứng? Người buông xuống sáu đường mười
Pháp giới có thể chứng. Người có lưu luyến đối với sáu đường mười Pháp giới, họ
không có cách nào chứng được, họ không ra khỏi, phàm phu không ra khỏi luân hồi,
Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát không ra khỏi mười Pháp giới. Nguyên nhân là gì?
Bởi không chịu buông xuống. Vì sao họ không chịu buông xuống? Bởi họ chưa làm
rõ ràng về Thật tướng các pháp. Đã học Phật, đã làm Đệ tử của Phật, thì có thể
buông xuống hay không? Không nhất định. Ngay trong Đệ tử Phật có ba căn [cơ] khác
nhau, người Thượng thượng căn nghe Phật thuyết pháp liền hiểu rõ, đã làm rõ
ràng chân tướng sự thật, thì buông xuống triệt để, các ngài không những ra khỏi
sáu đường, mà các ngài còn ra khỏi mười Pháp giới, các ngài vãng sanh đến Nhất
Chân Pháp giới. Nhất Chân Pháp giới chính là thế giới Cực Lạc, vậy mới có thể
chứng đắc viên mãn.
Câu thứ tư Đại sư Huệ Năng nói rằng: 本無動搖 “Bổn vô động dao” (Vốn không dao động), đó là nói Tự Tánh, Tự
Tánh vốn định, không hề dao động. Sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, nhìn được
rõ ràng, nghe được rõ ràng, thấy nghe giác biết vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ,
các ngài không khởi tâm không động niệm, là Pháp thân Bồ-tát, vượt khỏi mười
Pháp giới rồi. Các ngài vẫn có Khởi tâm động niệm, mà không có Phân biệt Chấp
trước, đó là Tam thừa Bồ-tát, là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng của Biệt
giáo [tông] Thiên Thai. Các ngài ở mười Pháp giới như cũ, chưa rời khỏi, cho
nên các ngài có Phân biệt, các ngài không có Chấp trước. Bao gồm Tam thừa, cũng
chính là Thanh văn, Duyên giác, Quyền giáo Bồ-tát, bao gồm ba bậc ấy. Trong sáu
đường luân hồi, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, đều có Khởi tâm động
niệm, Phân biệt, Chấp trước, một thứ cũng chưa buông xuống, là chúng sanh sáu
đường.
Học Phật, học Phật có lợi ích gì? Lợi ích lớn nhất chính là
đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ chân tướng sự thật rồi. Sau khi sáng tỏ, sáng tỏ gọi
là nhìn thấu. Đó là như Đại sư Chương Gia nói: nhìn thấu, mà chư vị vẫn chưa
buông xuống, thì sáng tỏ rồi cũng không ra khỏi sáu đường luân hồi. Hiện nay
sáng tỏ rồi, sau khi chết đi vừa đầu thai, thì quên hết sạch, chư vị nói đáng
thương biết bao! Nếu gặp được Phật pháp, thì lại tiếp tục học. Cho nên, học quý
ở buông xuống, buông xuống được lợi ích chân thật. Vì sao lại buông xuống? Bởi
toàn là giả, không có thứ nào là thật. Hiện nay nhà Cơ học Lượng tử nói với
chúng ta, hiện tượng vật chất, hiện tượng tâm lý (ý niệm), hiện tượng tự nhiên
thảy đều là ảo tướng: được sanh ra bởi ý niệm dưới tần số cao, căn bản thì
chúng không tồn tại. Tần số đó nhanh bao nhiêu? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta,
chúng ta chuyển đổi lại, trong một giây có: 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt,
trong một giây. Loại hiện tượng ấy chính ở trước mắt chúng ta, trước nay chưa từng
rời khỏi, là pháp sanh diệt với tốc độ cao như vậy, niệm trước diệt niệm sau
sanh. Nhưng phải hiểu được, một niệm trước không phải tương đồng với một niệm
sau, là khác nhau, trước nay chưa có hai cảnh giới nào: là hoàn toàn giống
nhau, là pháp sanh diệt ở tốc độ cao như vậy. Vô thỉ kiếp đến nay đến hôm nay, nếu
không thể rời khỏi, thì tương lai vẫn là vô lượng kiếp, trong đó không tìm thấy:
hai hiện tượng sanh diệt giống nhau, không có giống nhau. Cho nên hiện tượng
này, ở trên kinh, đức Phật có nói về tương tự liên tục, liên tục là trước và
sau hoàn toàn giống nhau, đó gọi là liên tục, trước và sau đó khác nhau, là
tương tự liên tục.
Trên Kinh Bát Nhã nói được rõ ràng, số lần giảng rất nhiều,
凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư
vọng” (những gì
có tướng, đều là hư vọng). Thời khắc nào đức Thế Tôn cũng đang nhắc nhở
chúng ta, đã là hư vọng, thì sao có thể đặt ở trong tâm? Vậy đặt ở trong tâm, chính
là lưu Chủng tử vào A-lại-da thức, sáu đường luân hồi: chính là Chủng tử của
A-lại-da khởi hiện hành. Sự việc ấy chỉ có Phật pháp giảng rõ ràng, giảng sáng
tỏ, giảng thấu triệt được. Sau khi sáng tỏ thì làm sao? Sau khi sáng tỏ thì phải
buông xuống, hễ buông xuống thì viên mãn rồi, thật được thọ dụng, liền khế nhập
cảnh giới của Phật. Phật khác với Tam thừa, người Tam thừa đã hiểu rõ, nhưng
chưa buông xuống, đó chính là tập khí, tham luyến, không nỡ buông xuống. Thực sự
buông xuống, thì ra khỏi rồi, ra khỏi sáu đường luân hồi, ra khỏi mười Pháp giới,
vãng sanh đến Tịnh Độ của chư Phật. Không niệm Phật, không cầu vãng sanh thế giới
Cực Lạc, thì các ngài đến thế giới Hoa Tạng, trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói: thế
giới Hoa Tạng là Thật Báo Trang Nghiêm độ: của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thế giới
Cực Lạc là Thật Báo Trang Nghiêm độ: của A Mi Đà Phật.
Thật Báo Trang Nghiêm độ đều sai khác không nhiều, đều là
Nhất chân Pháp giới. Vậy vì sao tất cả chư Phật: đặc biệt tán thán Thật Báo độ
của đức Mi Đà? Thật Báo độ của đức Mi Đà có điều gì khác với Thật Báo độ của
chư Phật? Đó là trong Thật Báo độ của đức Mi Đà: có 48 nguyện nhiếp thọ chúng
sanh, trong tất cả chư Phật không có điều ấy. Trong tất cả chư Phật [đều] có, chính
là chư Phật Như Lai: 『興大悲,愍有情,演慈辯,授法眼』“Hưng đại bi, mẫn hữu tình. Diễn từ biện, thọ Pháp nhãn” (Hưng khởi lòng đại bi, thương
xót chúng sanh hữu tình. Từ bi diễn thuyết biện tài, để truyền trao Pháp nhãn), giống như đức Phật Thích Ca
Mâu Ni: đối đãi với những chúng sanh chúng ta, khuyên chúng ta tín nguyện trì
danh, cầu sanh Tịnh Độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở nơi đây: cử chúng ta đến thế
giới Cực Lạc, quyển Kinh Vô Lượng Thọ này chính là giấy bảo lãnh, cử chúng ta đến
thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật ở thế giới Cực Lạc tiếp dẫn chúng ta. Cho nên,
chư Phật Như Lai tán thán đức Mi Đà là: 佛中之王,光中極尊 “Phật trung chi vương, quang trung cực tôn” (Vua trong chư Phật, ánh
sáng tôn quý nhất trong các ánh sáng), quang ấy chính là Thường Tịch Quang,
là ánh sáng vốn có trong Tự Tánh, thực sự không thể nghĩ bàn, đáng quý đến vô
cùng, chúng ta may mắn gặp được. Vẫn không thể tin tưởng, họ có nghi ngờ, chúng
ta có thể lí giải, bởi quá khứ chúng ta cũng như vậy, rất khó đoạn nghi ngờ đó.
Thật làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì không nghi ngờ nữa, quyết trọn một lòng,
một câu Phật hiệu này cầu sanh Tịnh Độ. Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài
là người Thượng thượng căn được giảng trong Phật pháp, vì sao vậy? Bởi ngài vừa
tiếp xúc liền không nghi ngờ. Ngài có hiểu rõ chân tướng sự thật hay không? Ngài
không hiểu rõ, chưa từng đọc sách, lão Hòa thượng dạy ngài một câu, ngài liền
tin tưởng, không nghi ngờ, thật làm. Thật tin, thật nguyện vãng sanh, thật niệm
Phật, đó là người Thượng thượng căn. Tầng lớp trí thức không được, tầng lớp trí
thức là người Trung thượng căn.
