Responsive Menu
Add more content here...

Tập 3 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2012

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2012

(Giảng lần thứ 3)

Tập 3

Chủ giảng: Hòa Thượng Tịnh Không

Ngày giảng 22/10/2012

Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang

Ban biên dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

 

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 138, hàng thứ tư:

淨土法門者,乃一乘了義,萬善同歸,三根普被,凡聖齊收,橫超三界,逕登四土,極圓極頓,不可思議之微妙法門也 “Tịnh-độ pháp môn giả, nãi Nhất-thừa Liễu Nghĩa, vạn thiện đồng quy, tam căn phổ bị, phàm thánh tề thâu, hoành siêu tam giới, kính đăng tứ độ, cực viên cực đốn, bất khả tư nghì chi vi diệu pháp môn dã” (Pháp môn Tịnh-độ là Nhất-thừa Liễu Nghĩa, vạn thiện đồng quy, trùm khắp ba căn, thâu nhiếp cả phàm lẫn thánh, vượt tam giới theo chiều ngang, trực tiếp lên tứ độ, cực viên cực đốn, là pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn). Trong câu này có rất nhiều danh tướng, chúng tôi sẽ nói sơ lược ở đây. Hôm trước chúng ta đã học về Nhất-thừa, bây giờ chúng ta xem 了義 “Liễu Nghĩa”, Liễu Nghĩa trong tài liệu tham khảo. Liễu Nghĩa cũng là thuật ngữ. Trong Tam Tạng Pháp Số ghi, 諸大乘經宣說勝義 “chư Đại thừa Kinh tuyên thuyết thắng nghĩa” (các Kinh Đại thừa đều nói nghĩa thù thắng), chữ “thắng nghĩa” này chính là Liễu Nghĩa, thắng là thù thắng, liễu có nghĩa là sáng tỏ rốt ráo. Như trong Kinh văn lại nói đến, 煩惱即菩提,生死即涅槃 “phiền não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết Bàn” (phiền não chính là Bồ-đề, sanh tử chính là Niết Bàn), mọi thứ thuộc loại này, đều là 究竟顯了 “cứu cánh hiển liễu” (sáng tỏ rốt ráo), hiển là minh hiển, một chút che giấu cũng không có, liễu là sáng tỏ, nên名為了義 “Danh vi Liễu Nghĩa” (gọi tên là Liễu Nghĩa).

Trong Tứ-y pháp đức Thế Tôn dạy cho các Đệ tử đời sau: học Phật phải nương vào Liễu Nghĩa, không nương Bất Liễu Nghĩa. Bốn câu này của Ngài là 依法不依人y pháp bất y nhân(nương pháp không nương người), điều này rất quan trọng. Pháp là kinh điển do Phật nói, nhất định phải nương vào điều này. Người nói pháp không tương ưng với pháp được nói, trái ngược tông chỉ ở trong kinh, thì quyết định không thể nương vào điều đó. Nên gọi là y pháp bất y nhân. 依義不依語 “Y nghĩa bất y ngữ” (Nương nghĩa lý không nương văn tự lời nói), phải dựa vào nghĩa lý được nói, lời nói dù nói nhiều mấy câu, nói ít mấy câu cũng không sao cả, nói sâu nói cạn. Văn tự cũng không sao, quý vị xem cùng một loại kinh, như Kinh Kim Cang có 6 bản dịch. Bản gốc chỉ có một, mà người dịch khác nhau, thì đương nhiên văn tự phiên dịch không giống nhau, nhưng đều đúng ý nghĩa, không mất đi ý nghĩa. Nên 6 bản dịch này, tùy ý học bản nào cũng được. Đó là y nghĩa bất y ngữ. Kinh điển, thì 依了義不依不了義 “y Liễu Nghĩa bất y Bất Liễu Nghĩa (nương Liễu Nghĩa, không nương Bất Liễu Nghĩa). Thế nào là Liễu Nghĩa? Có thể thật sự giúp quý vị liễu sanh tử ra khỏi ba cõi, đây gọi là Liễu Nghĩa. Nhưng ra khỏi ba cõi và ra khỏi mười pháp giới, thì việc ra khỏi ba cõi là Bất Liễu Nghĩa, ra khỏi ba cõi, cần phải ra khỏi mười pháp giới mới là Liễu Nghĩa, nên Liễu Nghĩa này là có hơn kém, đi lên từng tầng một để so sánh. Liễu nghĩa cao nhất chính là giúp quý vị chứng được Niết Bàn rốt ráo, đây gọi là rốt ráo Liễu Nghĩa, chắc chắn phải tuân thủ điều này. Điều cuối cùng, là 依智不依識 “y trí bất y thức” (nương lý trí, không nương tình cảm), chúng ta học tập, phải lý trí, không được dùng tình cảm. Tu học Phật Pháp, nếu có tình chấp mang theo bên trong, thì rất phiền phức, rất khó thoát khỏi lục đạo luân hồi. Vì vậy phải lý trí, chúng tôi nói lý trí, không dùng tình cảm. Đây là Tứ-y do Phật nói, nếu Phật không ở đời nữa, thì nương vào điều gì? Nương vào bốn pháp này, vô cùng quan trọng! Thế giới này hiện nay có rất ít người giảng điều này, phải đề xướng điều này. Đó là Y Liễu Nghĩa bất y Bất Liễu Nghĩa.

Chúng ta thường hay nghe đến phiền não là Bồ-đề, sanh tử là Niết Bàn, hai câu nói này là rốt ráo Liễu Nghĩa, nhưng chúng ta nghe không hiểu. Kinh rốt ráo Liễu Nghĩa quả thật là nói cho người Thượng-thượng-căn. Không phải nói cho người bình thường, đối tượng cũng chính là Pháp-thân Bồ-tát, Pháp-thân Đại-sĩ. Trong Phật Học Đại Từ Điển giải thích, đây là thuật ngữ, 對於不了義而言 “đối ư Bất Liễu Nghĩa nhi ngôn” (đối lập với Bất Liễu Nghĩa mà nói), đối lập của Liễu Nghĩa là Bất Liễu Nghĩa, 顯了分明說示究竟之實義,謂之了義 “hiển liễu phân minh thuyết thị cứu cánh chi thật nghĩa, vị chi Liễu Nghĩa” (hiển bày rõ ràng phân minh thật nghĩa rốt ráo, gọi đó là Liễu Nghĩa). Rõ ràng sáng tỏ là tông chỉ của Liễu Nghĩa, nói cũng được, thị cũng được, thị là thị hiện, không dùng ngôn ngữ, nhưng mà nói, hay thị hiện đều là thật nghĩa rốt ráo. Thật nghĩa này là chân thật, chứ không phải là giả, cũng chính là nói thật tướng của các pháp, chân tướng của tất cả pháp, đây gọi là Liễu Nghĩa. 未了未盡之說 “Vị liễu vị tận chi thuyết” (Nói chưa trọn vẹn, chưa hết nghĩa), đây là Bất Liễu Nghĩa, phía sau vẫn còn, là chưa giảng đến tột cùng. Thí dụ như A-la-hán nói đến thoát ly lục đạo luân hồi, phía sau lục đạo luân hồi vẫn còn, không phải không còn nữa, nên đây là Bất Liễu Nghĩa. A-la-hán tu ở bốn thánh Pháp-giới, phải đoạn hết tập khí của kiến-tư-phiền-não, lại đoạn trần-sa-phiền-não, tập khí của trần-sa-phiền-não, rồi lại đoạn vô-minh-phiền-não, thì các ngài mới có thể sanh đến Thật-báo-trang-nghiêm độ, đó gọi là Liễu Nghĩa. Nên mười Pháp-giới vẫn là Bất Liễu Nghĩa. Sanh đến Thật-báo độ vẫn chưa được tính là rốt ráo Liễu Nghĩa. Bởi vì các ngài vẫn còn 41 phẩm tập khí vô-minh. Sau khi đoạn sạch hết tập khí vô-minh rồi, thì chứng được quả vị Diệu-giác, quay về Thường-tịch-quang, đây gọi là rốt ráo Liễu Nghĩa.

Chúng ta quay lại nhìn pháp môn Tịnh-độ, pháp môn Tịnh-độ quả thật là rốt ráo Liễu Nghĩa. Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, không những thoát ly lục đạo luân hồi, mà thoát ly mười Pháp-giới nữa. Tiểu-thừa sau khi thoát ly luân hồi, lại còn thoát ly mười Pháp-giới, vậy phải tu thời gian rất lâu rất dài, mới có thể từ A-la-hán thăng cấp tới Bích-chi-Phật, Bích-chi-Phật thăng cấp tới Bồ-tát, Bồ-tát thăng cấp tới Phật. Đây là Phật của mười Pháp-giới, là tương-tự-tức-Phật, vẫn chưa được tính là Phật thật. Vào thời điểm chuyển tám thức thành bốn trí, đó là buông xuống vọng tưởng, cũng chính là không phân biệt, không chấp trước với tất cả pháp nữa, vậy mới có thể thoát ly mười Pháp-giới, quý vị nói xem không dễ dàng chút nào. Nhưng người vãng sanh thế giới Cực Lạc, thì một lần họ làm thỏa đáng việc này. Cho dù là vãng sanh ở thế giới Cực Lạc, hạ-hạ-phẩm vãng sanh của Phàm-thánh-đồng-cư độ, thậm chí vãng sanh ở biên địa, đều thoát ly mười Pháp-giới. Chúng ta phải chân thật làm rõ ràng, làm sáng tỏ việc này. Nếu không đi con đường này, mà đi con đường của A-la-hán, thì con đường đó rất dài, quá vất vả, không biết chuyển bao nhiêu đời trong lục đạo. Do đó, nhất định không thể đi đường vòng ấy, đường vòng như vậy quá dài, không dễ đi, chướng ngại ở giữa đường rất nhiều.

Liễu Nghĩa và Bất Liễu Nghĩa còn có một cách nói khác, phàm là phương tiện nói đều là Bất Liễu Nghĩa, còn chân thật nói đó là Liễu Nghĩa. Hiện nay chúng ta có thể nói, tuy tất cả các pháp là pháp Liễu Nghĩa, nhưng chúng ta học không có trình độ đó, nên đối với chúng ta nói là Bất Liễu Nghĩa. Chúng ta có năng lực học pháp môn Tịnh Tông này. Trong kinh nói rất rõ ràng: có học thức hay không chẳng sao cả, và có có tri thức hay không cũng không liên quan. Không biết chữ, chưa từng đi học, nhưng niệm một câu A Mi Đà Phật này được rất tốt, chúng ta lắng lòng quan sát, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc phẩm vị đặc biệt cao, tầng lớp tri thức bình thường, thậm chí đến Pháp sư giảng kinh cũng không bằng. Hơn nữa 48 nguyện lại nói được rất rõ ràng: Ngũ nghịch Thập ác, hủy báng Phật Pháp, lúc lâm chung sám hối đều có thể vãng sanh. Phẩm vị vãng sanh cao thấp không giống nhau, là do có liên quan đến sức mạnh sám hối cả đời này, và thiện căn phước đức tích lũy đời trước, nên pháp môn này là pháp môn cứu cánh Liễu Nghĩa chẳng thể nghĩ bàn.

