Responsive Menu
Add more content here...

Tập 105 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:

Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền

Tập 105

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 08 tháng 09 năm 2014.

Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 334, hàng thứ ba đếm ngược từ trái qua, hàng thứ ba từ trái qua, bắt đầu xem từ câu thứ hai:

          如《嘉祥疏》云:此三昧皆飾法身 “Như Gia Tường Sớ vân: Thử Tam-muội giai sức Pháp thân” (Như Gia Tường Sớ ghi rằng: Tam-muội ấy đều tô điểm cho Pháp thân), Tam-muội ấy chính là nói về Hoa Nghiêm Tam-muội. Tiếp theo là lời của Niệm lão: 蓋謂此三昧悉莊嚴法身 “Cái vị thử Tam-muội tất trang nghiêm Pháp thân” (Đại khái nói rằng Tam-muội ấy đều trang nghiêm Pháp thân). Thế nào là Pháp thân? 法身即本妙明心 “Pháp thân tức bổn diệu minh Tâm” (Pháp thân tức là tâm vốn vi diệu sáng suốt), nói cho rõ một chút, chính là Tự Tâm, chính là tâm của chính mình. Tâm này rộng lớn không có giới hạn, thực sự lớn không có ngoài, nhỏ không có trong, hai câu ấy vô cùng thích hợp để hình dung về tâm, trên Kinh Hoa Nghiêm nói vô cùng tỉ mỉ. 故知一切法,無不從此法界流出,復又會歸此法界也 “Cố tri nhất thiết pháp, vô bất tùng thử Pháp giới lưu xuất, phục hựu hội quy thử Pháp giới dã” (Nên biết tất cả pháp, không pháp nào chẳng lưu xuất từ Pháp giới ấy, mà lại sẽ trở về Pháp giới ấy). Pháp giới ấy chính là toàn vũ trụ: mà ngày nay nhà Khoa học đã nói, Pháp giới quá lớn rồi, không có biên giới, tất cả toàn bộ vạn sự vạn vật trong khoảng vũ trụ: đều được sanh được hiện từ đó. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói là: khắp Pháp giới hư không giới: mười phương ba đời tất cả cõi nước của chư Phật, là từ tâm tưởng sanh. Tâm có thể sanh có thể hiện, tưởng có thể biến, tưởng chính là thức, cho nên vũ trụ từ đâu đến? Do tâm hiện thức biến. Tâm là Chân Tâm, thức là Vọng Tâm, dùng Chân Tâm là Phật Bồ-tát, dùng Vọng Tâm là phàm phu sáu đường. Phàm phu thành Phật, trên kinh Đại thừa nói rất rõ ràng, chỉ cần vừa chuyển ý niệm, thì thành Phật rồi. Buông xuống Vọng Tâm, Chân Tâm liền hiện ra, thì người ấy đã thành Phật.

          Vọng Tâm là thế nào? Chúng ta đã giảng rất nhiều trên Giảng hội, nói phổ thông một chút, chính là Khởi tâm động niệm. Tuy đã nói ra Khởi tâm động niệm, nhưng chúng ta có khái niệm hay không? Không có. Khái niệm của chúng ta hoàn toàn sai rồi, cho rằng hiện nay ta khởi tâm này, động ý niệm này, không phải vậy. Đây là như trên kinh Đại thừa nói: một niệm bất giác đầu tiên, chúng ta cũng không có khái niệm về một niệm đó. Đức Thế Tôn đối thoại cùng Bồ-tát Di Lặc, có một đoạn thế này, đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Di Lặc: 心有所念,幾念幾相識耶 “Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm kỷ tướng thức da?” (Ý niệm có bởi tâm, có mấy niệm mấy tướng thức?) Trong câu này đức Phật đã hỏi mấy vấn đề. Tâm của phàm phu chúng ta có một niệm, khởi một ý niệm, đây chính là ý niệm mà hiện nay chúng ta giảng, ý niệm ngay trong khái niệm. Đức Phật đã hỏi, trong ý niệm này có mấy niệm? Mấy niệm đó là ý niệm vi tế, chính là một niệm bất giác. Có bao nhiêu một niệm bất giác, chư vị mới có khái niệm về một ý niệm, ta đã khởi lên ý niệm. Có bao nhiêu ý niệm, ý niệm vi tế, vậy là mấy niệm. Mấy tướng? Tướng là hiện tượng vật chất, có mấy tướng. Còn có mấy thức? Mấy tướng thức, tướng chính là sắc trong năm uẩn, thức chính là thọ tưởng hành thức, kết hợp lại chính là năm uẩn. Ngay trong một niệm, chúng ta động một niệm, ngay trong một niệm, có mấy niệm? Mấy tướng? Mấy thức?         

          Bồ-tát Di Lặc trả lời, đức Phật hỏi đáp cùng Bồ-tát Di Lặc: là nói cho chúng ta nghe, nói ra chân tướng của vũ trụ, Thật tướng các pháp. Cũng chính là như Đại sư Huệ Năng đã nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn pháp), phải ghi nhớ câu nói này. Vạn pháp bao gồm tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, Phật pháp cũng ở trong, không có pháp nào là ngoại lệ. Tất cả pháp ấy từ đâu mà đến? Là do Tự Tánh sanh ra, Tự Tánh chính là Tự Tâm được giảng ở đây, Chân Tâm của chính mình. Minh Tâm kiến Tánh được nói trong Thiền tông, Tánh được thấy là thế nào? Chính là Tự Tâm, chư vị thực sự sáng tỏ rồi, thực sự giác ngộ rồi, tất cả pháp là do Tự Tâm của ta biến ra. Nên biết tất cả pháp, trong tất cả pháp có Phật pháp, không có pháp nào là ngoại lệ, không có gì chẳng lưu xuất từ Pháp giới ấy. Pháp giới chính là Chân Tâm, hiện nay nhà Khoa học xưng là điểm số 0, vẽ một số 0, sinh ra từ điểm số 0. Chính là một niệm bất giác. Một niệm bất giác vô cùng khó hiểu, vũ trụ xuất hiện rồi. Nếu chư vị từng đọc Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán: của Đại sư Hiền Thủ, thì chư vị sẽ có một khái niệm tương đối rõ ràng. Từ một thể khởi hai dụng, một thể chính là Tự Tánh, chính là Chân Tâm, cũng gọi là Pháp giới. Tất cả pháp chính là: vạn pháp mà Đại sư Huệ Năng giảng, tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, tất cả pháp ấy vô lượng vô biên, không có số lượng, quá lớn rồi, quá nhiều rồi, nói không hết. Không những chúng ta nói không hết, mà chư Phật Như Lai cùng đến diễn nói cho chúng ta, diễn vô lượng kiếp cũng không hết, đó là điều chúng ta không thể không biết, ấy là Chân tướng. Nhưng những hiện tướng được hiện đó: đều là giả, không phải thật, tướng của sáu đường, mười Pháp giới là ảo tướng, căn bản chính là không có những thứ ấy, mà là 8 thức 51 tâm sở: đã bóp méo Nhất chân Pháp giới, biến thành ảo tướng này. Ở trên Kinh Kim Cang, đức Phật dùng mộng ảo bọt bóng làm ví dụ, ví dụ rất hay, nói rõ hiện tướng này là giả, hoàn toàn không thể được. Hiện tướng này từ đâu mà đến? Từ một niệm bất giác mà đến.       

          Trong một niệm này có mấy ý niệm vi tế? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một gảy ngón tay, thời gian một gảy ngón tay rất ngắn, một gảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, chư vị ghi nhớ con số này. Đơn vị là trăm ngàn, trăm ngàn chính là mười vạn, 100 lần ngàn, là mười vạn. 32 ức nhân với mười vạn, nhân ra thành: 320 ngàn tỷ, một gảy ngón tay này có 320 ngàn tỷ tế niệm, ý niệm vi tế. Bồ-tát tiếp tục nói là: 念念成形 “Niệm niệm thành hình”, hình chính là hiện tượng vật chất, là sắc tướng trong năm uẩn. Kinh giáo của chúng ta giảng về: sáu căn sáu trần, sáu căn sáu trần chính là tướng, mỗi ý niệm đều có sắc tướng, chính là có tướng của sáu căn sáu trần, đồng thời, 形皆有識 “hình giai hữu thức” (hình đều có thức), hình là hiện tượng vật chất, trong hiện tượng vật chất, đều có thọ tưởng hành thức. Khoa học của thế gian chúng ta ngày nay, nói về thời gian, là dùng giây làm đơn vị, chư vị thử nghĩ, một giây chúng ta có thể gảy mấy lần? Người trẻ tuổi, thể lực tốt, có thể gảy mấy lần? Có thể gảy bảy lần. 320 ngàn tỷ nhân 7, 3 nhân 7 là 21, chư vị tự mình tính toán kỹ, 320 ngàn tỷ nhân 7, trong một giây, hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, trong một giây. Là nói điều gì? Sanh diệt, niệm trước diệt, niệm sau sanh, trong ý niệm này có hiện tượng vật chất, có hiện tượng tinh thần, chính là đã đầy đủ sắc thọ tưởng hành thức. Là Khoa học được giảng trên kinh Đại thừa.

