TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 2: Đức Tuân Phổ Hiền
Tập 102
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 1 tháng 9 năm 2014.
Dịch giả: Diệu Liên.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính thưa: chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh
mọi người cùng tôi
quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung
tôn. (3 lần)
Chư vị đồng học, hôm nay, trước khi chúng ta vào học lớp giới
luật này, mọi người nghe tôi giảng kinh, trước khi giảng kinh không có niệm
khai kinh kệ, trước kia chúng ta đều có niệm khai kinh kệ, bây giờ dùng Tam Quy
thay thế khai kinh kệ. Đây là vào năm ngoái tôi ở Sri Lanka, giảng kinh được một
tháng, Pháp sư ở bên đó kiến nghị với tôi, hy vọng tôi dẫn dắt mọi người: trước
mỗi buổi giảng làm một lần truyền thọ Tam Quy. Ý nghĩ này rất hay, tôi đã tiếp
nhận. Tại vì sao? Bởi thực sự nói sự truyền thọ Tam Quy là một hình thức, cho dù
vị thầy truyền thọ Tam Quy, đem nghĩa lý của Tam Quy nói rõ ràng, nói minh bạch,
nhưng chúng sanh chúng ta thời nay rất dễ quên, không nhớ nổi, căn bản là không
có khái niệm về Tam Quy. Cho nên với kiến nghị của họ, sau khi tôi nghe xong cảm
thấy rất có đạo lý. Học Phật bắt đầu học từ đâu? Từ Tam Quy, không có Tam Quy
thì không có Ngũ giới, cũng không có Thập thiện, Tam Quy là căn bản, cần phải
luôn luôn không thể quên lãng, lúc tôi mới học Phật là năm 26 tuổi, theo Đại sư
Chương Gia, Đại sư đã đưa ra một thí dụ, nói với tôi về tính quan trọng của Tam
Quy y. Vào thời điểm đó tôi ở Đài Loan, ở Đài Loan thì công cụ giao thông chủ yếu
từ Đài Bắc đến Cao Hùng là xe lửa, vào lúc đó xe bình thường đại khái phải mất 30,
40 giờ đồng hồ, xe nhanh mất tám giờ đồng hồ. Từ Đài Bắc đến Cao Hùng, Tam Quy
cũng giống như vé xe để chúng ta đi tàu hỏa vậy, quý vị muốn được lên xe, đầu
tiên phải chuẩn bị có vé xe, và còn mọi lúc mọi nơi không được rời khỏi vé xe, ở
trên xe có người xét vé, đến trạm cuối còn phải giao trả lại. Ý nghĩa này cũng
đã nói lên rõ, Tam Quy Y giống như đón xe đi, chúng ta Quy y Tam Bảo, cầm vé trên
tay, mọi lúc mọi nơi có người kiểm tra, không được đánh mất, đến trạm cuối chính
là thành Phật, viên mãn thành Phật.
Quy
y, Quy là quay đầu, Y là nương tựa. Từ đâu quay đầu? Về đến chỗ nào? Đầu tiên
là Quy y Phật, chúng ta có Quy y Phật hay không? Ý nghĩa của Phật là gì? Tam
Quy có rất nhiều cách nói, quan trọng nhất là quy y Tự Tánh Tam Bảo, không phải
chúng ta trên hình thức được gọi là Trụ trì Tam Bảo, không phải vậy. Nhưng mà Trụ
trì Tam Bảo khởi tác dụng rất lớn, nhìn thấy tượng Phật sẽ nghĩ đến Tự Tánh
giác, Tự Tánh Tam Bảo là Tự Tánh giác, Tự tánh vốn là giác mà không mê, chúng
ta bây giờ là mê mà không giác. Quý vị hãy xem trong Lục Tổ Đàn Kinh, đó là 1300
năm trước, Đại sư Huệ Năng, ngài truyền đạt Tam Quy, ngài không nói Quy y Phật Pháp
Tăng. Ngài nói là Quy y giác chánh tịnh. Quy y giác, Quy y chánh, Quy y tịnh.
Lúc tôi mới học Đàn Kinh, nhìn thấy câu này tôi liền nghĩ: Tại sao ngài đem Phật
Pháp Tăng đổi thành giác chánh tịnh? Vào lúc đó Phật pháp đã truyền đến Trung Hoa
được 700 năm; khoảng sáu, bảy trăm năm, thời
gian đã lâu, càng truyền càng sai, mọi người đã đem tượng Phật điêu khắc bằng đất
sét cho là Phật thật. Cho rằng đó là Phật thật, đó là chúng ta tu tâm cung kính,
không sai. Nhưng quý vị thật sự đem cho là Phật, thì sai rồi, không phải ý
nghĩa đó. Nhìn thấy tượng Phật liền nghĩ đến Tự Tánh giác, vậy mới là đúng, cần
Quy y Tự Tánh Tam Bảo mới hữu dụng, mới có thể minh tâm kiến tánh, mới có thể
thành Phật làm tổ, cần phải hiểu điều này. Nhìn thấy kinh điển, thậm chí đến
nhìn thấy tất cả sách vở, đều có thể nhắc nhở chúng ta cần Quy y chánh. Kinh điển
chỉ điều gì? Chánh tri chánh kiến, đây là pháp, không phải tà tri tà kiến,
không phải thiên kiến, quý vị nói điều này quan trọng biết bao. Cho nên nhìn thấy
quyển sách là nghĩ đến Tự Tánh chánh. Nhìn thấy người xuất gia, bất kể người xuất
gia có trì giới hay không, tu hành như thế nào, không được thẩm xét điều này,
đó là việc của họ. Gặp được người xuất gia, thì nhắc nhở chúng ta điều gì? Tịnh,
Quy y tịnh, tịnh là gì? Sáu căn thanh tịnh, không nhiễm một trần. Yêu cầu chính
mình, không phải yêu cầu người khác, thì chúng ta mới có thể thành tựu. Nếu
chúng ta không yêu cầu bản thân, mà đòi hỏi người khác, thì nhiễm ô tất cả rồi.
Tam
Quy y là ở trên đề kinh chúng ta, quý vị xem quy y Phật, Tự Tánh giác, thanh tịnh
bình đẳng giác, còn Pháp, Pháp là bình đẳng, Tăng đại biểu là sự thanh tịnh. Thanh
tịnh là Tăng Bảo, bình đẳng là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo, trên đề kinh có Tam Bảo.
Trên đề kinh có Tam học, thanh tịnh là giới học, bình đẳng là định học, giác là
huệ học, giới định huệ Tam học. Cần rõ ràng đạo lý này, học Phật luôn luôn ghi
nhớ, Thế Tôn giúp chúng ta học Phật, mục đích cuối cùng là gì? Là giác chánh tịnh;
tu hành là tu điều gì? Là tu giác chánh tịnh. Giới là tu tịnh, định là tu chánh
tri chánh kiến, giác là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Cho nên giác là
Phật Bảo, chánh là Pháp Bảo, tịnh là Tăng Bảo, phải làm rõ ràng điều này, chúng
ta học điều gì? Vậy chúng ta cần phải hỏi, tôi học giới có đạt được tâm thanh tịnh
không? Nếu như học giới, mà tâm thanh tịnh không thể hiện tiền, thì giới đó gọi
là học trắng rồi. Tại sao tâm không thể thanh tịnh? Bởi dính tướng rồi. Chư vị
cần ghi nhớ, sơ quả Tiểu thừa, Bồ-tát sơ-tín-vị của Đại thừa, là học sinh lớp một
tiểu học, đó là giáo dục Phật giáo, cần yêu cầu điều gì? Yêu cầu tâm thanh tịnh.
Sơ-quả đã đạt tâm thanh tịnh, đoạn hết 88 phẩm Kiến hoặc rồi. Cho nên tác dụng
của giới luật là ở chỗ này, đoạn tận 88 phẩm Kiến hoặc. Phật vì dạy học thuận
tiện khởi kiến, đem 88 phẩm Kiến hoặc chia thành năm loại lớn, cho dễ nói, thứ
nhất là Thân kiến, thứ hai là Biên kiến, thứ ba là Kiến thủ kiến, thứ tư là Giới
thủ kiến, thứ năm là Tà kiến. Đem năm loại Kiến hoặc sai lầm này đoạn cho sạch
sẽ, buông xuống tất cả rồi, thì chứng quả Tu-đà-hoàn, toàn dựa vào buông xuống.
Đại thừa đem năm loại Kiến hoặc đoạn tận, là Sơ tín vị trong mười tín vị, chính
thức nhập môn, là học sinh lớp một tiểu học Phật pháp. Nếu chúng ta không đạt tới
cảnh giới ấy, thì chúng ta vẫn còn đang học lớp mầm non, lớp một tiểu học vẫn
chưa có phần, chúng ta nhất định cần phải biết điều này.
