PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ,
TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH.
Chủ giảng: Cô Lưu Tố Vân
Giảng ngày 18 /3/2018
Tập 9
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Hoa Tạng
Huyền Môn
Chủ giảo chánh: Thích Thiện Trang
Chư vị đồng tu tôn kính, xin chào
mọi người! A Di Đà Phật.
Phần
sau cùng của tiết học trước, chúng tôi đã giảng về ba cửa là: Không môn, Vô tướng
môn và Vô nguyện môn. Nội dung của phần này khá sâu và trừu tượng, không dễ
hiểu. Chúng ta cứ từ từ. Theo tiến độ học tập của mình, mà nhận thức rõ ràng
hơn về ba cửa này. Lục tổ Đại sư Huệ Năng nói trong Đàn Kinh rằng: “Bổn lai vô
nhất vật”. Câu nói này các đồng tu đều rất quen thuộc, đã là “vốn chẳng có một
vật” thì làm gì có tướng, làm gì có nguyện chứ? Nếu quý vị có tướng có nguyện, thì
đã có một vật rồi, phải vậy không nào? Trong tâm thanh tịnh vốn chẳng có một
vật, ba thứ ‘thể’ ‘tướng’ ‘dụng’ đều không thể chấp trước, như vậy chúng ta mới
có thể khế nhập vào chân tướng của Phật pháp. ”Không” là nói trên thể, “tướng”
là nói trên sự, “nguyện” là dựa trên tác dụng mà nói. Thể tướng dụng mặc dù đều
hữu dụng, nhưng không có tự thể, cho nên không thể chấp trước. Chân tâm của
chúng ta là gì? Đó chính là Tự-tánh của chúng ta. Chân tâm của chúng ta, Tự-tánh
của chúng ta: chính là Pháp giới Nhất chân.
Tiếp
theo xin xem hai câu cuối của đoạn Kinh văn này: “Thiện lập phương tiện hiển
thị Tam thừa”.
“Thiện” nghĩa là thiện xảo, khéo
léo. Tâm địa thanh tịnh của Tự-tánh chẳng lập một pháp nào. Năm xưa khi Phật
còn tại thế, vì sao lập ra pháp Tam thừa? Hai câu Kinh văn này, chẳng phải câu
sau: là “hiển thị Tam thừa” đó sao? Pháp Tam thừa này, Phật đã lập ra như thế
nào? Tam thừa là ba thừa nào? Là Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa, Bồ-tát thừa. Đây
là Tam thừa. Vì sao Phật phải lập ra Tam thừa? Vì tùy thuận chúng sanh mà lập
ra. Chính là tùy thuận căn tánh bất đồng của chúng sanh, mà lập ra. Trong quan
niệm của Phật có Tam thừa hay không? Không có. Chẳng những không có Tam thừa,
mà cả Nhất thừa cũng không có. Vì vậy chúng ta không được chấp trước Tam thừa, cũng
không được chấp trước Nhất thừa. Phải nhận thức rõ ràng rằng: đây là Phật tùy
thuận căn tánh của chúng sanh, mà phương tiện khéo léo lập ra.
Nhất
thừa pháp và Tam thừa pháp. Là tương đối mà nói lập ra, nhất định không được
chấp trước. Nếu quý vị chấp trước thật có Nhất thừa có Tam thừa vậy thì sai
rồi. Đó chính là vọng tưởng phân biệt.
Những
đại Bồ-tát này trong tất cả cõi nước của chư Phật tùy duyên độ chúng sanh. Ví
dụ mọi người chúng ta đều biết rằng: “Với chúng sanh cần dùng thân Phật để độ
được, thì Phật liền hiện thân Phật mà vì họ thuyết pháp, cần dùng thân Bồ-tát
để độ họ, thì liền hiện thân Bồ-tát mà thuyết pháp, nên dùng thân ngạ quỷ để độ
họ, thì liền hiện thân ngạ quỷ mà vì họ thuyết pháp”.
Đoạn
Kinh văn phía trên đã giảng xong. Chúng ta sẽ quy nạp tổng kết lại. Đoạn Kinh
văn này chủ yếu nói với chúng ta điều gì? Đoạn Kinh văn này chủ yếu nói với
chúng ta rằng: những đại Bồ-tát tham gia Pháp hội này, đối với bản thể, hiện
tướng và tác dụng: của tất cả vạn sự vạn vật đều có thể thông đạt hiểu rõ. Quý
Ngài lại dùng tâm đại từ bi, vì chúng sanh làm tấm gương hiếu kính cúng dường
cha mẹ và thầy, dẫn dắt chúng sanh ngộ nhập cảnh giới Trí giác. Trí, trí của
trí huệ. Giác, giác của giác ngộ. Dẫn dắt chúng sanh ngộ nhập cảnh giới Trí
giác. Quý Ngài tùy thuận tâm ý của chúng sanh, biến hóa ra những thân phận khác
nhau, tốc độ nhanh như ánh chớp mà lại không chấp trước. Quý Ngài làm như vậy
là vì sao? Bởi vì như vậy có thể phá tà tri ác kiến của ma, có thể tháo gỡ tất
cả trói buộc phiền-não của chúng sanh. Đoạn Kinh văn trên: nói với chúng ta những
đạo lý như vậy.
Tiếp
theo mời mọi người xem hai câu Kinh văn kế tiếp:
於此中下,而現滅度。“Ư thử trung hạ nhi hiện diệt độ” ” (Đối
với hàng trung hạ căn, mà thị hiện diệt độ).
“Trung hạ” ở đây chỉ cho chúng sanh
căn tánh trung hạ.
“Diệt độ” là tiếng Ấn Độ, tiếng Ấn
Độ còn có cách gọi khác là Niết Bàn, dịch sang tiếng Trung là “diệt độ”, cũng
có thể dịch thành “viên tịch”. Diệt độ là ý nghĩa diệt trừ phiền-não, độ thoát
sanh tử. Hai câu Kinh văn này rất đơn giản, là tướng thứ tám của Bồ-tát khi thị
hiện thành Phật: tướng Niết Bàn. Đây là vì lợi ích cho chúng sanh căn tánh
trung hạ, cho nên quý Ngài thị hiện diệt độ. Vì sao thị hiện diệt độ cho các
chúng sanh đó? Phật mượn việc này nhằm: đề cao cảnh giác việc tu học của họ.
Xin
xem đoạn Kinh văn kế tiếp:
得無生無滅諸 三摩地,及得一 切 陀羅尼門。隨時 悟 入 華 嚴
三 昧,具足總持百千三昧。住深禪定,悉覩無量諸佛。於一念頃,徧遊一切佛土。“Đắc vô sanh vô diệt chư Tam-ma-địa. Cập đắc nhất thiết
Đà-la-ni môn. Tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm Tam-muội, cụ túc tổng trì bá thiên
Tam-muội. Trụ thâm Thiền định, tất đổ vô lượng chư Phật. Ư nhất niệm khoảnh, biến
du nhất thiết Phật độ.” (Chứng đắc vô sanh vô diệt các Tam-ma-địa, cùng đắc hết
thảy môn Đà-la-ni. Tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm Tam-muội, tổng trì đầy đủ trăm
ngàn Tam-muội, nhập Thiền định sâu, thấy rõ vô lượng chư Phật. Trong Khoảng một
niệm đi khắp tất cả cõi Phật).
Mời xem “vô sanh vô diệt”, vô sanh
vô diệt chính là không sanh không diệt. “Tam-ma-địa”, tiếng Ấn Độ gọi là “Tam-ma-địa”,
thời xưa gọi là Tam-muội. Ý nghĩa của Trung văn là Chánh định, Chánh thọ. Thế
nào là Chánh thọ? Không có phân biệt, không có chấp trước, không có ưu lo và
phiền não v.v.. là sự hưởng thụ bình thường, đó gọi là Chánh thọ.
