Responsive Menu
Add more content here...

Tập 106 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN

Tập 106

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 10 tháng 9 năm 2014.

Dịch giả: Kim Thiêu

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

         Kính chào: chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa.

         Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang thứ 335, chúng ta bắt đầu xem từ hàng thứ sáu.

         百千三昧“Bách thiên Tam-muội”(Trăm ngàn Tam-muội). Hôm nay đạo tràng chúng ta đủ duyên lành, Đại đức Luật-tông đương thời, là lão Pháp sư thượng Quả hạ Thanh quang lâm đạo tràng chúng ta, chúng ta cảm thấy rất vinh dự, lão Luật sư lại vì chúng ta làm chứng minh, ngàn Kinh vạn Luận đều quy về Tịnh-độ, đến sau cùng là một câu Phật hiệu này. Chúng ta rất cảm ơn lão Hoà thượng Hải Hiền, đã dùng thời gian 92 năm, làm biểu pháp sau cùng cho chúng ta, báo cáo thêm cho chúng ta một biểu pháp, đặc biệt là cho chúng ta thấy, thế giới Cực Lạc thực sự có, A Di Đà Phật là thật có, tín nguyện trì danh nhất định vãng sanh không phải là giả. Lão nhân gia ngài không biết chữ, cả đời chưa từng đọc qua một bộ Kinh, thậm chí thời khóa công phu sáng tối cùng đại chúng, nghi lễ ngài cũng không biết. Vậy ngài làm thế nào? Từ đầu đến cuối chỉ là một câu Phật hiệu. Chứng minh cho chúng ta: câu Phật hiệu này thực sự không thể nghĩ bàn.

         Chúng sanh thời mạt pháp. Hôm nay chúng ta giảng về đoạn này. 百千三昧,《會疏》曰:百千三昧者。眾生無量,心行不同,有利有鈍,於諸結使有厚有薄。是故菩薩行百千種三昧,斷其塵勞。譬如為諸貧人欲令大富,當備種種財物,一切備具,然後能濟諸貧者 “Bách thiên Tam-muội, Hội Sớ viết: Bách thiên Tam-muội giả. Chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, hữu lợi hữu độn, ư chư kiết-sử hữu hậu hữu bạc. Thị cố Bồ-tát hành bách thiên chủng Tam-muội, đoạn kỳ trần lao. Thí như vị chư bần nhân dục linh đại phú, đương bị chủng chủng tài vật, nhất thiết bị cụ, nhiên hậu năng tế chư bần giả” (Trăm ngàn Tam-muội. Sách Hội Sớ nói: Trăm ngàn Tam-muội là vì: chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng, có lanh lẹ có chậm lụt, với các kiết-sử hữu lậu có dày có mỏng. Vì vậy, Bồ-tát hành trăm ngàn loại Tam-muội, để dứt trần lao ấy. Ví như vì những người nghèo mơ ước được giàu có, thì trước cần phải chuẩn bị nhiều loại tài vật, tất cả dụng cụ, sau mới cứu những người nghèo ấy). Đây là thí dụ, lần trước chúng ta học đến chỗ  này. Tiếp tục, 又如欲治諸病,當備種種眾藥,然後能治Hựu như dục trị chư bệnh, đương bị chủng chủng chúng dược, nhiên hậu năng trị”(như muốn trị các loại bệnh, thì cần chuẩn bị nhiều loại thuốc, sau đó mới trị được). Ở đây chúng ta cần chú ý. Tam-muội là một, Tam-muội là thiền-định. Căn bản của thiền-định là Tự-tánh vốn định. Trong Tông môn khi Lục Tổ Đại sư Huệ Năng khai ngộ, đã dùng 20 để chữ miêu tả Tự-tánh, một cách sâu sắc tường tận. Tự-tánh là dạng như thế nào? Thứ nhất: vốn tự thanh tịnh, xưa nay không có bị nhiễm ô, thứ gì nhiễm ô? Nhiễm ô chính là vọng-tâm, là A-lại-da, Mạt-na, ý-thức, phân biệt của ý-thức thứ sáu, chấp trước của thức thứ bảy, đó không phải Tự-tánh.