Chính mình đã biết rồi, đó cũng là câu nói mà thầy truyền giới đã dạy lão Hòa
thượng Hải Hiền, khi thầy minh bạch rồi, thì không được nói loạn, không được
nói. Quý vị đem đạo lý, tinh thần của giới đều sáng làm tỏ rồi, con người đó phá
giới, họ không trì giới, thì quý có được nói họ hay không? Không được nói họ, sanh
tử mỗi người thì mỗi người hiểu. Nếu quý vị muốn nói với họ, khuyên họ, lúc không
có người thứ ba ở bên cạnh, vậy thì được; có người thứ ba ở bên cạnh, thấy họ
sai rồi, cũng không được nói. Họ có chỗ nào làm đúng thì khen ngợi họ, làm sai
thì không nói họ, vậy là đúng rồi. Lão Hòa thượng Hải Hiền, chúng ta nói vận số
của ngài rất tốt, thầy ngài là chân thiện tri thức. Thầy của ngài đến cảnh giới
nào, chúng ta suy đoán là cảnh giới của minh tâm kiến tánh, nếu không thì ngài
không nhận biết người được. Ngài nhìn thấy lão Hòa thượng Hải Hiền là bậc pháp
khí, pháp khí chính là ở đời này, ngài có khả năng chứng quả, có khả năng đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, điều này cần có nhãn quang thế nào mới có thể
nhìn ra người khác được. Sở trường của người ấy, chúng ta nói thiên phú, thiên
tính, thật thà, nghe lời, thật làm. Ngày nay chúng ta ở thế giới này, tìm người
như thế thì tìm không thấy, ai thật thà? Ngay chính mình cũng không thật thà, thì
quý vị làm sao gặp được người thật thà? Chính mình cũng không nghe lời, thì quý
vị có thể tìm được người biết nghe lời sao? Không thể nào. Ở đây nói đến điều
gì? Nghiệp nhân quả báo, đạo lý của nhân quả, chúng ta dùng thái độ gì đối với
người khác, thì tương lai nhất định gặp quả báo đó. Quý vị không hiếu với cha mẹ,
thì tương lai con quý vị cũng không hiếu thuận với quý vị; quý vị lừa gạt bạn
bè, tương lai bạn bè của quý vị cũng lừa gạt quý vị. Từ xưa đến nay, trong nước,
ngoại quốc, đều ở trước mặt, quan sát tỉ mỉ. Cho nên lão tổ tông dạy đời sau:
“hành hữu bất đắc phản cầu chư kỷ”, thật là có đạo lý. Chúng ta khi gặp
khó khăn, hãy nghĩ lại tại sao chúng ta bị tai nạn như vậy? Chúng ta tự tạo ra
nhân, nghiệp nhân, nên bây giờ nhận chịu quả báo. Biết được rồi, thì sửa, sám hối,
đổi lại, vẫn còn kịp, chỉ cần khi hơi thở này vẫn chưa đứt, quý vị có thể quay
đầu, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, thì quý vị đi thành Phật rồi. Nhất
thiết không được đi theo mê hoặc điên đảo, mê mà không giác, tà mà không chánh,
nhiễm mà không tịnh, vậy thì thế nào? Vậy là tam đồ, là mê tà nhiễm.
Đạo lý này sâu, trước khi giảng kinh,
đem Tam Quy Y ôn tập một lần, là việc tốt, mọi lúc mọi nơi nhắc nhở chính mình,
cũng là nhắc nhở những đồng học thật sự muốn vãng sanh, muốn thành tựu. Họ đối
với danh văn lợi dưỡng của thế gian này. Chúng ta thường nói: tài sắc danh lợi,
bốn đại ma vương này, mấy người có khả năng thoát khỏi bàn tay chúng. Tại sao người
tu hành nhiều, mà người thành công lại ít? Bởi họ không biết đó là ma vương, họ
chịu ảnh hưởng của ma vương, họ chịu quấy nhiễu của ma vương, bất tri bất giác biến
thành ma con ma cháu, bên ngoài mặc vào áo cà-sa giống như đệ tử Phật, trên thực
tế họ là ma con ma cháu. Chúng ta cần có trí huệ này, nhìn thật rõ ràng, nhìn
thật minh bạch, quan trọng nhất là hồi quang phản chiếu, nhìn chính mình. Học lão
Hòa thượng Hải Hiền, cả đời không tạo tội nghiệp, cả đời không dám khinh mạn
người khác. Tính cách của ngài vô cùng ôn hòa, nhu hòa, không đua tranh với người,
bạn cần thì tôi không cần, tôi cần thì bạn cũng không cần, tôi cần giác chánh tịnh,
bạn cần mê tà nhiễm, hai người chúng ta không có xung đột, mỗi người một con đường.
Đối với người khác cần tôn trọng, tại vì sao? Bởi họ vốn dĩ là Phật. Thành Phật
chỉ là sớm muộn khác nhau, nhất định thành Phật. Có người kiếp này thành Phật,
có người đời sau kiếp sau thành Phật, có người vô lượng kiếp về sau mới thành
Phật, tại vì sao? Bởi họ có Phật tánh, cho nên đối với tất cả người phải tôn trọng,
đối với tất cả người nhất định không được khinh mạn, đạo lý này phải hiểu, nhất
định phải học lão Hòa thượng Hải Hiền. Đây là đại ý phần trước của Tam Quy, là
nguyên tắc chỉ đạo tu hành cao nhất của chúng ta, bất luận tu pháp môn nào, đều
không thể rời khỏi nguyên tắc này, rời khỏi nguyên tắc này, thì tất cả tu của quý
vị đó là mê tà nhiễm. Nếu nguyên tắc chỉ đạo tương ưng cùng giác chánh tịnh, thì
nhất định quý vị là chánh tri chánh kiến, quyết định là chánh tín, đó là Bồ-tát
đạo. Cho nên vị Pháp sư Nam Truyền kiến nghị với tôi điều này, tôi cảm thấy rất
có đạo lý, có ý nghĩa hơn bài khai kinh kệ.
Chúng ta bây giờ xem kinh văn, sách Đại
Kinh Khoa Chú, trang 332, hàng thứ tư, khoa đề, “đức dụng vô phương”.
Trong đức dụng chia làm hai khoa, “7.1. Tự lợi đức”, đoạn thứ
hai đó là “lợi tha đức”. Tự lợi lợi tha, nhất định tự lợi ở phía
trước, có tự lợi mới được lợi tha, không có tự lợi làm sao có thể lợi tha? Ý
nghĩa trong đây: vô cùng sâu rộng, không thể tùy tiện xem qua. Không có tự lợi
mà đi làm lợi tha, thì đều dẫn sai đường người khác, dẫn nhập tà đạo, lệch khỏi
chánh pháp, tự mình phải mang trách nhiệm nhân quả, trách nhiệm này là đoạn pháp
thân huệ mạng của người. Cổ nhân và người hiện nay khác nhau, khi nào cổ nhân đi
ra giảng kinh? Chưa khai ngộ không được đi ra giảng kinh, chưa khai ngộ không
được sáng tác, chú giải, tại vì sao? Bởi tri kiến không chính xác. Đến cận đại,
tôi đã nhìn thấy được, tiên sinh Phương Đông Mỹ, đây là một bậc đại triết học
gia, ngài sáng tác rất nhiều, nhưng không xuất bản quyển nào. Tại vì sao? Sợ
bên trong có sai lầm, sau khi xuất bản, sẽ hại người khác, có lỗi với người; vẫn
còn xem xét chính mình, sợ chính mình có thấy được đến đó không, hậu nhân sẽ cười
chê. Khi nào thì xuất bản? Sau khi qua đời, học trò thay ngài xuất bản. Thái độ
như vậy rất cẩn thận, chính xác.
Lão Cư sĩ Lý Bính Nam, là thầy của
tôi, lúc ngài còn ở đời, 80 tuổi trở về trước không có xuất bản qua gì cả, tôi
biết, tôi theo ngài năm đó ngài 70 tuổi, lúc rời ngài là 80 tuổi, tôi theo ngài
10 năm, thầy trước tác rất nhiều, đều là tác phẩm hay, hỏi ngài tại sao không
thể xuất bản? Ngài nói sợ người cười chê, cẩn thận đến như vậy. Trừ khi cấp
bách dạy học, bất đắc dĩ, đó là giúp đỡ học sinh, có mấy tác phẩm, không nhiều,
đều là bước đầu thôi, tác phẩm chính thức cũng là sau khi ngài đã vãng sanh, học
trò đã thế ngài để xuất bản, lúc Đại sư Liên Trì còn tại thế có rất nhiều tác
phẩm, nhưng không xuất bản một quyển nào, sau khi vãng sanh, học trò của ngài mới
đem xuất bản, ngài Ngẫu Ích cũng như vậy, nhìn kỹ Tổ sư Đại đức xưa nay, lúc
các ngài ở đời nhất định không cầu danh văn lợi dưỡng. Những tác phẩm đó là báo
cáo tâm đắc học tập một đời của quý ngài, có thể lưu lại cho hậu thế làm tài liệu
tham khảo, chính mình còn khiêm tốn như vậy, vẫn không dám lấy đem ra, để sau
khi chính mình vãng sanh, thì học trò làm thế quý ngài việc đó.
Đời này tôi không có gì để xuất bản,
bên ngoài có một số tác phẩm, đó là người khác dựa theo băng ghi âm, băng đĩa
mà viết ra, tôi thấy nhưng vẫn chưa xem qua, đây là thuận lợi đối với những người
sơ học, họ có làm sai không? Làm sai rồi, không có báo với tôi đã đem sách in
ra, in với số lượng rất lớn. Tự mình tham khảo thì được, không thể lưu thông,
lưu thông là trò cười lớn, người khác cho rằng tôi háo danh háo lợi, đó là không
tôn trọng đối với tôi, đó là thay tôi tìm phiền phức. Đây cũng là điểm mà người
thời nay không bằng người thời xưa. Bây giờ khoa học kĩ thuật phát triển, mỗi lần
diễn giảng đều có ghi hình, không những ghi âm, mà hình cũng được ghi lại. Những
thứ này không nên lưu thông số lượng lớn, họ muốn xem, thì sao chép cho họ một
bản, cho họ làm tham khảo, lưu thông số lượng lớn đó là sai lầm. Tôi chưa có
minh tâm kiến tánh, người mà thật sự minh tâm kiến tánh thì chính họ cũng không
chịu nói. Ngài Hải Hiền minh tâm kiến tánh, cả đời ghi nhớ giáo huấn của thầy, ngài
không có bội thầy phản đạo, thầy dạy ngài, ngài thật nghe lời, sau khi minh tâm
kiến tánh thì điều gì cũng biết, nhưng không nói. Nếu người khác hỏi ngài, chỉ
cười không đáp, rất có ý nghĩa, không thừa nhận và cũng không phủ nhận, người
minh bạch nhìn thấy như vậy thì sẽ biết ngay.
Cho nên chúng ta nhất định phải biết
tu đức, tu đức sau khi thành tựu tự lợi, sau tự lợi mới có thể lợi tha, bên
trong “tự lợi đức” chia ra hai khoa, khoa nhỏ thứ nhất là, 定慧等持“định huệ đẳng
trì”. Thế nào gọi là công đức? Định huệ là công đức, định huệ từ đâu mà đến?