圓覺經曰:得聞如是修多羅教了義法門 “Viên Giác Kinh viết: Đắc văn như thị Tu-đa-la giáo Liễu Nghĩa pháp môn” (Kinh Viên Giác dạy: Được nghe pháp môn Tu-đa-la giáo Liễu Nghĩa như vậy), đó là Kinh Viên Giác, chúng ta đổi thành Kinh Vô Lượng Thọ thì càng thù thắng hơn, 永斷疑悔 “vĩnh đoạn nghi hối” (vĩnh viễn đoạn trừ nghi ngờ hối hận), không hoài nghi, không hối hận, phải đoạn sạch ý niệm này. 是諸菩薩最上教誨了義大乘 “Thị chư Bồ-tát tối thượng giáo hối Liễu Nghĩa Đại-thừa”(là giáo huấn Liễu Nghĩa Đại-thừa cao nhất của chư Bồ-tát). 了義者,決擇究竟顯了之說,非覆相密意含隱之譚 “Liễu Nghĩa giả, quyết trạch cứu cánh hiển liễu chi thuyết, phi phú tướng mật ý hàm ẩn chi đàm”(Liễu Nghĩa là nói quyết chọn hiển bày sáng tỏ rốt ráo, lời nói chẳng che dấu tướng mật ý hàm ẩn). Đó gọi là bí mật thì không nói, chỗ này là không phải vậy, mà nói cho quý vị nghe rất rõ ràng, rất tường tận, chỉ dẫn cho quý vị, đây chính là Tịnh Tông. Quyển 52 của Kinh Bảo Tích ghi, 若諸經中,有所宣說:厭背生死,欣樂涅槃,是不了義 “nhược chư kinh trung, hữu sở tuyên thuyết: yếm bội sanh tử, hân nhạo Niết Bàn, thị bất Liễu Nghĩa” (nếu trong các kinh nói: chán lìa sanh tử, ưa thích Niết Bàn, là Bất Liễu Nghĩa). Tại vì sao? Bởi có chán có vui. 若有宣說生死涅槃二無差別 “Nhược hữu tuyên thuyết sanh tử Niết Bàn nhị vô sai biệt” (Nếu có tuyên nói sanh tử và Niết Bàn không có khác biệt), thì đây là Liễu Nghĩa. Liễu Nghĩa nói thật tướng, lời ngay nói thật, không phải là giáo lý phương tiện. Trong Kinh Đại Tập nói, 了義經者,生死涅槃一相無二 “Liễu Nghĩa Kinh giả, sanh tử Niết Bàn nhất tướng vô nhị(Kinh Liễu Nghĩa thì sanh tử và Niết Bànmột tướng chứ không phải hai). Kinh Niết Bàn nói, 依了義經,不依不了義經 “y Liễu Nghĩa Kinh, bất y Bất Liễu Nghĩa Kinh” (nương Kinh Liễu Nghĩa, không nương Kinh Bất Liễu Nghĩa). Thế giới Tây Phương Cực Lạc là thế giới bình đẳng, đây gọi là rốt ráo Liễu Nghĩa, ở nơi đó không có phân biệt, không có chấp trước. Sanh đến thế giới Cực Lạc, là viên chứng bốn cõi: Đồng-cư độ, Phương-tiện độ, Thật-báo độ, Thường-tịch-quang độ, có hay không? Có, thật có. Nhưng ở thế giới Cực Lạc, bốn cõi hòa cùng một chỗ, đây chính là rốt ráo Liễu Nghĩa. Sanh một là sanh hết thảy, sanh đến Đồng-cư độ, là cùng lúc sanh đến Thật-báo độ, sanh  đến Thường-tịch-quang độ, là cùng lúc, đây là rốt ráo Liễu Nghĩa.

Tiếp theo nói tam căn phổ bị. Tam căn, 上中下三根,就眾生善根之強弱而言 “thượng trung hạ tam căn, tựu chúng sanh thiện căn chi cường nhược nhi ngôn”(ba căn thượng trung hạ là theo thiện căn chúng sanh mạnh hay yếu mà nói), có người thiện căn dày, có người thiện căn mỏng; có người thiện căn rất mạnh, có người rất yếu. Theo ở trên mà chia làm ba loại. Ở đây nêu lên một ví dụ, chúng ta hãy đọc phẩm Dược Thảo Dụ của Kinh Pháp Hoa một lần. 譬如三千大千世界,山川谿谷土地所生卉木叢林 “Thí như Tam thiên Đại thiên thế giới, sơn xuyên khê cốc thổ địa sở sanh hủy mộc tòng lâm(Thí như trong cõi Tam thiên Đại thiên, nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra hoa cây, rừng rậm), chúng ta dùng địa cầu để làm thí dụ, núi, sông, khe, hang, hoa cỏ cây cối trên địa cầu. 密雲彌布遍覆三千大千世界,一時等澍 “Mật vân di bố biến phú Tam thiên Đại thiên thế giới, nhất thời đẳng chú” (Mây dày bủa giăng trùm khắp Tam thiên Đại thiên thế giới, đồng thời mưa xuống), chữ “chú” là mưa xối xuống, trên trời mưa xuống, 其澤普洽卉木叢林及諸藥草 “kỳ trạch phổ hiệp hủy mộc tòng lâm cập chư dược thảo(mưa đó thấm nhuần khắp cây cối lùm rừng và các thảo dược). Nước mưa là rơi xuống bình đẳng, nhưng những thực vật ấy hấp thụ nước không giống nhau: cây lớn hấp thụ nước rất nhiều, hấp thụ đưa vào trong [cây], hoa cỏ thì hấp thụ ít, ở cọng cỏ non lại càng ít nữa. Đây được gọi là đại căn, trung căn, tiểu căn. Mưa rơi xuống cũng là như vậy, mỗi người tiếp nhận khác nhau. 佛以一音而說法,眾生隨類各得解 “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật dùng một âm thanh mà nói pháp, chúng sanh tùy theo loại mà hiểu được), đức Thế Tôn giảng kinh dạy học là giống nhau, nhưng trình độ tiếp thu của mỗi người khác nhau. Nước mưa cùng rơi xuống, mưa là giống nhau, mưa rơi xuống, cây cối hoa cỏ và mỗi người tiếp nhận không giống nhau. Chúng ta đọc tiếp, 小根小莖小枝小葉,中根中莖中枝中葉,大根大莖大枝大葉,諸樹大小,隨上中下各有所受,一雲所雨,稱其種性而得生長,華果敷實,雖一地所生一雨所潤,而諸草木各有差別 tiểu căn tiểu hành tiểu chi tiểu diệp, trung căn trung hành trung chi trung diệp, đại căn đại hành đại chi đại diệp, chư thọ đại tiểu, tùy thượng trung hạ các hữu sở thọ, nhất vân sở vụ, xứng kỳ chủng tánh nhi đắc sanh trưởng, hoa quả phu thật, tuy nhất địa sở sanh nhất vũ sở nhuận, nhi chư thảo mộc các hữu sai biệt (loại gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ; Loại gốc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; Hoặc loại gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn. Các cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống, xứng theo mỗi giống loại mà được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần, nhưng  các cỏ cây đều có sai khác). Rất dễ hiểu điều này, dùng thí dụ đó để hình dung chư Phật Bồ-tát thị hiện giảng kinh dạy học ở thế gian. Chúng sanh gặp được, nghe được Phật pháp, y giáo phụng hành, bởi mỗi người lãnh hội được cạn hay sâu, nghĩa lý cạn sâu khác nhau, nên quả đức tu hành của mỗi người cũng khác nhau.

Phẩm Thích Thất Thí Dụ của Luận Đại Trí Độ, ở quyển thứ 85, Luận Đại Trí Độ có 100 quyển, trong đó nói, 諸佛賢聖憐愍眾生故,以種種語言名字譬喻為說 “Chư Phật hiền thánh lân mẫn chúng sanh cố, dĩ chủng chủng ngữ ngôn danh tự thí dụ vi thuyết(Bởi chư Phật hiền thánh thương xót chúng sanh nên dùng các loại ngôn ngữ, tên gọi, thí dụ để nói). Phật Bồ-tát ứng hóa ở trên địa cầu này, không chỉ ở Trung Hoa, mà quốc gia nào, khu vực nào, đường nào chư Phật Bồ-tát cũng đến, rõ ràng nhất là đường súc sanh. Phật Bồ-tát từ bi, chúng sanh càng khổ, thì các Ngài đến càng nhiều, thương xót chúng sanh khổ, độ khắp chúng sanh. Đường súc sanh, đường A-tu-la, đường La-sát, đường ngạ quỷ, đường địa ngục, đường nào các Ngài cũng đến, thị hiện thân đồng dạng, nói pháp cho họ, khuyên họ sám hối, khuyên họ sửa lỗi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Do vậy vãng sanh thế giới Cực Lạc không chỉ có người, trời; mà ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục thảy đều có. Vì sao chúng sanh trong đường ác lại vãng sanh được? Bởi trong quá khứ ở cõi người đã tu, đã học Phật, nhưng tập khí phiền não nặng, trình độ công phu niệm Phật chưa đủ, nên tiếp tục tạo luân hồi. Tuy ở trong đường ác, nhưng họ vẫn còn thiện căn, còn phước đức, thì Phật Bồ-tát cũng không bỏ rơi, mà đi theo quý vị, muốn giúp quý vị, muốn thành tựu quý vị. Ân đức to lớn của Phật Bồ-tát không gì sánh bằng. Chúng ta phải tin tưởng, phải tri ân báo ân. Làm sao để tri ân báo ân? Thật sự sanh đến thế giới Cực Lạc, đó là chân thật báo ân. Nhất định phải biết, vãng sanh thế giới Cực Lạc không khó, thật sự khó là chúng ta không buông xuống được ở thế gian này, đây là việc khó!

Hiện nay mọi người đều biết, quả thật chúng ta bị gặp phải đời ác năm trược mà trong kinh đã nói. Thời trước chúng tôi, “nhất giáp tử chi tiền”, chính là 60 năm trước, thế gian này vẫn rất đáng yêu, một số đồng học, bạn bè của chúng tôi thật sự còn có chút nghĩa khí, có chút đạo nghĩa. Bây giờ không còn nữa, bây giờ người với người ở chung toàn là thiệt hơn, có lợi là bạn bè, không có lợi chính là kẻ địch, đời trược ác đến tột bậc. Là gợi ý cho chúng ta điều gì? Không mong trụ ở thế gian này, không muốn đến nữa. Đi đến nơi nào thì phải cân nhắc, bày ở trước mặt chúng ta, có thế giới Cực Lạc, nếu không chọn thế giới Cực Lạc, vậy tức là ba đường. Lựa chọn điều này là sai rồi. Trong kinh Phật nói với chúng ta, chọn thế giới Cực Lạc, chỉ cần khi chưa tắt hơi thở cuối cùng thì vẫn còn kịp, đây là Phật thật sự từ bi đến vô cùng.