          Trưa hôm nay, phóng viên của đài phát thanh đến phỏng vấn tôi, hỏi tôi trong kinh Phật có Khoa học hay không? Có, đó là hiện tượng Vật lý. Loại sanh diệt này của chúng ta chính là ở trước mắt chúng ta, chúng ta không nhìn thấy, chúng ta không nghe thấy, đến ý căn của chúng ta cũng không nghĩ ra. Tại vì sao? Bởi sanh diệt quá vi tế rồi, tần suất của một giây, niệm trước diệt, niệm sau sanh, tần suất sanh diệt ấy, một giây, ghi nhớ, là hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ lần. Đây là do đức Phật nói ra ở trên kinh, đã được nhà Cơ học Lượng tử hiện đại chứng minh, tôi thấy được là báo cáo: của Tiến sĩ Max Planck nước Đức. Ông Max Planck có học trò rất nổi tiếng, nổi tiếng hơn ông, là Einstein, thầy của ông Einstein. Cả đời ông chuyên môn nghiên cứu vật chất, vật chất đến sau cùng là gì? Nghiên cứu vấn đề này đã có 400 năm, từng đời từng đời tiếp tục nghiên cứu, đến tay ông thì sự thật được phơi bày rồi. Vật chất là gì? Vật chất là giả tướng. Cho nên ông thấy được Chân tướng, nói với mọi người, thế gian này căn bản thì không có: thứ vật chất này tồn tại. Đây là thật sự, cùng với lời đã nói trên Kinh Kim Cang: 凡所有相,皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Những gì có tướng, đều là hư vọng), đưa ra kết luận tương đồng. Vật chất đến sau cùng là sự việc thế nào? Là ảo tướng do ý niệm sanh ra. Đây lại là điều phù hợp với kinh Phật, trên kinh Phật nói là相由心生 “tướng do tâm sanh”, tướng chính là hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất từ đâu mà đến? Từ ý niệm mà đến. 一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), 境隨心轉 “cảnh tùy tâm chuyển” (cảnh chuyển theo tâm), đây đều là điều đã nói trên kinh Đại thừa, đã được họ chứng thực. Họ dùng phương pháp nào để phát hiện? Phương pháp giống như điều giảng trên kinh Phật. Trên kinh Phật là chia vật chất này ra, chia thành bảy phần, từ bụi lông bò; Bụi lông bò chia thành bảy phần, 1 phần 7, là bụi lông dê; Bụi lông dê lại chia thành 1 phần 7, là bụi lông thỏ; Bụi lông thỏ chia tiếp được 1 phần 7, là bụi nước; Bụi nước lại chia thành 1 phần 7, chính là bụi kim loại. Chia, chia đến cuối cùng không thể chia tiếp nữa, chia tiếp thế nào? Không còn nữa, thì gọi là Lân hư trần, Cực vi sắc, Cực vi chi vi, những danh từ ấy là trên kinh Phật. Họ là dùng phương pháp như vậy.

          80 năm trước, nhà Khoa học phát hiện nguyên tử, cho rằng nguyên tử là vật chất nhỏ nhất. Thuận theo sự tiến bộ của Khoa học kỹ thuật sau này, thiết bị, thiết bị tinh vi phá vỡ nguyên tử, phá vỡ nguyên tử phát hiện trong nguyên tử: có Hạt nhân nguyên tử, có Electron, có Neutron, đó không phải là nhỏ nhất. Tám năm nay, Khoa học tiến bộ có thể nói là bước đột phá lớn, đem Hạt nhân nguyên tử, Electron, Neutron: đều phá vỡ ra để xem, phát hiện vật chất nhỏ hơn: cấu thành những thứ ấy, Khoa học gọi đó là Hạt, Hạt sơ cấp, Hạt sơ cấp có mấy chục loại. Những hạt ấy vẫn chưa phải là nhỏ nhất, vẫn có thể phá vỡ hạt ấy, sau khi phá vỡ thì nhìn thấy Neutrino. Lại phá vỡ Neutrino tiếp, thì không còn nữa, đây chính là như trên kinh Phật giảng: Cực vi sắc, Lân hư trần, tìm thấy rồi. Sau khi phá vỡ những hạt ấy, thì hiện tượng vật chất không còn nữa, nhìn thấy điều gì? Nhìn thấy hiện tượng sóng của ý niệm. Vậy mới bỗng nhiên đại ngộ, vật chất từ đâu đến? Từ ý niệm mà sanh ra. Sanh ra loại hiện tượng này, thời gian tồn tại bao lâu? Đó là điều đã vừa mới nói với chư vị, là 1 phần 2 triệu 100 ngàn tỷ một giây, chính là một giây thì sanh diệt đã là: 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, một giây. Chính là ở trước mắt chúng ta, chúng ta hoàn toàn không thể giác biết. Vậy gọi là gì? Là mê. Chúng ta mới có khái niệm về mê này rồi, thế nào gọi là mê? Dù ở trước mắt chư vị, bao gồm hiện tướng này của thân thể chúng ta, đều là ở: 1 phần 2 triệu 100 ngàn tỷ giây, cũng chính là một giây thì sanh diệt đã trải qua có: hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, làm sao chúng ta biết được?

          Cho nên tôi có lý do tin tưởng, qua thêm 30 năm, xấp xỉ, thời gian đó, Khoa học lại tiến thêm một bước về trước, hoàn toàn đã chứng minh chân tướng sự thật này, nhà Khoa học đều thừa nhận rồi, nhà Khoa học liền đưa ra một lý luận, gọi là以心控物 “dĩ tâm khống vật” (dùng tâm khống chế vật). Đó chính là thần thông mà Phật pháp giảng, từ chứng minh của Khoa học, ý niệm của chúng ta có thể khống chế vật chất. Đầu tiên khống chế thân thể, có thể khiến người được sống mãi không già, có thể khiến người vĩnh viễn không sanh bệnh, có thể khiến người mãi mãi không cần ăn uống, liền giống như người ở thế giới Cực Lạc. Nhưng họ vẫn chưa thể phát hiện: trong Chân Tâm có vô lượng trí huệ, vô lượng công đức, vô lượng năng lực, vô lượng tướng hảo, nhà Khoa học chưa phát hiện. Có thể phát hiện những điều này hay không? Chúng ta phải xem sự phát triển sau này, có lẽ sẽ phát hiện được. Tuy phát hiện, nhưng không đạt được thọ dụng, tại vì sao không đạt được thọ dụng? Bởi chưa đoạn phiền não.

          Thế giới như vậy có trên kinh Đại thừa, trên kinh Phật nói với chúng ta, người thế nào có thể nhìn thấy? Không cần dùng máy móc, không dùng những thiết bị ấy, mắt trần của chư vị có thể nhìn thấy, là người nào? Bát địa trở lên. Người Bát địa trở lên, các ngài thật được thọ dụng, hiểu rõ chân tướng sự thật, các ngài hoàn toàn khôi phục đức dụng của Tự Tánh, vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo. Thứ nhất là thọ mạng vô lượng, các ngài đã buông xuống Vô minh phiền não, chính là Khởi tâm động niệm, buông xuống hết Phân biệt Chấp trước, chứng Vô thượng Bồ-đề, thì trí huệ, công đức, năng lực đều hiện ra. Nêu một ví dụ, là phân thân, các ngài có thể giống như A Di Đà Phật, phân vô lượng vô biên thân, để làm gì? Đi lễ Phật, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời, có bao nhiêu cõi nước thì các ngài chia ra bấy nhiêu thân, nơi của mỗi đức Phật, các ngài đều có thể đến đó để cúng dường, để lễ bái, để nghe kinh nghe pháp, có bản lãnh ấy. Còn Chân thân? Chân thân ở thế giới Cực Lạc: trong Giảng đường lớn của A Di Đà Phật không động, đức Phật thuyết pháp ở nơi ấy, các ngài ở nơi đó nghe, không động. Nhưng phân thân đến trong: tất cả cõi nước chư Phật ở mười phương ba đời, để đi làm Phật sự, Phật sự ấy chính là cúng Phật tu phước, nghe kinh khai trí huệ, phước huệ song tu.

          Vậy đầu tiên chúng ta liền nghĩ đến, lúc nào chúng ta mới có thể chứng được Bát địa? Đại khái cần vô lượng kiếp. Chứng được Sơ quả của Tiểu thừa, từ Sơ quả nâng lên đến Tứ quả A-la-hán: cần thời gian bao lâu? Ở trên kinh đức Phật nói với chúng ta, qua lại bảy lần giữa trên trời và nhân gian, thọ mạng của nhân gian ngắn, thọ mạng trên trời dài. Trời Đao Lợi cách chúng ta không xa, một ngày của trời Đao Lợi là 100 năm của nhân gian, thọ mạng là 1000 tuổi. 1000 tuổi của trời Đao Lợi, cũng là một năm có 365 ngày, chư vị thử nghĩ xem: thọ mạng của người trời Đao Lợi so với chúng ta, không cách nào so sánh, họ [sống] quá lâu rồi. Không hiếm lạ, trời Dạ Ma dài gấp đôi họ, trời Đâu Suất lại dài gấp đôi trời Dạ Ma. Vậy chư vị liền hiểu được, sau khi bậc Tu-đà-hoàn mạng chung thì sanh thiên, sau khi mạng chung trên trời lại sanh đến nhân gian, bảy lần qua lại mới có thể chứng được quả A-la-hán, vượt khỏi sáu đường luân hồi, mà chưa ra khỏi mười Pháp giới. Các ngài ở Pháp giới Thanh-văn trong mười Pháp giới, phía trên có Duyên-giác, có Bồ-tát, Phật.

          Đức Phật của mười Pháp giới đoạn Vô minh, cũng chính là sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, thực sự không khởi tâm không động niệm nữa. Nhìn được rõ ràng là trí huệ chiếu kiến, vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, từng sát-na đang thay tấm phim, không phải chân thật. Giống như chúng ta xem ti-vi, một giây ti-vi sanh diệt bao nhiêu lần? Ti-vi hiện nay là kỹ thuật số, 100 lần, một giây 100 lần, chúng ta hoàn toàn không cảm giác được. Vậy Tự Tánh của chúng ta, chân tướng sanh diệt của Tự Tánh trong vũ trụ này, một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, làm sao chúng ta biết được? Ngày nay ti-vi tốt nhất là 100 lần, 100 lần sanh diệt trong một giây, chúng ta nhìn thấy vô cùng giống thật. Ti-vi cũ trong quá khứ: là làm từ hoạt hình, không hiểu được: chư vị có ấn tượng đó hay không? Hiện nay không còn nữa, hiện nay loại bỏ mất rồi. Đây là âm bản của điện ảnh, là đoạn phim, tốc độ của đoạn phim trong máy chiếu phim, một giây là 24 lần. Cũng chính là một giây, ống kính mở ra, một tấm phim: cuốn hình chiếu ở trên màn ảnh, lại đóng ống kính vào, lại mở ra, chiếu tấm thứ hai, tốc độ rất nhanh, một giây 24 tấm, chúng ra nhìn thấy thì rất giống thật. Ti-vi ngày nay tiến bộ hơn thiết bị ấy, ti-vi ngày nay là 100 tấm một giây, chúng ta hoàn toàn không nhìn ra được. Những điều ấy đã được nhà Khoa học chứng minh, cho nên trong Phật pháp: có Khoa học cao cấp, có Triết học cao cấp.     