Từ trì giới mà đến. Trì giới có tổng, có biệt, biệt đó là ngọn, nhỏ nhặt, chính
là phải có giới điều, là từng điều từng điều, giống như Tam Quy, Ngũ Giới, Tam Quy
Y có ba điều, Ngũ Giới có năm điều, Sa Di Luật Nghi có 10 điều giới luật, 24 điều
oai nghi, đó là biệt; tổng, tổng chính là Đại sư Chương Gia dạy cho tôi nhìn thấu,
buông xuống, đó mới là chân chánh trì giới. Nhìn thấu là ý nghĩa gì? Hiểu rõ chân
tướng sự thật. Buông xuống là gì? Trong tâm không thể có thứ gì cả, phẩm Phạm Võng
Bồ Tát Tâm Địa Giới. Thầy tôi lại nói với tôi: Phật pháp trọng thực chất không
trọng hình thức, đặc biệt là thời đại hiện nay. Hình thức có quan trọng không?
Quan trọng, nhưng mà quan trọng hơn đó là nội dung, là thực chất. Có bề ngoài
gói rất giống, có dáng có dấp, ở trong không phải, đó là sân khấu biểu diễn, sau
sân khấu nhìn thì không giống. Thật vậy không? Trước sau sân khấu đều không giống,
đó là sự thật. Cho nên sự thật, sự thật là cần buông xuống, buông xuống Kiến tư
Phiền não thì quý vị sẽ chứng quả A-la-hán, đạt tâm thanh tịnh, là tự lợi, buông
xuống vọng tưởng phân biệt thì quý vị sẽ chứng quả Bồ-tát, công phu của định huệ
cao hơn so với A-la-hán rất nhiều. Lúc nãy tôi vừa mới nói, trên kinh đề, thanh
tịnh là giới, bình đẳng là định, giác là huệ, một tức là ba, ba tức là một,
trong huệ có giới, có định; trong định có giới, có huệ; trong giới có định, có
huệ. Đó là giới thật sự, long thiên thiện thần, chư Phật Bồ-tát đều tán thán thật
giới, trong giới có định, có huệ. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu diễn cho chúng
ta rất sâu sắc tường tận, biểu diễn rất là hay, chúng ta từ băng đĩa, trên văn
từ cần nhìn ra để được thọ dụng, nhìn không ra thì quý vị không được thọ dụng. Nhìn
ra được thì pháp hỷ sung mãn, thật sự thường sanh tâm hoan hỉ, băng đĩa đó xem
trăm lần không chán, càng xem càng có vị đạo. Cho nên tôi khuyên người một ngày
nên xem ba lần, tôi một ngày xem hơn sáu lần. Thật hiếm có, cống hiến đối với Phật
giáo, cống hiến đối với Tịnh Độ-tông đạt đến cực đỉnh. Chúng ta chiếu theo phương
pháp của ngài để tu hành, thì không có ai mà không thành công, không có ai mà không
vãng sanh, không có ai mà không thành Phật.
Bây giờ chúng ta xem kinh văn:
【得無生無滅諸三摩地。及得一切陀羅尼門。隨時悟入華嚴三昧。具足總持百千三昧。】 “Đắc vô sanh vô diệt chư Tam–ma–địa, cập đắc nhất
thiết đà–la–ni-môn, tùy thời ngộ nhập
Hoa Nghiêm tam–muội, cụ túc tổng trì
bá thiên tam–muội” (Đắc vô sanh vô diệt chư tam-ma-địa, và đắc tất cả môn đà-la-ni, tùy
lúc ngộ nhập Hoa Nghiêm tam-muội, đầy đủ tổng trì trăm ngàn tam-muội).
Kinh
văn này đã hết rồi, rốt cuộc đây là đức gì? Khởi tâm động niệm, phân biệt chấp
trước đều buông xuống tất cả, thì tánh đức hiện tiền, Thế Tôn tám tướng thành đạo
cuối cùng viên mãn thì hiện đức Bát-niết-bàn. Chúng ta xem chú giải của Niệm lão,
chú giải thật vô cùng phong phú. 三摩地,梵語 “Tam-ma-địa, Phạn ngữ”(Tam-ma-địa, là tiếng Phạn), ngôn ngữ của Ấn Độ cổ. 舊稱“cựu xưng”(cựu gọi là), phàm là cựu hay là
cựu dịch tức là phiên dịch, cựu xưng, đều là thông dụng trong nhà Phật từ thời Đại
sư Huyền Trang trở về trước. Gọi là 三昧、三摩提、三摩帝“tam-muội,
tam-ma-đề, tam-ma-đế”, dùng
những chữ như vậy, đó là dịch âm, ý nghĩa thì 翻為定“phiên vi định”(dịch là định), tam-muội chính là định, hoặc là dịch là 正定“chánh
định”, là phân biệt rõ nó không phải tà định. 正受“chánh
thọ”, thọ là thọ dụng, không phải thọ dụng của sai lầm, là thọ dụng của chính
xác, hay là dịch thành, 調直定“điều trực định”, điều là điều thuận, trực là không có cong quẹo,
định này tương ưng cùng với Tự Tánh gọi là trực. Chúng ta ở trong cuộc sống thường
ngày quan trọng nhất là biết điều thuận, định ở nơi nào? Sáu căn định ở trong cảnh
giới sáu trần, mắt nhìn sắc, nhãn thức ở trong sắc tướng mà nhập định, đó gọi
là điều trực định. Định là gì? Không có nhiễm ô, không có phân biệt, thấy sắc thấy
được rất rõ ràng, rất minh bạch đó là huệ, chiếu kiến. Phàm phu khi thấy, thì liền
khởi ý niệm, khởi phân biệt, khởi chấp trước, đó chính là lục đạo, cái thấy của
chúng sanh lục đạo. Cái thấy của Phật Bồ-tát, cái thấy của người Tiểu thừa khác
nhau với chúng ta, cái thấy của người Tiểu thừa không có chấp trước, cái thấy của
người Đại thừa không có phân biệt, cái thấy của Pháp thân Bồ-tát căn bản là
không có khởi tâm động niệm. Quý vị thấy giới định huệ hòa vào với nhau, không
có mà phân biệt, đó gọi là 正心行處“Chánh tâm hạnh xứ”, cũng dịch thành 等持“đẳng trì”, đẳng là bình đẳng, trì là bảo trì. Chư Phật Bồ-tát sáu căn ở trong cảnh
giới sáu trần, vĩnh viễn bảo trì thanh tịnh bình đẳng giác.
Tâm bệnh của chúng ta là sáu căn ở
trong cảnh giới sáu trần phân biệt, chấp trước, chấp trước kiên cố, sai rồi! Tại sao buông
không xuống? Bởi quý vị không thấu hiểu chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật
là gì? Trên Kinh Kim Cang nói hay nhất: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng”, “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Nếu
quý vị là thật sự sáng tỏ, thật sự giác ngộ rồi, mộng huyễn bào ảnh làm sao chấp
trước? Trong lúc đang ngủ có nằm mộng, sau khi tỉnh dậy thì dấu vết của mộng cũng
tìm không thấy, tự nhiên buông xuống, điềm nhiên như không. Đó là tu hành của
Phật pháp, hành là hành vi, tu là tu chính, sửa đổi hành vi sai lầm của chúng
ta. Khởi tâm động niệm sai lầm, vô-minh phiền não, cần buông xuống; phân biệt,
cần buông xuống; chấp trước, Kiến tư Phiền não, rất cần buông xuống. Lục đạo
luân hồi là do Kiến tư Phiền não tạo thành, thập pháp giới là do vô-minh phiền
não tạo thành. Chỉ cần quý vị buông xuống vô-minh, thì thập pháp giới không còn
nữa; buông xuống chấp trước, thì lục đạo không còn nữa. Cần sáng tỏ đại đạo lý này,
đó gọi là nhìn thấu. Sau khi nhìn thấu thì đừng nên để trong tâm, để trong tâm
là chưa nhìn thấu, tập khí quý vị rất nặng, quý vị không đạt thọ dụng. Cho nên
sau khi nhìn thấu thì nhất định buông xuống, buông xuống là biểu hiện quý vị thật
sự nhìn thấu, nhìn thấu mà buông xuống không được đó là giả, chưa có thật sự
nhìn thấu. Ở trong Phật pháp Đại thừa, danh từ của Phật giáo gọi là 止觀“chỉ quán”,
quán là nhìn thấu, chỉ là buông xuống.
Đó là phiên dịch thông thường trong pháp
Đại thừa, là trích dẫn của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, không phải là ngài tự nói. Tiếp
theo trích từ Trí Độ Luận, trong Đại Trí Độ Luận nói thế nào, 善心一處住不動,是名三昧“Thiện tâm
nhất xứ trụ bất động, thị danh tam-muội”(Tâm khéo trụ
ở một nơi bất động, đó gọi là tam-muội). Trong Văn hóa truyền thống nước ta,
đức thứ nhất đó là hiếu, hiếu dưỡng cha mẹ, trong Ngũ luân phụ tử hữu thân, cha
mẹ đối với con cái có thân ái, là đức thứ nhất, tất cả thiện pháp đều sinh ra từ
đây. Làm sao có thể đem hiếu duy trì mãi mãi, cả đời đều không thay đổi, đó gọi
là tam-muội, là tam-muội gì? Hiếu thân tam-muội, quý vị nói tôi chưa có nghe
nói qua, thì hôm nay nghe nói rồi, đối với thầy phải kính, hiếu là rễ của văn
hóa truyền thống, kính là gốc của văn hóa truyền thống, giống như một cây cổ thụ,
rễ là ở dưới đất, quý vị không nhìn thấy, cây có thể sống, lớn lên ngoài đất, đó
là thân cây ấy, đó là gốc, chúng ta gọi là gốc, thân cây, thân lại sinh ra cành,
cành lại sinh ra nhánh, nhánh lại sinh ra lá, lá cây, hoa quả. Rễ là hiếu, gốc
là kính, văn hóa truyền thống nước ta đó là hai loại ấy. Hiếu dùng cha mẹ để đại
biểu, biểu pháp; kính dùng thầy để biểu pháp, thân mạng của chúng ta có được bởi
cha mẹ; trí huệ, huệ mạng của chúng ta có được bởi thầy.