Trong Luận Trí Độ nói, 利根者解聖人意,鈍根者處處生著 “lợi căn giả giải thánh nhân ý, độn căn giả xứ xứ sanh trước” (người lợi căn hiểu ý thánh nhân, người độn căn mọi nơi sanh chấp), là chấp tướng. Chúng ta hiểu được lời này, chúng ta huân tập thời gian dài trong giáo lý Đại thừa, thì không thể chấp trước, phải buông xuống, buông xuống thì đúng rồi, chúng ta lại chấp trước thì đi không được. Buông được càng nhiều càng tốt, đến thế giới Cực Lạc, phẩm vị của quý vị sẽ càng lúc càng cao. Buông xuống tình chấp thế gian này, thì sanh vào Phàm-thánh-đồng-cư-độ. Nếu chân thật có thể buông xuống thân-kiến, lại không chấp trước thân; buông xuống biên-kiến, không đối lập với người, đối với tất cả người sự vật đều có thể chung sống hòa thuận, không hề đối lập, có thể hằng thuận với chúng sanh, tùy hỷ công đức, thì sanh vào Phương-tiện-hữu-dư-độ. Chúng ta có thể làm được, chỉ cần chúng ta làm, làm không viên mãn cũng không sợ, khi Phật đến tiếp dẫn, trước tiên là Phật quang chiếu vào, một khi Phật quang chiếu quý vị, thì công phu của quý vị nâng lên gấp bội. Chỉ cần chúng ta tiếp xúc được chút rìa, một khi nâng cao thì chúng ta biến thành Phương-tiện-hữu-dư độ. Đó là ba bậc Thượng Trung Hạ Trung bối vãng sanh. Ở thế giới Cực Lạc mỗi ngày được đích thân A Mi Đà Phật dạy bảo, đến nơi đó để nghe pháp, thật sự là nghe những điều chưa từng được nghe. Diệu pháp của tất cả chư Phật Như Lai đã nói đều ở thế giới Cực Lạc, tùy ý mà nghe, đều có thể nâng cao phẩm vị của chính mình, một đời viên mãn Vô Thượng Bồ-đề, cho nên nơi đó không thể không đến. Hiện nay, trước tiên chính là học không chấp trước, không phân biệt, thuận theo tất cả đi, nếu có duyên, có thể giúp thì chúng ta giúp họ, không thể giúp thì thành tựu chính mình trước.

Quyển 23 của Tông Kính Lục, Tông Kính Lục có 100 quyển, trong quyển 23 ghi: 上根者,聞言下便會,更不作諸惡,喚作一受不退常寂然 “thượng căn giả, văn ngôn hạ tiện hội, cánh bất tác chư ác, hoán tác nhất thọ bất thoái thường tịch nhiên” (người thượng căn là nghe nói xong liền lãnh hội, lại không làm các việc ác, bảo làm liền vâng theo, không thoái và luôn vắng lặng). Người thượng căn này rất dễ độ, một khi họ nghe thì liền khai ngộ, họ có thể dứt ác, họ có thể không thoái, họ có thể giữ gìn. Tịch nhiên chính là tâm địa thanh tịnh, ngày nay chúng ta nói thanh tịnh bình đẳng, họ giữ gìn được. 中根者,親近善知識,近於智者,數數聞說,不久還會 “Trung căn giả, thân cận thiện-tri-thức, cận ư trí giả, sác sác văn thuyết, bất cửu hoàn hội” (Người trung căn là thân gần thiện-tri-thức, gần với người trí, nghe nói nhiều lần, không lâu sau cũng hiểu). Thân cận thiện-tri-thức thời gian lâu, huân tập thời gian dài, thì họ thành tựu. 若是下根,千遍萬遍與說,元來不會,雖然記得少許,如破布裡明珠,出門還漏却 “Nhược thị hạ căn, thiên biến vạn biến dữ thuyết, nguyên lai bất hội, tuy nhiên ký đắc thiểu hứa, như phá bố lý minh châu, xuất môn hoàn lậu khước” (Nếu là hạ căn, dù nói cho hàng ngàn vạn lần, thì vẫn là không hiểu, chỉ nhớ được một chút, như minh châu [để] trong túi vải rách, ra khỏi cửa thì rớt mất). Đây chính là hạ căn, nghiệp chướng sâu nặng, huân tập thời gian dài vẫn không hiểu. Mặc dù được một chút, nhưng không có tác dụng, không đánh nổi tập khí phiền não của họ, cuộc sống hằng ngày vẫn là bị tập khí làm chủ, cũng chính là tạo tội nghiệp như cũ, đây là hạ căn. Chúng ta dùng tiêu chuẩn này, thấy những ông già bà cả ở quê, họ niệm một câu Phật hiệu đến cùng, không có tạp niệm, không có vọng tưởng. Gặp bất kì người nào cũng mỉm cười, từng tiếng Phật hiệu trong miệng, từ trước đến nay chưa từng ngừng nghỉ, quý vị nói lời nào với họ, họ đều A Mi Đà Phật, đây là người nào vậy? Người Thượng-thượng-căn. Hạng người này không có vọng tưởng, họ đang làm gì? Họ đang độ chúng sanh. Tuy họ không phải đang nói pháp, nhưng họ đang thị hiện, họ làm Đệ tử Mi Đà Như Lai: tu học Tịnh Tông cho quý vị xem, để quý vị xem một lần, cảm giác được đó là thật, không phải là giả. Đó là người chân thật niệm Phật, đó là Bồ-tát của Thật-báo-trang-nghiêm-độ, đến làm thị hiện. Câu cuối cùng này nói rất hay, 汝知麼,佛道不遠,迴心即是 “nhữ tri ma, Phật đạo bất viễn, hồi tâm tức thị” (ông có biết Phật đạo không xa, quay tâm trở lại là được). Phật là giác đạo, còn chúng ta là mê, mê quay đầu trở lại chính là giác, không mê chẳng phải giác ngộ rồi hay sao?

《摩訶止觀》卷六下:佛為三根分別,下根斷惑盡,方能出假 “Ma Ha Chỉ Quán quyển lục hạ: Phật vi tam căn phân biệt, hạ căn đoạn hoặc tận, phương năng xuất Giả” (Quyển 6 Ma Ha Chỉ Quán, quyển Hạ nói: Phật chia làm ba căn khác nhau, người hạ căn đoạn hết hoặc, thì mới có thể ra khỏi sự Giả). Chữ “hoặc” này là kiến-hoặc. Đoạn sạch kiến-tư-phiền-não, thì có thể ra khỏi sự Giả. 佛於法華中破其取涅槃心,勸發無上道,起方便慧 “Phật ư Pháp Hoa trung phá kỳ thủ Niết Bàn tâm, khuyến phát Vô Thượng đạo, khởi phương tiện huệ” (Trong Kinh Pháp Hoa, Phật phá tâm chấp trước Niết Bàn của họ, khuyến khích họ phát tâm Vô Thượng đạo, khởi trí huệ phương tiện). Chân thật giác ngộ, thật sự quay đầu rồi, nhưng chưa đoạn sạch hoặc thì họ không ra khỏi sự Giả. Thế nào là Giả? Giả là lục đạo luân hồi. Phật không bỏ rơi họ, khuyến khích họ phát tâm tu hành. 中根者斷見惑已,生死少寬,思任運斷 “Trung căn giả đoạn kiến-hoặc dĩ, sanh tử thiểu khoan, tư nhậm vận đoạn” (Người trung căn sau khi đoạn kiến-hoặc, thì cởi bớt sanh tử, tự nhiên đoạn tư-hoặc). Tư-hoặc. Đây là thế nào? Đây là từ Sơ quả trở lên, đoạn kiến-hoặc rồi, tiếp tục không ngừng để đoạn tư-hoặc. 上根者,初心聞慧即能體達見思即空 “Thượng căn giả, sơ tâm văn huệ tức năng thể đạt kiến-tư tức không” (Người thượng căn là vừa mới phát tâm văn huệ, liền thể hội đạt được kiến-tư-hoặc là Không). Đây là chứng A-la-hán, đoạn kiến-tư-phiền-não rồi. Kiến-tư-hoặc chẳng phải thật, trần-sa cũng chẳng phải thật, vô-minh cũng chẳng phải thật, đều do từ vọng tưởng sanh ra. Đây là nói ba căn. Pháp môn Tịnh Tông trùm khắp ba căn, cũng chính là nói, bất kỳ người nào cũng có thể học, hơn nữa đều có thể thành tựu.

Phàm thánh tề thâu, hoành xuất tam giới. Hoành xuất là đối xưng lại của thụ xuất, đối lập của chiều ngang là chiều dọc. Xuất là ra khỏi tam giới, ra khỏi lục đạo luân hồi. Chiều dọc khó, quý vị xem, đi lên theo chiều dọc, trên cõi người chúng ta là Tứ Thiên Vương. Nói rộng điều này với quý vị, trời Tứ Thiên Vương đi lên trời Đao Lợi, trời Đao Lợi đi lên trời Dạ Ma. Sáu tầng Trời Dục Giới, 18 tầng trời Sắc Giới, bốn tầng trời Vô Sắc Giới, tổng cộng 28 tầng trời. Từ nơi này từng bước một tiến lên cao để đi ra ngoài, khó, rất không dễ dàng! 竪出,聖道門(此土由凡至聖修道之教門)。自力之教,歷劫修行而出生死者 “Thụ xuất, thánh đạo môn (th độ do phàm chí thánh tu đạo chi giáo môn). Tự lực chi giáo, lịch kiếp tu hành nhi xuất sanh tử giả” (Ra theo chiều dọc, là cửa Thánh đạo (pháp môn dạy tu đạo từ phàm đến thánh của cõi này). [Còn] giáo pháp tự lực, trải qua nhiều kiếp tu hành mà ra khỏi sanh tử). Nên tu hành thời gian dài phải tính bằng kiếp số, chứ chẳng phải là năm, tháng, ngày.