“Đà-la-ni” là tiếng Ấn Độ, ý nghĩa
Trung văn là tổng trì. Tổng là nhiếp trọn tất cả pháp. “Trì” là có thể trì vô
lượng nghĩa, cũng nói là có thể nắm trọn tổng cương lĩnh của tất cả pháp.
“Môn” là tỉ dụ cho con đường tu học
Phật pháp bắt buộc phải đi qua.
Tiếp
theo xem “Hoa Nghiêm Tam-muội”. Chúng ta thường nghe câu này, nhưng không hiểu
rõ hàm nghĩa thực sự của nó. Chữ “Hoa” ở đây: là tỉ dụ cho tất cả sự tu học thù
thắng của Bồ-tát, gọi là “hoa”. “Nghiêm” là trang nghiêm, thành quả tu hành
công đức viên mãn. Dùng thành quả tu hành viên mãn, dùng công đức tu hành: để
điểm tô hoàn cảnh sinh sống, đạt đến Phật quả chí thiện, đó chính là Hoa Nghiêm
Tam-muội.
“Tổng trì” chính là Đà-la-ni mà đoạn
Kinh văn trước đã nói, chúng tôi vừa rồi giảng về Đà-la-ni.
Tiếp
theo xem “bá thiên Tam-muội”, trăm ngàn Tam-muội này, “bá thiên” không phải là
con số cụ thể, là đại biểu ý nghĩa nhiều. “Bá thiên Tam-muội” chính là vô lượng
vô biên Chánh định. Chính là nói: sự hưởng thọ bình thường, thanh tịnh, bình
đẳng, tự tại, vui vẻ trong hoàn cảnh
cuộc sống, công việc v.v.
Chữ tiếp theo là “Thiền định”, “Thiền”
chỉ cho ngoài không dính tướng, “định” chỉ cho trong không động tâm.
“Tất đổ” chính là nhìn thấy toàn bộ.
“Nhất niệm khoảnh” biểu thị thời
gian rất ngắn.
“Biến du” là
vân du khắp nơi. Tôi đã giải thích xong các từ ngữ, tiếp theo mời xem Kinh văn
cụ thể.
Câu thứ nhất “đắc vô sanh vô diệt chư Tam-ma-địa”,
Phật vốn là bất sanh bất diệt, nhưng Ngài lại thị hiện Niết Bàn. Việc này là vì
sao? Phật vốn dĩ đã chứng đắc cảnh giới bất sanh bất diệt, Ngài nhập Niết Bàn
là để cho chúng sanh thấy, để cho hàng Nhị-thừa thấy. Những thị hiện này, những
đại Bồ-tát này quý Ngài đều là Pháp thân Đại sĩ, đều từ quả hướng đến nhân, nói
theo thông thường nghĩa là các Ngài lái chiếc thuyền từ quay trở lại biểu diễn.
Chúng sanh có cảm thì Bồ-tát có ứng. Quý
Ngài thị hiện trụ thế ở thế gian dài hay ngắn: là do duyên phận của chúng sanh,
không liên quan đến đến bản thân quý Ngài. Nếu có duyên thì Phật sẽ trụ thế, không
có duyên thì Phật diệt độ. “Có duyên thì hiện, vô duyên thì ẩn”, ẩn hiện nhất
như, không sanh không diệt đó chính là chân tướng. Vì vậy Phật Bồ-tát có thể
trụ thế bao lâu, không liên quan đến tự thân của Bồ-tát mà liên quan đến duyên
với chúng sanh. Những câu ban nãy đã nói rất rõ ràng rồi, tức là có duyên thì
Phật trụ thế, hết duyên thì Phật diệt độ. Có duyên liền hiện, vô duyên thì ẩn, ẩn
hiện nhất như, không sanh không diệt, đây chính là chân tướng.
Câu tiếp theo: “Cập đắc nhất thiết
Đà-la-ni môn”. Câu này là nói về huệ. Làm thế nào sanh huệ? Phần trước tôi đã
giảng nhiều rồi, mọi người đều nghe hiểu rõ, huệ là từ định mà sinh ra. Vì thế
Phật dạy chúng ta: phải tu định, phải tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi
tác dụng chính là trí huệ. Tâm thanh tịnh thì trí huệ hiện tiền. Đây chính là
Đà-la-ni. Tâm không thanh tịnh thì quý vị không đạt được Đà-la-ni, quý vị cũng
không thể khai trí huệ. Nếu quý vị nắm được Đà-la-ni rồi, đó là quý vị nắm được: cương
lĩnh tu học, cương lĩnh thành Phật, triển khai ra chính là tất cả pháp thế xuất
thế gian, không có pháp nào mà chẳng thông đạt. Lại nói, tất cả pháp từ đâu mà
đến? Mọi người đều biết một câu nói đơn giản: “Tất cả pháp do tâm tưởng sanh”. Chúng
ta nói cụ thể hơn: tất cả pháp đều từ chân tâm của chính chúng ta: biến hiện
ra. Đây là một cách nói khác của “tất cả pháp do tâm tưởng sanh”, từ Chân tâm
của quý vị sanh ra, tất cả pháp do tâm sanh ra, rồi lại quay trở về tâm của quý
vị. Tâm này của quý vị, chính là Chân tâm, là Tự-tánh của quý vị.
Xin nói lại lần nữa, tất cả pháp bắt
nguồn từ Chân tâm của quý vị, rồi lại quay trở về Chân tâm của quý vị. “Ngoài
tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”. Rất nhiều đồng tu chúng ta: đều tìm pháp
ở bên ngoài. Sai rồi! Pháp chính là Chân tâm của chúng ta. Đại sư Huệ Năng nói:
“Nào hay Tự-tánh vốn tự đầy đủ”. Bốn chữ “vốn tự đầy đủ” nói với chúng ta rằng:
Tự-tánh của chúng ta vốn đầy đủ. Quý vị không cần tìm ở bên ngoài. Cho nên nói:
Hoa Nghiêm Tam-muội: tự nhiên đầy đủ trăm ngàn Tam-muội. Hiểu rõ đạo lý rồi, chúng
ta còn đi đâu mà cầu nữa, hãy hướng vào Tự-tánh mà cầu, đừng hướng ra bên ngoài
cầu. Ngoài tâm cầu pháp là mê tín. Hiện nay rất nhiều đồng tu chúng ta: vẫn là
ngoài tâm cầu pháp.
Vì sao Phật bảo quý vị đoạn phiền-não? Bởi phiền-não
chướng ngại Tự-tánh của chúng ta. Tự-tánh của quý vị không thể hiện tiền, thì
trí huệ của quý vị đương nhiên chẳng thể khai. Quý vị sẽ không hiểu được chân
tướng của vũ trụ nhân sanh. Chúng ta đoạn trừ tham sân si mạn nghi, chính là
đoạn trừ sự nhiễm ô chướng ngại Tự-tánh của chúng ta. Đoạn trừ nhiễm ô rồi, thì
Chân tâm bản tánh của chúng ta tự nhiên hiện tiền. Thế nào là nhiễm ô? Kinh A Di
Đà đã nói rất rõ ràng, một câu đó là “ngũ trược ác thế”, ngũ trược ác thế: chính
là thời đại mà chúng ta hiện nay đang sống. “Trược” chính là ô nhiễm. “Kiến
trược” nghĩa là kiến giải của chúng ta đã bị ô nhiễm rồi. “Phiền não trược” là
gì? Chính là tư tưởng và cách nghĩ của chúng ta bị ô nhiễm rồi. Chân tâm của
chúng ta, tinh thần của chúng ta, thể chất của chúng ta đều bị ô nhiễm rồi. Nếu
đoạn trừ những thứ ô nhiễm này, khôi phục lại sự thanh tịnh, thì vô lượng công
đức sẽ hiện tiền. Việc này những người tu lâu năm: có lẽ nhận thức khá rõ ràng.