Cho nên Đại giáo của Như Lai, thực sự chỉ người Thượng thượng
căn, và người hạ ngu, hai dạng người đó dễ dàng thành tựu nhất. Hạ ngu thì thế
nào? Hạ ngu họ không nghi ngờ, họ tin tưởng ngay. Họ biết chân tướng sự thật
hay không? Không biết, họ tin lời của thầy, thầy không lừa gạt họ. Chúng ta thì
rất khó, không sánh bằng hai dạng ấy, đương nhiên không sánh bằng bậc trên, mà
cũng không sánh bằng hạng dưới, hạng dưới có thể không nghi ngờ, chúng ta nghi
ngờ. Thầy giới thiệu cho chúng tôi Pháp môn này, chúng tôi phải đi vòng quanh
trong Pháp môn này, đi vòng 30 năm rồi mới tin. Người ta 30 năm sớm đã đạt được:
Lý nhất tâm Bất loạn, Minh tâm Kiến tánh rồi, 30 năm đó chúng tôi đi vòng
quanh, dậm chân tại chỗ. Rất may mắn, hiện nay đã hoàn toàn tin tưởng, đã đi bước
này rồi; Nếu không phải hoàn toàn tin tưởng, thì bước này chư vị vẫn chưa bước
chân đi, chưa bước chân đi, thì vẫn ở nơi ban đầu. Thật bước đi là hiện tượng
gì? Thực sự đối với: tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian: không đặt ở
trong tâm nữa, vậy là đã thật bước. Trong tâm chỉ có một câu A Mi Đà Phật, giống
như lão Hòa thượng Hải Hiền, trừ một câu A Mi Đà Phật ra: thì không có thứ gì. Vì
sao vậy? Bởi một câu A Mi Đà Phật này thống nhiếp tất cả pháp, tất cả pháp là
cành lá, A Mi Đà Phật là gốc rễ, tôi tìm đến gốc rễ, đều buông xuống hết cành
lá, thật được thọ dụng. Không dễ dàng đạt được tầng thứ ấy, có thể đạt được tầng
thứ ấy, thì trong tâm chư vị có nắm chắc, tôi chắc chắn vãng sanh, chắc chắn
không có nghi ngờ, liền khởi cảm ứng đạo giao với A Mi Đà Phật, thực sự là cảnh
giới không thể nghĩ bàn.
Phía sau Đại sư Huệ Năng còn có một câu, một câu sau cùng: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể
sanh ra vạn pháp). Câu này là đúng rồi, toàn bộ vũ trụ
từ đâu mà đến? Do Tự Tánh biến hiện, cho nên là một thể. Một thể, thì giải quyết
vấn đề rồi, một thể, là nhìn thấy chúng sanh, ở sáu đường, ở mười Pháp giới: có
thể không giúp họ sao? Không thể nào. Hơn nữa đó là dùng tâm chí thành, trong
tâm chí thành sanh ra: vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Cho nên mười câu này: 表諸大士同體大悲、無緣大慈之德行 “Biểu chư Đại sĩ đồng thể đại bi, vô duyên đại từ chi đức
hạnh” (Tỏ rõ đức hạnh
đồng thể đại bi, vô duyên đại từ của chư Đại sĩ).
興大悲 “Hưng đại bi” (Hưng khởi lòng đại bi), hưng là hưng khởi, tâm đại bi
là trong Tự Tánh vốn có, nhìn thấy chúng sanh chịu khổ, tâm từ bi tự nhiên sanh
khởi lên. 愍者,哀念也。菩薩悲憫眾生,普令出苦,非二乘凡夫愛見之悲,故云大悲 “Mẫn
giả, ai niệm dã. Bồ-tát
bi mẫn chúng sanh, phổ linh xuất khổ, phi Nhị thừa phàm phu ái kiến chi bi, cố
vân đại bi” (Mẫn
là: ý niệm thương xót. Bồ-tát bi mẫn chúng sanh, rộng khiến cho thoát khổ, chẳng
phải bi ái kiến của Nhị thừa hay phàm phu, nên gọi là đại bi). Phàm phu có
bi tâm hay không? Có, có từ bi, nhưng không thể gọi là đại từ đại bi. Vì sao vậy?
Bởi họ có hạn chế, họ có tình chấp, người họ ưa thích thì họ có tâm từ bi, người
họ không ưa thích, dù chịu khổ hơn họ cũng không nghe không hỏi, quay đầu bỏ
đi, đó là tâm từ bi của phàm phu. Cho nên không phải Tiểu thừa, Nhị thừa chính
là Thanh văn Duyên giác, A-la-hán, Bích-chi-phật, A-la-hán, Bích-chi-phật: vẫn
có Ái kiến như phàm phu sáu đường, chưa nhìn thấy chúng sanh là một thể với ta,
chưa nhìn thấy. Những Pháp thân Bồ-tát, Đẳng giác Bồ-tát: các ngài đã thấy rõ
ràng thấy sáng tỏ rồi, khắp Pháp giới hư không giới: tất cả chúng sanh là một
thể với chính mình. chúng sanh mê hoặc nhiều, vô lượng vô biên, vô số vô tận, khi
không giác ngộ thì không biết, sau khi giác ngộ, thì đâu thể có đạo lý không
giúp đỡ! Đến trọn đời buông xuống vạn duyên, vì những chúng sanh khổ nạn mà phục
vụ, mục đích phục vụ là gì? Giúp những chúng sanh ấy lìa khổ được vui. Phải lìa
khổ rốt ráo, được vui rốt ráo, khổ rốt ráo là sáu đường luân hồi, không thể rời
khỏi sáu đường luân hồi, thì chỉ là tạm thời giúp họ lìa khổ được vui, không phải
vĩnh hằng, họ thoát khỏi sáu đường luân hồi, thì mãi mãi lìa khổ rồi; Vãng sanh
thế giới Cực Lạc, thì mãi mãi được vui, lìa khổ được vui rốt ráo viên mãn, đó
là thực sự từ bi, đại từ đại bi.
Dùng phương pháp nào? Trong phương pháp còn có căn cứ của
lý luận, dựa vào đạo lý nào? Chúng ta nói lý niệm của dạy học. Lý niệm của dạy
học: là thực sự biết khổ từ đâu mà đến, từ mê mà đến, đã mê mất Tự Tánh, thì
phiền não hiện ra. Vô minh phiền não, Trần sa phiền não, Kiến tư phiền não, phiền
não vô lượng vô biên, đức Phật quy lại thành ba loại lớn đó. Đức Phật là nương
vào đạo lý đó: [để] giúp chúng sanh lìa khổ được vui, dùng phá mê khai ngộ; Phá
mê, thì không còn khổ nữa, khai ngộ, thì vui đến rồi, là đạo lý như vậy. Dùng
cách thức nào? Giáo dục. Trong giáo dục chú trọng thân hành, ngôn giáo, chính
mình thật làm, chính mình không làm thì người khác không tin, chính mình thật
buông xuống, thì người khác tin rồi; Dạy người khác buông xuống, mà chính mình
chưa buông xuống, thì người khác không tin tưởng, nói chư vị đang lừa gạt họ. Buông
xuống triệt để tài sắc danh lợi, buông xuống triệt để Thất tình Ngũ dục, vì sao
vậy? Bởi đó là phiền não, đó là tập khí, chúng ta đời đời kiếp kiếp vô lượng kiếp
đến nay, đã bị những thứ ấy hại, không ra khỏi sáu đường luân hồi. Ngay trong đời
này, vô cùng may mắn gặp được Phật pháp, [nên] đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ việc
này rồi. Nếu không chịu buông xuống, đó là nguyên nhân gì? Bởi vẫn chưa triệt để
làm rõ ràng. Vậy được tiếp nhận giáo dục, cần tiếp nhận giáo dục của đức Phật, trong
giáo dục Tôn giáo [cũng] có. Thực sự làm rõ ràng làm sáng tỏ chân tướng sự thật
rồi, thì trong kinh điển Đại thừa, bộ Kinh này là kinh Đại thừa, thực sự thông
hiểu, làm rõ ràng bộ Kinh này rồi, thì đủ dùng. Vì sao vậy? Bởi giúp chư vị xây
dựng tín tâm, nguyện tâm, chư vị niệm đến cùng một câu Phật hiệu, thì chư vị
thành tựu.