          Giáo dục Phật pháp phổ thế: là dạy luân lý, đạo đức, giáo dục nhân quả, nếu người hiểu được ba loại giáo dục này, thì không dám làm ác, họ sẽ hành thiện tích đức. Ngày nay chúng ta Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm toàn là nghiệp, khởi lên ý niệm, trong A-lại-da liền hàm chứa một Chủng tử. Có bao nhiêu Chủng tử trong A-lại-da thức? Ở trên kinh đức Phật nói với chúng ta, nếu Chủng tử của A-lại-da có tướng, hiện tướng càng nhỏ hơn nữa, lớn như Cực vi chi vi, nhỏ đến không thể nhỏ hơn, thì tận hư không khắp Pháp giới đều không dung nạp được, chư vị liền biết những thứ ấy đáng sợ biết bao! Luân hồi từ đâu mà đến? Chính là đến từ đó. Thiện niệm, thiện hạnh kết thành Chủng tử thiện, cảm được là quả báo của ba đường thiện; Ý niệm, hành vi bất thiện, kết thành Chủng tử ác, cảm được là quả báo của ba đường ác, sáu đường luân hồi là đến như vậy. Nếu biết sáu đường luân hồi: căn bản không có những thứ ấy, mà hoàn toàn từ trong nghiệp báo của chính mình mà sanh ra. Tuy sanh ra, mà sát-na sanh diệt, một giây sanh diệt 2 triệu 100 ngàn tỷ lần.

          Chỉ có đức Phật nói ra Thật tướng, ngày nay nhà Khoa học đã có cách nhìn khác về Phật giáo, nhà Khoa học nỗ lực hơn 400 năm, mới phát hiện Neutrino, chính là Cực vi sắc được giảng trên kinh Phật, 3000 năm trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni: giảng còn rõ ràng hơn họ, vậy có thể không bội phục chăng? Cho nên tất cả pháp là từ Tự Tâm, Tự Tâm đây chính là Tự Tánh, Tự Tánh mà Đại sư Huệ Năng giảng, lưu xuất ra, do Chân Tâm lưu xuất ra. Sau khi thành Phật lại trở về đến Pháp giới ấy, thành Phật là thế nào? Trở về đến Tự Tâm, minh Tâm kiến Tánh. Sau khi trở về Tự Tâm, vẫn có thể mê lại hay không? Trên Kinh Lăng Nghiêm có, có đoạn như vậy, những bậc Bồ-tát ấy thỉnh giáo với đức Phật, sau khi thành Phật, có thể vẫn sẽ có một niệm bất giác, lại khởi lên Vô minh hay không? Ví dụ đức Phật nêu lên rất hay, nêu ví dụ quặng vàng, trải qua khai thác tinh luyện, tinh luyện ra vàng thật, vàng thật sẽ không quay về quặng vàng nữa, đức Phật dùng tỉ dụ này để nói với chúng ta. Giáo dục của đức Phật: là dạy chúng ta minh Tâm kiến Tánh, phải hiểu được. Tất cả pháp được đức Phật nói trong 49 năm, người xưa chia những pháp ấy làm ba loại lớn. Loại thứ nhất là Giới luật, Giới luật là thân Phật, oai nghi, cử chỉ của đức Phật, chính là có quy củ. Thứ hai là Thiền, Thiền định là tâm Phật. Vì sao vậy? Bởi vì Tự Tánh vốn định, lúc khai ngộ, Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta, 何期自性,本無動搖 “hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao” (nào ngờ Tự Tánh, vốn không dao động), vốn không dao động chính là Tự Tánh vốn định. Vì sao phải tu định? Bởi vì Chân Tâm của chư vị là định, Vọng Tâm của chư vị là động, Khởi tâm động niệm là Vọng Tâm, không khởi tâm không động niệm là Chân Tâm, Chân Tâm là Thiền. Loại thứ ba chính là Giáo, Giáo chính là: tất cả kinh giáo của đức Phật đã nói trong 49 năm. Ở Trung Hoa Đại thừa chia thành tám tông, trong tám tông, trừ Luật tông, trừ Thiền tông, những tông khác đều thuộc về Giáo, Tịnh Độ cũng thuộc về Giáo. Nếu thêm Thành Thật tông, Câu Xá tông của Tiểu thừa, thời triều Đường có hai tông đó, năm cuối triều Đường thì không còn nữa, từ triều Tống về sau thì đoạn mất, Tiểu thừa truyền ở Đông Nam Á là tông ấy. Cho nên Trung Hoa thời xưa có mười tông, hiện nay nếu Phật pháp hưng khởi lên, chúng ta cũng hy vọng: cả mười tông đều có thể hưng khởi. Những Tổ sư Đại đức triều Đường: buông xuống Tiểu thừa [là] có đạo lý của các ngài, bởi vì Nho và Đạo của Trung Hoa có thể thay thế, là những thứ của chính Trung Hoa, nên học được thuận tiện. Dùng cơ sở của Nho và Đạo tiếp nối Đại thừa, thực nghiệm hơn 1000 năm: làm được rất thành công. Ngay trong 1000 năm này, tại gia xuất gia, Cao tăng Cao sĩ, rất nhiều người có thành tích khả quan, chứng minh Nho cùng Đạo: thực sự có thể thay thế Tiểu thừa.

          Ở Trung Hoa, đó là thời xưa, hiện nay không còn nữa, Tiên sinh Phương Đông Mỹ nói với tôi, 200 năm trước, đó là nói lúc 60 năm trước, hiện nay phải cộng thêm 63 năm nay vào, vậy thì là 263 năm trước, Tự viện am đường: không nơi nào không giảng kinh, không dạy học, Phật giáo là giáo dục, đâu thể không dạy học? Ba phần Kinh Luật Luận, ba phần là một thể, đều là từ trong Tự Tánh mà lưu xuất ra. Cho nên, trong Giới có Thiền có Giáo; Trong Giáo có Giới có Thiền; Trong Thiền cũng có Giới cũng có Giáo, một mà ba, ba mà một, Tam học một nguồn, nguồn chính là Tự Tánh, chính là Chân Tâm, không thể chia được. Vì sao phải chia như vậy? Bởi ba nghiệp thân khẩu ý, Giới là thân; Thiền là tâm, là ý; Ngôn là Giáo, đức Phật dùng ba loại ấy: để giúp chúng sanh quay về Tự Tánh. Không thể độc lập, ba điều này đều độc lập, các bên không qua lại với nhau, Đại đức xưa nói với chúng ta, Phật giáo liền suy rồi. Nếu lại còn tự tán thán mình hủy báng người, không thể hoà hợp lẫn nhau, thì Phật giáo nguy hiểm rồi. Đến lúc tranh chấp nội bộ, hai bên không phục, ai cũng đều cho rằng chính mình đúng, người khác không đúng, thì Phật pháp diệt rồi. Cho nên chúng ta rất bình tĩnh quan sát, Phật pháp ngày nay: là bảo tồn tiếp sau hay diệt hết? Chính ở thời đại này, chúng ta có thể nói mười năm gần nhất, mười năm không thể quay về, thì Phật pháp biến mất rồi, sẽ không còn nữa.

          Những gì của Phật pháp thật tốt! Với cổ Thánh tiên Hiền, Trung Hoa, nước ngoài, đều là kho báu văn hóa được bảo tồn lại, đó là thuần chân không vọng, là do Tự Tánh lưu xuất ra, không phải do Vọng tưởng lưu xuất. Từ Vọng tưởng lưu xuất ra là tri thức, từ Chân Tánh lưu xuất ra là trí huệ chân thật, phải thực sự có phát tâm đại Bồ-đề, nối Huệ mạng Phật, hoằng pháp lợi sanh. Biểu hiện của thân là Giới, biểu hiện của tâm là Thiền, biểu hiện của ngôn luận nói ra là Giáo. Bậc ấy là thế nào? Bậc ấy chính là Phật thật, không phải Phật giả. Về thành tựu của Mạt pháp, chúng ta nhìn với thái độ vô cùng khách quan, tôi đã học Phật 63 năm, 26 tuổi bắt đầu học, 33 tuổi xuất gia liền dạy học, dạy Phật Học viện, giảng kinh ở các nơi của Đài Loan. Tịnh tông này là pháp khó tin, tôi đã nói nhiều lần với chư vị, tôi học Phật 30 năm: mới tin Pháp môn này, không dễ dàng. Năm xưa trước khi chưa xuất gia, Pháp sư Sám Vân dạy Tịnh tông cho tôi, tôi chưa tiếp nhận. Tôi vào cửa Phật là từ Triết học mà vào, lúc ấy cho rằng: Phật pháp như là Triết học cao cấp. Về sau thân cận thầy Lý mười năm, ngay trong mười năm thầy Lý từng khuyên tôi mấy lần, không chỉ ba lần, khuyên tôi học Tịnh Độ, tôi đều ngầm không theo. Đó là chịu ảnh hưởng của Tiên sinh Phương Đông Mỹ, vẫn tồn tại, thầy Phương giới thiệu cho tôi là: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, thầy ưa thích, tôi cũng vui mừng.