Giảng đường nhỏ của chúng ta đây, đối
diện với tôi là treo hình của thầy tôi. Ba vị thầy của tôi, và một người hộ
pháp, trong bốn người ấy, mà thiếu một người, thì tôi cũng không có ngày hôm
nay, và cũng có thể sớm đã rời khỏi nhân gian rồi. Ngài Phương Đông Mỹ đã dẫn dắt
tôi vào cửa Phật, nếu không phải ngài, bất cứ ai muốn kéo tôi vào cửa Phật hình
như đều không thể. Tại vì sao? Bởi tôi có tà kiến, tà kiến rất là sâu, cho rằng
Phật giáo là tôn giáo, cho rằng Phật giáo là mê tín, bên rìa cũng không muốn đụng
vào, tôi theo thầy Phương học triết học, không phải theo ngài học Phật giáo đâu,
ngài giảng cho tôi một bộ triết học khái luận, đặc biệt vì tôi mà giảng, chương
mục cuối cùng là triết học kinh Phật. Lúc ngài đưa ra danh xưng ấy, thì tôi liền
nghi ngờ, thưa thỉnh với thầy, Phật giáo là mê tín, Phật giáo là đa thần giáo,
là phiếm thần giáo. Đa thần giáo, phiếm thần giáo ở trong tôn giáo là tôn giáo cấp
thấp, tôn giáo cấp cao chỉ có một chân thần, đâu mà có rất nhiều thần như vậy?
Thầy Phương nói với tôi, anh còn trẻ tuổi, anh không biết, chúng tôi học triết
học, ngài nói với tôi: Thích Ca Mâu Ni là triết học gia vĩ đại nhất trên thế giới,
tôi chưa từng nghe nói, Phật pháp Đại thừa là đỉnh cao nhất của triết học toàn thế
giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất của đời người, tôi chưa từng nghe điều này,
sự thật là như vậy sao? Tôi lưu ý quan sát, tại vì tôi lên lớp là ngày chủ nhật,
mỗi một tuần, vào buổi sáng ngày chủ nhật từ 9 giờ rưỡi đến 11 giờ rưỡi, hai tiếng
đồng hồ, tôi đến nhà của thầy Phương để học, học trò chỉ có một mình tôi, chúng
tôi một trò, một thầy. Cho nên tôi rất là chú ý, nhìn vào phòng sách trên bàn
sách thầy sắp xếp là sách gì, thật sự nhìn thấy kinh Phật, và chưa bao giờ có
ít kinh Phật trên bàn, tôi mới hiểu được những lời thầy nói đều là sự thật,
không phải giả dối, tôi nhập Phật môn là như vậy.
Sau khi nhập môn, tôi quen biết Đại sư
Chương Gia; nền móng, cơ sở Phật pháp của tôi, là do Đại sư Chương Gia xây dựng.
Tôi theo ngài ba năm, cũng giống như thầy Phương, chủ nhật của mỗi tuần, ngài
cho tôi một đến hai giờ, chỉ một mình tôi thôi, cắm gốc rễ ở đó. Đến thầy Lý ở
đó được mười năm, học điều gì? Học giảng kinh. Giảng kinh cần thời gian dài để học
hỏi, để gọt giũa, không có cách nào dạy được, tại vì sao? Là động, nó không phải
là chết cứng. Nguyên lý nguyên tắc chỉ có mấy điều, nhưng mà làm sao học linh
hoạt sống động, vậy thì không phải là dạy rồi, quý vị cần biết xem, biết nghe. Ở
Đài Trung mười năm quán sát thầy, nhìn ngài đem kinh Phật lên đài giảng vận dụng
linh hoạt, loại phương pháp đó cần dùng tâm để lãnh hội, không có cách nào để dạy.
Có thể dạy quy củ, dạy quy cách, còn các loại thiện xảo không có cách nào dạy,
hoàn toàn ở mỗi người. Nhất định phải cầu cảm ứng, thầy Lý dạy tôi: ‘Chí thành
cảm thông’, chân thành đến tột cùng, thì thông với Phật Bồ-tát, cảm ứng liền
thông rồi, đạt được Tam Bảo gia trì. Quý vị xem chúng tôi giảng kinh, trước khi
giảng phải soạn bài, chuẩn bị rất nhiều tài liệu, nhưng mà đến lúc giảng, thì một
câu đều không dùng đến, không biết vì sao mà giảng ra được, sau khi giảng xong,
quý vị hỏi tôi, tôi không biết tôi giảng điều gì. Tôi giảng mỗi câu đều là lời
chân thật, điều này làm sao học? Học linh hoạt sống động.
Theo thầy thời gian càng dài, không rời
khỏi thầy, ở bên cạnh từ từ âm thầm thay đổi, bất tri bất giác quý vị đã học được
rồi, quý vị được cảm hóa rồi. Nhất định thời gian phải dài, thời gian ngắn quá không
học được gì. Cổ nhân thời gian ngắn nhất là 5 năm, bình thường nhất là 10 năm,
theo một vị thầy 10 năm, thân cận ngài, không rời khỏi ngài. Không những ở
trong Phật pháp quý vị đạt được thọ dụng, mà thế gian pháp đạt được thọ dụng còn
nhiều hơn, giúp quý vị xử lý công việc đối nhân xử thế, làm sao vận dụng giới định
huệ của quý vị, đem giới định huệ thực hành trong cuộc sống, thực hành ở công
việc, thực hành ở đối nhân xử thế, quý vị thành công rồi, tấm gương của ngài Hải
Hiền làm quá tốt rồi, hoàn mỹ, viên dung, tự tại, tuyệt không phải là người bình
thường có thể làm được, đây mới là chân chánh của đức hạnh, học vấn, trí huệ, từ
đâu mà đến vậy? Đến từ tam-muội, sợ nhất là tâm nóng vội, khi tâm nóng vội, thì
quý vị học nhiều đến đâu cũng là nóng vội vậy, cũng chỉ có bên ngoài, không có
khế nhập, không có độ sâu, dù cho học được, cũng nông cạn. Chúng ta không thể
không biết điều này.
Trong Đại Trí Độ Luận nói: 善心一處住不動,是名三昧“Thiện tâm
nhất xứ trụ bất động, thị danh tam-muội”, tôi cữ ra thiện
tâm này chính là hiếu kính, ở Trung Hoa thì: giáo dục gia đình, giáo dục trường
học, giáo dục nhân quả, giáo dục Thánh hiền, đều dùng hai chữ này làm căn bản, cũng
chính là tất cả bất nguồn từ trong hiếu kính mà sinh ra. Nếu chúng ta mong chính
mình thành tựu, thì phải hạ thủ công phu ở trên hai chữ này, nghiêm túc hạ thủ công
phu. Sở dĩ lão Hòa thượng Hải Hiền có thành tựu, bởi vì ngài làm rất viên mãn hai
chữ này, chính chư vị cẩn thận để xem, để nghe, thì quý vị sẽ rõ ràng thôi. Đó
là tam-muội. 又“Hựu”(Thêm nữa),
vẫn là trong Trí Độ Luận nói: 一切禪定亦名定,亦名三昧“Nhất thiết
Thiền định diệc danh định, diệc danh tam-muội”(Tất cả Thiền
định cũng gọi là định, cũng gọi là tam-muội). Thiền định là thuật ngữ của
Phật giáo. Thiền là ý nghĩa gì? Định là ý nghĩa gì? Thiền là đem ý niệm tập
trung lại, định là định ở một chỗ. Phương pháp này truyền đến Trung Hoa, nhà Nho
đã tiếp nhận, nhà Đạo cũng tiếp nhận rồi, biến thành nguyên tắc chỉ đạo tu học
cao nhất của Nho Thích Đạo. Người Trung Hoa đem Thiền định đổi thành một câu
nói, để mọi người dễ hiểu hơn, đổi thành gì? ‘Một môn thâm nhập, huân tu lâu dài’.
Một môn thâm nhập là thiền, huân tu lâu dài đó là định, không thể học quá nhiều,
không thể học quá tạp. Một đời lão Hòa thượng Hải Hiền chỉ một câu A Di Đà Phật,
ngài chưa học qua Kinh Vô Lượng Thọ, ngài cũng chưa học qua Kinh A Di Đà, thế nào
là Kim Cang Bát Nhã, điều gì cũng chưa học qua, chỉ là một câu A Di Đà Phật, nhất
môn thâm nhập, trường kì huân tu, mà ngài nắm được pháp môn tổng trì.
Nếu như chư vị hỏi tôi, đây là pháp
môn Tịnh Độ, thành tựu của tu hành pháp môn Tịnh Độ cũng có ba giai đoạn, thứ
nhất là công phu thành phiến, thứ hai là Sự nhất tâm Bất loạn, thứ ba là Lý nhất
tâm Bất loạn, lão Hòa thượng Hải Hiền khi nào thì hoàn thành được ba đẳng cấp này?