Những đồng tu mới đối với câu nói này, có lẽ nhận thức chưa được sâu, chúng ta
hãy cứ từ từ. Có thể nói với mọi người thế này, Phật Bồ-tát và chúng ta có chỗ
nào khác biệt? Nghĩa là chúng ta so với Phật Bồ-tát không giống ở chỗ nào? Chỗ
không giống nhau rất đơn giản, đó chính là chư Phật Bồ-tát đã đoạn trừ sự ô
nhiễm, còn ô nhiễm của chúng ta: một chút cũng chưa đoạn trừ, toàn bộ đều đang
lưu giữ, chẳng chút mảy may xả bỏ. Ngoài điều này ra, chúng ta so với Phật
Bồ-tát chẳng có khác biệt, là do Phật Bồ-tát đã đoạn trừ ô nhiễm rồi, còn chúng
ta giữ lấy ô nhiễm, không nỡ bỏ đi. Đây chính là sự khác biệt.
Tiếp theo nói đến “trụ thâm Thiền
định”. “Thiền định” ở đây là Tánh định, là Tự-tánh vốn định, là lý định. Làm
thế nào để lý giải câu “trụ thâm Thiền định”? Trước tiên chúng ta hãy nói về
Thiền định. Hiện nay phải chăng có sự hiểu lầm rằng, rất nhiều đồng tu chúng ta
cho rằng: Thiền định chính là quay mặt vào vách ngồi tu định. Lục tổ Đại sư Huệ
Năng trong “Đàn Kinh” dạy mọi người Thiền định: không phải là cách như vậy, không
phải là ngồi trên bồ đoàn, quay mặt vào vách tọa thiền. Rồi nói đây là tu Thiền
định. Lục tổ Đại sư Huệ Năng không dạy như thế. Lục tổ Đại sư Huệ Năng nói: “Ngoài
không dính tướng gọi là thiền, trong không động tâm gọi là định”. Ngoài không
dính tướng, trong không động tâm chính là Thiền định, không phải ngồi quay mặt
vào vách. Lý niệm này có bao nhiêu đồng tu có thể hiểu rõ? Nếu tôi nói như thế
này, mọi người hiểu được hay không? Mỗi ngày dạo các khu mua sắm đều là đang
tọa Thiền, cũng là đang tọa Thiền, quý vị tin được không? Đi đứng nằm ngồi đều
là tọa Thiền. Chữ “tọa” này nên hiểu như thế nào? Chữ “tọa” này không phải hiểu
theo cách của chúng ta: là ngồi xếp bằng. Chữ “tọa” này là gì? Là tỉ dụ cho bất
động. Vậy chúng ta khi ngồi Thiền thì cái gì nên bất động? Tâm không động nhưng
thân phải động. Lý giải chính xác thì: tọa Thiền là thân động, tâm không động.
Ví dụ như: có chư Phật Bồ-tát muốn
phục vụ chúng sanh, nếu thân không động thì sao các Ngài phục vụ được? Vì vậy ở
đây nhấn mạnh rằng: “tọa” chỉ cho bất động. Cái gì không động? Tâm không động. Nếu
quý vị đến Thiền đường, quý vị ngồi xếp bằng, thân của quý vị ngồi ở đó, nhưng
trong tâm quý vị vọng tưởng lăng xăng, như vậy căn bản là quý vị không phải
đang tọa Thiền, quý vị cũng không tu được Thiền. Vì vậy nói: Thân ngồi ở đó,
tâm khởi vọng tưởng, hoàn toàn sai rồi! Cho nên ở đây tôi xin nhắc nhở chư vị
đồng tu, thế nào là Thiền định? Dùng một câu như vầy để khái quát: “Bên trong
phải tiêu trừ phiền-não tham sân si mạn nghi, bên ngoài không bị dụ hoặc bởi
danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, đó chính là Thiền định”. Tôi xin nói lại
câu này: “Bên trong phải tiêu trừ phiền-não tham sân si mạn nghi, bên ngoài
không không bị dụ hoặc bởi danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, đó chính là
Thiền định”. Thiền định này chính là:Thủ Lăng Nghiêm
Đại Định được nói trong Kinh Lăng Nghiêm.
Tiếp theo nói
đến “Tất đổ vô lượng chư Phật”. Câu nói này có thể rất nhiều đồng tu không hiểu
được, “ngay cả một vị Phật tôi còn chưa nhìn thấy, nói chi đến thấy vô lượng
chư Phật chứ?” Chẳng phải Phật không ở trước mắt chúng ta, mà Phật đang trước
mắt chúng ta nhưng chúng ta không nhận ra, chúng ta không nhìn ra được. Vì sao
nói như vậy? Chư Phật ở nơi đâu? Chúng sanh trong đại địa vốn dĩ là Phật, chúng
sanh hữu tình vốn dĩ là Phật, chúng sanh vô tình vốn dĩ cũng là Phật. Nếu quý
vị hiểu những câu nói này, nhận thức rõ ràng rồi, thì lúc này chúng ta sẽ phát
hiện rằng: hóa ra tất cả chúng sanh vốn dĩ đều là Phật. Điều này cũng không dễ
dàng hiểu được. “Chúng tôi chưa nhìn thấy Phật bao giờ, vì sao cô nói hữu tình
chúng sanh vốn là Phật, chúng sanh vô tình cũng vốn là Phật, chúng sanh trong
đại địa vốn dĩ là Phật?” Đây là tướng chân thật, chỉ vì chúng ta chưa nhận thức
được thôi. Nói thấy Phật thì kiến tánh, kiến tánh thì thành Phật. Bởi vì chúng
ta không nhìn thấy Phật, không nhận ra Phật, nên chúng ta chưa kiến tánh. Chúng
ta chưa kiến tánh, thì chúng ta chưa thành Phật. Nói khi chúng ta mê hoặc điên
đảo, thì thấy được điều gì? Thấy tướng. Nhìn thấy tướng đó thì chúng ta chấp
vào tướng.
Mắt của người ta nhìn thấy là Nhất
chân pháp-giới, còn chúng ta nhìn thấy là Thập pháp-giới. Vì vậy người ta thấy
được Phật, còn chúng ta không thấy được Phật. Thấy Phật thì thành Phật, đây là
chân tướng sự thật. Hiện nay quý vị nói: “Một vị Phật tôi còn chưa thấy”, cho
nên quý vị chưa kiến tánh được. Chưa kiến tánh thì quý vị chưa thành Phật được.
Làm thế nào để chúng ta thấy được Phật? Nếu quý vị nhìn tất cả chúng sanh đều
là Phật. Vậy chúc mừng quý vị, quý vị thành Phật rồi.