Cho nên cách thức là dạy học, tất cả pháp không rời dạy học,
người do dạy mà được tốt, chúng tôi từng làm thực nghiệm, Tánh người thực sự vốn
thiện, không phải giả. Chúng ta đã nhìn thấy ở ngay trong thành quả của giáo học,
đã thức tỉnh lương tâm người, không bằng lòng làm sự nghiệp bất thiện nữa. Tổng
giám đốc Tạ ở Triều Châu rõ ràng có năng lực: nội trong bảy ngày thức tỉnh người,
tôi bội phục, quá khứ chúng tôi làm thực nghiệm ở Thang Trì: là ba tháng, đã
đánh thức nhân tâm của thị trấn nhỏ ấy, ông chỉ cần bảy ngày, vượt hơn tôi quá
nhiều rồi, tôi phải học tập ông. Ông dùng phương pháp vô cùng khéo léo, đáng được
chúng ta học tập, dạy học như vậy thực sự là tích lũy: vô lượng vô biên công đức,
ngay trong bảy ngày. Có thể giúp một người quay đầu, thì công đức không thể
nghĩ bàn, bảy ngày có thể giúp hơn 100 người quay đầu, vậy quá tuyệt vời! Nếu
ông không cầu sanh thế giới Cực Lạc, thì quả báo đời sau cũng không ở nhân
gian, nhân gian không có phước báo lớn như vậy. Ông đến đường nào? Lên trời làm
vua trời, sáu tầng trời Dục giới là trụ xứ của ông trong tương lai, 18 tầng trời
Sắc giới, bốn tầng trời Vô Sắc giới, là 28 tầng trời. Nghiệp nhân mà ông đã tạo
đó, quả báo thực sự không thể nghĩ bàn, là thật, không giả một chút nào. Người giúp
đỡ ông, người ủng hộ ông, người tán thán ông, người thành tựu ông, đều là đại
thần của vua trời, đều là chúng Thần trên trời.
Loại quả báo ấy, là chưa buông xuống sạch sẽ tình chấp, thực
sự buông xuống sạch sẽ rồi, thì ông chắc chắn không hưởng quả báo trời người. Quả
báo trời người dù thù thắng hơn, cũng không bằng thế giới Cực Lạc, thế giới Cực
Lạc là một xong tất cả đều đã xong, không có thêm di chứng về sau nữa. Thọ mạng
trên trời dài, vẫn là có kết thúc, thọ mạng của trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
là tám vạn đại kiếp, tám vạn đại kiếp sẽ có một ngày cuối cùng, hết rồi phải
làm sao? Ở trên kinh đức Phật nói với chúng ta, hết rồi lại đọa lạc xuống dưới,
họ leo được cao nhất, bên trên không còn nữa, họ rơi xuống thì ngã đến mặt đất,
là rơi xuống rồi. Chúng sanh sáu đường rất đáng thương, lên lên xuống xuống, leo
đến cao nhất lại ngã xuống, dần dần lại leo đến cao nhất tiếp, lại ngã xuống, đó
là chúng sanh sáu đường. Cho nên lời dạy của đức Phật vô cùng quan trọng, giáo
học của đức Phật từ Chân Tâm lưu lộ ra, chân thành, từ bi lưu lộ ra, chúng ta
phải chân thành, cung kính mới tiếp nhận được. Chúng ta đối với kinh giáo này: có
mảy may nghi nhờ thì xong rồi, đối với việc vãng sanh đời này của chư vị: sinh
ra chướng ngại nghiêm trọng. Ai chướng ngại chư vị? Chính chư vị chướng ngại
mình, không phải người khác. Hiểu thấu đáo rồi, không có pháp nào không phải là
tự làm tự chịu, thì chư vị sẽ không oán trời trách người, đều là chính mình hồ
đồ, chính mình mê hoặc, chính mình không nghe hiểu: nghĩa chân thật của kinh
giáo, ở đó suy đoán, thì xảy ra vấn đề rồi. Người như vậy nhiều, rất nhiều rất
nhiều, có mấy người vừa nghe thì đã thật tin? Phần lớn mọi người, tâm đều không
định, bất định họ tu học thì loạn rồi, nghe một Pháp môn vẫn khá, nghe hai Pháp
môn thì họ nghi ngờ rồi, nghe ba Pháp môn họ liền mê hoặc. Càng nhiều càng phiền
phức, thứ nào cũng muốn học hay không thì loạn rồi, tâm loạn rồi, phương pháp
cũng loạn theo. Đó chính là nói: không biết rốt cuộc đức Phật dạy điều gì, họ đều
học, họ không có mục tiêu.
84 ngàn Pháp môn, môn nào cũng là tu thanh tịnh bình đẳng giác,
thanh tịnh bình đẳng giác là mục tiêu của tu học. Một môn dễ dàng được thanh tịnh,
dễ dàng được bình đẳng, dễ dàng khai ngộ, hai môn thì không được. Một gian
phòng, chư vị muốn tiến vào từ hai cửa, thì không vào được, ba cửa càng không
có hy vọng, 10 cửa, 20 cửa, thì chư vị đừng mong tiến vào nữa, mãi mãi lòng
vòng ngoài cửa. Vậy thì hỏng rồi, đó là không biết liên hệ của một và nhiều, trên
Kinh Hoa Nghiêm nói: một tức là nhiều, nhiều tức là một. Nhiều là gì? 84 ngàn
Pháp môn, môn nào cũng là 84 ngàn Pháp môn, phải hiểu đạo lý này. Chư vị chỉ cần
tiến vào rồi, tiến vào từ một cửa, thì 84 ngàn Pháp môn đều đạt được thôi. Vì
sao vậy? Bởi mỗi cửa đều là tiến ra từ cung điện này, mỗi cửa đều đúng, tùy ý từ
cửa nào, một cửa thì tiến vào rồi, chư vị đều đã đạt được, một tức là nhiều,
nhiều tức là một.
Cho nên quý ở chuyên, chư vị xem lão Hòa thượng Hải Hiền
nói: 天下無難事,就怕心不專 “Thiên
hạ vô nan sự, tựu phạ tâm bất chuyên” (Thiên hạ không việc khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên). Chuyên,
chuyên chính là một, cả đời ngài chỉ một câu Phật hiệu, cũng không có kinh,
ngài không biết chữ, chưa từng nghe một khóa giảng kinh, chưa từng đọc bộ kinh
nào. Một câu Phật hiệu, tiến vào rồi, thì 84 ngàn Pháp môn đều đã đạt được, bất
luận chư vị thỉnh giáo ngài về Pháp môn nào, ngài đều có thể giải đáp cho chư vị,
giống như Lục tổ, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
giảng kinh dạy học 49 năm, bộ kinh nào là do Ngài học từ người [khác]? Một bộ
cũng không có. Vì sao ngài có thể giảng nhiều như vậy? Bởi từ Tự Tánh lưu xuất
ra. Do Tự Tánh lưu xuất ra, chính là Pháp luân viên mãn trong Tự Tánh: của tất
cả chư Phật Như Lai, tất cả kinh, [nếu] kiến Tánh, thì hiểu rõ, liền hưng khởi
tất cả kinh ấy rồi. Cho nên, một cửa tức là tất cả cửa, một Pháp môn chính là tất
cả Pháp môn, một môn chính là vô lượng môn, một môn chính là 84 ngàn môn, phải
hiểu rõ đạo lý này. Bất luận vào từ môn nào, kết quả đạt được đều viên mãn như
nhau, không tăng không giảm. Mấy người có thể sáng tỏ đạo lý này?
Chúng ta đã học Phật, mục đích sau cùng của học Phật là ở
đâu? Ghi nhớ, mục đích của [học] Phật: là giúp chúng ta lìa khổ được vui, chúng
ta cần phù hợp với Phật. Đức Phật muốn chúng ta lìa chúng ta thật lìa, chính là
buông xuống, thật buông xuống, không tham danh nữa, không tham lợi nữa, không
tham tài nữa, không tham sắc nữa. Thất tình Ngũ dục đều là phiền não, đều là
gông cùm, hiện nay cuối cùng cũng làm rõ ràng làm sáng tỏ rồi, thì xóa bỏ toàn
bộ, buông xuống triệt để, đó là hợp tác với Phật. Chúng ta tự do rồi, tự tại rồi,
không có dây thừng trói buộc nữa, không có ai hạn chế chúng ta nữa, chúng ta
theo phương hướng, mục tiêu mà đức Phật chỉ, thì dễ dàng tiến bước mạnh mẽ. Đức
Phật khéo dạy, chúng ta khéo học, thì một đời viên mãn thành tựu, không phụ
lòng đại từ đại bi của đức Phật.