          Tôi từng giảng Hoa Nghiêm hai lần, đáng tiếc hai lần đều chưa giảng viên mãn, Kinh ấy quá lớn rồi. Lúc tôi giảng lần thứ hai, đã giảng hơn 4000 giờ, chỉ giảng đến 1/5. Theo tiến độ ấy mà tính toán, giảng xong bộ Kinh ấy từ đầu đến cuối, giảng một lần cần 20 ngàn giờ, thật không dễ dàng. Trong ấy thật là ý vị không cùng tận, Hoa Nghiêm, thế giới Hoa Tạng, Hoa Nghiêm Tánh Hải, Đại đức xưa đều khẳng định, đều thừa nhận: Hoa Nghiêm là gốc rễ của tất cả kinh, gọi là Căn bản Pháp luân, tất cả kinh đều là cành lá của Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là gốc rễ chung. Tôi đã học 30 năm, là giảng lần đầu, lần đầu tiên tôi nhớ tôi đã giảng 17 năm, giảng xong một nửa, bộ 80 giảng một nửa, bộ 40 cũng đã giảng một nửa, thì tôi tin Tịnh Độ rồi. Xem thấy trên Kinh Hoa Nghiêm, ngài Văn Thù, Phổ Hiền: do vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thành tựu, lúc ấy tôi xem thấy kinh văn đó thì lông tóc dựng đứng, vô cùng cảm động. Ngài Văn Thù, Phổ Hiền ngay trong suy nghĩ của tôi, là Bồ-tát sùng bái nhất, các ngài tu Pháp môn nào? Kết quả vừa xem, hóa ra là tu Pháp môn niệm Phật thế giới Cực Lạc. Tôi lúc này mới thực sự quay đầu lại, cảm tạ Pháp sư Sám Vân, cảm tạ thầy Lý, các ngài buốt lòng rát miệng dạy tôi, hiện nay tôi thực sự tiếp nhận rồi, thấy được Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền học Pháp môn này.

          Ngày nay ở thời đại này, chúng ta vô cùng vô cùng cảm tạ: lão Hòa thượng Hải Hiền vì tôi làm biểu pháp, ngài 112 tuổi, 92 năm, một câu A Di Đà Phật không chuyển hướng. Ngài không biết chữ, chưa từng đọc sách, chưa từng đọc một bộ kinh, chưa từng bái một lần sám, cũng chưa hề nghe kinh lần nào, chỉ một câu Phật hiệu. Tôi xem quyển Vĩnh Tư Tập, Vĩnh Tư Tập vừa mở đầu giới thiệu về ngài, là người thật thà, nghe lời, thật làm, hễ người có điều kiện này, thì là người Thượng thượng căn trên kinh Đại thừa, Vì sao vậy? Bởi họ nhất định sẽ thành tựu. Người không thể thành tựu là thế nào? Không thật thà, không nghe lời, không thật làm, thường xuyên thay đổi đề mục. Ở 30 năm trước, tôi chính là người như vậy, may mà tôi đọc qua không quá nhiều, vì sao vậy? Bởi lúc tôi học những gì: đều báo cáo với thầy Lý, được sự đồng ý của thầy Lý. Thầy trông coi tôi 10 năm, nếu tôi lựa chọn sai lầm, thầy sẽ nói với tôi. Sau khi quy tâm về Tịnh Độ, tôi xem một số điển tịch của Tịnh tông, những sách khác thì tôi buông xuống rồi. Nhìn thấy lão Hòa thượng Hải Hiền, lúc đó ngài vẫn chưa vãng sanh, lúc tôi 85 tuổi, ngài vẫn tại thế, ngài vãng sanh năm ngoái, khi tôi 87 tuổi. 85 tuổi thì thật đã quay đầu, tại sao vậy? Bởi nghĩ kỹ thì ngày sau không còn nhiều, chư vị trẻ tuổi có thời gian, có thể từ từ học, tôi không còn thời gian nữa. Cho nên buông xuống triệt để, buông xuống cả Hoa Nghiêm, chuyên môn nghiên cứu bản hội tập này của Kinh Vô Lượng Thọ. Bản này do thầy Lý truyền cho tôi, tôi không hề phụ lòng thầy, tôi truyền bản này khắp toàn thế giới, lưu thông vượt qua một triệu quyển.

          Năm xưa ở nước Mỹ, những năm 1980, gặp được lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Lúc trước khi chưa gặp được, tôi biết có ngài ấy, thầy từng nhắc đến với tôi, thầy Lý từng nhắc. Ngài là cháu gọi ngài Mai Quang Hy bằng cậu, là học trò của ngài Hạ Liên Cư, lão Cư sĩ Mai Quang Hy: là thầy của thầy Lý, Mai lão Cư sĩ là đồng học với Hạ Liên công, là sư huynh đệ, hai ngài đều có thành tựu rất cao, phía trước Kinh Vô Lượng Thọ có một bài tựa dài, là do ngài Mai Quang Hy viết. Chúng ta ở thời đại này, gặp được bộ Kinh này, gặp được bộ Chú Giải này, gặp được Hiền công làm biểu pháp cho chúng ta, thì phước báo quá lớn rồi!

          Chúng tôi đã báo cáo với chư vị vô số lần, điều kiện vãng sanh của Pháp môn Tịnh tông chỉ có ba điều: thật tin, thật nguyện, không thể có mảy may nghi ngờ, không thể có mảy may giả dối; Trì danh, chính là niệm liên tục một câu Phật hiệu này. Chư vị cần hiểu được, một là chuyên, hai thì phân tâm rồi, thêm ba, bốn vậy thì rất khó, là kết duyên với Phật. Nhất định phải tin tưởng, đây là tất cả chư Phật tán thán, không phải một đức Phật, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói cho chúng ta, mà tất cả chư Phật Như Lai xưng tán A Di Đà Phật là: 光中極尊,佛中之王 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi Vương” (Tôn quý nhất trong các ánh sáng, Vua trong chư Phật). Đó là ý nghĩa gì? Là trong một câu Phật hiệu: đều nhiếp tất cả Phật hiệu của chư Phật, đều đã ở trong, chư vị [niệm] đều không sót Ngài nào, tết của chúng ta, quá khứ ở Đài Loan, trong Tự viện có thói quen lạy vạn Phật, Vạn Phật Sám, trong Vạn Phật Sám có bao nhiêu danh Phật? Hơn 12 ngàn: danh hiệu của Phật. Mười phương chư Phật vô lượng vô biên, lạy 10 ngàn Phật mà bỏ sót bao nhiêu chưa lạy, thì không viên mãn. Thế nào thì viên mãn? Lạy đức A Di Đà Phật này thì viên mãn rồi. Vì sao vậy? Bởi danh hiệu này là thông hiệu của tất cả chư Phật, là danh hiệu chung của tất cả chư Phật, niệm A Di Đà Phật thì đều niệm hết tất cả rồi, đều không sót đức Phật nào trong mười phương ba đời. Tôi làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều này rồi, mỗi ngày tôi niệm A Di Đà Phật, là đều niệm hết cả khắp Pháp giới hư không giới; Tôi lạy Phật thì lạy A Di Đà Phật, hiện nay mỗi ngày tôi lạy Phật một giờ, sáng sớm năm giờ đến sáu giờ. Dụng tâm phải chuyên, thiên hạ không việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên, tâm không chuyên, tâm không nhất, chư vị làm sao có thể được Tam-muội? Chư vị làm sao khai ngộ được?

          Loại lý niệm, phương pháp dạy học này: đều là do từ xưa truyền lại, Phật như vậy, truyền thống Trung Hoa cũng như vậy, chính là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Nhất định phải một môn, mục đích [là gì]? Mục đích là khai ngộ, chính là đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách, thì bỗng nhiên khai ngộ ý nghĩa trong sách ấy, đều hiểu rõ rồi, là cần cách học như vậy. Sau khi khai ngộ, xem chú giải của người khác, chư vị vừa xem liền hiểu được chỗ nào chú đúng, chỗ nào chú sai rồi, cảnh giới của người ấy đến nơi nào: chư vị đều hiểu được. Nhất định là lấy ngộ làm tông, tông chính là quan trọng nhất, không thể không khai ngộ. Ngộ từ đâu mà đến? Từ thanh tịnh, bình đẳng. Cho nên đề Kinh hay, tu điều gì? Tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng. Được thanh tịnh, bình đẳng là định, phía sau đó là giác, chính là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh; Thanh tịnh là A-la-hán, Bình đẳng là Bồ-tát; Giác là thành Phật, chư vị xem mục tiêu là ở trên đề Kinh. Được Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, quả báo đó là gì? Nửa đoạn trên đề Kinh, 大乘 “Đại Thừa”, Đại thừa là trí huệ viên mãn rốt ráo, vốn có trong Tự Tánh đều đã khai mở, chư vị không gì không biết, không gì không thể. 無量壽 “Vô Lượng Thọ” là đức bậc nhất của Tự Tánh, thực sự Vô Lượng Thọ, không phải giả. 莊嚴 “Trang Nghiêm” phía sau, trang nghiêm chính là tốt đẹp, tướng hảo trang nghiêm, tướng này là thân tướng của chính mình, là Cảnh giới tướng của hoàn cảnh cư trú. Vì sao vậy? Bởi đều là Tánh đức lưu lộ, bên trong không pha lẫn A-lại-da, gọi là Nhất chân Pháp giới, là Thanh tịnh Pháp thân.  