         A-lại-da từ đâu đến? Vì một niệm bất giác, mà có vô-minh, đó gọi là căn bản vô-minh, căn bản vô-minh này là A-lại-da. Cho nên, 無明不覺生三細,境界為緣長六粗“Vô-minh bất giác sinh tam-tế, cảnh giới vi duyên trưởng lục-thô”(Vô-minh bất giác mà sinh ra tam-tế, cảnh giới là duyên khởi lục-thô). Càng mê càng sâu, sau khi mê rồi không hồi đầu được, đây là biến thành lục đạo phàm phu. Vốn dĩ là Phật, chân thật là Phật, không phải là giả, chuyển thức thành trí thì thành Phật rồi. Cách chuyển thế nào? Tôi không dùng 8 thức 51 tâm sở, chỉ cần quý vị đem những thứ đó buông xuống, thì Tánh-đức liền hiện tiền, những diệu dụng của quý vị là Tự-tánh, không khác với quả địa Như Lai. Nhưng chúng sanh mê sâu quá, mê lâu quá rồi. Chúng sanh vô lượng. Tâm hạnh không đồng, căn tánh có lợi có độn, kiết-sử là phiền-não, có vô-minh phiền-não, trần-sa phiền-não, kiến-tư phiền-não, các loại phiền não đó lại có dày có mỏng, không giống nhau. Bồ-tát độ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh quay đầu, cần phải tùy bệnh mà cho thuốc. Chúng sanh căn tánh như thế nào, Bồ-tát đều biết, cho nên tám vạn bốn ngàn Pháp môn là tám vạn bốn ngàn Tam-muội, vô lượng Pháp môn, vậy nên có vô lượng Tam-muội.

         Vừa rồi mới nói qua Tam-muội là một, trên tiêu đề của kinh này, Tam-muội là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác. Tâm thanh tịnh là định công của Tiểu-thừa, là chứng đắc của Thanh-văn Duyên-giác, Tịnh-độ-tông chúng ta gọi là sự-nhất-tâm-bất-loạn, là tâm thanh tịnh hiện tiền rồi, cảnh giới này giống như A-la-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát Đại-thừa lại hướng lên cao hơn. Trên kinh Hoa Nghiêm nói 52 cấp bậc, Bồ-tát 51 bậc, bên trên là Diệu-giác, Diệu-giác là Phật quả cứu cánh. Tổng cộng là 52 cấp bậc, 52 thứ lớp của thiền-định. Đây là phân chia lớn, nếu mỗi cấp bậc lại chia nhỏ ra thì thành vô lượng vô biên. Phân chia lớn thành 52 loại, là cách nói của Kinh Hoa Nghiêm. Làm thế nào để chứng được? Trì giới, tu định, khai huệ. Mục đích của trì giới là được định, muốn thực sự đắc định, thì Đại sư Chương Gia dạy cho tôi: buông xuống. Lão nhân gia dạy cho tôi nhìn thấu buông xuống, nhìn thấu là hiểu rõ chân tướng sự việc, tại sao phải buông xuống? Bởi tất cả pháp không phải thật, mà chúng ta lại cho nó là thật có, đó là sao vậy? Là mê rồi.

         Lão Hoà thượng Hải Hiền tự hành hoá tha, thường luôn nhắc nhở mọi người một câu nói, đây là lời nói chân thật của ngài:”Chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, còn lại đều là giả”. Đó là ngài nhìn thấu rồi, nhất tâm chuyên chú nơi câu Phật hiệu, buông xuống vạn duyên. Thời kỳ mạt pháp này, A Di Đà Phật chỉ cho chúng ta Pháp môn thuận tiện không gì thù thắng bằng. Chúng ta biết, Tam-không Tam-muội không dễ tu, chúng ta không có cách nào tu. Không, thực tế là như thế nào? Chấp trước ‘không’ rồi, ‘không’ cũng chẳng có, ‘không’ cũng là không. Chấp trước ở ‘không’ cũng là không, họ chấp trước tất cả, rốt cuộc không thể buông xuống triệt để, đây là căn bệnh của chúng sanh, vậy thì khó tu hành, khó ở chỗ này. Phương pháp của Tịnh-tông là làm cho quý vị buông xuống tất cả, chấp trước một pháp, một pháp đó chính là A Di Đà Phật, gọi là đới nghiệp vãng sanh. Phương pháp này thuận lợi rất nhiều rồi, mỗi người chúng ta đều có thể làm được.