Trong mắt Phật nhìn tất cả chúng sanh
đều là Phật; Bồ-tát nhìn tất cả chúng sanh đều là Bồ-tát; Phàm phu nhìn ai cũng
đều là phàm phu, thậm chí nhìn Phật Bồ-tát cũng là phàm phu. Còn quỷ thì nhìn
thấy tất cả đều là quỷ. Một người ác nhìn tất cả mọi người: cảm thấy không có
ai là người tốt cả, đều đáng ghét. Người thiện nhìn tất cả mọi người đều là
hiền lành. Cho nên cảnh giới có tốt xấu hay không? Cảnh giới không có tốt xấu,
không có thiện ác, thiện ác tốt xấu do đâu? Do tâm của chính chúng ta. Tâm của
quý vị không thanh tịnh, thì giống như đã nói ở trước: cảnh giới mà quý vị nhìn
thấy sẽ không thanh tịnh. Cho nên kinh Phật nói với chúng ta: “Cảnh tùy tâm
chuyển”. Đây là một chân lý. Nếu chúng ta nhìn người này không vừa mắt, nhìn
người kia khó ưa, đó là do phiền-não của quý vị khởi hiện hành, chẳng mảy may
liên quan đến cảnh giới bên ngoài. Người tu hành chân chánh: hạ thủ công phu
trên phương diện này. Nếu thường xuyên trách móc người khác, thường xuyên phê
bình người khác, thường thấy lỗi của người khác, không biết nhìn lỗi của chính
mình, đó là mê hoặc điên đảo. Quý vị đã làm vấn đề điên đảo rồi, đó không phải
là người tu hành. Đại sư Huệ Năng nói rất hay: “Nếu người chân tu đạo, không
thấy lỗi thế gian”. Câu này chúng ta thường nói, thậm chí cũng để ở trên miệng,
thế nhưng chúng ta vẫn cứ: nhìn lỗi của người khác, nói lỗi của người khác. Như
vậy chúng ta làm sao để sửa đổi đây? Nếu quý vị nhìn thấy lỗi của người khác, quý
vị hãy lập tức phản tỉnh lại chính mình, quý vị có thể nhận thức lỗi lầm này là
của chính mình, tuyệt đối không phải của người khác, như vậy mới thật sự là
người chân chánh tu đạo. Nghĩa là nói: nhìn thấy lỗi của người khác, thì xét
lại bản thân, nhận thức được lỗi lầm này là lỗi của chính mình, không liên quan
đến hoàn cảnh bên ngoài. Nhận thức này của quý vị đúng rồi! Quý vị chính là
người tu đạo chân thật.
Đoạn Kinh văn phía trên xin giảng đến
đây, chúng tôi xin quy nạp đoạn Kinh văn này. Đoạn Kinh văn này là nói: Chư đại
Bồ-tát tuy thị hiện diệt độ, nhưng trên thực tế quý Ngài đã chứng đắc: cảnh
giới bất sanh bất diệt, đồng thời cũng nắm được: tổng cương lĩnh về đạo lý của
tất cả sự vật, tùy thời có thể thông đạt hiểu rõ bản tâm của chính mình, cũng
trọn đủ vô lượng vô biên Tam-muội. Quý Ngài an trụ trong Thiền định rất thâm
sâu, cũng chính là đang an trụ trong niệm Phật Tam-muội, có thể nhìn thấy được
vô lượng vô biên chư Phật. Trong khoảng thời gian rất ngắn, có thể du ngoạn
thăm quan vô lượng cõi nước chư Phật, lễ bái cúng dường chư Phật. Đoạn kinh văn
trên chính là biểu đạt ý nghĩa như vậy.
Tiếp theo mời xem đoạn Kinh văn kế
tiếp:
得 佛辯才,住普賢行。 善 能分 別 眾 生 語 言,開化顯示真實之際。超過世間諸所有法“Đắc
Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh. Thiện năng phân biệt chúng sanh ngữ
ngôn. Khai hóa hiển thị chân thật chi tế, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp. ” (Được
biện tài của Phật, trụ vào hạnh nguyện Phổ Hiền. Thông đạt ngôn ngữ các chúng
sanh, khai hóa hiển thị bờ mé của chân thật, vượt khỏi tất cả các pháp thế gian).
Trước tiên xem từ “biện tài”. Biện tài
là có thể linh hoạt xảo diệu đối cơ thuyết pháp. Thông thường chúng ta nói là
ứng cơ thuyết pháp.
“Khai hóa” là
khai đạo giáo hóa.
“Hiển thị” là
chỉ ra rõ ràng.
“Chân thật chi
tế”: chính là tướng chân thật của lý thể, hiện tướng tác dụng của tất cả pháp.
Chúng ta xem câu thứ hai: “Đắc Phật
biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh”. Mọi người chúng ta đều biết Phật có biện tài vô
ngại, không có bất kỳ chướng ngại nào. Chỉ khi có được năng lực biện tài vô
ngại, thì mới có thể giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh ở thế giới Ta Bà chúng ta
có nhĩ căn nhạy nhất. Chẳng phải có câu rằng: “Thử phương chân giáo thể, thanh
tịnh tại âm văn”. Cho nên thế giới Ta Bà: chủ yếu dùng âm thanh để giáo hóa
chúng sanh. Đó chính là giảng Kinh thuyết Pháp. Âm thanh chính là biện tài. Thế
nên ở thế giới Ta Bà hiện nay có đồng tu phát tâm: tương lai muốn giảng Kinh
thuyết Pháp. Quý vị hiện tại đang sống ở thế giới Ta Bà, ở thế giới Ta Bà căn
tai của chúng sanh là nhạy nhất, cần phải dùng âm thanh để giáo hóa chúng sanh,
cho nên quý vị nhất định phải được biện tài của Phật. Nếu quý vị không đắc được
biện tài của Phật, quý vị sẽ không cách nào giáo hóa được chúng sanh.
Nếu chúng ta muốn có được biện tài của
Phật, việc này đối với chúng ta mà nói là tương đối khó khăn, không phải nói
được thì sẽ có được, cũng chẳng phải nói cầu thì sẽ cầu được. Dùng phương pháp
gì mới có thể được biện tài của Phật? Có một phương pháp: “Cầu cảm ứng, cầu
Phật lực gia trì”. Có thể có đồng tu vừa nghe câu này sẽ không thể hiểu được. “Cô
giáo Lưu vì sao lại bảo chúng ta cầu cảm ứng chứ?” Câu sau có lẽ không quá phản
cảm, nhưng với câu thứ nhất có lẽ có đồng tu sẽ phản cảm. “Cầu cảm ứng, cầu
Phật lực gia trì”.
Dùng phương pháp gì để cầu cảm ứng, cầu
Phật lực gia trì? Quý vị nghe hiểu lời giải thích này rồi, thì sẽ không nghi
hoặc nữa. Dùng phương pháp gì để cầu cảm ứng vậy? “Trụ Phổ Hiền hạnh”. Phẩm
Kinh chúng ta này chủ yếu nói về Phổ Hiền, nên phương pháp cầu cảm ứng ở đây: chính
là trụ vào hạnh Phổ Hiền. Có thể cảm với hạnh Phổ Hiền thì Phật biện tài mới có
thể ứng. Đây chính là “cảm ứng” trong “cầu cảm ứng” mà phía trước tôi đã nói, đó
gọi là cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm thì Phật Bồ-tát có ứng. Nếu quý vị
không thực hành hạnh Phổ Hiền, quý vị không có hạnh Phổ Hiền, chỉ cầu Phật biện
tài, thì bất luận thế nào cũng không cầu được. Quý vị muốn đắc Phật biện tài, thì
bắt buộc phải thực hành hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là gì? Chính là lúc trước
chúng tôi đã giảng qua: Là Phổ Hiền Bồ Tát Thập Đại Nguyện Vương.