Tiếp theo Niệm lão trích dẫn sách Hội Sớ, Tổ sư Nhật Bản đã
nói về: 拔苦為悲 “bạt khổ vi bi” (bạt trừ khổ là bi), ban vui là từ. Giúp chúng ta lìa khỏi sáu đường luân hồi, giúp
chúng ta rời khỏi mười Pháp giới, đó là bi, đại bi; Giúp chúng ta vãng sanh thế
giới Cực Lạc, đó là đại từ, đó là ban vui. 乃至悲是真實平等之悲,故謂大悲 “Nãi chí bi thị chân thật bình đẳng chi bi, cố viết đại
bi” (Cho đến lòng bi là bi của
chân thật bình đẳng, nên gọi là đại bi), chân thật lưu xuất ra từ trong
tâm. Đó là chân thật bình đẳng, chúng ta phải nghiêm túc học tập, phải thực hiện
ngay trong đời sống thường ngày, đối người phải chân thật, bình đẳng; đối việc,
đối vật: đều phải dùng tâm chân thật, tâm bình đẳng, đó chính là tiếp nhận lời
chỉ dạy của đức Phật. Mặt trái của chân thật là hư dối, mặt trái của bình đẳng
là có cao thấp, hư dối, cao thấp là Vọng tâm, không phải Chân Tâm, Chân Tâm mãi
mãi là chân thật, mãi mãi là bình đẳng. Trong bình đẳng thì có thanh tịnh, trong
thanh tịnh không có bình đẳng, trong bình đẳng có thanh tịnh, cho nên đầu tiên
chúng ta phải học chân thật thanh tịnh, nâng lên nữa là chân thật bình đẳng, nâng
lên nữa là chân thật giác ngộ, chân thật Đại giác.
Thanh tịnh bình đẳng giác là tu đức, niệm câu Phật này là
tu điều gì? Là tu ba điều đó, ba tâm đó. Tâm thanh tịnh là tâm của Thanh văn,
Duyên giác; tâm bình đẳng là tâm của Bồ-tát; giác là tâm của Pháp thân Đại sĩ,
vậy thành Phật rồi, giác chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Nhất định
phải thật làm ngay trong cuộc sống thường ngày. Tâm vì chính mình là hư vọng, vì
chúng sanh, vì Chánh pháp trụ lâu dài, tâm đó chân thật, vì sao vậy? Bởi pháp
là pháp chân thật, tâm là tâm chân thật. Vì danh văn lợi dưỡng của cá nhân, vì
tài sắc danh thực của cá nhân, là giả, là hư vọng. Nhất định phải biết thân này
của chúng ta, hiện nay nhà Khoa học nói với chúng ta, thân là sự việc thế nào, là
ý niệm trong: một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ giây: ảo tướng như vậy sanh ra dưới
tần số cao; Hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần [cũng] không ngoại lệ, thảy
đều là sự việc như vậy. Cho nên trên Kinh Kim Cang nói với chúng ta: ba tâm
không thể được, tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị
lai không thể được, đều là giả. Chúng sanh đáng thương, nhận giả làm thật, thảy
đều đang làm việc mưu tính trên tướng giả, thật sai lầm. Chư Phật Như Lai, Pháp
thân Đại sĩ: các Ngài hoàn toàn dùng Chân Tâm, các ngài dùng thanh tịnh bình đẳng
giác, lấy đó làm Tự thọ dụng, cũng dùng điều ấy giáo hóa tất cả chúng sanh, đó
chính là sự thị hiện của đại từ đại bi.
Chân thật ứng dụng trong cuộc sống, trong công việc, đối
người tiếp vật, thì được đại tự tại, được pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm
hoan hỉ. Chúng ta thấy biểu pháp của lão Hòa thượng Hải Hiền, cuộc sống ấy khổ
biết bao, người thân cận ngài nhìn thấy lão Hòa thượng Hải Hiền: mỉm cười từ
sáng đến tối, thực sự nhìn ra ngài pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỉ. Trước
giờ chưa có ai từng thấy ngài tức giận, từng nổi giận với ai, cả đời chưa từng,
đó chính là Pháp hỉ sung mãn. Biểu pháp ở thế gian này, thọ dụng của thân tâm: không
hề khác biệt với ở thế giới Cực Lạc. Mỗi ngày ngài đều ở thế giới Cực Lạc, chúng
ta nhìn không ra, không lãnh hội được. Thật sự, đó chính là cảnh chuyển theo
tâm, ngài dùng tâm nào, thì ngài ở cảnh giới ấy, người biết xem có thể nhìn ra,
người không biết xem thì không nhìn ra. Vì sao vậy? Bởi đã chấp tướng, người biết
xem thấy Tánh rồi, thì đâu có đạo lý không tự tại! Ngài là nhận lời căn dặn của
A Mi Đà Phật, bảo ngài đem việc học Phật, niệm Phật: làm ra một tấm gương, cho
người thế gian này xem, để người thế giới Ta Bà thấy ngài, [thì biết] thế nào gọi
là học Phật, thế nào gọi là niệm Phật. Chư vị thật xem hiểu rồi, thì chư vị sẽ
học thôi; Chư vị xem không hiểu, thì dần dần, đời sau kiếp sau, cuối cùng có một
ngày chư vị sẽ xem hiểu, thời gian đó không định khi nào. Người thiện căn dày,
người phước báo lớn, thì có thể viên mãn ngay trong đời này.
Chúng sanh gặp duyên khác nhau, duyên của chúng ta tuyệt vời,
phải nghĩ lại nhiều, chúng ta được thân người, gặp Phật pháp, gặp được Tịnh Độ,
gặp được bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư, gặp được Tập chú của ngài Hoàng Niệm
Tổ, vậy quá tuyệt vời! Lại gặp được lão Hòa thượng Hải Hiền làm biểu pháp cho
chúng ta, khiến tín tâm của chúng ta kiên định, cũng không nghi ngờ nữa, quyết
trọn một lòng một mạch mà niệm. Ưa thích đơn giản, ưa thích bớt việc, thì một
câu Phật hiệu là được rồi; Vẫn còn nghi ngờ, vậy bộ Kinh này, bộ Chú Giải này: có
giúp đỡ rất lớn đối với chư vị, thực sự có thể giúp chư vị phá nghi sanh tín, có
thể giúp chư vị kiên định nguyện tâm, chắc chắn phải sanh Tịnh Độ, không có nói
hai lời. Tín nguyện kiên định: chính là điều kiện đầu tiên của vãng sanh Tịnh Độ,
điều kiện của chư vị đầy đủ, thật niệm Phật thì vãng sanh.
Trong sách Hội Sớ có nói: ‘Nhổ trừ khổ là bi’, bi ấy, là đại
bi chân thật bình đẳng. Và dẫn Kinh Niết Bàn nói rằng: 三世諸世尊,大悲為根本。 “Tam thế chư Thế Tôn, đại bi vi
căn bản” (Chư Thế
Tôn ba đời, đại bi là gốc rễ). Đức Phật xuất hiện ở thế gian, ba đời là đời
quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, tất cả chư Phật Thế Tôn: vì sao lại xuất hiện
ở thế gian? Bởi bi tâm, giống như hạt giống của cây lớn vậy, nó có gốc rễ. 密部 “Mật bộ”, đó là nói Mật tông, quyển thứ nhất Kinh Đại Nhật của Mật tông
nói rằng: 菩提心為因,大悲為根本。 “Bồ-đề tâm vi nhân, đại bi vi
căn bản” (Tâm Bồ-đề
là nhân, đại bi làm căn bản). 故諸大士咸發同體大悲之心 “Cố
chư Đại sĩ hàm phát đồng thể đại bi chi tâm” (Nên chư Đại sĩ đều phát tâm đồng thể đại bi). Chúng
ta có thể nói, chỉ cần thực sự tín nguyện trì danh, thì có nhân rồi. Đã có nhân
vẫn chưa được, còn cần gốc, nếu mà rễ không có gốc, thì rễ đó mới vừa nảy mầm, vẫn
chưa lớn thành một cây lớn, đã nảy mầm. Sức mạnh của rễ đó rất yếu đuối, rất dễ
dàng bị người phá hủy, lớn thành cây lớn thì không sợ nữa, không sợ gió thổi
mưa sa, rễ sâu vững chắc, sẽ không dao động. Cây non nhỏ thì không được, không
chịu nổi sóng gió, sóng gió đó là gì? Chính là hoàn cảnh của chúng ta, dụ hoặc
của bên ngoài, đang khảo nghiệm chư vị, vậy thì phải cần kinh giáo đến giúp đỡ
rồi. Mỗi ngày đều đang hạ công phu trên kinh giáo, thì sẽ không bị tất cả dụ hoặc
của thế gian và xuất thế gian làm dao động, thì cây này của chúng ta rất nhanh
lớn, sẽ biến thành cây lớn. Nếu thường xuyên bị bên ngoài quấy nhiễu, gió Đông
thổi đến ngã về Tây, gió Tây thổi đến ngã về Đông, thì cây của chư vị không thẳng,
mãi mãi là nghiêng, là lệch, lớn không to, lớn không tốt. Lúc ấy thì thế nào? Lúc
ấy phải mượn ngoại lực, ngoại lực chính là sức người, giúp chư vị, giúp chư vị
ngay thẳng lại, nghiêng lệch rồi, tạm thời tìm một cái cột để chống, chúng ta
nhìn thấy người trồng cây. Thực sự trưởng thành rồi, rễ sâu vững chắc, thì
không sao. Chúng ta nhìn thấy những hiện tượng này sẽ sanh trí huệ, biết chính
mình đang ở trong tình trạng thế nào, tôi cần đề phòng những gì.