Trước đã nói ra theo chiều dọc, giờ lại nói với quý vị ra theo chiều ngang, hoành xuất là Tịnh-độ, pháp môn tha lực, dựa vào A Mi Đà Phật. Ra theo chiều dọc hoàn toàn dựa vào chính mình, còn ra theo chiều ngang là hoàn toàn dựa vào A Mi Đà Phật. 他力之教,不歷修行地位 “Tha lực chi giáo, bất lịch tu hành địa vị” (Giáo pháp tha lực, không trải qua địa vị tu hành), họ không cần trải qua thứ lớp tu hành như vậy, 但念彌陀而生淨土者 “đãn niệm Mi Đà nhi sanh Tịnh Độ giả (chỉ niệm Mi Đà mà sanh Tịnh Độ). Với chiều dọc này, họ không chỉ ra khỏi lục đạo theo chiều dọc, mà còn ra khỏi mười Pháp-giới, ngay cả bốn thánh Pháp-giới: Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật cũng đều vượt qua luôn. Đi theo chiều dọc phải: phá được vô-minh, đoạn phiền não, ra khỏi mười Pháp-giới, vãng sanh Thật-báo độ của chư Phật Như Lai, trong Kinh Hoa Nghiêm nói chính là thế giới Hoa Tạng, đi đến bên đó. Vãng sanh thế giới Cực Lạc, trước chúng tôi cũng đã từng nói qua mấy lần, sanh đến thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc là điểm trung tâm của thế giới Hoa Tạng, Cực Lạc chính là Hoa Tạng, Hoa Tạng chính là Cực Lạc, Cực Lạc thù thắng hơn Hoa Tạng. Tôi giảng kinh này ở Singapore, có người hỏi: Thế giới Hoa Tạng và thế giới Cực Lạc là một phải không? Là một sao lại nói hai? Tôi nói là một, thế giới Hoa Tạng giống như thành phố Singapore này, thế giới Cực Lạc giống như đường Orchard, đường Orchard là con đường phồn hoa nhất của Singapore, con đường thịnh vượng nhất thì chúng ta sáng tỏ rồi. Vì vậy, đến thế giới Cực Lạc là đến điểm trung tâm của thế giới Hoa Tạng, đến nơi phồn hoa nhất của thế giới Hoa Tạng, chẳng phải là biên địa, dễ đi, cần nên đi.

Lạc Bang Văn Loại, đây là một cuốn sách. Trạch là lựa chọn, biện là phân biệt, 橫竪二出 “hoành thụ nhị xuất” (hai cách ra khỏi theo chiều ngang, dọc), làm sao để lựa chọn, làm sao để phải phân biệt. Phía trên nói, 竪出者,聲聞修四諦,緣覺修十二因緣,菩薩修六度萬行,此涉地位,譬如及第 “thụ xuất giả, Thanh-văn tu Tứ-đế, Duyên-giác tu Thập-nhị-nhân-duyên, Bồ-tát tu Lục-độ vạn hạnh, thử thiệp địa vị, thí như cập đệ” (đi ra theo chiều dọc là Thanh-văn tu Tứ-đế, Duyên-giác tu 12 nhân duyên, Bồ-tát tu Lục-độ vạn hạnh, trải qua những địa vị này, thí như thi đỗ), “cập đệ” là thi đỗ trong xã hội cũ trước đây. Đậu được kỳ thi gọi là thi đỗ. Cập đệ chính là thi đỗ, thi đỗ Cử nhân, thi đỗ Tiến sĩ, là cập đệ. 須自有才學 “Tu tự hữu tài học” (Tự mình phải có tài hoa và học thức), nếu quý vị không có tài học, thì quý vị thi không đỗ, gọi là Danh Lạc Tôn Sơn, chính là không trúng tuyển, trượt kỳ thi, nên cần phải tài học. 又如歷任轉官 “Hựu như lịch nhậm chuyến quan” (Lại như trải qua gánh vác chức quan khác nhau), nếu quý vị làm quan, thì chức quan sẽ đi lên từ từ, nhưng đi lên được phải có công năng, quý vị không có thành tích là không được, phải có công lao thì quý vị mới đi lên được, đều phải dựa vào tự lực.

橫出者,念佛求生淨土,譬如蔭敘 “Hoành xuất giả, niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, thí như ấm tự” (Đi ra theo chiều ngang là niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, ví như được tổ tiên che chở), Chữ “ấm” này là gì? Là đức của Tổ tông. 功由祖父他力,不同學業有無 “Công do sơ phụ tha lực, bất đồng học nghiệp hữu vô” (Nhờ vào công sức của cha ông, dù sự nghiệp học có hay không). Bất luận quý vị có học thuật hay không, quý vị là đời sau của họ, họ cống hiến rất lớn cho quốc gia, họ qua đời rồi, để cho con cháu quan tước giống như của họ, chính là thừa kế. Điều này rất dễ dàng, họ sanh ra là như vậy. 又如覃恩普轉 “Hựu như đàm ân phổ chuyển” (Lại như ân sâu truyền khắp), điều này cũng là vậy, quý vị có công đối với xây dựng đất nước, Hoàng đế đối với ân đức của quý vị, nên phong quan cho quý vị, chứ chẳng phải chính quý vị có tu hành, do quý vị là đời sau của quan có công ấy. Nhưng điều này có lẽ kém hơn một cấp so với ân che chở của Tổ tiên, chức tước Tổ tiên để lại là giống nhau, còn chức này có thể xuống một cấp, xuống một, hai cấp. Đây là Hoàng ân, 功由國王,不論歷任淺深 “công do quốc vương, bất luận lịch nhậm thiển thâm” (công bởi quốc vương, chẳng kể đã qua chức vị thấp hay cao), không cần tham gia cuộc thi, cũng không cần tạo dựng sự nghiệp gì, mà chức quan đến tay rồi. Đây là nói người niệm Phật thành tựu sẽ dễ dàng như thế. Đây là hoành siêu tam giới.

Trực tiếp lên tứ độ, tứ độ là được trích từ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Diệu Tông Sao, tức do Đại sư Thiên Thai trước tác. Đầu tiên là nói Đồng-cư độ, 同居土者,有穢有淨,謂如此土娑婆世界,沙礫充滿,即同居穢土也 Đồng-cư độ giả, hữu uế hữu tịnh, vị như thử độ Ta Bà thế giới, sa lịch sung mãn, tức đồng cư uế độ dã” (Cõi Đồng-cư là có uế có tịnh, nói như cõi thế giới Ta Bà này, cát sỏi ngập tràn, chính là Đồng-cư uế độ). Thế giới của chúng ta đây, quả thật trên địa cầu đều là bùn cát, đều là đá, đây là uế độ. 西方安養世界,金寶莊嚴,無四惡趣 Tây Phương An Dưỡng thế giới, kim bảo trang nghiêm, vô tứ ác thú” (Thế giới Tây Phương An Dưỡng, thì vàng báu trang nghiêm, không có bốn đường ác), đó là Đồng-cư Tịnh-độ. Đất của thế giới Tây Phương Cực Lạc là lưu ly, trên kinh nói là lưu ly, hiện nay chúng ta nói là phỉ thúy, tức ngọc màu xanh, trong suốt. Đại địa là ngọc màu xanh, trong suốt, từ mặt đất có thể thấy được dưới lòng đất. Không có ô nhiễm, nên gọi là Tịnh-độ. Cư dân nơi đó không có bốn đường ác, bốn đường ác là chỉ ba đường: súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, lại thêm A-tu-la, ở nơi đó đều không có, cho nên là Đồng-cư Tịnh-độ. 雖淨穢有異,皆是凡聖共住,故名同居 “Tuy tịnh uế hữu dị, giai thị phàm Thánh cộng trụ, cố danh Đồng-cư” (Tuy tịnh và uế có khác, nhưng đều là phàm Thánh cùng ở, nên gọi là Đồng-cư). Thế giới của chúng ta đây là phàm thánh cùng ở, nhưng mà chúng ta không thấy được Thánh nhân. Núi Kê Túc, nơi Tôn-giả Ca Diếp trụ ở đó, nghe nói có người đã thấy, nhưng chúng ta chưa từng gặp qua, đây là một số người hữu duyên. Núi Ngũ Đài, là đạo tràng của Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Văn Thù cũng thường hay hóa thân ra, nên người hữu duyên thấy được. Chúng ta xem thấy ở trong Hư Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ, lão Hòa thượng hướng về núi Ngũ Đài, hai lần sanh bệnh ở trên đường, đều gặp được một người ăn mày giúp đỡ ngài, chăm sóc ngài, tổng cộng hai lần hơn một tháng. Sau này biết người ăn mày là Bồ-tát Văn Thù. Lúc ấy không hiểu được, sau khi đến núi Ngũ Đài mới biết. Cho nên, chúng ta thật sự có khổ có nạn, thì Bồ-tát sẽ đến chăm sóc, cần phải có lòng tin.

Thứ hai 有餘土 “Hữu-dư độ, gọi là Phương-tiện-hữu-dư độ, 謂二乘等已斷三界見、思惑盡,出生彼土,尚餘無明之惑未盡 “vị Nhị thừa đẳng dĩ đoạn tam giới kiến, tư hoặc tận, xuất sanh bỉ độ, thượng dư vô-minh chi hoặc vị tận” (Là hàng Nhị thừa đã đoạn sạch kiến-hoặc và tư-hoặc của tam giới, sanh sang cõi đó, nhưng còn chưa đoạn hết vô-minh-hoặc), nên gọi là Hữu-dư. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đó chính là nơi Tiểu thừa ở; Hay nói cách khác, chỉ cần đoạn kiến-tư-phiền-não, chỉ cần đoạn kiến-tư, thì sanh Phương-tiện-hữu-dư độ. Chưa đoạn kiến-tư-phiền-não, thật sự mong đoạn vẫn chưa đoạn được, đại khái khi vãng sanh Phật quang vừa chiếu, thì nâng cao quý vị, một khi nâng cao thì tự nhiên đoạn thôi. Đoạn đương nhiên chưa đoạn sạch sẽ, chưa đoạn sạch sẽ chính là Trung bối hạ sanh, Trung bối trung sanh; Đoạn sạch sẽ rồi là Trung bối thượng sanh, mỗi bậc đều có 9 phẩm, ba bậc chín phẩm. Đây là sanh Hữu-dư độ.

Loại thứ ba 果報土 “Quả-báo độ”, chính là Thật-báo-trang-nghiêm độ. Người nào được vãng sanh? 別教十地,圓教十住、十行、十回向,乃至等覺諸菩薩所居之土 “Biệt giáo Thập địa, Viên giáo Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, nãi chí Đẳng Giác chư Bồ-tát sở cư chi độ” (là cõi của Biệt giáo Thập địa; Viên giáo Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, cho đến các Bồ-tát Đẳng Giác cư trú). Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ nói, 行真實法,感得勝報是也 “hành chân thật pháp, cảm đắc thắng báo thị dã” (thực hành pháp chân thật, sẽ cảm được quả báo thù thắng là như vậy). Thế nào gọi là pháp chân thật? Chúng tôi nói đơn giản một chút, để mọi người dễ hiễu: nếu dùng chân-tâm, thì sanh Thật-báo độ, còn dùng vọng-tâm thì sanh Phương-tiện-hữu-dư độ. Thế nào là chân-tâm? Thế nào là vọng-tâm? Vọng-tâm là khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, những tâm này đang làm chủ: thấy sắc nghe tiếng liền khởi phân biệt, liền sanh chấp trước, đây gọi là dùng vọng-tâm. Vọng-tâm không ra khỏi mười Pháp-giới, nếu dùng chân-tâm, thì vượt qua được mười Pháp-giới, sanh vào Thật-báo-trang-nghiêm độ.

Sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần thì học được gì? Là luyện, luyện không khởi tâm, không động niệm. Cách luyện như thế nào? Là xem thế gian này thành màn hình ti vi, tôi đang mở to mắt xem ti vi, toàn là giả, chẳng phải thật, thì không khởi tâm động niệm nữa. Đừng coi là thật, thật sự là giả. Quý vị lại nghĩ xem, chúng tôi diễn xuất ở đây, tần số dao động trong một giây là 1.600 ngàn tỷ, làm sao việc đó có thể là thật chứ? Quá khứ chúng ta xem phim, ở trước mặt chúng ta, hình ảnh ở trên màn hình, tần số trong một giây là 24, là 24; hiện nay bày ở trước mặt chúng ta là 1.600 ngàn tỷ, mười giây là 16 triệu ngàn tỷ. Chẳng phải thật, toàn là giả. Luôn luôn quán được như vậy, thì lợi ích cho chúng ta quá lớn rồi, từ từ chúng ta sẽ nhìn thấu điều này thôi, nhìn ra được chân tướng sự thật, không hề lưu luyến đối với tất cả pháp này. Quý vị làm thiện thì tôi chẳng động tâm, quý vị tạo ác thì tôi cũng chẳng động tâm, nhất định không được động niệm. Trước tiên học, là học không chấp trước, học không phân biệt, đây vẫn là Bồ-tát, có tác dụng. Thật sự có thể học được không chấp trước, khi lâm chung Phật quang chiếu vào, nâng cao quý vị, nâng cao tới cảnh giới của Bồ-tát, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, cách cõi Thật-báo độ rất gần; Nói cách khác, là quý vị có thể chứng đắc rất nhanh.

Dùng tâm chân thành để xử việc đối người tiếp vật, không có một chút lừa dối. Phải đoạn sạch phiền não, tập khí vô minh, không nên cho là thật, bất kể là thiện, hay là ác, đều thuận theo họ đi. Dùng tâm từ bi để đối đãi, từ bi của chân thành, không có từ bi của phân biệt; nếu làm thiện, thì dùng tâm từ bi đối với quý vị, mà tạo ác cũng là tâm từ bi đối với quý vị. Luôn luôn nghĩ đến A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật thấy được tình hình này, A Mi Đà Phật nhận xét thế nào? A Mi Đà Phật không ý kiến, một tấm lòng từ bi. Rất có kiên nhẫn, đợi quý vị quay đầu, khi nào có thể tiếp nhận, thì Phật đến thị hiện, nói pháp cho quý vị, đến độ quý vị. Nếu quý vị không tiếp nhận, thì Phật không đến, dù Phật đến quý vị cũng không biết. Phật thì luôn không bỏ chúng sanh, nhất định chúng ta phải biết được điểm này. Nếu bỏ chúng sanh thì chẳng phải là Phật Bồ-tát. Nhưng A-la-hán sẽ bỏ rơi, độ chúng sanh quá khó, quá phiền phức, các ngài thoái tâm, các ngài không độ quý vị nữa; Còn Bồ-tát không hề, quý vị cho Bồ-tát xấu xí như thế nào, đày đọa các ngài, thì các ngài vẫn đến độ quý vị.

Thứ tư 常寂光土 “Thường-tịch-quang độ”, 常寂光土者,即理性土也 “Thường-tịch-quang độ giả, tức Lý-tánh độ dã (Cõi Thường-tịch-quang chính là Lý-tánh độ). Trong Tịnh-độ nói là Pháp-tánh độ, ở đây nói Lý-tánh độ, là cùng một ý nghĩa. Thường chính là Pháp-thân, tịch tức là giải thoát, quang chính là Bát-nhã, ý nghĩa của những danh từ này rất sâu. Thế nào là Thường? Không biến đổi, vĩnh viễn không biến đổi. Hiện tượng sóng dao động chính là biến đổi, nên A-lại-da là biến đổi. Ngày nay đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học là sự biến đổi, mới có thể khảo sát được; nếu không biến đổi, không động, thì khoa học cũng không có cách nào, không thăm dò ra được. Nên đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học chính là ở A-lại-da, ngoài A-lại-da chính là Tự-tánh, nó duyên không được. Bởi vì Tự-tánh không có hiện tượng sóng dao động, không có hiện tượng vật chất, cũng không có hiện tượng ý niệm, tam-tế-tướng của A-lại-da đều không có, nên khoa học cũng không có cách nào. Phật nói điều này rất hay, 唯證方知 “duy chứng phương tri” (chỉ có chứng mới biết), chính quý vị phải đích thân chứng thì mới biết. Làm thế nào để chứng? Buông xuống, buông xuống khởi tâm động niệm. Tuy buông xuống khởi tâm động niệm, nhưng còn tập khí. Tổng cộng bao nhiêu phẩm tập khí? Từ tập khí nhiều hay ít mà chia ra, tổng cộng chia làm 41 phẩm. Đoạn hết 41 phẩm rồi, thì Thường hiện tiền, là Thường-tịch-quang liền hiện ra, không động nữa. Vẫn không cần đoạn hết hoàn toàn, đến Bát-địa, Phật nói thì biết, các vị ấy thấy được rồi. Chúng ta biết: Bồ-tát Bát-địa thấy được nguồn gốc của vũ trụ đến như thế nào, vạn pháp đến như thế nào, ta đến như thế nào, đều biết hết, là Bát-địa hiểu được, hoàn toàn nhìn thấy rồi. Cho nên gọi là Thường, Thường chính là Pháp-thân, Pháp-thân không có tướng, có thể hiện tất cả tướng. Pháp-thân chẳng phải là vật chất, chẳng phải là tinh thần, cũng chẳng phải tự nhiên, tuy ba loại hiện tượng đều không có, nhưng có thể hiện ra ba loại hiện tượng như vậy.

Tịch chính là giải thoát, thế nào là giải? Giải chính là giải trừ, giải trừ phiền não, giải trừ nghiệp chướng. Cho nên, vì sao Phật pháp bảo quý vị tu định? Khi định công thành tựu, thì phiền não nghiệp chướng được hóa giải. Phiền não, nghiệp chướng chẳng phải thật, là do vọng niệm hình thành, quý vị nghĩ quá nhiều thôi. Suy nghĩ quá nhiều, mệt nhọc, mệt mỏi, mệt mỏi sanh ra bệnh. Phật dạy chúng ta, suy nghĩ ấy toàn là vọng tưởng, không có thứ nào là thật. Quý vị nghĩ quá khứ, quá khứ không thể đạt được, quý vị còn có thể tìm về được không? Quý vị nghĩ tương lai, tương lai vẫn chưa đến; quý vị nghĩ hiện tại, hiện tại không thể đạt được, nói hiện tại, hiện tại cũng đã đi qua. Trong Kinh Kim Cang nói ba tâm không thể đạt được, quý vị nghĩ điều gì? Không nghĩ là vô sự! Nghĩ là vọng-tâm, không nghĩ là chân-tâm. Chúng ta nghĩ đến chữa bệnh, làm thế nào chữa lành bệnh? Chân-tâm, dùng chân-tâm, thì bệnh không còn nữa. Vọng-tâm mới có thể sanh bệnh, làm sao chân-tâm lại sanh bệnh được chứ? Vọng-tâm chính là tưởng, có tưởng thì sẽ sanh bệnh. Không tưởng chăng? Không tưởng, không để ý, không suy nghĩ, không dùng vọng-tâm nữa, thì bệnh sẽ khỏi thôi, là đạo lý như vậy. Chân-tâm không có ý niệm, nên chân-tâm tự tại, chân-tâm gọi là giải thoát.

Quang, quang là Bát-nhã, là trí huệ. Khi trí huệ không khởi tác dụng là quang, quang này khởi tác dụng có thể sanh ra biến hóa, quý vị xem 光中化佛無數億,化菩薩眾亦無邊 “quang trung hóa Phật vô số ức, hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên (trong hào quang hóa vô số Phật, hóa chúng Bồ-tát cũng vô biên). Không khởi tác dụng là quang, khởi tác dụng chính là thần thông, chính là biến hóa, tức là出生無盡 “xuất sanh vô tận” trong sách Hoàn Nguyên Quán nói. 此以不遷不變 “Thử dĩ bất thiên bất biến” (Ở đây dùng [nghĩa] không di chuyển, không biến đổi), không di chuyển không thay đổi, không biến đổi là thường, 離有離無名寂,照俗照真名光 “ly Hữu ly Vô danh tịch, chiếu tục chiếu chân danh quang” (lìa Có lìa Không gọi là tịch, chiếu tục chiếu chân gọi là quang). Hoàn toàn sáng tỏ chân và tục. Tục là mười Pháp-giới, chân là Chân-như Tự-tánh, sáng tỏ tất cả. Đây chính là 妙覺究竟果佛所居之土 “Diệu Giác cứu cánh quả Phật sở cư chi độ” (cõi cư trú của Phật quả Diệu Giác rốt ráo), gọi là Thường-tịch-quang. Trong Thường-tịch-quang thứ gì cũng không có, là thật, đó chính là quang, nhưng khi khởi tác dụng thứ nào cũng có, không thiếu một thứ nào.