Ở đây tôi xin nói một chút, về trải
nghiệm của chính mình: đối với sự cảm ứng, cảm ứng đạo giao. Bao nhiêu năm qua
tôi thật sự đã đích thân cảm nhận. Xin nêu một ví dụ. Như ngày 4 tháng 4 năm
2010, tôi lần đầu tiên đến Hồng Kông gặp Sư phụ. Trước khi đi không có người
nào nói với tôi: khi đến nơi tôi sẽ giảng bài cho mọi người cả. Tôi không nhận
được thông báo đó. Tôi cho rằng mình đến Hồng Kông là đi gặp Sư phụ. Sau khi
đến nơi, tôi còn nhớ ngày đó, sau khi ăn tối xong vào khoảng 6 giờ, lúc đó có
đồng tu Hồng Kông nói với tôi: “Cô giáo Lưu à! Từ 7 đến 9 giờ, chúng tôi sắp
xếp một buổi giảng cho cô có được không ạ?” Lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông tôi
chẳng quen ai, sao tôi có thể vô lễ mà nói “không” được chứ? Tôi đã lấy hết can
đảm mà nói “được ạ!”. Sau đó đồng tu này hỏi tôi: “Cô giáo Lưu à, cô có bản
thảo bài giảng không?” Tôi nói: “Không có”. Cô có đề cương không? Tôi nói không
có. Cô có đề mục không? Tôi nói không có. Cô ấy hỏi: “Cô sẽ giảng gì?” Tôi nói:
“Tôi không biết, cô hỏi Sư phụ xem sao”. Sau đó cô ấy dẫn tôi đi hỏi Sư phụ, nói
với Sư phụ là: “Cô giáo Lưu không có bản thảo bài giảng, không có đề cương,
không có đề mục, cô ấy giảng gì ạ?” Sư phụ nói một câu: “Cô ấy sẽ xứng tánh mà
giảng, ngồi xuống thì sẽ biết giảng”. Sư phụ đã trả lời hai câu như thế, trước
đây tôi đã kể với mọi người rồi. Câu thứ nhất “xứng tánh mà giảng”, tôi không
hiểu ý nghĩa là gì, tôi nghe không hiểu. Thời gian lâu rồi, tôi không nhớ câu
nói này nữa. Câu thứ hai thì tôi nghe hiểu: “Ngồi xuống thì sẽ biết giảng”. Lúc
đó, ngày đó tôi thật sự đã lên ngồi, tôi nghĩ đó là bảo tòa giảng pháp của Sư
phụ, chắc chắn rất linh. Lúc đó tôi không biết thế nào là gia trì, tôi không
hiểu, tôi nói: “Chắc chắn cái ghế đó rất linh, ai ngồi vào đều sẽ biết nói”. Thế
nên tôi không hề hoảng hốt chút nào. Quý vị thấy tôi chẳng có gì cả, có thể nói
là “ba không và hai không”. “Ba không” là không có bản thảo, không có đề cương,
không có đề mục. “Hai không” là hai tay trống không, đầu óc trống không, mà tôi
bước lên đó. Nếu tôi biết không phải là như thế, thì sao tôi dám bước lên ngồi
đó được? Vì câu nói thứ hai của Sư phụ là: “Ngồi xuống thì sẽ biết giảng”, tôi
nghĩ Sư phụ không lừa tôi đâu, nên tôi đến đó ngồi. Kết quả sau khi ngồi xuống thì
thao thao bất tuyệt hai tiếng đồng hồ, không ngừng tuôn trào. Chính tôi cũng
ngạc nhiên: mình nói gì thế nhỉ! Sau khi giảng xong bước xuống tôi hỏi Sư phụ. Tôi
nói: “Sư phụ à, con đã nói nhảm gì thế ạ?” Sư phụ nói: “Tốt tốt tốt”. Khi Sư
phụ nói “tốt tốt tốt” thì tâm của tôi vững vàng hơn, chứng tỏ tôi không nói
sai.
Tôi nêu lên ví dụ này để nói điều gì? Việc
này đích thực là Phật lực gia trì, nếu không có Phật lực gia trì, thì tôi làm
sao giảng được trong 2 giờ. Nếu họ báo trước tôi có nhiệm vụ giảng bài, tôi ở
nhà chuẩn bị bài, thì còn có chút để nói, đằng này không chuẩn bị tư tưởng chút
nào. Chưa kể, sau khi giảng xong buổi đầu, tôi cho rằng mình hết việc rồi. Nhưng
đồng tu Hồng Kông lại nói với tôi: “Cô giáo Lưu à, cô còn 6 buổi giảng nữa. Lần
này cô đến đây có nhiệm vụ giảng tổng cộng 7 buổi”. Tôi thật sự có chút ngớ
người. Khó khăn lắm mới giảng được một buổi, dù sao cũng phải ráng nói, còn đến
6 buổi thì tôi biết nói gì bây giờ? Không có cách nào, đã sắp đặt như vậy rồi, thì
đành phải cố gắng nói thôi. Vì vậy nếu quý vị bây giờ xem lại, bảy buổi giảng
trong lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông, quý vị sẽ thấy biểu hiện của tôi rất là
ngớ ngẩn. Bởi vì đầu óc và tay chân của tôi đều thực sự trống rỗng: khi giảng 7
buổi đó. Cho nên đây là cảm nhận đích thực của bản thân tôi. Lúc đó tôi không
cầu cảm ứng, vì tôi không biết, tôi cũng chẳng hiểu, thế nhưng tôi rõ ràng cảm
nhận được Phật lực gia trì. Đó không phải là bản lĩnh của tôi, không phải là
năng lực của tôi, tôi không có biện tài như thế.
Đoạn này liên quan đến đến “đắc Phật
biện tài”, tức là nói: khi chúng ta phát tâm muốn giảng Kinh hoằng Pháp, thì
các đồng tu hoặc các Pháp sư, quý vị nhất định phải “được biện tài của Phật”. Thông
qua việc hành hạnh Phổ Hiền để cầu cảm ứng, cầu Phật lực gia trì. Nếu quý vị
không hành hạnh Phổ Hiền, mà chỉ cầu Phật lực gia trì, chỉ mong cầu biện tài
của Phật, thì quý vị sẽ không cầu được.
Tiếp theo sẽ nói về câu Kinh văn kế
tiếp: “Thiện năng phân biệt chúng sanh ngữ ngôn, khai hóa hiển thị chân thật
chi tế”.
Qua hai câu Kinh văn này chúng ta biết
rằng đối với tất cả ngôn ngữ của chúng sanh, không có ngôn ngữ nào mà Phật
không biết hay không hiểu. Chính là ngôn ngữ của chúng sanh, Phật hoàn toàn
hiểu rõ, không cần phiên dịch. Như chúng ta nghe tiếng nước ngoài vẫn cần phiên
dịch, Phật thì không cần. Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh Phật đều biết. Chỉ có
hiểu ngôn ngữ của chúng sanh, thì quý vị mới kết nối được với chúng sanh, có
phải vậy không? Nếu chúng ta không hiểu ngôn ngữ của chúng sanh, ví dụ con chim
nó hót điều gì, chúng ta không hiểu.
Tôi xin nêu một ví dụ cho mọi người. Đạo
tràng mà tôi ở hiện giờ, bởi vì bốn bề đều là núi, trên núi có cây. Có một ngày
sau bữa ăn tối, lúc đó là mùa hè, chúng tôi ở bên ngoài cửa lớn trò chuyện, chợt
có một đồng tu nói với tôi: Cô giáo à! Cô nhìn kìa: trên cái cây phía trước có
gì vậy? Tôi hỏi: có việc gì? Có một con chim tiếng kêu vô cùng lớn, ríu ra ríu
rít, mà bộ dạng rất khẩn trương, kêu mãi không ngừng. Nó kêu lên một tiếng, thì
tôi phát hiện những con chim ở bốn phía, từng bầy từng bầy: bay đến cây đó rồi
tập hợp lại. Tôi nói: “Có lẽ bọn chúng đang chuẩn bị mở cuộc họp. Con chim đó
là thủ lĩnh, nó vừa ra lệnh thì những con chim nhỏ kia đều bay đến”. Lúc đó
chúng tôi đều cười. Tuy nhiên, hiện nay quý vị đọc câu Kinh văn này, quý vị có
thể suy xét: đó xác thật là ngôn ngữ của chúng hay không, nhưng chúng ta nghe
không hiểu mà thôi. Phật Bồ-tát đối với ngôn ngữ của chúng: đều hiểu rõ ràng, vì
thế mà độ hóa tốt hơn, độ càng nhiều chúng sanh hơn. Chúng ta hiện nay không có
năng lực như thế.