Tôi và ngài chưa có gặp mặt nhau, tôi chỉ xem được chiếc đĩa CD này, cũng như quý
vị, chỉ xem được quyển sách nhỏ này. Phán đoán của tôi, con người ấy bản tính tốt,
chính là ngài có đủ: thật thà, nghe lời, thật làm. Loại căn khí này vô cùng khó
có, chỉ cần có được sáu chữ đó, thì không có ai mà không thành tựu. Ngài là
chân thật, không phải giả dối, thật thà, nghe lời, thật làm. Thầy dạy ngài một
câu A Di Đà Phật, ngài dùng tâm gì để niệm? Ngài dùng tâm chân thành, ngài dùng
tâm thanh tịnh, ngài dùng tâm cung kính, tâm thái tốt như vậy, thì niệm đến
công phu thành phiến cao nhất là ba năm, ngài 20 tuổi bắt đầu niệm, tôi ước đoán
lúc ngài khoảng 23, 24 tuổi, thì ngài đạt được công phu thành phiến, đạt công
phu thành phiến là có tư cách vãng sanh Tịnh Độ, hay nói cách khác, đạt công
phu thành phiến thì ngài gặp được A Di Đà Phật, A Di Đà Phật nhất định hiện
thân, thông thường nói vì ngài thọ ký, tiết lộ thông tin cho ngài, sẽ nói với với
ngài, thọ mạng của ngài còn được bao lâu, đợi đến khi nào con mạng chung ta lại
đến tiếp con vãng sanh, ghi tên ở Thế giới Cực Lạc rồi, thật có nắm chắc, ngài có
thể không hoan hỉ sao? Vẫn còn rất nhiều thời gian còn lại, thì gấp rút nỗ lực,
tôi nghĩ vài 3 năm 5 năm, thì ngài đạt đến Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất
loạn, thì đoạn hết Kiến tư Phiền não rồi, công phu bình đẳng với A-la-hán, là Sự
nhất tâm. Ngài vẫn chưa vãng sanh, lại thêm ba, năm năm, thì ngài có thể vương
lên đến Lý nhất tâm Bất loạn. Cho nên ngài chứng được Lý nhất tâm Bất loạn, đó
là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, là trong thời gian khoảng chừng từ 30
đến 40 tuổi, thật hiếm thấy.
Tôi tin rằng thọ mạng của ngài không dài
đến như vậy, khoảng chừng bảy, tám mươi thôi. Mẹ của ngài qua đời lúc 86 tuổi,
rất nhẹ nhàng, rất tự tại. Cho nên ngài đạt minh tâm kiến tánh, Lý nhất tâm Bất
loạn, khoảng chừng ở trước sau 40 tuổi, thì ngài chứng đắc rồi. Sau khi chứng đắc,
A Di Đà Phật nói với ngài, tán thán ngài tu hành rất tốt, tu rất là giỏi, hy vọng
ngài trụ lại thêm vài năm, vì đệ tử Phật, làm ra tấm gương tốt cho đồng học Tịnh
tông, cho nên thọ mạng này là do A Di Đà Phật giúp ngài kéo dài. Đến khi nào ngài
rời khỏi? Đến khi ngài cầm được một quyển sách, quyển sách đó là: Nếu Muốn Phật
Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, con thấy được quyển sách này rồi, A Di Đà
Phật nói: Ta sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh. Trước mười mấy ngày khi chưa nhìn
thấy quyển sách này, A Di Đà Phật đến nói với ngài làm chuẩn bị, nói với ngài gần
đến lúc ta đến tiếp con vãng sanh rồi. Cho nên ngài đi khắp nơi để chào từ biệt,
đi thăm viếng những người bạn cũ, bạn đồng tu, đều gặp mặt quan tâm thăm hỏi.
Nhìn thấy quyển sách đó, thật có người đem quyển sách đó tặng cho ngài, ngài cầm
trên tay như được vật báu, tại vì sao? Bởi A Di Đà Phật sắp đến tiếp dẫn ngài
vãng sanh rồi. Cầm được quyển sách này, ngài thay áo đắp y, yêu cầu mọi người
chụp ảnh cho ngài. Trong báo cáo nói rõ, cả đời lão Hòa thượng từ trước tới nay
chưa một lần chủ động yêu cầu người ta chụp ảnh cho ngài, chỉ có một lần này. Biểu
pháp viên mãn, sau hai ngày thì ngài đi rồi, ngày mà ra đi, ngài ở vườn rau làm
việc cả ngày, từ sáng đến tối, buổi tối thì ra đi. Thật sự là làm được: sống một
ngày thì làm một ngày, không có nói đêm nay tôi đi, hôm nay tôi cần nghỉ ngơi một
chút, không có, biểu diễn quá là tốt! Thế nào là đạo tràng? Đời sống là đạo
tràng, công việc là đạo tràng, đối nhân xử thế, mọi lúc, mọi nơi không đâu mà
chẳng phải là đạo tràng. Trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoại trừ một câu Phật
hiệu ra thì không có gì nữa, đạt niệm Phật tam-muội, viên mãn thành tựu.
Tiếp theo nói, đây đều là lời của Đại Trí
Độ Luận, 諸行和合,皆名為三昧“chư hạnh
hòa hợp, giai danh vi tam-muội”(các hạnh hòa hợp, đều gọi là tam-muội).
Chúng ta sống ở thành phố nhỏ này, 13 năm về trước tôi đến địa phương này, nhìn
thấy địa phương này tôi rất hoan hỉ, tôi mua một căn nhà ở đây, là Tinh xá hiện
tại tôi đang ở, tiếp theo thì thăm hỏi ở đây có cách nào để mua một đạo tràng,
đúng lúc đó ở nơi này của chúng ta là giáo đường cơ đốc giáo, giáo đường này nhân
khẩu hưng thịnh, tín đồ rất đông, dung chứa không hết, nên họ cần đến địa điểm
khác xây đạo tràng lớn, bán đạo tràng này cho tôi, giá rất rẻ, hình như năm trăm
mấy ngàn. Tôi đem tu sửa, tu sửa tốn hết hơn một triệu. Lúc mua lại, cả đất và
nhà với giá năm trăm mấy ngàn, hình như 570 ngàn, quá là rẻ rồi. Sau khi chúng ta
tu sửa xong rồi thì chuyển đến, trước ngày chính thức chúng ta phát thiệp mời,
mời hàng xóm láng giềng của chúng ta, hai con đường, cận kề với hai con đường của
chúng ta, chính thức phát thiệp mời cho họ, mời họ đến tham gia khai mạc của
chúng ta, buổi trưa chúng ta có chiêu đãi bữa ăn chay miễn phí. Họ nhìn chúng
tôi thì hoan hỉ, tại vì sao? Bởi chúng ta không có phá hoại văn hóa của họ, kiến
trúc giáo đường của họ này thế nào thì không có thay đổi. Chúng ta tu sửa, vật
liệu lúc đầu là gì, thì tôi vẫn dùng vật liệu đó, không thay đổi, màu sắc lúc đầu
là gì, thì vẫn sơn giống màu đó, chỉ có đem giá chữ thập đổi thành A Di Đà Phật,
toàn bộ còn lại không thay đổi. Cho nên những người nơi đây đối với tôi rất tốt,
giữ gìn văn hóa của họ, không phá hoại văn hóa của họ. Có rất nhiều tôn giáo,
đã nhiều năm nay họ đối với tôi rất tin tưởng, bởi nguyên nhân gì? Tôi không lôi
kéo tín đồ. Nếu như tôi nói giáo của tôi đây tốt, quý vị không bằng tôi, quý vị
hãy đến chỗ tôi, tin tôi này, thì chúng tôi đã bị người ta đuổi đi sớm rồi,
chúng tôi tán thán tất cả tôn giáo, người sáng lập tôn giáo chỉ là một chân thần,
chúng ta là người một nhà. Chân thần tại vì sao sáng lập ra nhiều giáo phái
khác nhau? Tại vì giao thông không thuận tiện, không có thông tin, ở thời đại
đó, thần muốn giáo hóa chúng sanh, nhất định cần phải hiện thân giống chúng
sanh, nói ngôn ngữ cũng giống chúng sanh, cho nên mới có nhiều tôn giáo như vậy.
Bây giờ khoa học kĩ thuật phát triển, vạn giáo cần quy về một, thời đó một chia
làm vạn, bây giờ vạn cần quy thành một, chúng ta đều là người một nhà, cho nên dù
cho tin tôn giáo nào, tôi đều vô cùng tôn trọng họ, yêu quý họ, tán thán họ.
Tôi ở Singapore dùng phương pháp này để
đoàn kết chín tôn giáo tại Singapore, họ vô cùng hoan hỉ qua lại với tôi, câu thứ
nhất là nói Pháp sư Tịnh Không không lôi kéo tín đồ, Pháp sư Tịnh Không tôn trọng
người khác. Cho nên chúng tôi làm việc này, lúc ở Singapore, tiên sinh Tăng Sĩ người
Singapore, ông là bộ trưởng cấp cao, có một ngày đến Cư Sĩ Lâm để gặp tôi, cùng
nhau ăn cơm trưa, ông liền hỏi tôi: ngài dùng phương pháp gì để đem tôn giáo
đoàn kết lại vậy? Singapore có một hội đồng tôn giáo, thành lập 50 năm rồi, mỗi
năm đến lúc tết Nguyên đán, người lãnh đạo của các tôn giáo tụ họp lại dùng với
nhau một buổi cơm, bình thường không có hoạt động, cho nên, 50 năm đều như vậy,
đều không thể đoàn kết lại. Tại sao tôi đến địa phương đó, hai năm, đã làm được
náo nhiệt lên, ông ấy nói ngài dùng phương pháp gì? Tôi nói tôi không có phương
pháp, mà Thích Ca Mâu Ni Phật có phương pháp. Ông vô cùng kinh ngạc, Thích Ca
Mâu Ni Phật có phương pháp gì? Tứ nhiếp pháp, để đoàn kết lại. Thế nào gọi là Tứ
nhiếp pháp? Tôi nói Tứ nhiếp pháp đó là Thích Ca Mâu Ni Phật dạy cho chúng ta cách
quan hệ xã hội, chính là cách giao tiếp, đó là bốn điều. Bốn sự việc, thứ nhất
là “Bố thí”, danh từ Bố thí này giống nhau với Bố thí của Lục độ, nhưng
ý nghĩa hoàn toàn không tương đồng, Bố thí Lục độ là độ tâm tham của chính mình,
tham lam, keo kiệt, đoạn trừ phiền não này thì dùng Bố thí, đó là hoàn toàn tự
lợi. Ở đây thì không phải, Bố thí này, Bố thí trong Tứ nhiếp pháp, chính là dạy
quý vị thường xuyên tặng quà, thường xuyên đãi khách, điều này thì mọi người đều
hoan hỉ rồi, biếu quà nhiều, đãi khách nhiều. Cho nên tôi đối với mỗi tôn giáo
thường xuyên biếu quà, thường xuyên đãi khách, mọi người ở cùng với nhau thì biến
thành anh em chị em. Điều thứ hai là “ái ngữ”, ái ngữ chân chính yêu
quý họ, không phải lừa gạt họ. Đây không phải là lời ngon tiếng ngọt, ái ngữ là
thật sự yêu quý họ, nhất định không được tổn thương họ, không được phá hoại họ,
mà khen ngợi họ. Điều thứ ba là “lợi hành”, chúng ta bất luận làm việc
gì, đối với họ có chỗ tốt, đối với họ có lợi ích, thì họ sẽ sáng tỏ. Điều thứ
tư là “đồng sự”, chúng ta có cùng mục tiêu, cùng đồng lý tưởng, cùng đồng
nguyện vọng, chúng ta nghiêm túc nỗ lực đi làm.