Cơ bản nhất, là đọc Kinh, đọc Chú Giải, đó gọi là: 讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự thấy
nghĩa của sách). Chúng ta hy vọng: có thể niệm 3000
biến Kinh Vô Lượng Thọ, 3000 biến có thể tụng thuộc rồi, Chú Giải của Niệm lão
chí ít cũng phải xem 30 lần, phân lượng đó lớn. 30 lần có thể giúp chư vị đoạn
nghi ngờ, đoạn sạch cả nghi hoặc vi tế rồi, thì tín tâm của chư vị kiên định, sẽ
không thay đổi nữa. Chư vị đều có thể ứng phó được với pháp thế gian và xuất thế,
chư vị có thể nghe tất cả kinh, có thể học tất cả pháp, mà không bị quấy nhiễu.
Vậy thì là gì? Nhất định không quấy nhiễu, không phá hoại: một môn niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ này của ta. Đọc được nhiều, thì càng kiên định lòng tin của chính
mình, vì sao vậy? Bởi chư vị thấy tất cả Pháp môn: đều cần thời gian tu học rất
dài, dựa vào tự lực, không ai có thể giúp chư vị. Tịnh tông hoàn toàn dựa vào: oai
thần của A Mi Đà Phật gia trì, chính mình chỉ cần đầy đủ tín, nguyện, niệm Phật.
Là đạo dễ hành, vạn người tu vạn người đi, không sót người nào. Sót lại là vì
sao? Bởi không tin tưởng, dao động lòng tin.
Học điều gì, chư
vị cũng có thể học, lòng tin không dao động, sau đó những gì chư vị học: giúp
tín tâm của chư vị càng kiên định. Đó chính là như người xưa đã nói: học rộng
là vì điều gì? Vì chuyên công. Học rộng không phải nói chư vị: học một môn mà
muốn tu nhiều môn, là việc không thể nào. Đã học hết vô lượng Pháp môn, vẫn là
môn này của ta tốt, môn này của ta là gì? Ta nhất định nắm chắc làm được, ta nhất
định có thể vãng sanh. Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thì pháp của vô lượng vô
biên chư Phật: chư vị đều đạt được rồi, chứng đắc viên mãn. Đó chính là một môn
tức là nhiều môn, nhiều môn tức là một môn, quay về tín nguyện trì danh này; Khai
triển tín nguyện trì danh, chính là 84 ngàn Pháp môn, chính là vô lượng Pháp
môn. Chư vị phải nhận biết, chư vị không nhận biết thì hỏng rồi.
Chúng ta xem tiếp
câu phía dưới đây: 演慈辯,從慈心起說 “Diễn
từ biện, tùng từ tâm khởi thuyết” (diễn từ bi biện tài, bắt đầu nói từ tâm từ). Các đồng học
học giảng kinh không ít, tại sao chư vị vẫn chưa học thành? Bởi chư vị không có
tâm từ bi, chư vị học giảng kinh, trong đó đang xen tạp danh văn lợi dưỡng, cho
nên đã học 10 năm vẫn chưa tiến bộ, vẫn đang giậm chân tại chỗ. Chư vị chưa
buông xuống Thân kiến, Biên kiến, Thành kiến và Tà kiến, cho nên chư vị chưa nhập
môn. Đoạn sạch năm loại Kiến hoặc rồi mới nhập Phật môn, Tiểu thừa chứng quả
Tu-đà-hoàn, Đại thừa thì Sơ tín Bồ-tát của Thập tín vị. Tuy là vị thứ thấp nhất,
nhưng chư vị là Thánh nhân, chư vị không phải phàm phu, chư vị là Đệ tử thật sự
của Phật, vậy mới là thật. Thọ giới, Giới sư có tốt hơn truyền cho chư vị, cũng
không phải thật. Chư vị nói chư vị đắc giới rồi, chư vị đắc là giới nào? Chính
chư vị cẩn thận hỏi, phản tỉnh, chư vị đắc giới nào? Không sát sanh, chư vị đắc
được sao? Chưa đắc được. Vì sao vậy? Bởi tuy không giết người, nhưng ta vẫn hận
họ, vậy thì không được. Nếu chư vị dùng tâm từ bi đối với họ, thì sao chư vị có
thể hận họ? Làm sao chư vị có thể oán hận? Tuy không cần mạng của họ, nhưng muốn
cho họ chịu khổ một chút, đó đều là sai lầm. Chư vị chướng ngại họ, chư vị hạn
chế họ, họ có thể không oán hận chư vị, vậy khá lắm, có một chút tu dưỡng, nhưng
không phải trì giới. Người giữ giới là thế nào? Ngay cả ý niệm oán hận cũng
không có, đó gọi là thực sự phát tâm. ‘Bất thâu đạo’, là không trộm cướp, chiếm
tiện nghi thì sao? Vẫn có tâm chiếm tiện nghi nhỏ của người ta, chiếm tiện nghi
chính là tâm trộm cướp, chưa đoạn tâm trộm, vẫn có tham trước.
Tự cho là đúng, Pháp môn của tôi thù thắng, Pháp môn niệm
Phật đó của chư vị không được, đó là thế nào? Đó là đoạn Pháp thân Huệ mạng của
người, đó là nghiêm trọng nhất trong giới sát. Giết thân mạng của người thì tội
nhỏ, giết huệ mạng của người thì tội lớn. Người khác đi đường này, Pháp môn Tịnh
tông này là một con đường tốt, [mà] lời ngon tiếng ngọt của chư vị: khiến họ khởi
nghi ngờ đối với Tịnh tông, để tu Pháp môn của chư vị. Chư vị có thể đảm bảo đời
này họ thành Phật hay không? Đời này họ không thể thành Phật, thì chư vị đã hại
họ, tội còn nặng hơn so với giết họ, chư vị đoạn Pháp thân Huệ mạng của người. Phân
tích với chư vị từng điều giới, sau đó chư vị mới hiểu được: một điều giới chư
vị cũng không làm được, còn tự cho là đúng.
Cho nên, học giảng kinh phải giảng cho tốt, thật học, thật
học Bồ-tát. Trì giới thì trì từ đâu? Tịnh nghiệp Tam phước là gốc rễ của Giới
luật, là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất. Hiếu thân tôn sư thực hiện ở Đệ Tử Quy, chư
vị xem thường Đệ Tử Quy, xem nhẹ sách ấy, thì chư vị không có gốc. Chư vị học
Phật không có gốc, chư vị học Văn hóa truyền thống Trung Hoa không có gốc, thì
chư vị làm sao có thể học tốt? Cho nên đã học mấy chục năm, gặp phải một chút
duyên bên ngoài thì rất dễ dao động, vì sao vậy? Bởi chư vị không có gốc, gió
thổi thì chư vị động rồi, chư vị liền ngăn không nổi, cảnh giới gió động là loạn
rồi, không dễ dàng. Theo một vị thầy tốt, thì lúc nào có thể độc lập? Gốc vững
rồi, gốc chưa vững thì không dám rời khỏi thầy. Tôi theo thầy Lý, thầy dạy tôi
là ước định với tôi 5 năm, 5 năm nhất định tuân thủ sự chỉ dạy của thầy, hy vọng
cắm gốc vững trong 5 năm. 5 năm tôi thật được thọ dụng, nhưng mà cảm thấy chưa
đủ, cho nên tôi tự động báo cáo với thầy, yêu cầu, tôi nói thưa thầy, con tiếp
tục học 5 năm nữa. Thầy bắt đầu cười. Tôi tuân thủ theo thầy 10 năm. 5 năm sau
đó, duyên nước ngoài của tôi chín muồi rồi, mỗi lần ra nước ngoài hoằng pháp, sau
khi về nhất định báo cáo với thầy, báo cáo với thầy về cảm tưởng tâm đắc, cầu
thầy hướng dẫn. Gặp được những khó khăn, thì thỉnh giáo với thầy, về sau lại gặp
phải những khó khăn ấy, thì thế nào cũng hóa giải được, thầy là chỗ dựa vững chắc
của chúng tôi. 10 năm sau thầy vẫn còn, chỉ cần thầy còn một ngày: thì chúng
tôi phải thân cận một ngày; Thầy không còn nữa, thì khai thị quan trọng mà thầy
cho chúng ta: niệm niệm không quên, cảm ơn ân của thầy, thì phải truyền cho người
sau.