         Cũng có rất nhiều đồng học chúng ta đều biết, lão Hoà thượng Đế Nhàn có đệ tử làm thợ vá nồi, cũng không biết chữ, không có đi học, trung niên bốn mươi mấy tuổi rồi, mới tìm đến lão Hoà thượng Đế Nhàn. Hai vị đó từ nhỏ lớn lên cùng nhau, cùng một thôn trang, chơi với nhau từ nhỏ. Thật là đi tới cùng đường rồi, thì tìm đến bạn chơi cùng thuở nhỏ là lão Hoà thượng Đế Nhàn, nhìn thấy xuất gia thật là tốt, không phải lo ăn, không phải lo mặc, mỗi ngày trôi qua rất tốt, ông rất hâm mộ, muốn cầu xuất gia. Hoà thượng Đế Nhàn không nhận lời, tại sao không nhận lời? Bởi tuổi tác quá lớn rồi, học gì cũng không kịp nữa, tối thiểu là năm thời khoá công phu trong chùa của người xuất gia mà ông không có khả năng học, nếu ông ở lại trong chùa, thì người khác cũng sẽ coi thường ông, như vậy đời sống tinh thần rất khó khăn.

         Nhưng sau cùng, ông ấy vẫn kiên định muốn xuất gia. Lão Hoà thượng ra điều kiện với ông, ông thực sự muốn xuất gia, tôi có điều kiện này, ông có chấp nhận được không, chấp nhận được, thì tôi nhận ông, không chấp nhận thì hết cách rồi. Ông ấy nói ngài có điều kiện gì tôi cũng chấp nhận, lời ngài nói tôi đều nghe theo. Ngài Đế Nhàn nói tốt, cạo tóc cho ông, không cần ở tại đạo tràng, ở dưới làng Ninh Ba có rất nhiều đền chùa nhỏ không có người ở, bỏ hoang rồi, đó là đền cũ nát, không có người ở, tôi tìm cho ông một cái, tôi lại tìm thêm cho ông mấy Cư sĩ tại gia (khi đó ngài Đế Nhàn cũng có chút danh tiếng, đệ tử quy y ngài không ít), tìm hai người đến hộ trì ông, mỗi tháng cúng dường thức ăn cho ông, thêm chút tiền mua rau để ông sống qua ngày. Tìm một lão Cư sĩ, là nữ Cư sĩ nấu cho ông hai bữa ăn, sáng tự lo liệu, bữa trưa, tối, họ đến giúp ông nấu cơm, giúp ông giặt đồ.

         Chỉ dạy ông một câu Nam mô A Di Đà Phật. Biết niệm không? Vậy thì biết niệm, điều khác không biết, biết niệm câu này. Ông cứ tiếp tục niệm mãi. Ông ấy thật biết nghe lời, thật làm. Lão Hoà thượng dạy ông, không được quên câu Phật hiệu này, niệm mệt thì nghỉ, nghỉ xong lại niệm tiếp, không phân biệt ngày đêm. Ông ấy thật nghe lời, thật làm, niệm được ba năm, biết trước giờ đi. Làm sao biết trước giờ đi? Trước khi vãng sanh hai ba ngày, ông đi thăm người thân bạn bè để cáo biệt, không nói với bất kỳ người nào, ngay cả lão Hoà thượng Đế Nhàn cũng không có thời gian đến cáo biệt, khi đó giao thông vô cùng bất tiện, từ chùa Quán Tông đi tới chùa nhỏ của ông cũng phải mất cả một ngày. Cho nên ông nói với lão cư sĩ Thái Thái chăm sóc ông ấy, nói với bà ấy: ngày mai bà không cần giúp tôi nấu cơm nữa. Lão Thái Thái cho rằng: hai ngày nay ông ấy đi thăm bạn bè, có phải là bạn bè đã mời ông ăn cơm. Tới ngày hôm sau, vẫn không yên tâm, tới xem thử, gọi sư phụ, sư phụ không thấy trả lời, lại gần xem xem, cửa chùa không đóng, nhìn thấy sư phụ ở trong phòng, tay cầm tràng hạt, mặt quay ra cửa sổ, hướng về tây, đứng ở đó. Gọi ông ấy không trả lời, lại gần hơn để nhìn, thấy chết rồi, đứng vậy mà ra đi. Lão Thái Thái ấy cũng giật mình, cả đời trước nay chưa từng thấy người nào đứng mà ra đi như vậy, gấp gáp thông báo cho vài vị hộ pháp, những người đã hộ trì ông ấy. Sau khi mọi người đến xem, lập tức cử người tới chùa Quán Tông, thông báo cho ngài Đế Nhàn. Cả đi cả về mất ba ngày, ông ấy đứng đó ba ngày. Ngài Đế Nhàn nhìn thấy việc này, vui vẻ tán thán: Rốt cuộc ông xuất gia cũng không uổng! Pháp sư hoằng tông diễn giáo (Hoằng tông là Pháp sư của Thiền-tông, diễn giáo là Pháp sư giảng kinh của giáo hạ) cũng không hơn được ông, Phương trượng Trụ trì của Danh Sơn Bảo Sát cũng không bằng ông. Ngài Đế Nhàn thường viện dẫn sự thành tựu của đệ tử này, ba năm niệm Phật, để khuyên bảo mọi người, công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn.