Đem tôn giáo biến thành người một nhà,
ở Toowoomba làm được rồi, làm còn viên mãn hơn Singapore,
làm còn rất triệt để. Tôi có được một trợ thủ vô cùng đắc lực, là tiên sinh Han
Ni Phu, ông là học trò của Ha Bi Ha San, trưởng lão Ha Bi Ha San và tôi là bạn
thân lâu năm, ông là người đạo Hồi. Ông đến đây với tôi, chuyên môn giúp tôi làm
đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, là hạng mục đó, làm được vô cùng thành
công. Chúng ta năm nay, và năm ngoái, hai năm làm báo cáo tại Liên Hợp Quốc,
danh tiếng của Toowoomba đã vang rồi. Tôi nghe nói mùa xuân năm tới, đoàn đại sứ
họ muốn hợp thành một đoàn, đến nơi này để khảo sát, để thăm quan, lúc họ đến
tôi nhất định sẽ ở đây để tiếp đón họ. Quá nửa số đại sứ đều quen biết tôi, với
một số khái niệm, cách nghĩ, cách nhìn của tôi, họ đều đồng ý. Đây là việc tốt,
thành phố làm tốt rồi, thì đây là thành phố mô hình. Cho nên thành phố này là địa
điểm mà mười mấy nhà lãnh đạo các tôn giáo, năm rồi tôi trở về, tôi và họ gặp mặt,
báo cáo với tôi, mọi người chúng tôi đã liên kết, để đem thành phố nhỏ này làm
thành mô hình thành phố đầu tiên đa nguyên văn hóa trên thế giới. Chúng tôi đã
suy nghĩ bao nhiêu năm, năm 2006, năm 2007, năm 2008, tôi ở Lư Giang Trung Quốc
dùng thôn nhỏ đó làm thực nghiệm, làm thành công rồi, chúng tôi ở Liên Hợp quốc
đã làm báo cáo tỉ mỉ. Mở rộng thôn nhỏ, thành một thành phố, thì lý tưởng hơn!
Không ngờ rằng nhân duyên ở tại đây, ở địa phương này làm thành công. Khó được,
không cùng tôn giáo, không cùng dân tộc, có thể giống như anh em chị em tôn trọng
lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, tạo thành thái
bình thịnh thế. Một thành phố nhỏ làm thành công rồi, thì nơi khác đã có thể
chiếu theo kiểu mẫu đó để làm. Cho nên, giáo dục tôn giáo là quan trọng hơn tất
cả, người bình thường lơ là rồi. Chỉ có giáo dục tôn giáo mới có thể làm được
thành công, không có giáo dục tôn giáo, thì địa phương này có hơn 80 dân tộc,
làm sao quý vị đoàn kết được? Hơn 100 loại ngôn ngữ, người không nhiều, 12 vạn
dân, mà mười mấy tôn giáo, cho nên tôn giáo đứng đầu. Tôn giáo chúng ta là người
một nhà, người lãnh đạo tôn giáo chúng ta sống chung như là anh em chị em, lời lẽ
thế nào điều nói, không có kiêng kỵ. Thật sự là đồng tâm đồng đức, biết được thành
phố nhỏ chúng ta này thật sự làm thành công rồi, trên thế giới đây là hài hòa
nhất, ổn định nhất, là thành phố hưng vượng nhất, có thể làm nên thành phố mô
phạm cho toàn thế giới, mọi người biết được sẽ đến học tập, thế giới này sẽ hòa
hợp, tai nạn tự nhiên sẽ được hóa giải. Hy vọng thành quả của đoàn kết tôn giáo,
là đem đến cho thế giới ổn định hòa bình mãi mãi.
Văn hóa truyền thống nước ta sẽ phục
hưng, năm nay có không ít đại sứ Liên Hiệp Quốc nói với tôi, họ có niềm tin đối
với văn hóa truyền thống nước ta. Tôi nói niềm tin từ đâu mà đến? Chủ tịch Tập đã
có một lần diễn giảng tại tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc, họ là khán giả hiện
trường, sau khi nghe xong vô cùng hoan hỉ, cảm thấy hy vọng Thế giới có hòa
bình. Tại vì phải có nước lớn dẫn đầu, Trung Quốc là một nước lớn, tính theo
dân số là nước lớn nhất, có được một người lãnh đạo tốt biết quay về văn hóa truyền
thống, hiện nay quan trọng nhất là kiến lập niềm tin kiên cố, nguyện vọng kiên định.
Trung Quốc cống hiến cho thế giới là văn hóa, không phải vũ lực, không phải
chính trị, cũng không phải kinh tế mậu dịch, khoa học kĩ thuật, đều không phải,
mà là luân thường đạo đức truyền thống Trung Hoa, là tinh hoa của ba nhà Nho Thích
Đạo. Chúng ta cần phải nghiêm túc nỗ lực học tập, cũng có thể phối hợp trào lưu
toàn bộ thế giới, làm ra cống hiến tốt nhất, là ở trên địa vị của chính mình,
không nên vượt qua bổn phận của chính mình, điều này vô cùng quan trọng. Vượt
khỏi bổn phận chính mình, thì chẳng việc gì thành. Người xuất gia làm gì? Đó là
dạy học, hoằng pháp lợi sanh, học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Không những phải dạy,
mà còn phải biểu diễn, biểu diễn là làm ra tấm gương cho người khác xem, gọi là
diễn giáo. Diễn là thân giáo, giáo là ngôn giáo, những gì tôi nói là những gì
tôi làm, những gì tôi làm là những gì tôi nói, tâm khẩu là một chứ không phải
hai.
Trong Trí Độ Luận lại nói: “Chư
hạnh hòa hợp, giai danh vị tam-muội”(chư hạnh hòa hợp, đều gọi là tam-muội).
Tất cả tất cả hạnh đều có thể hòa thuận, đều có thể hợp tác, vậy thì đúng rồi.
Nhất thiết không nên chuyên quyền độc đoán, vậy thì sai rồi. Hòa với Tịnh tông,
hòa với Phật pháp Đại thừa, hoà với tất cả các giáo phái khác nhau do Phật Thích
Ca truyền lại, mở rộng hơn, là hòa với tất cả tôn giáo, hòa với tất cả dân tộc,
toàn bộ thế giới là một nhà, người với người đều giống như anh em chị em vậy, đại
công trung chánh. Chỉ sợ tự tư tự lợi, tự tư tự lợi thì xong rồi, không có tâm riêng
tư, thì người nhiều vui vẻ, tự tại. Có tâm riêng tư thì tạo nghiệp, hành vi đó
có cảm tội ác, chư hạnh hòa hợp, đại công vô tư, thì hành vi của họ vui vẻ,
pháp hỉ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỉ. Cho nên hòa hợp quan trọng hơn, niệm
niệm đều phải nghĩ đến hòa thuận với nhau, đối đãi bình đẳng. Khẳng định tất cả
chúng sanh vốn là Phật, thì chúng ta mới làm được kính đối với người khác, kính
có thể làm được thì hiếu sẽ làm được. Chữ ‘hiếu’ này có ý nghĩa rất sâu, quý vị
xem hình dáng của chữ này, phía trên là chữ ‘lão’, phía dưới là chữ ‘tử’, thế hệ
trên và thế hệ dưới là một thể, đó gọi là hiếu. Nếu thế hệ trên và thế hệ dưới
không phải một thể, gọi là đứt đoạn, thì hiếu không còn nữa. Thế hệ trên vẫn
còn thế hệ trên nữa, thế hệ dưới vẫn còn thế hệ dưới nữa, quá khứ vô thủy,
tương lai vô chung, là một chỉnh thể, đó là ý nghĩa biểu pháp của hiếu. Đây là
nói mối quan hệ, tôi và người có mối quan hệ thế nào, chúng ta không đồng dân tộc,
không đồng quốc gia, không đồng văn hóa, không đồng tôn giáo, không đồng tín
ngưỡng, là quan hệ thế nào? Là một thể, nhất định phải nhận thức rõ ràng, chúng
ta phải quay về một thể. Họ phân biệt tôi không phân biệt, họ phân biệt là vào
lục đạo luân hồi, tôi không phân biệt tôi về Thế Giới Cực Lạc, làm sao mà giống
được? Đây không thể giống được. Người thông minh, có trí huệ khi nghe liền hiểu,
họ liền trở về hiếu kính. Trở về hiếu kính là trở về Tự Tánh, Tự Tánh vô lượng
vô biên đức năng, đây là đức thứ nhất, cần phải cố gắng nắm chắc, giữ cho vững
vàng.
一切禪定攝心,皆名為三摩提,秦言正心行處。Nhất thiết Thiền định nhiếp tâm, giai
danh vi tam–ma–đề, Tần ngôn chánh tâm hạnh xứ(Tất cả Thiền định nhiếp tâm, đều gọi là tam-ma-đề, thời Tần gọi là
chánh-tâm-hạnh-xứ). Chữ ‘Tần’ này là chỉ thời đại Diêu Tần, Kinh Kim Cang được
phiên dịch vào thời đó, do Đại sư Cưu Ma La Thập phiên dịch. Tần nói đó là ngôn
ngữ của Trung Hoa, ý nghĩa trong ngôn ngữ của Trung Hoa là chánh-tâm-hạnh-xứ, chú
trọng ở chánh. Tâm phải chánh, thì hạnh sẽ chánh. Tâm là thể, hạnh là khởi dụng.