          Chúng ta rất may mắn, vô lượng kiếp đến nay: chư vị tu là phước báo thế nào, mà ngày nay chư vị có thể nghe được pháp này. Lúc nghe được pháp này, nếu có thiện căn, thì chư vị nhất định thành tựu, thiện căn chính là thật tin, thật nguyện, thật thà niệm Phật, thì không ai không vãng sanh, vãng sanh không ai không thành Phật. Thành Phật dạng nào? Hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là Phật viên mãn rốt ráo. Cơ duyên đã ở trước mặt chúng ta, không thể lỡ qua, lỡ qua thì quá đáng tiếc rồi. Đến 85 tuổi, tôi hoàn toàn quay đầu rồi, nơi trong tâm tôi hướng về là thế giới Cực Lạc, những việc khác, thì học lão Hòa thượng Hải Hiền, thế nào cũng tốt. Việc thì, việc tích cực tốt, việc tiêu cực cũng tốt, điều thiện tốt, điều ác cũng tốt, vì sao vậy? Bởi đều bằng không, đều không phải thật. Mê hay ngộ là ở người, tính toán, phân biệt, chấp trước đó là mê đã sâu, thảy đều buông xuống, đó là mê cạn. Cho nên tôi giới thiệu với các đồng học, đem đĩa CD về lão Hòa thượng Hải Hiền, xem như Kinh Vô Lượng Thọ để học tập, mỗi ngày xem ba lần, không thể ít hơn ba lần. Mỗi ngày không gián đoạn, một năm, một năm thì là 1000 lần, đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách. Mỗi ngày niệm 10 ngàn tiếng Phật hiệu, xem đĩa này ba lần, sau một năm, chư vị liền nắm chắc vãng sanh thế giới Cực Lạc rồi. Lão Hòa thượng Hải Hiền nói với chúng ta, làm tấm gương cho chúng ta xem, chúng ta có thể không tin không?

          Không dễ dàng phục hưng truyền thống văn hóa, cũng không dễ dàng chấn hưng Phật pháp, cần bậc nào đến làm? Cần Bồ-tát đến làm, phàm phu không làm được. Bồ-tát, giống như ngài Hải Hiền, đó là Bồ-tát, nhất định chuyên công một môn, thời gian 3 năm, 5 năm thì đại triệt đại ngộ. Đại triệt đại ngộ sẽ thế nào? Đều thông hết, một kinh thông tất cả kinh thông, đem bất kỳ kinh luận nào đến trước mặt chư vị: chư vị đều thông hết, đều không có chút chướng ngại nào, đó gọi là triệt ngộ, minh Tâm kiến Tánh. Có thể xuất hiện mấy người như vậy, người của giới Học thuật họ liền giác ngộ rồi, đây là cầu trí huệ, không phải cầu tri thức. Tri thức phải dựa vào trí nhớ, học rộng nghe nhiều, nhưng tri thức có tính hạn chế, có di chứng về sau. Vấn đề của thế giới ngày nay, tri thức không thể giải quyết, cần trí huệ, trí huệ không có tính cục bộ, trí huệ không có di chứng về sau. Cho nên hy vọng mọi người tuân thủ giáo giới của Phật, thì chư vị có thể khai huệ.

          Không dùng phương pháp của đức Phật, mà chính mình làm phương pháp khác, thì không thể được, chính chư vị có thể thử xem. Còn trẻ tuổi không vội vàng, tốn thời gian 10 năm, 20 năm thực nghiệm, nếu thực nghiệm không thành công, thì mau chóng quay đầu, thật thà niệm Phật, thì học dáng vẻ của tôi. Tôi đã làm thực nghiệm 30 năm, biết đường đó tôi đi không thông, tôi không thể nói người khác đi không thông, tôi thừa nhận chính tôi không được, không phải là người Thượng thượng căn. Tôi nên đi con đường vững chắc, con đường vững chắc không gì hơn niệm Phật. Người niệm Phật dù tạo ra Ngũ nghịch Thập ác, trên Kinh này giảng rất hay, đến lúc mạng chung vẫn chưa dứt hơi thở, lúc đó quay đầu sám hối cũng còn kịp, tôi từng thấy. Tôi ở nước Mỹ, đã nhiều lần báo cáo với chư vị, Cư sĩ Chu Quảng Đại, ở Maryland, năm 1984 là 85 tuổi, tôi gặp được ông, ung thư giai đoạn cuối, không có Tôn giáo tín ngưỡng. Đến lúc lâm chung, người nhà cầu Phật, cầu Thần tiên, hy vọng có kỳ tích xuất hiện, tìm đến chúng tôi. Chúng tôi phái mấy đồng học đến thăm, vừa nhìn mới biết bệnh thực sự nghiêm trọng, không thể khỏi được. Chúng tôi liền giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, giới thiệu A Di Đà Phật, khuyên ông vãng sanh. Ông vừa nghe thì vui mừng, lập tức liền tiếp nhận, nói với vợ, con ông, đừng đi tìm Bác sĩ tìm thuốc thêm nữa, niệm A Di Đà Phật, giúp ông vãng sanh. Ba ngày ba đêm, ông đi rồi, toàn thân mềm mại, tướng lành rất đẹp, thiêu có xá lợi.

          Ở nước Mỹ tôi thấy có mấy người vãng sanh, thực sự, không phải giả. Có hai vị là biết trước ngày giờ, tự tại ra đi, giống như ngài Hải Hiền, không ai trợ niệm, bởi bà không nói với ai. Trong di chúc bà viết rất rõ ràng, A Di Đà Phật [trước] ba tháng, khoảng thời gian ba tháng thì báo tin cho bà, cho nên bà tự biết ngày nào đi. Chính mình chuẩn bị hậu sự, không để người nhà nhọc lòng, là một vị lão bà, hơn 70 tuổi.

          Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo đây:『總持』“Tổng trì” chính là 陀羅尼 “Đà-la-ni” của tiếng Phạn. Người Trung Hoa dịch Đà-la-ni thành Tổng trì, tổng tất cả pháp, trì tất cả nghĩa. Nếu chúng ta nói, toàn bộ Phật pháp, pháp của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, bao gồm A Di Đà Phật, bao gồm Thích Ca Mâu Ni Phật, Tổng trì cuối cùng là gì? Nói với chư vị, chính là một câu Nam Mô A Di Đà Phật, [là] Tổng trì rốt ráo. Tại sao vậy? Bởi tất cả pháp, đều từ A Di Đà Phật mà mở rộng ra, A Di Đà Phật là tất cả chư Phật: là gốc, là cội nguồn của tất cả pháp. Chư vị làm thứ khác, là cành lá.

          Đức Phật từ bi, thế gian có một loại chúng sanh, có thể bao gồm chính chúng ta, đối với thứ gì? Hiếu kỳ đối với thần thông, hiếu kỳ với xem bói, hy vọng biết được sự việc vị lai, làm những thứ như xin xăm, gieo quẻ. Bồ-tát Địa Tạng từ bi, không phải chư vị ưa thích sao? Ngài cũng làm phương pháp chiêm sát, Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo, để hằng thuận chúng sanh, thỏa mãn nguyện vọng của chư vị. Việc ấy chuẩn hay không? Không nhất định, ở một chữ: thành, thành thì linh, tâm của chư vị chân thành thì linh nghiệm; Tâm không chân thành, dùng phương pháp đó cũng không linh nghiệm. Tôi cũng từng làm việc đó, vừa đến Đài Loan nghiên cứu học tập, đồng học của tôi là Châu Gia Lân, ông còn đem Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, đã giảng một lần, ông có giảng nghĩa lưu thông, chúng tôi cùng nhau học tập. Hiện nay tôi có dùng Kinh ấy không? Hiện nay tôi dùng A Di Đà Phật, cảm ứng này: không chỉ cao hơn vạn lần so với việc đó, không thể so sánh. Phải bỏ những điều ấy đi, lão Hòa thượng Hải Hiền giảng, những gì hiếm lạ, cảm ứng đều không cầu, tất cả đều là tốt đẹp tự nhiên, lời nói ấy là lời thật.

          Pháp sư Từ Vân Quán Đảnh thời đầu nhà Thanh, ngài rất có danh tiếng trong Phật giáo, trước tác của ngài vô cùng nhiều, Vạn Tục Tạng của Nhật Bản: đã thu thập đại khái khoảng có 30 loại. Tôi giảng Đại Thế Chí Viên Thông Chương, còn có lúc giảng một bộ kinh nào đó, tôi tham khảo chú giải của ngài, hình như là Quán Kinh, tham khảo chú giải của ngài. Trong chú giải có câu nói: phàm phu chúng ta tạo tác tội nghiệp cực nặng, tất cả hết thảy cách sám hối đều mất đi hiệu quả, tất cả hết thảy kinh đều không cách nào cứu chư vị, sau cùng ngài nói còn có một cách, A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật này có thể giúp chư vị, cứu được chư vị, do Pháp sư Quán Đảnh nói. Thời gian xem đã lâu tôi cũng không nhớ nữa, [trong] Quán Kinh Trực Chỉ, đại khái trong Quán Kinh Trực Chỉ, tôi giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ tham khảo của ngài, nói là lời thật.

          Tôi giảng Đại Thế Chí Viên Thông Chương: thì tôi dùng chú giải của ngài, ngài có Sớ Sao. Trang sau cùng của Sớ Sao, ngài liệt kê ra 100 loại quả báo của người niệm Phật, điều thứ nhất chính là địa ngục Vô Gián, điều sau cùng của 100 điều là Thượng phẩm Thượng sanh. Tôi xem thấy điều này, thì không hiểu, nên tôi thỉnh giáo với thầy, tôi nói thưa thầy, niệm Phật đây có thể sai sao? Niệm Phật thế nào có thể niệm đến địa ngục? Thầy vừa nghe đến lời này, đây là vấn đề lớn, đây không phải việc nhỏ, tôi không giảng cho một mình thầy, ngài nói thầy hãy đợi tôi, lúc tôi giảng kinh sẽ giảng cho đại chúng. Vấn đề là chư vị dùng tâm nào? Lấy danh nghĩa Phật giáo, lừa gạt tất cả chúng sanh, làm danh văn lợi dưỡng, đó là địa ngục Vô Gián, đó là lừa gạt chúng sanh, lấy Phật pháp lừa gạt chúng sanh, tội đó rất nặng. Thầy giảng như vậy, chúng tôi mới hiểu rõ. Quay trở về kinh giáo, Phật pháp là tâm pháp, hoàn toàn ở dụng tâm, cuộc sống thường ngày chư vị dùng tâm nào, dùng tâm nào vào công việc, dùng tâm nào xử việc đối người tiếp vật. Lão Hòa thượng Hải Hiền chỉ là một ý niệm: A Di Đà Phật, ăn cơm mặc áo, A Di Đà Phật; Công việc, A Di Đà Phật; Đối người tiếp vật, A Di Đà Phật. Một câu Phật hiệu không chuyển hướng, niệm đến cùng, cho nên ngài đắc được công phu Thành phiến, Sự Nhất tâm Bất loạn, Lý Nhất tâm Bất loạn. Rất quen thuộc với A Di Đà Phật, thường xuyên thấy Phật, những ngày gần ra đi, ngài liền nói, thường xuyên thấy Phật, Phật lại đến gọi tôi rồi, bảo tôi chuẩn bị mấy ngày nữa sẽ phải ra đi. Chúng ta tin lão Hòa thượng sẽ không gạt người, lời lão Hòa thượng nói câu nào cũng là lời thật. Biểu pháp của ngài, ở lúc ấy biểu pháp Tăng tán thán Tăng, Phật pháp sắp phải diệt vong rồi, Tăng khen ngợi Tăng có thể cứu Phật pháp, chúng ta muốn cứu Phật pháp, thì phải tán thán lẫn nhau.