Học Phật rồi, đầu tiên là cảm ơn ân của thầy, thứ hai là cảm
ơn ân của hộ pháp, không có hộ pháp thì chúng ta không thể thành tựu. Hộ pháp
là tạo ra hoàn cảnh: tu học, hoằng pháp cho chúng ta, cần có người thực sự hiểu
chư vị, đến giúp chư vị, thành tựu chư vị. Tôi có được sự chiếu cố 30 năm của
Quán trưởng Hàn, không có 30 năm chiếu cố đó, thì sớm đã không còn, làm gì còn
có ngày hôm nay? Không thể quên ân của hộ pháp, công đức của hộ pháp không thể
nghĩ bàn, thầy là chỉ dẫn đường cho chúng ta, hộ pháp là cùng đi với ta trên
con đường này, chăm sóc dọc đường. Cho nên tôi tin rằng: thế gian có Pháp sư tốt,
có người tái lai, tại sao lại ẩn mất chứ không ra mặt? Bởi không có hộ pháp,
nguyên nhân thực sự ở chỗ này. Cho nên tôi thường nói, công đức của hộ pháp là
viên mãn, hộ pháp giống như Hiệu trưởng của trường học, họ mở trường học, họ
làm Hiệu trưởng. Chúng tôi là Giáo viên của trường học, họ mời chúng tôi dạy học
ở trường học này, bồi dưỡng học trò ở trường học này, công đức của họ, không phải
của tôi, tôi phục vụ cho họ, nhất định phải biết, phải sáng tỏ đạo lý ấy.
Cho nên có cơ hội dạy học ấy, là vì thương xót chúng sanh,
giống như đức Phật, mục đích của dạy học, là giúp những chúng sanh ấy lìa khổ rốt
ráo, được vui rốt ráo. Chúng ta có năng lực đó hay không? Có. Từ đâu mà đến? Do
Phật Bồ-tát gia trì, không phải chính chúng ta có bản lãnh ấy. Chính chúng ta đạt
được lợi ích này, phải giới thiệu cho người khác lợi ích này, người có duyên. Thế
nào là người có duyên? Họ tiếp nhận được, họ thật chịu làm. Người không có
duyên cũng giới thiệu cho họ, để A-lại-da-thức của họ có Chủng tử, tuy hiện nay
họ không thể tiếp nhận, nhưng đời sau kiếp sau gặp được Pháp môn này, họ sẽ sanh
tâm hoan hỷ, đón nhận làm tiếp. Đó đều là đại từ đại bi, tuyệt đối không vì
chính mình. Chính mình chỉ một phương hướng, một mục tiêu, một phương hướng, là
thế giới Tây Phương Cực Lạc, một mục tiêu, là thân cận A Mi Đà Phật, trừ điều
này ra thì không cần thứ gì, chúng ta mới được tự tại, mới thực sự có một chút
tiểu trí huệ. Buông xuống, chính là buông xuống: phiền não, tập khí chướng ngại
sự thành tựu, là những thứ đó, thảy đều buông xuống.
Tiếp theo nói:《淨影疏》曰:依慈起說,名演慈辯 “Tịnh Ảnh Sớ viết: y từ khởi thuyết, danh diễn từ biện” (Tịnh Ảnh Sớ nói rằng:
nương lòng từ khởi thuyết, gọi là ‘diễn từ biện’), biện là biện tài vô ngại.
Cho nên, giảng kinh dạy học: không có tâm từ bi thì không được, không được gia
trì; Có tâm từ bi, thì được Tam Bảo gia trì, giảng tự nhiên sẽ khác. 授法眼 “Thọ Pháp nhãn” (Truyền trao Pháp nhãn), thọ là cho chúng ta, truyền
thụ, 法眼者,如來五眼之一 “Pháp
nhãn giả, Như Lai Ngũ nhãn chi nhất” (Pháp nhãn là: một trong Ngũ nhãn của Như Lai). Về Ngũ
nhãn, chỗ này nói ra rồi: thứ nhất là: 肉眼 “Nhục nhãn”; thứ hai là: 天眼 “Thiên nhãn”; thứ ba là: 慧眼 “Huệ nhãn”; thứ tư là: 法眼 “Pháp nhãn”; thứ năm là: 佛眼 “Phật nhãn”. Pháp nhãn, là Bồ-tát tu được; Huệ nhãn là người Tiểu thừa
Thanh văn, Duyên giác tu được. Pháp thân Bồ-tát có Pháp nhãn; thành Phật rốt
ráo thì có Phật nhãn, thông thường trên kinh Đại thừa nói là Bát địa trở lên, đã
có Phật nhãn. 法眼者,乃菩薩為度眾生照見一切法門之智慧 “Pháp
nhãn giả, nãi Bồ-tát vị độ chúng sanh chiếu kiến nhất thiết Pháp môn chi trí huệ” (Pháp nhãn là: trí huệ chiếu
kiến tất cả Pháp môn của Bồ-tát vì độ chúng sanh), gọi là Pháp nhãn. Chiếu kiến chân tướng của tất cả Pháp môn, đó là trí huệ, tất cả
pháp thế gian và xuất thế gian: chư vị đều thông đạt hiểu rõ được, thì cao hơn
Thanh văn Duyên giác, cũng cao hơn Tam thừa Bồ-tát, là Pháp thân Bồ-tát chứng
được.
Chiếu kiến tất cả Pháp môn là gì? Trên Kinh Hoa Nghiêm đã
nói: tất cả tức là một, một tức là tất cả. Chúng ta dùng lời đơn giản nhất để
giải thích, lời của Đại sư Lục tổ Huệ Năng: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể
sanh ra vạn pháp), một chính là Tự Tánh có thể sanh, tất
cả chính là vạn pháp được sanh. Tất cả tức là một, vạn pháp chính là Tự Tánh, tất
cả tức là một; Một tức là tất cả, Tự Tánh chính là vạn pháp. Nói như vậy mọi
người có thể lãnh hội được hay không? Một là năng sanh, vạn pháp là sở sanh, tất
cả là sở sanh, năng sanh là một không phải hai. Đó chính là trí huệ chiếu kiến
tất cả Pháp môn. Cho nên, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, vì sao vậy? Bởi
tất cả Pháp môn chính là Tự Tánh. Pháp môn này thích hợp với căn tánh của chính
mình, thích hợp với trình độ của chính mình, thì chư vị tu học không khó. Nếu
không phù hợp, thì quá khó rồi, vậy bắt đầu tu rất hao tổn sức lực, đã làm bao
nhiêu năm cũng không làm rõ, lúc ấy phải giác ngộ, Pháp môn đó không thích hợp
để ta tu. Giống như bị bệnh [phải] uống thuốc, đã uống thời gian rất lâu không
thấy hiệu quả, mau chóng đổi thầy thuốc, ngoài ra cũng đổi loại đơn thuốc. Thuốc
phải đúng bệnh, hễ uống thuốc thì khởi tác dụng, thuốc đến bệnh trừ, thì bệnh của
chư vị đỡ rồi. Đó là trí huệ!