         Ngài Hải Hiền cùng ông thợ vá nồi hoàn cảnh giống nhau, cùng là không biết chữ, đều là thành thật, nghe lời, thật làm. Hiền công niệm Phật, câu Phật hiệu này đã niệm 92 năm rồi, không đi vòng thì không có tạp niệm, không có xen tạp bất cứ sự việc gì trong đầu, chỉ là một câu Phật hiệu. Chúng ta biết người có thiên tư như vậy, đó là thiện căn sâu dày. Sư phụ rất giỏi, sư phụ biết nhìn người, dạy quý vị Pháp môn này thì nhất định quý vị sẽ thành tựu. Thợ vá nồi chí ít ông niệm được công phu thành phiến, được gọi là công phu thành phiến, tức là trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra, không có vọng tưởng, không có tạp niệm, đó gọi là công phu thành phiến. Kiến-tư phiền não chưa đoạn, hoàn toàn hàng phục rồi, là phục phiền não, không phải là đoạn phiền não, vậy là có tư cách vãng sanh rồi, niệm Phật niệm đến công phu như vậy, đây không phải công phu rất cao, thì A Di Đà Phật sẽ đến nói với quý vị, nhất định hiện thân cho quý vị thấy. Trên hội Lăng Nghiêm, Chương Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông đã nói: ‘Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật’, ở đây là trước mắt, quý vị vẫn ở thế gian này, Phật hoặc ở trong mộng hoặc ở trong định thị hiện cho quý vị thấy, nói với quý vị, giống như  thọ ký cho quý vị, làm cho tín tâm, nguyện tâm của quý vị nhất định không lay động, sẽ nói với quý vị, thọ mạng của quý vị còn bao nhiêu năm nữa, đợi khi thọ mạng của quý vị hết, Phật sẽ tới tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Đó là lần đầu tiên thấy Phật.

         Rất nhiều người có phước báu, có trí huệ thấy được A Di Đà Phật, là việc không dễ, sau khi gặp được thì hướng A Di Đà Phật yêu cầu, tuổi thọ của con không cần nữa, bây giờ con đi theo Ngài, hiện tượng này rất nhiều, ai tình nguyện ở thế gian này chứ? Chúng ta xem Tịnh độ Thánh Hiền Lục, xem Vãng Sanh Truyện, người niệm Phật ba năm vãng sanh là đại đa số, có phải người ấy thọ mạng chỉ còn ba năm hay không? Không thể nào, nói vậy không thông. Thợ vá nồi có phải là thọ mạng ba năm là hết rồi, tôi không tin, ông ấy chỉ có hơn 40 tuổi, nhất định là nói với Phật, thọ mạng của con không cần nữa, bây giờ con theo Ngài vãng sanh, Phật liền có thể hẹn với ông ấy: khi nào Ta tới đón con, trong khoảng thời gian này, con có thể chuẩn bị hậu sự. Khi tới thời gian hẹn rồi, quý vị liền thấy được Phật, Phật đến tiếp dẫn quý vị. Hai lần, hai lần thấy Phật, là hiện tiền thấy Phật.