淨名疏云:修於圓教願行之因,因極果滿,道成妙覺,居常寂光 “Tịnh Danh Sớ vân: tu ư viên giáo nguyện hạnh chi nhân, nhân cực quả mãn, đạo thành Diệu-giác, cư Thường-tịch-quang” (Tịnh Danh Sớ viết: tu ở trong nhân nguyện hạnh của Viên giáo, nhân cực quả mãn, đạo thành Diệu-giác, sống ở Thường-tịch-quang). Phương pháp tu hành này nhất định phải đến thế giới Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc đảm bảo quý vị tu thành, hơn nữa phát triển rất nhanh. Phải buông được thật sạch sẽ thế giới này, mỗi một người ở thế giới này, chúng ta đều dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng giác để đối đãi, tâm thanh tịnh bình đẳng giác chính là Phật tâm của A Mi Đà Phật, đây là chân thành đến tột bậc, để đối đãi tất cả chúng sanh. Đối với tất cả pháp, biết tất cả những gì có tướng, đều là hư vọng. Tự-tánh là không tịch, mười Pháp-giới là huyễn hữu, giả hữu, chẳng phải là chân hữu, sát-na sanh diệt, tất cả pháp không thể đạt được. Thường tác quán được như vậy, thì quý vị tự nhiên buông xuống thôi. Nắm lấy một câu Phật hiệu, không lúc nào quên, thời thời khắc khắc không được gián đoạn. Vì sao vậy? Gián đoạn thì vọng tưởng khởi lên, vọng tưởng kéo chúng ta vào ba đường ác, còn A Mi Đà Phật dẫn chúng ta về thế giới Cực Lạc, xem sức mạnh bên nào lớn hơn. Trong kinh giáo nói, 心佛眾生,三無差別 “tâm Phật chúng sanh, tam vô sai biệt” (tâm, Phật, và chúng sanh, cả ba không khác biệt), sức mạnh này là bình đẳng. Hi vọng tâm chúng ta kết hợp với Phật, thì sức mạnh sẽ lớn, ta là 2/3, còn nó là 1/3. Tâm phải hợp với Phật, chứ không phải hợp với phiền não, không phải hợp với vọng niệm, phải buông xuống vọng niệm, phải buông xuống phiền não, phải buông xuống tập khí. Làm cách nào để hợp với Phật? Tụng kinh, nghe giảng, niệm Phật, đây chính là hợp với Phật. Hợp với Phật, thì được Phật lực gia trì, còn hợp với phiền não, thì phiền não gia trì, không thể không làm rõ ràng, không thể không làm sáng tỏ điều này. Vấn đề trước mắt cấp bách nhất chúng ta ở ngay tại trước mặt, làm sao để lựa chọn, việc này phải thật sự trí huệ, phải thật sự hạ quyết tâm, không thể chờ đợi hơn nữa.

Tiếp theo vẫn còn một đoạn, 佛學常見辭彙:又名四佛土,即凡聖同居土、方便有餘土、實報莊嚴土、常寂光土 “Phật Học Thường Kiến Từ Vị: Hựu danh tứ Phật độ, tức Phàm-thánh-đồng-cư độ, Phương-tiện-hữu-dư độ, Thật-báo-trang-nghiêm độ, Thường-tịch-quang độ” (Phật Học Thường Kiến Từ Vị cũng gọi là tên bốn cõi Phật, chính là Phàm-thánh-đồng-cư độ, Phương-tiện-hữu-dư độ, Thật-báo-trang-nghiêm độ, Thường-tịch-quang độ). Chỗ này giải thích tương đối đơn giản. 凡聖同居土是凡夫與為了化度眾生而現身說法的聖人共同居住的國土 “Phàm-thánh-đồng-cư độ thị phàm phu dữ vị liễu hóa độ chúng sanh nhi hiện thân thuyết pháp đích thánh nhân cộng đồng cư trú đích quốc độ” (Cõi Phàm-thánh-đồng-cư là cõi nước cùng cư trú của phàm phu và thánh nhân vì hóa độ chúng sanh mà hiện thân nói pháp), đó gọi là Phàm-thánh-đồng-cư độ. 方便有餘土是二乘與沒有證得法身的菩薩所住的國土 “Phương-tiện-hữu-dư độ thị Nhị thừa dữ một hữu chứng đắc Pháp-thân đích Bồ-tát sở trú đích quốc độ” (Cõi Phương-tiện-hữu-dư là cõi nước cư trú của Nhị thừa và Bồ-tát chưa chứng được Pháp-thân), cõi nước của các ngài cư trú.  實報莊嚴土是佛的報身與地上菩薩所住的國土 “Thật-báo-trang-nghiêm độ thị Phật đích Báo-thân dữ Địa thượng Bồ-tát sở trú đích quốc độ” (Cõi Thật-báo-trang-nghiêm là cõi nước cư trú của Báo-thân Phật và Địa thượng Bồ-tát). 常寂光土是從佛的清淨法身所示寂的國土 “Thường-tịch-quang độ thị tùng Phật đích thanh tịnh Pháp-thân sở thị tịch đích quốc độ” (Cõi Thường-tịch-quang là cõi nước tịch tĩnh được hiện ra từ Pháp-thân thanh tịnh của Phật), trong cõi này không có hình tướng. Đây là tứ độ.

Vượt qua tam giới, thẳng lên tứ độ, cực viên cực đốn, là pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn. Nhất định phải hiểu được điều này. 而其中之《無量壽經》者,乃淨土群經之首要 “Nhi kỳ trung chi Vô Lượng Thọ Kinh giả, nãi Tịnh-độ quần kinh chi thủ yếu” (Mà trong đó Kinh Vô Lượng Thọ là quan trọng đứng đầu trong các kinh Tịnh-độ). Tịnh Tông có năm kinh một luận, bộ số một chính là Kinh Vô Lượng Thọ. Vào thời Đông Hán, kinh điển Tịnh Tông lúc ban đầu truyền đến, cũng là bộ Kinh này. Mãi cho đến triều Tống, có tổng cộng 12 lần phiên dịch. Trong lịch sử phiên dịch mà nói, không có kinh nào nhiều, thù thắng giống như Kinh Vô Lượng Thọ. Có thể là bản gốc, bản tiếng Phạn chẳng phải là một bản, nên có phiên dịch nhiều lần như vậy. Nói rõ năm xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn ở đời, không phải tuyên giảng một lần, mà Ngài đã giảng rất nhiều lần. Phật thuyết kinh, cả đời chỉ nói một lần, không nói lần thứ hai, chỉ riêng bộ Kinh này là tuyên nói nhiều lần. Phật thường xuyên giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc với mọi người, chúng tôi tin rằng nhất định là do người, do nơi không giống nhau, nên những điều Phật nói ra, không hoàn toàn giống nhau, Phật là phương tiện mà nói, giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cho nên, những bản dịch này cần thiết có hội tập. Nếu không có hội tập, thì nhất định phải đọc năm bản dịch gốc, điều này quá nhiều, quá phiền phức, mang lại sự bất tiện cho người học, nên cần phải được hội tập. 淨宗大德常稱為淨土第一經 “Tịnh Tông Đại đức thường xưng vi Tịnh-độ đệ nhất Kinh” (Các bậc Đại đức trong Tịnh Tông thường xưng kinh này là Kinh Tịnh-độ bậc nhất), hoặc xưng là Đại Kinh Tịnh-độ, tức là chỉ Kinh Vô Lượng Thọ.

至於佛說大乘無量壽莊嚴清淨平等覺經 “Chí ư Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” (Thậm chí Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác), bản hội tập này, đây là bản hội lần gần đây nhất, vào đầu năm Dân Quốc, kết thúc thời kỳ kháng chiến. Hội tập bản dịch Kinh Vô Lượng Thọ đời Hán, đời Ngụy, đời Ngô (Ngụy, Ngô chính là thời đại Tam Quốc), đời Đường, đời Tống, 五種原譯,廣擷精要,圓攝眾妙,匯成今經,現推為《無量壽經》之善本者也 “ngũ chủng nguyên dịch, quảng hiệt tinh yếu, viên nhiếp chúng diệu, hối thành kim Kinh, hiện thôi vi Kinh Vô Lượng Thọ chi thiện bổn giả dã (năm bản dịch gốc, rộng lấy phần tinh yếu, giữ gìn đầy đủ những phần vi diệu, tụ hợp thành Kinh này, hiện được tôn lên là thiện bản của Kinh Vô Lượng Thọ). Kinh Vô Lượng Thọ hiện có 9 bản khác nhau, bản này là hay nhất trong 9 bản. 二0一0年清明啟講 Nhị linh nhất linh niên Thanh minh khải giảng” (Vào tiết Thanh minh năm 2010 khai giảng). Chúng tôi cũng là nhìn thấy tai nạn xảy ra tới tấp trên địa cầu, Đại Kinh này có thể hóa giải kiếp nạn trước mắt, nên chúng tôi đã ngừng Kinh Hoa Nghiêm, để học tập bộ Kinh này. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói bộ Kinh này, chính là trung bản Hoa Nghiêm. Trong Kinh này giảng về Lý sự, tánh tướng, nhân quả: hoàn toàn tương đồng với Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm phân lượng nhiều, nói rất tỉ mỉ, bộ Kinh này phân lượng ít, vắn tắt đơn giản, tinh hoa của Hoa Nghiêm đều ở trong Kinh này.

Học bộ Kinh này, nhất là Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là Tập Chú, ngài đã sưu tập 193 loại kinh luận, những tài liệu chú sớ của Cổ đức, vô cùng phong phú. Vì vậy, học tập bộ Kinh này không thua gì học tập Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Một năm chúng ta hoàn thành một bộ, còn Kinh Hoa Nghiêm một năm giảng không xong. Tiết Thanh Minh khai giảng bộ Kinh này, 二0一一年九月十八日圓滿 “nhị linh nhất nhất niên cửu nguyệt thập bát nhật viên mãn” (đến ngày 18 tháng 9 năm 2011 thì viên mãn), tổng cộng đã giảng 600 tập. 發心一門深入,專修專弘,決定放下萬緣,一心求生淨土,作彌陀第一弟子,總報大恩 “Phát tâm nhất môn thâm nhập, chuyên tu chuyên hoằng, quyết định phóng hạ vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh-độ, tác Mi Đà đệ nhất Đệ tử, tổng báo đại ân” (Phát tâm thâm nhập một môn, chuyên tu chuyên hoằng, quyết định buông xuống vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh độ, làm Đệ tử bậc nhất của đức Mi Đà, tất cả đều để báo đại ân). Ngày 21 tháng 9 năm 2011, chúng tôi tuyên giảng lần nữa, gọi là Đại Kinh Khoa Chú, gộp khoa phán chúng ta đã học tập trong quá khứ vào trong, 專弘專念 “chuyên hoằng chuyên niệm”. Viên mãn lần thứ hai, đã giảng tổng cộng 578 tập, chúng tôi tiếp tục giảng lần thứ ba.

Đây chính là chúng tôi cảm ân đội đức. Cư sĩ Hạ Liên Cư 10 năm hội tập, chẳng phải việc dễ dàng, tỉ mỉ cẩn thận, chỉ e sợ có sai lầm. Khi Kinh hội tập thành công, ngài đã giảng qua mấy lần, dặn dò học trò của ngài là lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: viết một bản Chú Giải cho Kinh này. Niệm lão có đại trí huệ, chọn lọc Tập Chú, đã dùng tổng cộng 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của cổ Đại đức, để giải thích nghĩa lý và danh từ thuật ngữ ở trong Kinh này. Đây là bộc lộ trí huệ, khiến người đời sau chẳng thể không tin tưởng, chẳng thể không bội phục. Những điều được giải thích trong Kinh, không phải ý kiến của chính mình, là ý kiến của Phật, ý kiến của Bồ-tát, ý kiến của Tổ sư Đại đức xưa nay, làm cho người tâm phục khẩu phục.