Chính chúng ta
không có năng lực lựa chọn Pháp môn, khi đức Phật ở đời, mỗi người gặp đức Phật,
Pháp môn mà đức Phật dạy cho họ: lập tức liền thấy hiệu quả. Vì sao vậy? Bởi đức
Phật chứng trí huệ viên mãn, Ngài có thể nhìn ra căn tánh của chúng sanh, vô lượng
kiếp đến nay: chư vị đã từng tu những Pháp môn nào. Thì truyền cho chư vị: Pháp
môn rất quen thuộc mà chư vị tu trong quá khứ, thì chư vị cảm thấy rất dễ dàng,
rất có hiệu quả, đạo lý ở chỗ này. Sau khi đức Phật diệt độ, những Đệ tử của Phật,
Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác: các ngài chưa được viên mãn như Phật, nhưng các
ngài cũng có vài phần, các ngài cũng có thể giúp chúng ta lựa chọn, cũng lựa chọn
được rất tốt. Hiện nay là thời kỳ Mạt pháp của đức Phật, những đại chúng xuất
gia: chưa chứng quả A-la-hán, như vừa mới nói, ngay cả Sơ quả cũng chưa chứng đắc,
Đại thừa thì chưa chứng đắc Sơ tín vị; Nói cách khác, đều là phàm phu. Phàm phu
lựa chọn Pháp môn thì không chắc chắn, bởi chính mình đang lần mò.
Vẫn may Phật tổ từ
bi, biết chúng ta không có năng lực lựa chọn Pháp môn, lại không tìm được người:
giúp chúng ta lựa chọn Pháp môn, lúc này phải làm sao? Chư Phật Như Lai: cùng lựa
chọn một Pháp môn cho chúng ta, Pháp môn này chính là Pháp môn niệm Phật, Pháp
môn cầu sanh Tịnh Độ, Pháp môn của A Mi Đà Phật. Một Pháp môn này chính là tất
cả Pháp môn, bệnh mà tất cả Pháp môn có thể trị, Pháp môn này đều trị được. Chúng
ta chỉ cần nắm chắc Pháp môn này, chư vị chịu tin tưởng, thì chư vị thành Phật trong
một đời, thật sự, không phải giả. Một đời chư vị nhất định có thể chứng đắc: Minh
tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, chư vị có thể đạt đến cảnh giới ấy. Cần thời
gian bao lâu? Người thông thường niệm đến công phu Thành phiến, nếu họ thật sự
không nghi ngờ, thật sự một câu A Mi Đà Phật niệm đến cùng, một ngày niệm 100
ngàn tiếng, buông xuống vạn duyên, nhiều nhất ba năm, thì thành công rồi.
Niệm Phật tốt, đừng
làm vọng tưởng nữa, niệm Phật không tốt, là có vọng tưởng xen tạp ở trong. Giác
Minh Diệu Hạnh Bồ-tát chỉ dạy chúng ta: phương pháp niệm Phật: 不懷疑 “bất hoài nghi” (không nghi ngờ), không nghi ngờ là
thật tin, thật nguyện, đó là không nghi ngờ; 不夾雜 “Bất giáp tạp” (Không xen tạp), không có vọng niệm,
không có vọng tưởng, hoàn toàn buông xuống tất cả pháp của thế gian và xuất thế
gian, không xen tạp; Sau cùng là: 不間斷 “bất gián đoạn” (không gián đoạn). Bí quyết của niệm Phật này, là không
nghi ngờ, không xen tạp, không gián đoạn, ba năm thì công phu Thành phiến. Công
phu Thành phiến, thì tâm thanh tịnh hiện ra rồi, 清淨平等覺 “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác” ở trên đề Kinh, đã đạt được điều thứ nhất rồi, tâm thanh tịnh ấy: chính là tâm của
Tứ quả trong Tiểu thừa, tâm của Thập tín Bồ-tát trong Đại thừa, rất nhanh thành
tựu. Đạt được thành tựu đó, thì tuy vẫn còn thọ mạng, nhưng không cần nữa, cầu
A Mi Đà Phật đến đón chư vị vãng sanh, đức Phật sẽ đến đón chư vị vãng sanh, nếu
vẫn ở thế gian này, không muốn vãng sanh, vì sao vậy? Bởi ở thế giới này thành
Phật nhanh, nhanh hơn so với thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là gió êm sóng
lặng, thuận buồm xuôi gió; Nơi này là sóng to gió lớn, sóng to gió lớn mà chư vị
có thể thông qua, cho nên Cổ đức giảng là: tu hành một ngày ở thế giới Ta Bà, đáng
bằng tu hành 100 năm ở thế giới Cực Lạc, đạo lý ở chỗ này. Ác duyên quá nhiều,
chướng ngại quá nhiều, chư vị đều có thể thông qua, thuận lợi thông qua, không
bị quấy nhiễu, công đức ấy tuyệt vời.
Cho nên, chứng đắc
công phu Thành phiến, nếu không cầu vãng sanh, chính mình vẫn còn thọ mạng, còn
có 3 năm, 5 năm, thì có thể nâng lên đến Sự Nhất tâm Bất loạn. Đạt đến Sự Nhất
tâm, có thêm 3-5 năm nữa, thì có thể đắc Lý Nhất tâm Bất loạn, chính là Đại triệt
Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Hòa thượng Hải Hiền, chúng ta xem đĩa CD nhìn thấy
rất rõ ràng, tôi thấy ngài, 20 tuổi ngài bắt đầu niệm Phật, ngài đầy đủ điều kiện
viên mãn không thiếu khuyết. Bản tánh ngài ấy thật thà, nghe lời, thật làm, thái
độ học tập chân thành, thanh tịnh, cung kính, đó là thái độ học tập tốt nhất, ngài
đắc công phu Thành phiến: tuyệt đối sẽ không vượt quá ba năm. Lại tiếp tục tiến
về trước, đắc Sự Nhất tâm Bất loạn, tôi ước chừng ngài khoảng 30 tuổi; Đắc Lý
Nhất tâm Bất loạn, cần phải khoảng 40 tuổi, thì ngài thành Phật rồi, ngài vãng
sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, vãng sanh đến Thượng thượng phẩm của Thật Báo
Trang Nghiêm độ. Ngài vẫn còn trụ đến 112 tuổi, thời gian dài như vậy, đó là do
A Mi Đà Phật căn dặn ngài biểu pháp, làm chứng minh cho chúng ta, thật có thế
giới Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật, 48 nguyện độ chúng sanh: là thật không phải
giả.
Ngày nay Phật
pháp suy đến tận cùng, Tịnh Độ tông gặp phải đại nạn, biết bao nhiêu người đang
hủy báng, phản đối bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư, phản đối Tập Chú của Hoàng
Niệm lão, phản đối chúng ta y theo Pháp bản này tu hành, gây cho chúng ta áp lực
rất lớn! Phản đối bên ngoài, chính các đồng tu của chúng ta cũng phản đối, thậm
chí ép buộc tôi phải bỏ đi, tu Tịnh Độ thì được, dùng bản của ngài Khang Tăng
Khải, nhất định không được dùng bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư. Tôi trả lời,
người toàn thế giới đều phản đối, tôi vẫn sẽ kiên trì với bản này. Vì sao vậy?
Bởi bản này là do thầy cho tôi, tôi tin thầy sẽ không hại tôi, tôi có lòng tin
đối với thầy. Chư vị phản đối thì có thể, tôi không thể phản đối, nếu tôi phản
đối, vậy tôi trái thầy phản đạo. Thầy giao quyển này cho tôi, bảo tôi học tập,
bảo tôi kế thừa truyền tiếp, thì sao tôi có thể làm trái? Đâu có loại đạo lý ấy!
Cho nên tôi có thể giữ vững, tôi không động ý niệm.
Khó được sự việc
sau cùng của lão Hòa thượng Hải Hiền: là biểu pháp cho chúng ta, ngài cầm quyển
sách đó, đại khái chính là A Mi Đà Phật chỉ dạy ngài, lúc nào con gặp được quyển
sách ấy, thì A Mi Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn con. Cuối cùng ngài đã nhìn thấy quyển
sách đó, có người tặng cho ngài, ngài không biết chữ, chư vị đem sách gì đến? Người
ta nói sách đó gọi là: 若要佛法興,唯有僧讚僧 “Nhược
Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng” (Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán
Tăng), giống như đức Phật đã nói, thật gặp được rồi, thời gian vãng sanh đến
rồi, vui mừng không gì bằng, ngài biểu pháp viên mãn rồi. Mặc áo tràng đắp y, chủ
động yêu cầu người chụp ảnh cho ngài. Ngài bình sinh, cả đời: trước giờ chưa từng
chủ động yêu cầu người chụp ảnh, chỉ một lần đó. Sau khi chụp xong ba ngày thì
ngài đi rồi, tự tại ra đi, công đức viên mãn. Tín tâm của chúng ta càng đủ hơn,
chúng ta không đi sai đường. Thầy Lý truyền cho tôi bản này: là không truyền
sai người, tôi có thể chịu được lửa lớn nạn lớn. Dùng phương pháp nào? Đại nhẫn,
đại nhẫn có thể nhẫn. Sau cùng đức Phật đến làm chứng minh cho chúng ta, mà vẫn
còn không tin tưởng, vậy thì hết cứu rồi, không thể không hiểu điều này.