Dùng phương pháp gì để độ? Chính là
câu kế tiếp: “Khai hóa hiển thị chân thật chi tế”. “Khai” là khai đạo, là khai
thị, chính là dạy học. Còn “hóa”: là chỉ cho sau khi học sinh nhận được sự dạy
bảo, sẽ phát sinh sự biến hóa, trong tâm phát sinh sự biến hóa. Đó gọi là “khai
hóa”.
“Hiển thị chân thật chi tế, chính là
đem chân tướng của vũ trụ nhân sanh, nói với chúng sanh, khiến chúng sanh hiểu
rõ.
Trước đây tiêu chuẩn giáo dục của nhà
Nho chúng ta: chính là thay đổi khí chất của học sinh, chuyển khí chất của phàm
phu: thành khí chất của Thánh hiền, đề cao đức hạnh. “Hóa” trong nhà Nho, chẳng
phải ở đây nói “giáo hóa” đó sao? Chữ “hóa” này, nhà Nho có ba tiêu chuẩn. Đó
là gì? Thượng phẩm là Thánh nhân, trung phẩm là Hiền nhân, hạ phẩm là Quân tử. Đây
là tiêu chuẩn dạy học của nhà Nho.
Tiêu chuẩn dạy học nhà Phật của chúng
ta cũng có ba phẩm: thượng trung hạ. Thượng phẩm là minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật, đây là thượng phẩm. Trung phẩm là thành Bồ-tát. Hạ phẩm là
thành A-la-hán. Ngoài ra trong Phật pháp còn có 3 phẩm thượng trung hạ. Thượng
phẩm là thành tựu lý-nhất-tâm-bất-loạn, trung phẩm là thành tựu
sự-nhất-tâm-bất-loạn, hạ phẩm là thành tựu công phu thành-phiến. Sau “giáo”
phải có “hóa”, nếu giáo mà chẳng hóa, thì dạy uổng công, vô dụng rồi. Cho nên
thầy thì phải khai, phải dạy, đó chính là giáo. Học sinh thì phải hóa, nghĩa là
sau khi học, thì phải thay đổi khí chất, phải siêu phàm nhập thánh.
Chúng ta nghe lão Pháp sư giảng Kinh
thuyết Pháp bao nhiêu năm qua, khí chất của chúng ta có thay đổi chưa? Khoan
nói đến thay đổi lớn, thay đổi nhỏ có hay không? Thay đổi vừa có hay không? Nếu
chúng ta nghe lão Pháp sư giảng Kinh 20-30 năm rồi, mà khí chất không hề thay
đổi chút nào, nói thật lòng thì thầy đã dạy uổng công rồi, không “hóa” được
chúng ta phải vậy không? Thầy thì dạy, còn chúng ta phải hóa. Chúng ta hóa
không tốt, hóa không đủ, Cho nên phải tiếp tục hóa. Nội dung dạy học là “hiển
thị chân thật chi tế”. “Chân thật chi tế” chính là Chân như Bản tánh, cũng
chính là chư pháp thật tướng, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Những cách nói
này đều có cùng một ý nghĩa. “Chân thật chi tế” chính là Chân như Bản tánh, chính
là thật tướng các pháp, chính là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Chúng ta vốn
mê mất rồi, Phật vì chúng ta hiển thị sự thật, là để chúng ta hiểu rõ, khiến
chúng ta khế nhập cảnh giới ấy. Cảnh giới ấy là cảnh giới nào? Là cảnh giới của
Phật.
Câu tiếp theo: “Siêu quá thế gian chư
sở hữu Pháp”. Tất cả giáo dục của thế gian, không thể sánh với Phật pháp. Duy
chỉ có giáo dục của Phật là chân thật, có thể khiến chúng ta hiểu rõ triệt để: thật
tướng của vũ trụ nhân sanh. Nói với chúng ta, dạy bảo để chúng ta: nhận thức
rằng nhân sanh là chính chúng ta, vũ trụ chính là hoàn cảnh sinh sống của chúng
ta. Phật pháp nói với chúng ta điều gì? Hiểu rõ một chút rồi, thì thấy Phật
pháp là dạy chúng ta nhận thức chính mình, nhận thức về tất cả hoàn cảnh sống
của chính chúng ta, chính là điều này, vô cùng đơn giản!
Chúng ta hiện nay đã nhận thức được
chính mình chưa? Ví dụ như quý vị từ đâu đến? Quý vị đến đây để làm gì? Tương
lai quý vị sẽ đi về đâu? Bản thân quý vị hiện nay có nhận thức được chăng? Hoàn
cảnh đời sống của chúng ta quý vị đã nhận thức được chưa? Đó là nhận thức chính
xác hay không? Đây thật sự là một vấn đề: mà chúng ta cần phải nghiêm túc suy
nghĩ. Phật pháp không phải dạy chúng ta trường sanh bất lão, không phải dạy
chúng ta lên trời. Có người nói Phật pháp là tiêu cực, Phật pháp là mê tín. Mọi
người xét xem: nội dung của các buổi học trước đến giờ, có nội dung nào là mê
tín hay không? Nên chúng ta nói Phật pháp là tích cực, không phải mê tín.
Tôi xin tổng kết lại đạo lý: mà đoạn
Kinh văn này đã nói với chúng ta. Đoạn Kinh văn này nói với chúng ta, chư đại
Bồ-tát: đã chứng đắc trí huệ Vô thượng tương ưng với đức Phật, đắc được biện
tài vô ngại giống như Phật, an trụ trong đại hạnh của Phổ Hiền Bồ-tát, dùng
mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Đối với tất cả văn tự ngôn ngữ của chúng
sanh, quý Ngài đều có thể tự nhiên thông đạt, tùy cơ thuyết pháp. Nên có thể
phương tiện khai thị: chân tướng sự lý của tất cả pháp, giáo hóa tất cả chúng
sanh thảy đều thông đạt hiểu rõ. Vì thế mà tán thán quý Ngài siêu vượt tất cả
pháp thế gian. Đây chính là vấn đề: mà đoạn Kinh văn trên nói rõ với chúng ta.
Xin xem đoạn Kinh văn kế tiếp:
心常諦住度世之道。於一切萬物隨意 自在。為諸庶類作不請之友。受持如來甚 深 法 藏,護佛 種 性 常使不絕。“Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tùy ý tự tại. Vị chư thứ
loại, tác bất thỉnh chi hữu. Thọ trì Như Lai, thậm thâm Pháp tạng. Hộ Phật
chủng tánh, thường sử bất tuyệt. ” (Tâm thường trụ trong đạo độ thế; Đối
với vạn vật tùy ý tự tại; vì các loài chúng sanh mà làm bạn không mời. Thọ trì
Pháp tạng rất sâu của Như Lai, hộ trì giống Phật khiến không dứt).
Từ “đế trụ” có
nghĩa là gì? Nghĩa
là chân thật an trụ. Đế trụ là chân thật an trụ.
“Độ thế chi đạo” nghĩa là gì vậy? Là
lý luận và phương pháp để giáo hóa chúng sanh.
“Vạn vật” là chỉ tất cả Pháp.
“Tự tại” ở đây nghĩa là thông đạt vô
ngại.
“Thứ loại” là chỉ cho tất cả hữu tình
chúng sanh.
“Thọ” trong “thọ trì” nghĩa là tiếp
nhận, “trì” là giữ gìn không để mất đi.