Chúng ta xem đoạn tiếp theo, trang 139, hàng thứ 2. 無量壽經乃淨宗之總綱。我國清代彭紹升居士讚曰:無量壽經者,如來稱性之圓教,眾生本具之化儀。日本釋道隱讚此經為:如來興世之正說,奇特最勝之妙典;一乘究竟之極說,速疾圓融之金言;十方稱讚之誠言,時機純熟之真教也 Vô Lượng Thọ Kinh nãi Tịnh Tông chi tổng cương. Ngã quốc Thanh đại Bành Thiệu Thăng Cư sĩ tán viết: Vô Lượng Thọ Kinh giả, Như Lai xứng Tánh chi viên giáo, chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi. Nhật Bản Thích Đạo Ẩn tán thử Kinh vi: Như Lai hưng thế chi chánh thuyết, kỳ đặc tối thắng chi diệu điển; Nhất-thừa cứu cánh chi cực thuyết, tốc tật viên dung chi kim ngôn; thập phương xưng tán chi thành ngôn, thời cơ thuần thục chi chân giáo dã” (Kinh Vô Lượng Thọ là tổng cương lãnh của Tịnh Tông. Vào đời Thanh, Cư sĩ Bành Thiệu Thăng của nước ta đã ca ngợi: Kinh Vô Lượng Thọ là viên giáo xứng Tánh của Như Lai, là cách thức hóa độ vốn có chúng sanh. Sư Thích Ðạo Ẩn người Nhật khen Kinh này là: chánh thuyết xuất thế của đức Như Lai, là kỳ lạ đặc biệt tối thắng của diệu điển; lời giảng đến tột cùng của cứu cánh Nhất thừa, là lời vàng nhanh chóng viên dung; lời khen ngợi chân thật của mười phương, là chân giáo của thời tiết cơ duyên chín muồi vậy). Những lời khen ngợi này nhất định chân thật, đều không quá đáng tí nào. Viên giáo xứng tánh của Như Lai do Cư sĩ Bành đã nói, hình như có trong tài liệu tham khảo, có Viên giáo xứng Tánh, ở trang thứ 11. Xứng Tánh chính là 稱法界 “xứng pháp giới”, 又曰稱性。華嚴經之所說,稱於法界之真性 “hựu viết xứng Tánh. Hoa Nghiêm Kinh chi sở thuyết, xưng ư Pháp-giới chi chân tánh” (cũng gọi là xứng Tánh. Điều mà Kinh Hoa Nghiêm nói, xứng với chân Tánh của Pháp-giới). Quyển thứ nhất của Hoa Nghiêm Truyện Ký nói, 此乃圓滿法輪,稱法界之談 “thử nãi viên mãn pháp luân, xứng Pháp-giới chi đàm” (đây là pháp luân viên mãn, nói về xứng Pháp-giới). Xứng Tánh mới có thể nói viên mãn, trong Kinh này là nói điều gì? Chính là nói tánh tướng, lý sự, nhân quả của tất cả các pháp: trong khắp pháp giới hư không giới, cũng không sót thứ nào, đây gọi là xứng Tánh.

圓教 “Viên giáo”, viên là ý nghĩa của viên mãn, đây là thuật ngữ, ý nghĩa là 大乘窮極之實教 “Đại-thừa cùng cực chi thật giáo (giáo pháp chân thật của Đại-thừa cùng tận). Pháp này không phải Tiểu-thừa, mà Đại-thừa, nghiên cứu kỹ đến vô cùng. Pháp này không phải là hư vọng, là chân thật, chữ thật này là thật tướng, chân tướng. Chúng ta có thể dùng lời nói hiện nay, là chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân tướng của rốt ráo viên mãn, đây gọi là viên, chẳng phải là bộ phận, mà viên mãn, là chân thật.  後魏光統律師 “Hậu Ngụy Quang Thống Luật sư” (Thời Hậu Ngụy, Luật sư Quang Thống), ở trong Hoa Nghiêm Sớ Sao nhắc tới ngài rất nhiều, vào lúc đó, ngài đã xác lập: 49 năm giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài chia làm ba giáo, giáo thứ ba là Viên giáo, tên gọi “Viên giáo” bắt đầu từ đó. Về sau do quyển 55 Kinh Hoa Nghiêm thời Tấn, đây chính là Hoa Nghiêm sáu mươi, được phiên dịch đầu tiên, là dịch vào thời nhà Tấn, nên gọi là Tấn Kinh. Bởi vì chỉ có 60 quyển, nên gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm. 爾時如來,知眾生應受化者,而為演說圓滿因緣修多羅 “Nhĩ thời Như Lai, tri chúng sanh ưng thọ hóa giả, nhi vị diễn thuyết viên mãn nhân duyên Tu-đa-la(Lúc đó, đức Như Lai biết chúng sanh thích hợp nhận sự giáo hóa mà thuyết cho [họ] viên mãn nhân duyên Tu-đa-la), đây chính là Lục Thập Hoa Nghiêm. Phật biết chúng sanh có người thuộc loại căn tánh này, có thể tiếp nhận pháp lớn Đại thừa rốt ráo viên mãn, nên nói cho họ. Khi nào thì thuyết Kinh Hoa Nghiêm? Ngay khi Phật thành đạo, nhập định dưới cội Bồ-đề, được nói ở trong định. Đối tượng là người nào? Là 41 vị Pháp-thân Đại-sĩ, Ngài nói cho họ. Cũng chính là Ngài chẳng phải nói ở nhân gian, nếu người không có loại định công, thần thông như vậy thì quý vị nghe không được, khi quý vị có năng lực tiến vào cảnh giới trong định của Thích Ca Mâu Ni Phật, thì quý vị mới có thể tham dự hội này.

Bồ-tát Long Thọ đã truyền Kinh Hoa Nghiêm đến thế gian, sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ 600 năm, Bồ-tát Long Thọ xuất hiện ở nhân gian. Ngài là Sơ-địa Bồ-tát, chắc phải là Sơ-địa của Biệt giáo, nên là bình đẳng cảnh giới với Đại sư Huệ Năng. Ngài đã dùng thời gian ba tháng, học tập viên mãn tất cả pháp do đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói trong 49 năm. Đây chính là một bộ Đại Tạng Kinh, ba tháng đã tốt nghiệp rồi. Làm thế nào ngài học được? Hiện tại chúng ta rất rõ ràng, sáng tỏ, khẳng định ngài là thật, chẳng phải giả. Vì sao vậy? Chúng ta thấy được Pháp sư Huệ Năng, Pháp sư Huệ Năng học một bộ kinh cần thời gian bao lâu? Ngài không cần học hết từ đầu đến cuối, không cần, nghe một đoạn, hai đoạn trong đó thì ngài biết toàn bộ, ngài có khả năng như vậy. Trong quá trình lánh nạn, giữa đường đi, ngài đã gặp Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng, Tỳ-kheo-ni ấy thọ trì Kinh Đại Bát Niết Bàn. Kinh Đại Niết Bàn có hai bản dịch, phân lượng đều rất lớn: một bản là 36 quyển, một bản là 40 quyển, kinh văn rất dài. Mỗi ngày Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng đọc bộ kinh này, đây là công khóa của cô. Gặp được ngài Huệ Năng, khi đó ngài Huệ Năng chưa xuất gia, là Cư sĩ tại gia. Khi cô đọc kinh, ngài ở bên cạnh nghe, đợi sau khi đọc xong, ngài nói với Tỳ-kheo-ni: trong kinh cô vừa mới đọc có những ý nghĩa gì, ngài giảng cho cô nghe. Cô vô cùng kinh ngạc, nâng lấy kinh đến xin ngài chỉ bảo. Ngài nói: Tôi không biết chữ. Không biết chữ sao có thể giảng hay như thế ạ? Ngài nói điều này không liên quan đến biết chữ hay không biết chữ. Đại sư Huệ Năng cả đời đã độ 43 người, Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng là người đầu tiên, ngài vừa giảng điều đó, thì cô khai ngộ. Do vậy ngài không cần quá nhiều thời gian.

Ví dụ thứ hai càng rõ ràng hơn, là Thiền sư Pháp Đạt, có ghi chép trong Đàn Kinh. Thiền sư Pháp Đạt thọ trì Kinh Pháp Hoa, tuy Kinh Pháp Hoa chỉ có bảy quyển, nhưng kinh văn rất dài, nhiều nhất thì một ngày chỉ có thể tụng một bộ, đó là rất giỏi rồi. Ngài đã đọc hơn 3000 bộ, vậy tức là mười năm, mười năm chuyên môn đọc một bộ kinh, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Ngài đến Tào Khê để lễ Lục Tổ. Khi lễ lạy, ba lạy đầu không chạm đất. Đại sư Huệ Năng thấy rất rõ ràng, đợi ngài đứng dậy, bèn nói: ông có điều gì đáng kiêu mạn sao? Đầu không chạm đất, nhất định có điều gì đáng kiêu mạn. Ngài thưa với Đại sư Huệ Năng: con đã tụng 3000 bộ Pháp Hoa. Khó được! Lục Tổ hỏi ngài, Kinh Pháp Hoa giảng những gì? Ngài nói không ra được. Quay trở lại thỉnh giáo Lục Tổ, Lục Tổ nói: ta chưa từng nghe kinh này, ông đã đọc thuộc như thế, hãy đọc cho ta nghe. Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm, ngài đọc đến phẩm thứ hai方便品 “Phương Tiện phẩm” (phẩm Phương Tiện), đọc đến phẩm thứ hai, Lục Tổ nói với ngài: được rồi, không cần đọc nữa, ta đã biết hết rồi, giảng Kinh Pháp Hoa cho ngài, thì ngài khai ngộ, rồi lễ lạy lại, đầu chạm đất.