Khởi tâm động niệm là hành vi của tâm, ngôn ngữ là hành vi của khẩu, động tác thân
thể là hành vi của thân, hành vi vô lượng vô biên, tổng lại không ngoài: thân,
khẩu, ý, tam nghiệp đó. Tâm hạnh bất chánh đó là lục đạo, tâm hạnh chánh rồi thì
siêu vượt thế gian, tiêu chuẩn của chánh ở nơi đây; ít nhất là Tiểu thừa A-la-hán,
vượt khỏi lục đạo luân hồi, là chánh tâm. Không thể vượt khỏi lục đạo luân hồi,
bất luận là ở tam thiện đạo, hay tam ác đạo, thì trong Phật pháp Đại thừa đều
không dùng chữ chánh, đó là tà lệch. Tam thiện đạo là lệch, bất chánh; tam ác đạo
là tà, lệch quá nhiều phần, đọa lạc đi xuống. Tất cả gọi là tam-muội.
又《法華玄贊》曰:梵云三摩地,此云等持。平等持心而至於境,即是定也“Hựu Pháp Hoa Huyền Tán viết: Phạn vân tam–ma–địa, thử vân đẳng trì. Bình
đẳng trì tâm nhi chí ư cảnh, tức thị định dã”(Sách Pháp
Hoa Huyền Tán nói: Tiếng Phạn gọi là tam-ma-địa, nơi này gọi là đẳng-trì. Bình đẳng trì tâm mà đối với cảnh, tức là định vậy).
Trong Pháp Hoa Huyền Tán nói như vậy, điều này cũng nói rất hay, đẳng trì, đẳng
là bình đẳng, trì là bảo trì, vĩnh viễn bảo trì bình đẳng. Ý nghĩa của bình đẳng
là gì? Có chấp trước là không bình đẳng, có phân biệt là không bình đẳng, hay nói
cách khác, phần trước trên kinh đề chúng ta là: “Thanh tịnh bình đẳng”,
bốn chữ này đó là đẳng trì, quý vị cần bảo trì vĩnh viễn. Đó chính là, trong Đại
Trí Độ Luận đã nói là: Chánh tâm Hạnh xứ. Chánh niệm là không có vọng tưởng, không
có tạp niệm, gọi là chánh niệm. Chánh niệm vô niệm, có niệm thì không chánh.
Nhưng cũng không thể có điều vô niệm, có điều vô niệm cũng là có một niệm, niệm
điều gì? Niệm có vô niệm. Vô niệm cũng không có, khó! Cách này quá khó rồi. Vậy
phải làm sao? A Di Đà Phật có phương pháp, A Di Đà Phật chỉ dạy chúng ta: đem
trong tâm của quý vị chỉ cúng dường một vị A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra thì
điều gì cũng không có, đây cũng tính là chánh niệm. Tốt! Quý vị có thể đem A Di
Đà Phật để ở trong tâm, ngoài trừ A Di Đà Phật ra, ngay trong đời sống, ngay
trong công việc thật sự không có một ý niệm để ở trong tâm, làm sự việc, làm
xong thì xong rồi, không để trong tâm. Đoạn ác không dính tướng của đoạn ác, tu
thiện không dính tướng của tu thiện, chỉ có một tướng của A Di Đà Phật, đây là
sự thù thắng không gì sánh được của pháp môn Tịnh tông, toàn bộ quy về A Di Đà
Phật. Tương lai quý vị đi về đâu? Khẳng định là Thế giới Cực Lạc, quyết định thân
cận A Di Đà Phật, không thể không biết, thù thắng không gì so sánh được. Tu
hành, mà quý vị hiểu được ý nghĩa của câu này, thì quý vị biết tu rồi.
Đẳng trì, đẳng tới mức độ nào? Lão Hòa
thượng Hải Hiền nhập vào cảnh giới đó, ngài nhìn thấy biến pháp giới hư không giới
tất cả đều là A Di Đà Phật, đó gọi là đẳng trì. Chúng ta nhìn thấy đây là người
thiện, kia là người ác, là không bình đẳng, vẫn còn phân biệt, vẫn còn chấp trước.
Lão Hòa thượng đã thấy được, lúc niệm Phật vào buổi tối, trên giường, dưới giường,
ở trong nhà, ở ngoài nhà toàn bộ đều là chúng sanh, đang nghe tôi niệm A Di Đà
Phật. Cảnh giới như vậy mà hiện tiền, thì chính mình cần phải tinh tấn, không
nên để trong tâm, mới thật sự lợi ích chúng sanh, nếu để trong tâm, thì lợi ích
đối với chúng sanh rất có hạn. Không để trong tâm, thì lợi ích của công đức là
viên mãn, tại vì sao? Bởi quý vị tương ưng với tánh đức. Để ở trong tâm, thì quý
vị tương ưng với A-lại-da, tương ưng với Mạt-na, với Ý thức, đó là tâm luân hồi.
Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, nghiệp luân hồi chính là thiện có thiện quả, ác
có ác báo, đời đời kiếp kiếp, không ngừng không hết. Quý cần phải làm rõ ràng,
làm minh bạch, thì quý vị cảm thấy quá đáng sợ, vì sao không niệm Phật, vì sao
không đem Phật để ở trong tâm? Đối với tất cả mọi người không nên phê bình, phê
bình là phê bình chính quý vị, tại vì sao? Bởi trong tâm quý vị trước tiên có ý
niệm đó, ý niệm bất thiện, thì quý vị mới nói người khác bất thiện. Quý vị nghĩ
xem, nói người khác bất thiện, thì tâm của mình cũng đã biến thành bất thiện, vẫn
là đang nói chuyện trước. Hay nói cách khác, quý vị đã tạo nghiệp của ba đường ác,
tại vì sao? Trong tâm có ba đường ác, có tham sân si mạn nghi, đó là có ba ác đạo.
Nếu mà trong tâm không có, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, thì quý vị mới có thể
vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Niệm niệm tương ưng với Thế giới Cực Lạc. Niệm niệm tương
ứng với A Di Đà Phật, thế thì xong rồi! Chư vị có thể đem câu nói này của tôi
nghe hiểu, nghe sáng tỏ rồi, thì lần này quý vị đến Toowoomba không có uổng
công.
Nên trong sách Huyền Tán nói: “Bình
đẳng trì tâm, nhi chí ư cảnh”(giữ tâm bình đẳng, mà đối với
cảnh), mắt đối sắc, tai đối âm thanh, lấy âm thanh làm cảnh, mũi ngửi hương,
lưỡi nếm vị, sáu căn tu định ngay trong cảnh giới sáu trần. 天台曰“Thiên Thai
viết”(Thiên Thai nói), chính là lời của Đại sư Trí Giả: 若以空慧,照諸禪定種種法門,出生乃至無量三昧“Nhược dĩ Không
huệ, chiếu chư Thiền định chủng chủng pháp môn, xuất sanh nãi chí vô lượng tam-muội”(Nếu dùng Không
huệ, soi chiếu các loại pháp môn Thiền định, thì sanh ra cho đến vô lượng
tam-muội). Câu nói này rất hay! Không, Không huệ là gì?
Chúng ta thường nói buông xuống tất cả: khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước.
Đó là cảnh giới thế nào? Đó là Tự Tánh hiện tiền. Khởi tâm động niệm là vô thủy
Vô minh phiền não, là gốc của phiền não; Trần sa Phiền não, Trần sa là ẩn dụ nhiều,
là tâm phân biệt, ý niệm của phân biệt vô lượng vô biên, nhiều như cát bụi vậy;
Kiến tư Phiền não là chấp trước, tự cho là đúng, ưa thích phê bình người khác, rất
nhiều ý kiến, không tốt! Phiền não này chế tạo lục đạo luân hồi. Làm sao có thể
ở trong cảnh giới mà như như bất động, là công phu. Nghe người khác nói, chuyện
họ mà nói đúng, tương ưng với Phật giảng, thì không nói chuyện, gật đầu mỉm cười.
Họ mà nói không đúng, thì như như bất động, như đang trong Thiền định, không
nghe thấy. Đây là bề ngoài của lão Hòa thượng Hải Hiền, chúng ta cần học. Không
nên mới nghe đến lập tức liền phát biểu ý kiến, phải giữ gìn được bình thản, lúc
cần nói thì hãy nói, lúc không nên nói thì đừng nói. Khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ việc làm, phải nghĩ đến chính mình trước, phải chịu trách nhiệm nhân quả. Chính
là tôi thường nói: quý vị đang chế tạo luân hồi, lục đạo như vậy mà sanh ra đó.
Cho nên Không huệ này, hay!
Thứ gì cũng không chấp trước. ‘Không’ này là chân không, chính là Chân Tâm. Tại
sao gọi Chân Tâm là không? Bởi Chân Tâm không có hiện tượng vật chất, không có
hiện tượng của ý niệm, chính là hiện tượng tâm lý, cũng không có hiện tượng tự
nhiên. Nó đang ở đâu? Nó không nơi nào mà không có, không có lúc nào mà không có,
chúng ta không có chút cảm giác đối với nó. Người có Không huệ, thì họ khế nhập
cảnh giới. Tại sao họ có thể khế nhập? Bởi vì họ không có khởi tâm động niệm,
không có phân biệt chấp trước, tự nhiên dung thành một phiến với họ, đó là Pháp
thân Bồ-tát.