“Như Lai thậm thâm Pháp tạng”: là
chỉ cho tất cả Kinh điển mà Như Lai đã nói. Trong bổn tông chính là Kinh Vô
Lượng Thọ và câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Không chỉ đối với bổn tông, mà đối với
Tông môn Giáo hạ khác cũng là như vậy.
“Hộ” là bảo hộ, hộ trì. “Phật chủng
tánh” là tâm Bồ-đề và xưng danh hiệu Phật.
Mời
xem câu đầu tiên: “Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo”. Tâm của Phật Bồ-tát thật
sự: luôn luôn an trụ trong đạo độ thế. Tâm của Phật Bồ-tát chính là giúp đỡ tất
cả chúng sanh: phá mê khai ngộ lìa khổ được vui, giúp đỡ chúng sanh nhận thức
chính mình, nhận thức hoàn cảnh sinh sống của chính mình, nhận thức chân tướng
của tất cả sự vật. Tâm của quý Ngài là tâm này, việc quý Ngài làm là việc này. Những
sự việc khác trong thế gian, người khác có thể làm thì giao cho họ làm. Sự việc
này, người thế gian không làm được, Phật Bồ-tát đến làm.
Sự nghiệp độ thế thì cần phải làm, đây
là việc chúng sanh thế gian không thể làm được.
Sự
việc mà Phật Bồ-tát: làm ở thế gian, chính là dạy học. Khoa mục, nội dung và
phương pháp dạy học: so với việc dạy học trong thế gian hoàn toàn khác nhau. Dạy
học trong Phật môn: nhất định phải dùng phương pháp trong nhà Phật. Phương pháp
đó chính là hạ thủ từ Tam học Giới Định Huệ. Tam học Giới Định Huệ là học vấn
căn bản. Nếu quý vị không có học vấn như thế, thì chính mình không thể liễu
sanh tử, không thể xuất Tam giới. Việc của chính mình mà quý vị không làm rõ, không
thể dứt sinh tử, không thể thoát Tam giới, thì quý vị làm sao để độ chúng sanh?
Vì vậy có năng lực này, thì quý vị hãy phát tâm độ chúng sanh, hành Bồ-tát đạo,
mới có thể học giảng Kinh thuyết Pháp độ chúng sanh. Quý vị phải biết từ đâu mà
hạ thủ? Từ Giới Định Huệ mà hạ thủ.
Lại
nói, giảng Kinh nên học từ đâu? Đây là một vấn đề tương đối mới mẻ. Giảng Kinh
phải học từ đâu? Mọi người nói giảng Kinh thì học từ Kinh điển, quý vị muốn
giảng Kinh thì phải học Kinh đọc Kinh nghe Kinh, không hoàn toàn như thế. Giảng
Kinh là phải đem Kinh điển trong Tự-tánh khởi phát ra. Câu nói này hết sức quan
trọng! Cần phải phát khởi được Kinh điển trong Tự-tánh, giảng chân Kinh của Tự-tánh.
Câu nói này vô cùng quan trọng. Khi tôi xem đến đoạn này, bản thân vô cùng kinh
ngạc. Trước giờ tôi chưa nghe câu “giảng Kinh là giảng chân Kinh trong Tự-tánh
của chính mình”. Tôi nghe không hiểu. Lần này tôi viết bản thảo bài giảng, thì
mới hiểu rõ ràng minh bạch đoạn này. Quý vị giảng Kinh là giảng Kinh gì? Chính
là giảng chân Kinh trong Tự- tánh của quý vị, chẳng phải giảng bộ Kinh nào
khác, không phải giảng Kinh ở bên ngoài. Ví dụ: hiện nay tôi đã hiểu đến mức độ
nào rồi? Chính là hiện nay tôi giảng Kinh Vô Lượng Thọ, thì tôi đang giảng Kinh
Vô Lượng Thọ trong Tự-tánh của chính mình. Kinh Vô Lượng Thọ trong Tự-tánh của
tôi, so với Kinh Vô Lượng Thọ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật: là không hai không
khác, đó là nhất trí.
Cho
nên nói: nếu trí huệ trong Tự-tánh không thể hiện tiền, thì điều được nói ra: sẽ
không có sức thuyết phục và sức nhiếp thọ. Tôi đã hiểu được điều này. Nếu điều
mà quý vị nói ra là giả, thì người khác nghe sẽ không cảm động. Tôi có cảm nhận
như thế nào vậy? Chính là nếu những điều mà tôi viết, những điều tôi giảng có
thể khiến chính tôi cảm động, thì chứng tỏ là tương đối thành công. Nếu những
điều tôi viết và tôi giảng, ngay cả chính mình còn không cảm động được, thì
chứng tỏ việc này thất bại rồi. Đây là cảm nhận khá sâu sắc trong hơn một năm
qua của tôi. Trước đây tôi nghĩ: chỉ cần nói lời chân thật, làm chân thật là đủ
rồi. Hiện nay xem ra chưa đủ. Nếu quý vị muốn giảng Kinh muốn hoằng pháp lợi
sanh, thì nhất định phải giảng ra được: chân Kinh trong Tự-tánh của chính mình.
Như vậy mọi người nghe rồi, mới nhận được lợi ích chân thật.
Làm
thế nào có thể đem chân Kinh trong Tự-tánh: dẫn phát ra? Đây là một việc khó, chẳng
phải ai muốn giảng chân Kinh trong Tự-tánh thì ngay lập tức có thể giảng ra
được, việc này cần phải có một quá trình. Để dẫn phát chân Kinh trong Tự-tánh
của quý vị, thì phương pháp chủ yếu then chốt là ở đâu? Then chốt là tâm thanh
tịnh. “Thanh tịnh chính là Tự-tánh”. Đây có thể nói là thể hội của bản thân tôi:
trong hơn 20 năm học Phật. Vì sao con đường học Phật của tôi: cho đến bây giờ, có
được một chút tiến bộ nho nhỏ? Nguyên nhân là vì tâm của tôi khá thanh tịnh. Trước
đây tôi không biết tại sao, tôi có thể biết một số việc. Sau đó Sư phụ nói với
tôi, ngài nói: “Chủ yếu là do tâm của con thanh tịnh, tâm của con thanh tịnh
nên tín hiệu nhạy bén, cho nên điều mà người khác không biết, thì con có thể
biết”. Vì thế tôi biết rằng: tâm thanh tịnh quan trọng đến mức nào. Còn nhớ 2
ngày trước khi chúng tôi trò chuyện với nhau, tôi nói: người cần có tư tưởng
đơn giản, đầu óc đơn giản, đó chính là nền tảng chân thực của tu hành. Nếu một
người có tư tưởng rất phức tạp, tâm quá loạn, tôi nói: không có lợi cho tu
hành, không có ích cho sự thành tựu. Tôi thật sự nghĩ như vậy. Bởi vì tôi từ
nhỏ đến giờ, cho dù đã hơn 70 tuổi, nhưng đầu óc vẫn còn đơn giản. Cho nên nói
một cách tương đối thì tâm của tôi: thanh tịnh hơn chút so với một số người. Bởi
vì thanh tịnh chính là Tự-tánh. Khi tôi thanh tịnh rồi, thì Tự-tánh tôi sẽ hiển
lộ nhiều hơn một chút. Hiện nay không phải nói Tự-tánh tôi hoàn toàn hiển lộ rồi,
mà đang hiển lộ dần dần, thêm một chút, thêm một tí.