Cho nên Pháp nhãn, là trí huệ chiếu kiến tất cả Pháp môn: của
Bồ-tát độ chúng sanh, đó là thật, đó không phải giả. Trong sách Hội Sớ nói: 佛道正見,名為法眼。 “Phật đạo Chánh kiến, danh vi
Pháp nhãn” (Chánh kiến
của Phật đạo, gọi là Pháp nhãn). Phật đạo, là con đường thành Phật, Chánh
tri Chánh kiến, đó gọi là Pháp nhãn. Bất luận là Pháp môn nào, chỉ cần chư vị
giữ cho chuyên nhất, giữ cho lâu bền, thì đều có thành tựu nhất định. Cho nên
nói Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. 《淨影疏》曰:智能照法,故名法眼。由上可見,法眼者,了達眾生種種根器,善知一切救度之法,應機施與,而度脫之。 “Tịnh Ảnh Sớ viết: trí năng chiếu
pháp, cố danh Pháp nhãn. Do thượng khả kiến, Pháp nhãn giả, liễu đạt chúng sanh
chủng chủng căn khí, thiện tri nhất thiết cứu độ chi pháp, ứng cơ thí dữ, nhi độ
thoát chi” (Trong Tịnh
Ảnh Sớ nói rằng: trí có thể chiếu pháp, nên gọi là Pháp nhãn. Từ trên có thể thấy,
Pháp nhãn là: thấu đạt mọi loại căn khí của chúng sanh, khéo biết tất cả pháp cứu
độ, ứng cơ ban [pháp], mà độ thoát chúng sanh). Mấy câu nói phía sau: là do
lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói, 由上可見 “do
thượng khả kiến” (theo
trước có thể thấy), những lời tiếp theo đây: đều là lời của Niệm lão. Liễu
là hiểu rõ, đạt là thông đạt, mọi loại căn khí của chúng sanh, hiện nay chúng
sanh là dạng căn khí nào, có thể tiếp nhận pháp nào. Cho nên cần khéo biết tất
cả pháp cứu độ, pháp nhất định phải ứng cơ, không ứng cơ, thì nói ra bằng với
không nói, vì sao vậy? Bởi họ không được thọ dụng. Phật pháp nối truyền không
phải tri thức, mà là trí huệ, đầu tiên chính mình phải nhận biết chính mình, chính
mình không thể độ thoát, thì đâu có đạo lý độ được người! Độ người nhất định phải
độ chính mình trước, chính mình học Phật được thọ dụng chân thật, thì lời nói
an tâm, lời nói quả quyết rồi, vì sao vậy? Bởi không có nghi ngờ. Chính mình vẫn
chưa được độ, nửa tin nửa ngờ, thì chư vị làm sao có thể dạy người khác tin tưởng?
Đây là khó cầu Thiện tri thức, rất khó gặp được Thiện tri
thức, gặp được Thiện tri thức là duyên phận. Ba vị thầy của tôi là duyên phận lớn,
thiếu một vị cũng không thể thành công, tôi cũng không thể thành tựu. Thầy
Phương giới thiệu tôi vào cửa Phật, chúng tôi hiểu lầm Phật giáo là Tôn giáo,
là mê tín, trước giờ đều không đụng vào, không có ý niệm nói đi tiếp xúc Phật
giáo, không có. Tôi theo Phương Tiên sinh học Triết học, thầy giảng cho tôi một
bộ Triết học Khái luận, bài mục sau cùng là Triết học Kinh Phật, tôi vào cửa từ
đó. Thầy dạy tôi: đức Thích Ca Mâu Ni: là nhà Triết học vĩ đại nhất thế giới, chúng
ta học Triết học, thì Kinh điển Đại thừa: là đỉnh cao nhất của Triết học thế giới,
thầy giới thiệu với tôi như vậy: học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người.
Tôi nhập môn khác với người khác.
Ở đây tôi nhận thức được, sáng tỏ rồi, duyên rất khéo, là
có người giới thiệu tôi quen biết Đại sư Chương Gia, đó là người chuyên môn học
Phật. Thầy Phương không phải chuyên môn học Phật, thầy đọc kinh Phật, phát hiện
kinh Phật là Triết học cao cấp. Tôi gặp được Đại sư Chương Gia, vô cùng có
duyên phận, nhân duyên đời trước, gặp mặt thì sanh tâm hoan hỉ. Ngài vô cùng từ
bi, đã từ bi tiếp nhận, không phải từ bi thì không thể tiếp nhận. Cũng là một
tuần: cho tôi ít nhất là một giờ, nhiều thì hai giờ, mỗi tuần gặp một lần, tôi
thỉnh giáo ngài chỗ nghi vấn trong học tập, nghe ngài khai thị. Ba năm, ngài
viên tịch rồi, tôi theo ngài lúc ngài 65 tuổi, 68 tuổi qua đời. Qua một năm nữa,
tôi đã từ bỏ công việc, chuyên tâm học Phật, đã ở nhà tranh cùng Pháp sư Sám
Vân nửa năm. Pháp sư Sám Vân cùng lão Cư sĩ Chu Kính Trụ: hai người tiến cử tôi
thân cận thầy Lý, học Giáo cùng thầy, đó là nguyện vọng ngay trong cảm nhận của
tôi.
Lúc đó, vẫn là đem kinh Phật xem thành Triết học, theo thầy
Lý 10 năm, vậy mới chuyển đến giáo học của đức Phật, biết Phật giáo là Triết học,
cũng là Tôn giáo. Dùng hai chữ Tôn giáo này của Trung Hoa định nghĩa để xem, đó
là Tôn giáo thực sự. Chữ ‘tôn’ này của người Trung Hoa có ba ý nghĩa, thứ nhất
là chủ yếu, thứ hai là quan trọng, thứ ba là tôn sùng; ‘Giáo’ cũng có ba ý nghĩa,
là giáo dục, giáo học, giáo hóa. Hợp hai chữ Tôn giáo lại, chính là giáo dục chủ
yếu, giáo học quan trọng, giáo hóa tôn sùng. Ý nghĩa của Tôn giáo ở trong Phật
pháp Đại thừa: hoàn toàn phù hợp với trong Trung văn, hoàn toàn phù hợp với Phật
giáo, đó thực sự là giáo dục chủ yếu, giáo học quan trọng, giáo hóa tôn sùng. Trong
đó không những có Triết học cao cấp, mà còn có Khoa học cao cấp, đó là báo cáo
trong 20 năm cận đại: do nhà Cơ học Lượng tử phát hiện, cũng hoàn toàn có trong
kinh Phật. Cho nên hiện nay những nhà Khoa học phát hiện: hiện tượng vật chất,
hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên, rốt cuộc là sự việc thế nào? Đã phơi
bày câu đố của vật chất rồi, nói hoàn toàn giống với kinh Phật. Hiện nay ngoài
ra còn câu đố của hiện tượng tâm lý: vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ, chúng tôi tin
tưởng thêm 2-30 năm nữa, thì đáp án cũng sẽ được phơi bày, là bí mật của vũ trụ.
Trong Phật pháp, Tam tế tướng của A-lại-da, đức Phật nói được
rất rõ ràng trong kinh điển, Tam tế tướng đó, người dùng Ý thức thứ sáu có thể
đạt được. Nhưng họ không thể Kiến tánh, không thể thấy Tánh chính là chư vị hiểu
rõ chân tướng sự thật: mà chư vị không được thọ dụng. Nếu chư vị thấy Tánh mà
nói, thì được thọ dụng, đó chính là Phật Bồ-tát; Không được thọ dụng, thì [dù]
chư vị hiểu rõ vẫn là phàm phu, không sánh bằng niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Niệm
Phật vãng sanh Tịnh Độ, sanh đến thế giới Cực Lạc, thì đối với chân tướng sự thật
này: hoàn toàn thông đạt sáng tỏ, đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát, chư vị nói vậy
tuyệt vời không? Cho nên, dạy học phải ứng cơ ban cho, mà độ thoát chúng sanh,
việc đó rất quan trọng. 如上之智慧,即名法眼 “Như
thượng chi trí huệ, tức danh Pháp nhãn” (Trí huệ như trên, thì gọi là Pháp nhãn). Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập
117)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm viên
thành Phật quả
Rộng độ khắp
chúng sanh.
Nam Mô A
Mi Đà Phật.