          Trước đây chúng tôi không hiểu, ít tiếp xúc Phật giáo, rất nhiều việc đều không biết. Thầy Lý ở Đài Trung, tôi theo thầy mười năm, hễ đi qua nơi nào ở Đài Trung, có Cao tăng Đại đức, thầy Lý nhất định cúng đường, mời các ngài ăn cơm, tôi đều tham dự, mà không mời các ngài giảng kinh thuyết pháp. Tôi thỉnh giáo với thầy, tại vì sao? Thầy đã nói: quá khứ từng thỉnh một lần, chính những liên hữu chúng ta, đã nghe một lần, tâm đều động rồi. Thầy dùng thời gian nửa năm: kéo họ trở về lại, về sau thì không dám nữa. Cho nên寧動千江水,不動道人心 “ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm” (thà động nước ngàn sông, cũng không được động tâm người tu đạo), cách này của tôi hay, pháp của chư vị không được, thính chúng vừa nghe tâm liền loạn mất rồi. Cho nên việc này thì chúng ta học theo thầy.          

          Năm 1977, lần đầu tiên tôi đến HongKong giảng kinh, Pháp sư Thánh Nhất là Đại đức của Thiền tông HongKong, ngài nghe tôi giảng kinh, tôi giảng Lăng Nghiêm, mỗi ngày đều đến nghe. Đã nghe hơn một tuần, thì thông báo cho tất cả tín đồ của thầy, khuyên họ có thời gian đều nên đến nghe. Trong những Pháp sư khuyên tín đồ đến nghe tôi giảng kinh: chỉ có mình ngài, không có vị thứ hai. Ngài mời tôi đến Đạo tràng của ngài để kết duyên, tôi nói được. Đạo tràng Thiền tông, ngài còn có hơn 40 người tọa Thiền, Tọa hương mỗi ngày, trong đó còn có hai người nước ngoài, vô cùng khó có. Nơi đó của ngài gọi là chùa Bảo Lâm, ở phía sau chùa Bảo Liên, về đường đi, lái xe không vào được, đó là đường nhỏ, đường nhỏ quanh co, phải đi hơn nửa giờ, người thường không chịu đi bộ thì sẽ không vào được, cảnh vật vô cùng thanh nhã, mời tôi ở trong Thiền đường, giảng khai thị cho mọi người, may thay tôi vẫn có chút Khẩu đầu thiền, tôi giảng qua Lục Tổ Đàn Kinh, Vĩnh Gia Thiền Tông Tập, Chứng Đạo Ca, tôi đều từng giảng sách ấy. Tôi tán thán Đạo tràng, tán thán tấm lòng rộng rãi của Pháp sư Thánh Nhất, có thể tiếp nhận Pháp sư của tông phái khác đến giảng khai thị, vô cùng khó có. Tán thán Pháp sư, tán thán mọi người theo ngài tu hành, đó gọi là Tăng tán Tăng. Khiến tín đồ của ngài, đối với tông phái mà họ tu học đó, đối với thầy của họ tăng trưởng lòng tin, đó là hợp lý. Đây là thế nào? Đây là do thầy Lý dạy, chúng ta mới hiểu được.

          Cho nên về sau Đạo tràng khác mời tôi giảng kinh, họ là tông phái nào: tôi bèn tán thán tông phái ấy. Vì sao vậy? Bởi đều là do Phật nói, 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp), là lời trên Kinh Kim Cang nói. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, cho nên Phật mở ra vô lượng Pháp môn, mỗi Pháp môn đều là tốt, đều là dạy chư vị thành Vô thượng đạo. Cho nên Pháp môn không cần so sánh, là pháp bình đẳng. So sánh là chính chúng ta: Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước đang gây chuyện, không phải là điều tốt, thì làm sao có thể truyền tiếp được? Tổ sư Đại đức Cao nhân các đời quá nhiều rồi, các ngài có thể để cho chư vị giữ lại hay không? Càng là thứ cổ xưa, thì thứ ấy càng có giá trị, đó là điều chúng ta không thể không biết. Lão Hòa thượng nói, có một vài người đến Lai Phật tự của ngài, lúc đến chư vị cần giữ quy củ của tôi, nói với mọi người, đến Đạo tràng nào: phải giữ quy củ của Đạo tràng ấy. Chư vị không giữ quy củ ấy, thì chư vị đã phá hoại quy củ, vậy chư vị là đến phá hòa hợp Tăng, chư vị là đến phá Phật pháp. Chư vị ở trong Phật môn không có một chút công đức nào, chư vị là ma, chư vị đến để phá Phật pháp, chư vị đến để diệt Phật pháp, vậy là sai rồi. Cho nên phải hiểu được tôn trọng người khác, phải có lễ phép cơ bản đối với người. Nếu chúng ta giới thiệu Pháp môn này, chính mình học được rất tốt, giới thiệu cho mọi người, phải hướng đến Trụ trì của Đạo tràng ấy, trước phải báo cáo với ngài, ngài đồng ý, hoan nghênh, thì tốt. Nếu ngài không đồng ý, thì không thể nói, đó là tôn trọng đối với người.

          Hiện nay quy củ của Đạo tràng không còn nữa, đến đâu để học Giới? Học Thiền, học Giáo đều không có chỗ. Tôi ở Đài Loan bất đắc dĩ, học cùng với Đạo tràng tại gia của lão Cư sĩ Lý Bĩnh Nam, sau khi đã xuất gia lại quay về, ở tròn mười năm. Lão Cư sĩ từ bi, yêu thương bảo hộ hàng hậu học, không dễ dàng. Ba vị thầy ấy của tôi, nếu thiếu một vị thì tôi cũng không thể thành tựu. Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp cho tôi, không phải ngài, thì tôi luôn cho rằng Phật giáo là Tôn giáo, là mê tín, căn bản thì không có ý muốn tiếp xúc. Tôi theo ngài để học Triết học, bài mục sau cùng là Triết học kinh Phật, khiến tôi nhận thức Phật giáo, khiến tôi sanh khởi lòng kính ngưỡng đối với Phật giáo. Tiếp đến là Đại sư Chương Gia, theo thầy ba năm, cũng là mỗi tuần gặp mặt một lần, ít nhất cho tôi thời gian một giờ; Nếu ngài không có khách, không có việc quan trọng, thì ngài sẽ cho tôi hai giờ. Ba năm như một ngày, đặt vững cơ sở, về sau đến Đài Trung mười năm, mới có chút thành tựu như vậy. Nếu không có cơ sở, nền móng từ trước, thì không thể được, rất khó.

          Cho nên, duyên phận rất quan trọng, có liên quan đến sự phát tâm của chính mình. Đại sư Chương Gia nói với tôi: thực sự phát tâm Bồ-đề, xả mình vì người, vì giáo, thì cả đời của con được Phật Bồ-tát an bài thay con, con không cần nhọc lòng. Tôi hoàn toàn tiếp nhận, cả đời tôi chưa từng nghĩ cho chính mình, tại vì sao? Đều có Phật Bồ-tát an bài. Nếu tôi nghĩ chính mình làm thế nào, thì Phật Bồ-tát không an bài nữa, vậy tôi phải nhọc lòng rồi. Như vậy tôi không lo nghĩ chút nào, vui vẻ tự tại. Phật Bồ-tát an bài thuận cảnh, ở thuận cảnh học không tham luyến, thuận cảnh mà tham luyến thì không thể lìa luân hồi; Nghịch cảnh không oán hận, không kết oán thù với người khác, oan gia nên giải không nên kết. Bất luận là hủy báng: hay là tổn hại, chướng ngại của người khác, đều tiếp nhận, hoan hỷ tiếp nhận, tiêu nghiệp chướng của chính mình, tăng phước huệ. Nói tóm lại, sống với tâm bình thường, bình là bình đẳng, thường là vĩnh viễn giữ gìn thanh tịnh bình đẳng, nhất định không chịu ảnh hưởng của bên ngoài, thì đường Bồ-đề mới thuận buồm xuôi gió.