Cho
nên trong tất cả phương pháp và phương tiện, có hai phương diện mà tôi đích
thân thể hội, và cảm thấy rất quan trọng. Đó là hai điều gì? Điều thứ nhất là
biết đủ, điều thứ hai là không mong cầu. Đơn giản vậy thôi! Tôi nói, nếu quý vị
muốn đem chân Kinh trong Tự-tánh của chính mình: khởi phát ra, mà thiếu sự biết
đủ, thiếu sự không mong cầu, thì sẽ không làm được, quý vị sẽ không khởi phát
ra được. Bởi vì sao? Bởi khi biết đủ và không mong cầu thì tâm sẽ định. Tôi rất
tin tưởng điều này. Bởi con người của tôi: rất biết đủ, tôi trước giờ chưa từng
có mong cầu đối với bất kỳ điều gì. Có thể nói hai điều kiện biết đủ và không
mong cầu: tôi đều có đủ, cho nên tâm tôi đã định rồi. Định chính là đã thanh
tịnh, thanh tịnh thì trí huệ hiện tiền. Hai ngày trước tôi đã nói nửa đùa nửa
vui: với các đồng tu. Tôi nói: “Hiện nay tôi cảm thấy: trí huệ lại tăng trưởng
được một chút”. Làm sao đo được? Trước đây khi gặp phải một số vấn đề nan giải,
tôi đều phải động não suy nghĩ: việc này nên giải quyết thế nào. Còn hiện nay
khi việc chợt diễn ra trước mắt, tôi lập tức biết nên làm thế nào. Bản thân tôi
lại ba hoa khoác lác nữa rồi. Tôi nói vậy phải không? Trí huệ hiện tiền nhanh
hơn so với trước đây.
Ví
dụ nếu quý vị không biết đủ, quý vị vẫn còn mong cầu nhiều thứ, thì tâm quý vị
có lẽ rất lâu mới định được. Xin nêu lên một ví dụ: liên quan đến việc tu học
của chúng ta. Ví dụ quý vị hiện nay đang học Kinh Vô Lượng Thọ, nhưng quý vị
lại nghĩ Kinh Kim Cang cũng hay, rồi nghĩ Kinh Lăng Nghiêm cũng hay, Kinh Pháp
Hoa cũng hay. Người như thế thì khó rồi, đời này họ khó mà thành tựu. Bởi vì
sao? Xen tạp rồi! Chúng ta không thể nói loạn mà tạp rồi. Nếu muốn đời này
thành tựu thì phải biết đủ và không mong cầu. Đến hiện nay là gần 20 năm, tôi
chỉ một bộ Kinh Vô Lượng Thọ và một câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Mặc dù có người
chuyên môn phê bình điểm này của tôi, nhưng tôi kiên quyết không lay động, tôi
vẫn cứ tiếp tục giữ vững. Nếu quý vị biết đủ và không còn mong cầu, thì quý vị
vào Tam-muội rồi. Vì sao lão Pháp sư nói với mọi người rằng: tôi đã được niệm
Phật Tam-muội. Lúc đó tôi vẫn không biết. Về sau do thỉnh giáo Sư phụ, tôi mới
biết niệm Phật Tam-muội là gì. Những điều này là sự thật. Sau khi tâm của quý
vị thanh tịnh, thì quý vị sẽ đắc Tam-muội. Sau đó lão Pháp sư còn nói: sau khi
đắc Tam-muội quý vị sẽ có thần thông. Chẳng phải có đồng tu chỉ trích thần
thông của tôi đó sao? Có những lúc nghĩ không thông, thì tôi đến Hồng Kông hỏi
Sư phụ nên làm thế nào. Bởi vì nhiều điều đó, chẳng phải là thứ mà trong tâm
tôi muốn và mong cầu, tôi không biết cầu. Vì tôi không biết, thì sao cầu được
chứ? Cho nên nói, sau khi quý vị vào Tam-muội, thì sẽ xuất hiện cảnh tượng thế
nào? Sáu căn của quý vị sẽ phóng quang, lục căn của quý vị sẽ phóng quang, mắt
tai mũi lưỡi thân ý: toàn bộ 6 căn này sẽ phóng quang. Phóng ánh sáng Bát Nhã, ánh
sáng Bát Nhã chính là ánh sáng trí huệ, mắt vừa nhìn thì hiểu rõ, tai vừa nghe
liền thông đạt.
Những
thứ mà trước đây chưa từng học, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ liền thông đạt. Vì
sao vậy? Bởi vì tất cả pháp đều là biến hiện ra. Do gì biến hiện ra? Tự-tánh
của quý bị biến hiện ra, chân tâm của quý vị biến hiện ra. Đã là như vậy, thì
chẳng phải quý vị đã minh tâm kiến tánh rồi sao? Như vậy thì pháp pháp tự nhiên
thông đạt, đó chính là “cửa ngõ sáu căn đều phóng quang chấn động”.
Ngàn
Kinh muôn Luận, thiên ngôn vạn ngữ, chỉ là để tẩy sạch những thứ ô nhiễm: làm
chướng ngại Bản tánh mà thôi. Phía trước nói nhiều như thế, phía sau chỉ cần
tổng kết một câu. Đó là “Ngàn Kinh muôn Luận, thiên ngôn vạn ngữ, chỉ là để tẩy
sạch những thứ ô nhiễm: làm chướng ngại Bản tánh mà thôi”. Nghe hiểu được câu
này rồi, thì chúng ta cần làm gì? Mau chóng tẩy rửa sạch sẽ: những thứ ô nhiễm
trước mắt làm chướng ngại Tự-tánh của chúng ta. Ai tẩy rửa sạch sẽ rồi thì
người đó minh tâm kiến tánh.
Hiện
nay Tịnh-độ tông đã thu lại phạm vi rất nhỏ, quy nạp lại thành năm Kinh một
Luận. Có lúc tôi nghĩ: sao không thu trực tiếp đến: còn một bộ Kinh Vô Lượng
Thọ thôi? Năm Kinh một Luận cũng không cần, thu đến còn một bộ Kinh Vô Lượng
Thọ thôi. Sau đó tôi hiểu ra: vì một số đồng tu không cam tâm, phải vậy không? Phật
Bồ-tát quá thấu tỏ tâm của chúng sanh mà. Quý vị thấy tôi một bộ Kinh một câu
Phật hiệu: kiên trì đến cùng. Nhưng người khác không giống như vậy được, không
nhận thức giống như tôi. Có đồng tu không cam tâm. Họ không cam tâm chỉ đọc một
bộ Kinh này. Vậy thì làm sao? Phật Bồ-tát hiểu rõ tâm của chúng sanh, nên nếu
quý vị không cam tâm đọc một bộ Kinh, thì sẽ mở cho quý vị năm bộ, sáu bộ. Mãn
tâm nguyện của chúng sanh mà. Nhưng các Ngài nói với chúng ta rất rõ ràng: rằng
người đọc một bộ Kinh là thượng thượng căn, người đọc 5 bộ Kinh là căn tánh bậc
trung, người đọc 10 bộ Kinh trở lên là căn tánh bậc hạ. Người căn tánh bậc hạ
không có cách nào thành tựu, chí ít đời này của quý vị không thể thành tựu. Quý
vị xem đã nói với chúng ta rất rõ ràng minh bạch như vậy! Nếu quý vị nghe hiểu
những câu này, thì quý vị còn muốn đọc 5 bộ Kinh nữa không? Còn muốn đọc 10 bộ
Kinh nữa không? Đọc một bộ Kinh Vô Lượng Thọ là đủ rồi, niệm một câu Phật hiệu
A Di Đà Phật là đủ rồi.
Phía
sau còn có “độ chúng sanh”, cần phải tuân thủ “Tứ hoằng thệ nguyện”. Vì thời
gian của tiết học này đã hết, phần “Tứ hoằng thệ nguyện” chúng tôi sẽ giảng vào
buổi học sau. Cảm ơn mọi người. A Di Đà Phật.
(Hết tập 9)
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát Bồ-đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Nam
Mô A Mi Đà Phật