Cách học ba tạng, mười hai bộ như vậy, trải qua thời gian ba tháng rất nhiều. Vừa xem liền biết, vừa nghe liền biết, vừa tiếp xúc liền biết, không cần nói từ đầu đến cuối một bộ kinh, không cần, nào có rắc rối như vậy! Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang cho ngài, giảng đến 應無所住,而生其心 “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (không nên trụ vào đâu, mà sanh tâm ấy), thì triệt ngộ rồi, phía sau không cần giảng nữa. Chúng tôi mở kinh ra để xem, đại khái là 1/5. Kinh Kim Cang cũng không quá 5000 chữ, đã giảng 1000 chữ cho ngài, là 1/5, thì ngài minh tâm kiến tánh. Tâm của ngài thanh tịnh, không có vọng tưởng, không có tạp niệm. Đây chính là sở trường của Bồ-tát, chúng ta không bằng Bồ-tát, chính là vì chúng ta có tạp niệm, có vọng tưởng. Pháp sư Thần Tú ở với Ngũ Tổ nhiều năm, không buông xuống được vọng tưởng, tạp niệm, quý vị xem bài kệ của ngài làm 身是菩提樹,心如明鏡台,時時勤拂拭,勿使惹塵埃 “Thân thị Bồ-đề thọ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai” (Thân như cây Bồ-đề, tâm như đài gương sáng, thường xuyên phải lau chùi, chớ để dính bụi nhơ), tràn đầy tạp niệm, vọng tưởng. Ngài Huệ Năng thay đổi lại, 菩提本無樹,明鏡亦非台,本來無一物,何處惹塵埃 “Bồ-đề bổn vô thọ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Bồ-đề vốn không cây, gương sáng cũng chẳng đài, xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ), là thật sạch sẽ, cũng chẳng có gì nữa. Truyền y bát cho ngài, mà không thuộc về ngài Thần Tú. Vào lúc đó, mỗi người đều cho rằng ngài Thần Tú là Tổ thứ sáu của Thiền Tông, họ đều ngắm trúng ngài. Thật không ngờ là ngài Huệ Năng đến, y bát bị ngài cầm đi, mọi người đều không phục. Không ai phân biệt được đẳng cấp, chỉ có Ngũ Tổ biết. Ngài Thần Tú cũng bội phục, cảm thấy không bằng ngài Huệ Năng. Ngài biết, nhưng người khác không hiểu được, những người khác không phục, còn mong cướp y bát trở về. Tật đố chướng ngại ở trong nhà Phật nghiêm trọng biết bao. Bản thân ngài Thần Tú không có ý này, mà những tín đồ bên dưới, bây giờ nói là người hâm mộ của ngài không phục, không có cách nào. Ngũ Tổ cao minh, bảo ngài nửa đêm hãy bỏ đi nhanh lên, trốn đi, đừng để người tìm được. Đã trốn 15 năm, thật chẳng dễ dàng!

Phía sau đây lại nói, 顯現自在力,演說圓滿經 “hiển hiện tự tại lực, diễn thuyết viên mãn Kinh” (hiện ra lực tự tại, diễn nói kinh viên mãn), đây đều là những điều Lục Thập Hoa Nghiêm nói. Tông Thiên Thai chia ra bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Thứ tư là Viên giáo; Còn tông Hoa Nghiêm lập năm giáo: Tiểu, Thủy, Chung, Đốn, Viên. Thứ năm là Viên giáo. Nay theo lời của tông Thiên Thai để giải thích, 先就圓體言之 “tiên tựu viên thể ngôn chi” (trước hết là nói về thể viên dung, viên mãn), đó là có nghĩa viên dung, viên mãn. 十界三千之諸法,一如一體 “Thập giới Tam thiên chi chư pháp, nhất như nhất thể” (Các pháp của Thập giới Tam thiên, là một thể nhất như), đây là viên dung. Chúng ta đã học Thập giới Tam thiên, Thập giới là mười Pháp-giới, mỗi Pháp-giới đều có mười Pháp-giới, vậy là 100 Pháp-giới; mỗi Pháp-giới đều có mười như thị, chính là Thiên Như, gọi là Bách Giới Thiên Như. Phối hợp với một ngàn ngũ-ấm, một ngàn chánh-báo, một ngàn y-báo, gọi là Tam thiên. Tam thiên quy nạp tất cả các pháp, là một thể nhất như, đây là viên dung. 十界三千之諸法,條然具足 “Thập giới Tam thiên chi chư pháp, điều nhiên cụ túc” (Các pháp của Thập giới Tam thiên, có trật tự đầy đủ), đây gọi là viên mãn, cũng gọi là viên túc. 圓融為空諦 “Viên dung vi Không đế” (Viên dung là Không đế), đây là Tam đế do tông Thiên Thai nói, Tam đế Tam quán, đây là Không đế; 圓滿為俗諦 “viên mãn vi Tục đế” (viên mãn là Tục đế); hai điều này相即不二為中諦 “tương tức bất nhị vi Trung đế” (tương tức không hai là Trung đế). Chân và Tục là một chẳng phải hai, Không đế chính là Chân đế, đây gọi là Trung đế. 觀此三諦於一時 “Quán thử tam đế ư nhất thời” (Quán ba đế này cùng một lúc), chính là nhất-tâm tam-quán, nhất-tâm tam-đế, đây gọi là viên, đây gọi là Viên giáo.

Sách Phụ Hành, đây cũng là của tông Thiên Thai, 圓名圓融圓滿義,又圓者全也。李奇云:圓錢也 “viên danh viên dung viên mãn nghĩa, hựu viên giả toàn dã. Lý Kỳ vân: viên tiền dã” (viên là nghĩa viên dung viên mãn, lại nữa viên là trọn vẹn. Lý Kỳ nói: [như] đồng tiền tròn), đồng tiền vào thời điểm đó, tiền là hình tròn. Hình tròn biểu thị điều gì? Có nghĩa là圓全無缺 “Viên toàn vô khuyết” (hoàn hảo không thiếu khuyết). Thời xưa ở giữa đồng tiền là hình vuông, bên ngoài là hình tròn, cũng biểu thị có triết lý bên trong: làm người bên ngoài phải chu toàn, bên trong phải ngay thẳng, bên trong phải tuân thủ nguyên tắc, bên ngoài phải hòa hợp, là đạo làm người. Nên Trung Hoa chế tạo đồ vật, đều có hàm chứa ý nghĩa rất sâu ở trong đó.

四教儀一曰:圓以不偏為義 “Tứ Giáo Nghi nhất viết: viên dĩ bất thiên vi nghĩa” (Quyển một của Tứ Giáo Nghi cũng nói: viên có nghĩa là không thiên lệch. 此教 “Thử giáo” (giáo này), đây chính là nói Viên giáo, 明不思議因緣二諦中道事理具足不別,但化最上利根之人,故名圓教 “minh bất tư nghì nhân duyên nhị đế trung đạo sự lý cụ túc bất biệt, đãn hóa tối thượng lợi căn chi nhân, cố danh Viên giáo” (nói rõ nhân duyên chẳng nghĩ bàn, nhị đế, trung đạo, sự lý đầy đủ chẳng phân biệt, chỉ hóa độ người lợi căn tối thượng, nên gọi là Viên giáo). Đối tượng dạy học của Viên giáo là tối thượng lợi căn, người thượng thượng căn, họ có thể tiếp nhận. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp Hoa sau cùng, là khai quyền hiển thật, nói rõ những điều đã giảng trước đây đều là phương tiện thiện xảo, kể cả Bát Nhã, Bát Nhã là Đại-thừa, 22 năm. A Hàm 12 năm, Phương Đẳng 8 năm, Bát Nhã 22 năm, tổng cộng 42 năm, 42 năm thì Ngài mới giảng Pháp Hoa. Căn tánh chín muồi rồi, có thể tiếp nhận, thì giảng tất cả pháp viên dung không hai, đây là sự thật, là chân lý, thật tướng chân thật. 就行位言之 “Tựu hành vị ngôn chi” (Là nói về hành vị), là địa vị tu hành, đó gọi là viên đốn. 華嚴經說初發心時便成正覺 “Hoa Nghiêm Kinh thuyết sơ phát tâm thời tiện thành Chánh Giác(Kinh Hoa Nghiêm nói khi mới phát tâm liền thành Chánh Giác), đây là viên đốn. 涅槃經說發心究竟二無別 “Niết Bàn Kinh thuyết phát tâm cứu cánh nhị vô biệt” (Kinh Niết Bàn nói phát tâm và rốt ráo cả hai không khác biệt), phát tâm là khi mới phát tâm, rốt ráo là khi thành Phật, sơ phát tâm và thành Phật là một không phải là hai. Loại này cũng gọi là viên đốn.

頓者頓極頓足 “Đốn giả đốn cực đốn túc” (đốn là nhanh chóng tận cùng mau chóng đầy đủ), đốn là nhanh chóng, thoáng chốc đạt được viên mãn, là đến được mục đích rồi. 諸法本圓融,故一法圓滿一切法 “Chư pháp bổn viên dung, cố nhất pháp viên mãn nhất thiết pháp” (Các pháp vốn viên dung, nên một pháp viên mãn tất cả pháp), đây là lý. Vì sao có pháp viên đốn? Chính là các pháp vốn là viên dung, chỉ cần quý vị buông xuống vọng tưởng phân biệt chấp trước, thì quý vị thấy được thôi, tất cả pháp đều viên. Quý vị thấy chúng sanh ngạ quỷ, quý vị thấy con kiến, quý vị thấy chúng sanh địa ngục đều là Phật, sao lại là Phật? Mê rồi, mê nên thành như vậy. Giống như một người rất thông minh, rất có trí huệ, uống rượu uống say rồi say đến say mềm. Người này có đạo đức, có học vấn, khi say mềm cũng không đánh mất đạo đức, học vấn của mình, chỉ là nhất thời mê muội, họ tỉnh rượu rồi thì khôi phục bình thường. Do đó, Phật Bồ-tát thấy tất cả chúng sanh đều là Phật, như chúng ta thấy một người uống rượu say nói lời lung tung, khác với khi tỉnh táo, nhưng thật ra là giống nhau. Việc đó của họ là rất ngắn, tỉnh táo lại là khôi phục thôi. Tất cả chúng sanh mê trong lục đạo, mê trong ba đường cũng như thế này, Phật thấy được rất rõ ràng, chẳng cảm thấy bất ngờ chút nào, cho là hiện tượng bình thường, chỉ nhất thời mê muội, làm việc như thế này. Nhưng do lợi căn, thì họ chuyển rất nhanh, thoáng chốc họ quay đầu. Cho nên buông xuống là được thôi.

Chư pháp vốn viên dung, nên một pháp viên mãn tất cả pháp, 以一念之開悟,頓疾極足佛果 “dĩ nhất niệm chi khai ngộ, đốn tật cực túc Phật quả” (dùng một niệm đến khai ngộ, vô cùng nhanh chóng đến Phật quả đầy đủ), đốn tật là vô cùng nhanh chóng, liền đạt đến Phật quả viên mãn rốt ráo, đây gọi là viên đốn. 是天台所判四教中,第四圓教之所詮也,是為宗之極致。故教名圓頓宗,戒名圓頓戒,觀名圓頓觀 “Thị Thiên Thai sở phán tứ giáo trung, đệ tứ viên giáo chi sở thuyên dã, thị vi tông chi cực trí. Cố giáo danh viên đốn tông, giới danh viên đốn giới, quán danh viên đốn quán” (Trong bốn giáo của Thiên Thai chia, thì Viên giáo thứ tư đã được giải thích, là chỗ tột cùng của tông [này]. Nên giáo gọi là tông viên đốn, giới gọi là giới viên đốn, quán gọi là quán viên đốn). Quyển thứ hai của sách Phụ Hành nói, 圓頓者,頓名頓極頓足,體非漸教,故名為頓 Viên đốn giả, đốn danh đốn cực đốn túc, thể phi tiệm giáo, cố danh vi đốn” (viên đốn, đốn là rất nhanh chóng đầy đủ, thể chẳng phải là tiệm giáo, nên gọi là đốn).

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 3)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật

Trả lời 0