          Cảnh giới nho nhỏ hiện ra thì bị quấy nhiễu, liền chịu ảnh hưởng rồi, vậy thì rất không dễ dàng. Nếu có tình hình như vậy phải làm sao? Vô cùng nhiều người có loại tình hình như vậy, hiện nay có biện pháp, trước đây hỏi tôi, tôi cũng không có biện pháp, hiện nay có biện pháp: chuyên nghe đĩa CD về lão Hòa thượng Hải Hiền, cách này quá vi diệu rồi, có rất nhiều người điện thoại cho tôi, viết thư nói với tôi là tốt! Một ngày họ có nghe mười lần. Từ sau khi tôi khuyên nhủ mọi người, đã có người niệm mấy trăm lần, người nghe mấy trăm lần, càng nghe càng hoan hỷ, càng nghe lần nào cũng có chỗ ngộ. Chỗ ngộ ấy có tận cùng hay không? Không có tận cùng. Vì sao vậy? Bởi do Tự Tánh truyền ra. Chỉ cần là do từ Tự Tánh lưu xuất ra, thì vô lượng vô biên, không có hạn lượng, cho nên chư vị sẽ pháp hỷ sung mãn, chư vị sẽ thường sanh tâm hoan hỷ. Thực sự nắm được Pháp môn Tổng trì của Phật pháp, Pháp môn Tổng trì của tất cả chư Phật, đó chính là ‘tôn quý nhất trong các ánh sáng, vua trong chư Phật’, nhất định không được quên mất câu này, quá khó được, quá khó được rồi.

          Tiếp theo nói: 陀羅尼有四種 “Đà-la-ni hữu tứ chủng” (Đà-la-ni có bốn loại), loại thứ nhất: 法陀羅尼,又名聞陀羅尼。於佛之教法,聞持而不忘也 “Pháp Đà-la-ni, hựu danh Văn Đà-la-ni. Ư Phật chi giáo pháp, văn trì nhi bất vong dã” (Pháp Đà-la-ni, lại gọi là Văn Đà-la-ni. Đối với giáo pháp của Phật, nghe giữ mà không quên). Sau khi học xong mãi mãi ghi nhớ trong tâm. Người sơ học phải tránh nhiều, tham nhiều thì nhai không nát. Thực tế nói, Phật pháp trong tu học: trên nguyên lý nguyên tắc chỉ đạo, là Tứ hoằng thệ nguyện, chính là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, nói với chúng ta cách làm thế nào. Trước tiên phải phát nguyện, 眾生無邊誓願度 “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chư vị độ chúng sanh thì chư vị sẽ không hại chúng sanh, phải phát nguyện lớn như vậy. Sau khi phát nguyện này phải có hành động, bắt đầu hành động từ đâu? Bắt đầu từ trì giới, 煩惱無盡誓願斷 “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Trì giới là đoạn phiền não, nếu trì giới sanh phiền não, thì chư vị điên đảo rồi, làm gì có đạo lý đó, giới là thanh lương. Trì giới sanh phiền não, lập tức sám hối chính mình đã sai, không phải giới sai, không phải kinh điển sai, không phải đức Phật sai, mà chính mình sai rồi. Giới là giúp chúng ta đoạn phiền não, chứng Bồ-đề, cho nên nhân giới đắc định. Định là gì? Chính là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng: trên Kinh Vô Lượng Thọ. Thanh tịnh, Bình đẳng cũng chia ba bậc chín phẩm, giống như Bát địa trở lên mà đức Phật nói, đó là Thượng thượng phẩm Thanh tịnh, Thượng thượng phẩm Bình đẳng, Giác đó vô cùng gần kề với: Giác trên quả địa Như Lai; Cũng có Hạ hạ phẩm, chúng ta thực sự chịu tu mà nói, thì có thể đạt được Hạ hạ phẩm, từ Hạ hạ phẩm hy vọng mỗi năm nâng cao, có tiến bộ. Đến lúc công phu thuần thục, phiền não thực sự ít đi, thì mỗi tháng nâng cao, lúc đó thực sự là pháp hỷ sung mãn.     

          Không những kinh Phật là một, mà tất cả kinh điển của Tôn giáo trên thế gian: đều là giống nhau, chư vị thông một môn rồi thì môn nào cũng thông, chúng ta giảng kinh điển của họ, họ hoan hỷ nghe. Tôi giảng kinh Koran, không ít tín đồ đạo Hồi ưa thích nghe, tôi giảng Tân Cựu Ước, giảng Kinh Hoa Hồng, người Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo đều ưa thích nghe. Cho nên đã ngộ một môn, thì môn nào cũng ngộ rồi, yêu cầu điều này. Không coi trọng sự biết, giải, không coi trọng, coi trọng ở tự thấy, tự thấy nghĩa ấy, tự thấy nhất định là tâm Thanh tịnh Bình đẳng. Tâm không Thanh tịnh, không Bình đẳng, thì không sanh trí huệ, mà sanh phiền não; Tâm Thanh tịnh, tâm Bình đẳng, thì sanh trí huệ, không sanh phiền não, phải biết điều này.

          Về gốc rễ, gốc rễ của Phật, gốc rễ của Nho Đạo Trung Hoa, đều là ở hiếu, đều là ở kính. Hiếu là gì? Là nhất thể, tất cả chúng sanh trong toàn bộ vũ trụ: có liên hệ thế nào với ta? Một thể, do một Tự Tánh biến hiện, đó là hiếu. Biết hiếu, thì kính tự nhiên liền sanh, biểu hiện ở bên ngoài, là cung kính, đối với tất cả người, tất cả việc, tất cả vạn vật không gì chẳng cung kính. Với việc thì chăm chỉ có trách nhiệm, là cung kính; Đối với vật, đem chúng đặt đoan chánh, hết mực chỉnh tề, vô cùng sạch sẽ, là cung kính với vật. Những việc ấy đều thấy được: ở trên thân của lão Hòa thượng Hải Hiền, vậy thì có thể không xem sao? Biểu pháp của ngài: là do A Di Đà Phật căn dặn ngài, ngài không phụ lòng A Di Đà Phật, thực sự đem Kinh Vô Lượng Thọ, bất luận là lý hay sự trên đó, ngài đều đã làm đầy đủ từng chút một. Tôi khuyên mọi người, xem đĩa CD như Kinh Vô Lượng Thọ vậy, lời này là lời thật, không phải lời giả, là lời vô cùng trung thực, thật có thể giúp chúng ta ngay đời này: vãng sanh Tịnh Độ, viên mãn thành Phật. Nghe 1000 lần, nghe giữ mà không quên, thì chư vị nắm được Pháp Đà-la-ni rồi.

          Thứ hai là: 義陀羅尼 “Nghĩa Đà-la-ni”. Nghĩa là thế nào? Nghĩa lý được giảng, đạo lý được giảng ở bên trong, 於諸法之義,總持而不忘也 “ư chư pháp chi nghĩa, tổng trì nhi bất vong dã”. (đối với nghĩa của các pháp, luôn giữ thì không quên mất).

          Thứ ba: 咒陀羅尼,於咒總持而不忘 “Chú Đà-la-ni, ư Chú tổng trì nhi bất vong” (Chú Đà-la-ni, đối với chú luôn giữ mà không quên). Chú này chính là Nam Mô A Di Đà Phật, chư vị nghĩ xem, câu này có phải là lời chú không? Lời chú, lời chú Vô thượng. Rất nhiều vị Rinpoche trong Tạng truyền: các ngài tiếp nhận rồi, rất khó được, những người tiếp nhận đều là đại biểu của Phật, đến làm biểu pháp cho chúng ta. Tiếp theo nói rõ với chúng ta: 咒者,佛菩薩從禪定所發之秘密言句,有不測之神驗,名為咒陀羅尼 “Chú giả, Phật Bồ-tát tùng Thiền định sở phát chi bí mật ngôn cú, hữu bất trắc chi Thần nghiệm, danh vi Chú Đà-la-ni”. (Chú là: câu nói bí mật được Phật Bồ-tát đưa ra trong Thiền định, có hiệu nghiệm huyền diệu không thể đo lường, thì gọi là Chú Đà-la-ni). Danh hiệu đức Di Đà sâu rộng vô tận, trong câu này hàm chứa vô lượng nghĩa, thực sự là Pháp môn Tổng trì bậc nhất. Căn cứ trên mặt chữ để xem, chư vị xem, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, đó là phiên dịch từ trên mặt chữ. Vì sao không dịch ra? Bởi tôn trọng nên không dịch, dùng nguyên âm tiếng Phạn để dịch âm, Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc là niệm A Di Đà Phật, đều được, đều như nhau. A Di Đà Phật là gì? Là Chân Tâm của chính chúng ta, là Bổn Tánh của chính chúng ta, có thể sanh vạn pháp. Có thể sanh vạn pháp, thì các ngài sao không lý giải vạn pháp, đối với nghĩa lý của các pháp: nhất định thông đạt hiểu rõ. Cho nên chỉ cần thấy Tánh thì thông toàn bộ rồi, đi con đường này là đường tắt. 義翻之名,有四 “Nghĩa phiên chi danh, hữu tứ” (Tên được dịch theo nghĩa, thì có bốn:) có dịch là: “Minh”, chữ minh trong quang minh, có dịch là “Chú”, có dịch là: 密語 “Mật ngữ”, có dịch là: 真言 “Chân ngôn”. Đó đều là Chú thường nói, Chú là Mật ngữ, là Chân ngôn.