Cho nên có thể sanh ra cho đến vô lượng
tam-muội. Vô lượng ảo tướng, vô lượng các pháp, Đại sư Huệ Năng nói rất hay: ‘Nào
ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp’. Vạn pháp chính là vô lượng, ngay trong vạn
pháp nhưng với bất kỳ pháp nào, cũng không chấp trước, không phân biệt, không
khởi tâm, không động niệm, chính là xuất sanh vô lượng tam-muội. Cũng chính là
nói, quý vị đối với vô lượng vô biên, nhà Phật nói biến pháp giới hư không giới
bao gồm tất cả cảnh giới, quý vị thấy được, nghe được, văn được, tiếp xúc được,
đều không khởi tâm động niệm, đó gọi là vô lượng tam-muội, là chân công phu. Vì
sao sinh ra vô lượng tam-muội? Bởi quý vị biết được tất cả các hiện tượng đều
không phải là thật, phàm gì có tướng đều là hư vọng. Từ đâu mà đến vậy? Từ Tự
Tánh sanh ra, nào ngờ Tự Tánh năng sanh vạn pháp. năng sanh vạn pháp là Tự Tánh,
là chân không, sở sanh của vạn pháp gọi là diệu hữu, diệu hữu chẳng có, chân
không bất không, tại vì sao? Nó có thể sanh. Diệu hữu toàn bộ đều là giả, không
có một thứ gì là thật, cho nên phải buông xuống. Buông xuống sạch sẽ, thì quý vị
được đại tự tại, quý vị vui vẻ vô cùng, trí huệ hiện tiền. Trí huệ này là từ
tâm tánh lưu xuất ra, không phải do học được. Biểu hiện ở nơi nào? Bất luận người
ta hỏi quý vị vấn đề gì, quý vị đều có thể trả lời, còn trả lời đầy đủ đạo lý, dù
cho quý vị có học hay không, đó là trí huệ, những gì học được đều là tri thức,
không phải trí huệ, trí huệ không phải từ học mà được, bởi do từ trong tam-muội
sanh ra. Quý vị xem “xuất sanh nãi chí vô lượng tam-muội”, sau đó tam-muội
sanh ra vô lượng trí huệ.
Cho nên nhà Phật chú trọng Thiền định,
Thiền định không phải ngồi xếp bằng đối diện vách, ngồi xếp bằng đối diện vách
đó là sơ học, Thiền định của trẻ em lớp mẫu giáo, cần có khuôn có mẫu. Thiền định
là thế nào? Sáu căn trong cảnh giới không động tâm gọi là Thiền định. Mắt ở
trên sắc không động tâm, nhãn căn ở trong sắc trần nhập định; Tai nghe âm thanh
không động tâm, không khởi tâm, không động niệm, nhĩ căn ở trong thanh trần nhập
định; mũi ngửi mùi; lưỡi nếm vị, mũi ở trong hương trần nhập định; lưỡi ở trong
vị trần nhập định, ăn vị gì đều bình đẳng, không có chua ngọt đắng cay mặn. Nếu
như không có chua ngọt đắng cay mặn, thì thành người gỗ rồi, vậy là bệnh rồi, lưỡi
có bệnh; có chua ngọt đắng cay mặn, nhưng không phân biệt chấp trước của chua
ngọt đắng cay mặn, điều này rất hay! Đầy đủ Tam học giới định huệ, mắt đầy đủ,
tai đầy đủ, mũi đầy đủ, lưỡi đầy đủ, thân đầy đủ, ý đầy đủ, thật có vị đạo, vị đạo
này rốt ráo viên mãn ở Thế giới Cực Lạc. Cho nên quý thật làm rõ ràng, thì chỉ
mong sao bây giờ đi được nhanh, còn có điều gì tốt bằng chứ. Ngài Hải Hiền niệm
niệm đều muốn vãng sanh, ngài không muốn ở, là Phật yêu cầu ngài. Ngài gặp A Di
Đà Phật, tôi ước đoán là trên 10 lần, rất quen thuộc rồi, với A Di Đà Phật rồi,
thường ở chung một chỗ. Vì chúng ta làm chứng minh, Thế giới Cực Lạc thật có, A
Di Đà Phật thật có, 48 nguyện tiếp dẫn chúng sanh không phải là giả, giúp chúng
ta kiên định niềm tin, kiên định nguyện tâm, nhất định phải đi. Đến nơi ấy thì tính
là thành Phật rồi, thành Phật đó là một bước đệm, một trạm dừng giữa đường, ở trạm
dừng giữa đường đó để quý vị chuẩn bị xuất phát, chính là Vô-thượng Bồ-đề.
Chúng ta xem phần văn tiếp: 今經於而現滅度下“Kim kinh ư
nhi hiện diệt độ hạ”(trong kinh này, tiếp theo mà hiện diệt độ),
tiếp theo nói: 得無生無滅諸三摩地“đắc vô sanh
vô diệt chư tam-ma-địa”, là kinh văn tiếp theo, ý nghĩ này rất sâu, đều
đang biểu pháp. 表諸大士“biểu chư Đại
sĩ”, Đại sĩ ở đây chính là 16 Chánh sĩ, mà phần trước kinh đã nói, 16 Đại
sĩ là đại biểu cho tất cả những vị Bồ-tát tại gia tham dự trong Pháp hội này, đó
là chữ ‘chư’, 雖示涅槃之相“tuy thị Niết
Bàn chi tướng”(Tuy thị hiện tướng của Niết Bàn), thấy được Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện như tướng của Niết Bàn, nhưng sự thật là Thích Ca Mâu Ni Phật không
sanh không diệt, 平等常住之如如法身“Bình đẳng
thường trụ chi Như Như Pháp thân”(Như Như Pháp
thân bình đẳng thường trụ), ai biết điều này? Không có người biết, Pháp
thân Bồ-tát biết. Người học Tịnh tông chân chánh tu học Tịnh tông biết, biết nhưng
thế nào? Không chứng được. Pháp thân Bồ-tát không những biết, mà chứng được rồi,
thật sự không có sanh diệt, thật sự bình đẳng thường trụ. Như Như Pháp thân chính
là Thường-tịch-quang, ‘thường’ chính là không sanh không diệt, ‘tịch’ chính là bình
đẳng thường trụ, bình đẳng là không có ô nhiễm, không có giao động, như như bất
động, đó là thanh tịnh Pháp thân.
是諸大士咸是德遵普賢,從果向因者也“Thị chư Đại sĩ
hàm thị đức tuân Phổ Hiền, tùng quả hướng nhân giả dã”(Chư Đại sĩ này
đều là tuân theo đức Phổ Hiền, từ quả hướng nhân). Pháp môn này ý nghĩa
khác nhau với những pháp môn khác, tám vạn bốn nghìn pháp môn, vô lượng pháp
môn đều là tu nhân chứng quả, là từ nhân đến quả, pháp môn Tịnh Độ không phải như
vậy, pháp môn Tịnh Độ là từ quả đến nhân, tại vì sao? A Di Đà Phật là quả, cho
nên nhanh như vậy. Tôi dùng A Di Đà Phật làm thành nhân của tôi, nhất tâm xưng
niệm, một chút nghi ngờ cũng không có, buông xuống vạn duyên, nhất tâm hướng về,
thì rất nhanh thành tựu thôi. Vả lại câu Phật hiệu này đầy đủ tất cả, đầy đủ Tam
học giới định huệ, đầy đủ Tam huệ của Bồ-tát, đầy đủ danh hiệu chư Phật, tất cả
kinh tạng mà chư Phật trong mười phương ba đời vô lượng kiếp đã nói, cũng đầy đủ
trong câu Phật hiệu này, quý vị chỉ cần tìm một câu Phật hiệu là đều có toàn bộ
rồi, không cần phiền phức nữa. Ai tin tưởng? Lão Hòa thượng Hải Hiền tin tưởng.
Ai thành tựu? Lão Hòa thượng thành tựu. Ai chứng minh? Lão Hòa thượng chứng
minh. Chúng ta sinh ra trong thời đại này, gặp được lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập
kinh, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ làm tập chú, lão Hòa thượng Hải Hiền vì chúng ta
biểu pháp, loại duyên thù thắng như vầy đi đâu mà tìm được? Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe, được thân người, nghe Phật pháp không hiếm lạ, nhưng có thể
gặp được bộ kinh này, gặp được bộ chú giải này mới sự thật gọi là hiếm lạ. Tại
vì sao? Vì đã đem Thế giới Tây Phương Cực Lạc giảng rõ ràng, giảng minh bạch,
giảng thấu triệt rồi, giảng đến làm cho những người chúng ta không thể không
tin, không thể không học tập, đó chính là thành công của bộ chú giải.
Ở đây đặc biệt nói về chư Đại sĩ, ai
ai cũng là tuân đức Phổ Hiền. 10 đại nguyện hạnh Phổ Hiền không dễ tu, tại vì
sao? Bởi quý ngài dùng Chân Tâm để tu. Vọng tâm không thể tu, Vọng tâm tâm lượng
nhỏ. Tâm lượng của Chân Tâm lớn, tâm bao thái hư, lượng chu sa giới. Chân Tâm
nhìn tất cả chúng sanh đều bình đẳng, là một thể với tôi. Ngày nay ai đem người
khác xem thành một thể với chính mình, ai có thể làm được? Lại nói với chư vị đồng
học: thật sự đem tất cả chúng sanh, tất cả vạn vật xem thành một thể, đó là
chính xác, một chút cũng không có nhìn sai. Tại vì sao? Bởi tương ưng với Lục tổ
Huệ Năng nói, Tự Tánh năng sanh vạn pháp, vạn pháp là do Tự Tánh sinh ra, là nhất
thể. Cho nên họ không có nhìn sai. Chúng ta nhìn sai rồi! Bây giờ chúng ta mau
mau quay đầu, ngay trong đời sống thường ngày, mọi lúc mọi nơi, xem tất cả vạn pháp
là một thể. Thường thường thực hành quán như thế, quán 10 năm, 20 năm, tự nhiên
hình thành, tâm lượng mở ra, không còn tâm hẹp hòi, không còn cống cao ngã mạn
nữa, không còn ganh ghét chướng ngại nữa, tất cả đều không còn nữa, không có ác,
cũng không có thiện, vậy mới thật sự khế nhập cảnh giới. Giờ thời gian hết rồi,
hôm nay chúng ta học tập đến đây thôi.
( Hết tập 102)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.