          Thứ tư: 忍陀羅尼。安住於法之實相,謂之忍,持忍名為忍陀羅尼 “Nhẫn Đà-la-ni. An trụ ư pháp chi Thật tướng, vị chi nhẫn, trì nhẫn danh vi Nhẫn Đà-la-ni”. (Nhẫn Đà-la-ni. An trụ vào Thật tướng các pháp, gọi đó là nhẫn, giữ vững nhẫn gọi là Nhẫn Đà-la-ni). Nhẫn là phương tiện trước của Thiền định, cho nên trong Lục độ, Nhẫn nhục Ba-la-mật, tiếp theo chính là Thiền định Ba-la-mật, phía sau là Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định. Trên Kinh Kim Cang nói với chúng ta: 一切法得成於忍 “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn” (Tất cả pháp được thành nhờ nhẫn), lão Hòa thượng Hải Hiền có thể nhẫn nhục, người ta đánh ngài hai bạt tai, mà không so đo. Người bên cạnh nhìn thấy không phục, phải đi tìm họ để lý luận, lão Hòa thượng nói không cần đâu, người xuất gia phải có độ lượng, phải có thể bao dung. Việc gì cũng có thể nhẫn, bịa đặt sanh sự, hủy báng, có thể nhẫn, không biện biệt, đó là lời bịa đặt, không phải sự thật, hà tất phải biện biệt. Thời gian lâu rồi, chân tướng tự nhiên rõ ràng, lúc đó hiểu rõ rồi, mới tán thán lão Hòa thượng, công phu nhẫn nhục thật tốt. Về Lục độ vạn hạnh, ở trong cuộc sống, công việc, đối người tiếp vật hàng ngày, với bất kỳ ai, thấy điều gì cũng tốt, không gì không thuận mắt, không gì không vui mừng. Cả đời chưa từng nóng giận, chưa từng nổi giận với ai, chư vị có sỉ nhục ngài thế nào, đối với ngài ra sao, ngài đối với chư vị đều là vui cười. Vì sao vậy? Bởi ngài biết: tất cả tướng là giả, không phải thật, thì nhẫn được thôi. Như nhà Khoa học đã nói, trên thế giới này, có thứ vật chất này hay không? Không có, vật chất là giả, sát-na sanh diệt. Một giây, thì hiện tướng, ảo tướng của toàn bộ vũ trụ, đã thay đổi 2 triệu 100 ngàn tỷ lần rồi, một giây, vậy đâu là thật sự? Không có chút nào là thật. Chư vị sáng tỏ đạo lý này, mới có thể buông xuống triệt để, buông xuống thì đúng.         

          Đoạn sau cùng này:『百千三昧』“Bá thiên Tam-muội” (Trăm ngàn Tam-muội). 《會疏》曰:百千三昧者,眾生無量,心行不同,有利有鈍 “Hội Sớ viết: Bá thiên Tam-muội giả, chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, hữu lợi hữu độn” (Hội Sớ ghi rằng: Trăm ngàn Tam-muội, là chúng sanh vô lượng, tâm hạnh khác nhau, có lanh lợi có chậm lụt), đó là tâm hạnh, 於諸結使 “ư chư Kiết sử” (đối với các Kiết sử), Kiết sử là phiền não, tập khí, 有厚有薄。是故菩薩行百千種三昧,斷其塵勞 “hữu hậu hữu bạc. Thị cố Bồ-tát hành bá thiên Tam-muội, đoạn kỳ trần lao”. (có dày có mỏng. Cho nên Bồ-tát hành trăm ngàn loại Tam-muội, dứt trần lao ấy). Vậy thì giảng được rất rõ ràng, rất sáng tỏ, Bồ-tát giáo hóa chúng sanh, tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, chứng trạng rất phức tạp, không phải do một loại phương pháp có thể trị lành được, cho nên Bồ-tát phải hành trăm ngàn loại Tam-muội. Bồ-tát không loại nào mà không biết, không loại nào không thông, hiện nay chư vị cần điều gì, các ngài bây giờ liền cho chư vị; Qua vài ngày sau, các ngài lại thay đổi phương pháp cho chư vị, các ngài giúp chư vị, dìu dắt chư vị, các ngài có rất nhiều phương tiện khéo léo, đối bệnh cho thuốc.

          Tiên sinh Phương Đông Mỹ bảo tôi học Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm thích hợp nhất với tầng lớp trí thức. Sau khi tôi đã đến Đài Trung, học bộ kinh nhỏ, một tháng học một bộ, pháp hỷ sung mãn, một bộ ấy thì tôi có thể từ đầu đến cuối: giảng được cũng khá. Tôi giảng thầy nghe, đồng học nghe, thầy nghe. Trước khi chưa xuất gia, ở 15 tháng, học 30 bộ kinh. Sau khi xuất gia, lại quay về học kinh lớn, tôi rất muốn học Kinh Pháp Hoa, đúng lúc thầy giảng Kinh Lăng Nghiêm, thầy nói tôi nên học Lăng Nghiêm là tốt rồi, phân lượng của Lăng Nghiêm không chênh lệch lắm với Pháp Hoa, đều là bộ kinh lớn. Thầy giảng hết ba năm, tối thứ tư thầy giảng kinh, ngày hôm sau của thứ tư tôi giảng lại, cho nên thầy giảng một lần, tôi cũng giảng một lần, thầy và đồng học nhận định không giảng sai, nên mới dám đến bên ngoài giảng kinh lớn.

          Lần đầu tiên tôi rời khởi Đài Loan đến HongKong, năm 1977, năm ấy tôi 50 tuổi, ở HongKong giảng Lăng Nghiêm, bốn tháng, mỗi ngày giảng hai giờ. Trước đó hai tháng, giảng ở Thư viện Phật giáo: của lão Pháp sư Đàm Hư, hai tháng sau, tiếp tục giảng ở: Giảng đường Quang Minh của lão Hòa thượng Thọ Dã trên đường Blue Pool, đã kết Pháp duyên cùng HongKong. Về sau, thì là mỗi năm, đến HongKong để giảng một tháng. Tôi nhớ rằng đến Australia cũng là giảng một tháng, lúc ấy còn thêm Singapore, đó là ở những nơi ấy. Tôi nhớ rằng trước sau đại khái: đã giảng Lăng Nghiêm bảy lần, vẫn là niệm niệm không quên Hoa Nghiêm, thời gian giảng Hoa Nghiêm dài nhất, có mười mấy năm.

          Ở đây nói với chúng ta, thứ tư là: 真言 “Chân ngôn”. 《秘藏記》云:凡夫二乘不能知,故曰密語。 “Bí Tạng Ký vân: Phàm phu Nhị thừa bất năng tri, cố viết Mật ngữ” (Sách Bí Tạng Ký nói rằng: Phàm phu và hàng Nhị thừa không thể biết, nên gọi là Mật ngữ). Vì sao vậy? Bởi chưa thấy Tánh. Chữ ‘bí’ trong nhà Phật là thâm mật, không phải bí mật, đức Phật không có bí mật. Đạo lý này rất sâu, người thường không cách nào tưởng tượng, vậy xưng đó là mật. 百千三昧 “Bá thiên Tam-muội” (Trăm ngàn Tam-muội), là ứng với vô lượng chúng sanh, vô lượng Tâm Tánh, Bồ-tát dùng những phương pháp ấy, chư vị xem, đoạn phiền não ấy. 譬如為諸貧人欲令大富,當備種種財物,一切備具,然後能濟諸貧者 “Thí như vị chư bần nhân dục linh đại phú, đương bị chủng chủng tài vật, nhất thiết bị cụ, nhiên hậu năng tế chư bần giả” (Ví như vì những người nghèo muốn làm cho được giàu lớn, thì phải chuẩn bị các loại tài vật, tất cả đầy đủ, sau mới có thể cứu giúp những người nghèo ấy). Đây là dùng tỉ dụ để nói, chúng ta muốn giúp người khác, không có tài phú thì không thể hoằng pháp. Trong mệnh tôi không có tài phú, lại không có thọ mạng, vận mạng 45 tuổi thì không còn nữa. Đại sư Chương Gia biết, nên dạy tôi, trong mạng không có, hiện nay tu vẫn còn kịp. Cách tu thế nào? Tu ba loại bố thí, bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Bố thí pháp thì không vấn đề, tôi ưa thích giảng kinh, giảng kinh là nâng cao chính mình, nhưng không có của cải, nên cũng không có duyên của vô úy. Sau cùng nghĩ đến ăn chay, cho nên tôi học Phật sáu tháng thì đã trường chay, vì sao vậy? Bởi không ăn thịt chúng sanh, đây là thuộc về bố thí vô úy, quả báo của bố thí vô úy là khỏe mạnh sống lâu; Bố thí pháp, được thông minh trí huệ.

          Bố thí tài, mà không có tiền. Đại sư hỏi tôi, có một hào tiền hay không? một hào có thể, không vấn đề. Một đồng được không? Một đồng miễn cưỡng, cũng vẫn được. Ngài liền dạy tôi, thì con bắt đầu bố thí từ một hào, một đồng, phải có tâm bố thí, không thể không có tâm này, việc bố thí tùy duyên tùy phận. Tôi thật làm, đại khái làm được mười năm, thì hiệu quả đã xuất hiện, mười phương cúng dường dần dần nhiều hơn. Thọ mạng hết rồi, cửa ải ấy cũng đã qua, năm 45 tuổi đó sanh một trận bệnh, một tháng thì khỏi rồi. Năm thứ hai gặp được Lạt-ma Cam Châu, ngài cũng là Đệ tử của Đại sư Chương Gia, là Rinpoche của Tạng truyền, người vô cùng tốt, ngài hơn tôi mười mấy tuổi. Nói với tôi, ngài nói mạng của thầy: bởi vì thầy mười mấy năm nay, lúc đó là 12 năm, giảng kinh được 12 năm, nhờ công đức giảng kinh, nên thọ mạng của thầy kéo dài rồi. Ngài nói, thọ mạng của thầy rất dài, thầy [vốn] không có phước báo, mà thầy tích lũy được phước báo rất lớn. Nói với tôi thông tin này, không ngờ năm thứ hai, ngài vãng sanh rồi, nói rõ điều gì? Những gì thầy dạy thật có hiệu quả. Cho nên tín tâm đối với thầy càng thêm cảm ân, kiên định không thay đổi.

          Tỉ dụ tiếp theo là tỉ dụ trị bệnh, chư vị có đủ loại vị thuốc, chư vị trị bệnh không có vấn đề; Chư vị có tài phú, thì bố thí không có vấn đề, cứu giúp nghèo khổ. Đều phải học, đều phải làm, đừng nên sợ hãi. Bố thí, càng nhiều càng tốt, không thí thì không có nữa, càng thí càng nhiều. Đây là kinh nghiệm hơn 60 năm của tôi, không nên sợ, có bao nhiêu chư vị liền bố thí bấy nhiêu, vô lượng vô biên phúc đức, công đức, trí huệ, chư vị đều có thể đạt được. Tốt rồi, hôm nay chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 105)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0