         Chúng ta đọc chuyện ký của Đại sư Huệ Viễn, là Sơ tổ Tịnh-tông, ngài hiện tiền thấy Phật bốn lần. Ngài cũng là thọ nhận lời phó chúc của A Di Đà Phật, mà lãnh chúng, không được đi ngay, cần đợi đại chúng. Đạo tràng Niệm Phật đường Đông Lâm của Viễn công, 123 người đều vãng sanh, thì Viễn công có thể đi rồi. Nếu vẫn còn một người chưa vãng sanh, thì ngài phải dìu dắt người ấy, tình hình này chúng ta có thể lý giải. Lão Hoà thượng Hải Hiền hai mươi mấy tuổi là có thể vãnh sanh rồi, đủ điều kiện rồi, tôi tin tưởng ngài thấy Phật rồi, ngài tu được tốt, tại vì sao? Bởi nghe lời, thật trì giới, không phải giả trì giới, là người chân thật. Cho nên A Di Đà Phật bảo ngài làm tấm gương, bảo ngài biểu pháp. Tôi tin tưởng tuổi thọ ngài không có dài như vậy, đại khái chỉ tầm thất lão, bát thập thôi, bảy, tám mươi tuổi. Một mạch cho tới khi gặp được quyển sách này: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Chỉ Có Tăng Khen Tăng, bộ sách này là do Pháp sư Hoằng Lâm đại khái dùng thời gian mười mấy năm, sưu tập rất nhiều tài liệu để chứng minh, giúp hoá giải nghi ngờ cho không ít người hiện nay, có nghi ngờ đối với bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, có nghi ngờ đối với tập Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, có nghi ngờ đối với người bao nhiêu năm qua nương theo pháp chúng ta đây để tu hành, đến vì chúng ta làm chứng. Nên Phật nói với ngài, khi nào con thấy được quyển sách này, thì Phật sẽ đến đón con. Có người tặng quyển sách này đưa đến chùa nhỏ của ngài, ngài cũng không biết chữ, là sách gì vậy? Mọi người liền đọc tên sách ra, tựa đề quyển sách này là Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Chỉ Có Tăng Khen Tăng. Ngài nghe thấy tên sách này thì vô cùng hoan hỷ, giống như được vật báu, mỗi ngày đều đợi, cuối cùng đợi được rồi, liền mặc áo đắp y, nhờ mọi người chụp hình cho ngài. Cả đời ngài trước nay chưa từng chủ động nhờ ai chụp hình cho ngài, lần này lại chủ động yêu cầu, không ngờ sau khi chụp hình tới ngày thứ ba thì vãng sanh rồi, đi được thoải mái như thế, đi được tự tại như vậy. Dụng ý của biểu pháp này vô cùng rõ ràng, là mười mấy, hai mươi mấy năm nay Pháp bổn này bị bài xích, phê bình vô cùng nghiêm trọng, chưa từng có, nên ngài đến để chứng minh cho này.

         Quá khứ từng có người khuyên tôi, bảo tôi từ bỏ bản hội tập của ngài Hạ Liên Cư, tất cả chúng ta học tập quyển của ngài Khang Tăng Khải. Tôi đã học qua quyển của ngài Khang Tăng Khải, vào những năm đầu tôi ở Đài Trung, lão sư cũng vì tôi giảng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, là bản của ngài Khang Tăng Khải. Bản của ngài Hạ Liên Cư này, là sau khi gặp được lão sư, bản này là do lão Pháp sư Luật Hàng mang từ Đại Lục tới, mang được mấy cuốn, đích thân ngài tham dự Pháp hội của ngài Hạ Liên Cư, mang bản này tới Đài Trung. Thầy Lý nhìn thấy lời mở đầu khá dài, là do thầy của ngài viết, chính là lão Cư sĩ Mai Quang Hy, những năm đầu thầy Lý học giáo, là học tập theo ngài Mai Quang Hy. Ngài hoan hỷ, vô cùng hoan hỷ, chính tay dùng bút lông viết chú giải, đánh dấu để chia đoạn ra giống như khoa phán vậy, rồi giảng qua một lần tại chùa Pháp Hoa ở Đài Trung, đương nhiên khi đó cũng có người phê bình, nhưng không nghiêm trọng lắm, tính cảnh giác của lão sư rất cao, sau khi giảng hết một lần, thì thu bản này lại rồi.

         Tôi ở Đài Trung, hình như năm thứ ba hay năm thứ tư, tôi không nhớ rõ lắm, thầy giao cho tôi bản kinh này, tôi có thể xem hiểu chú giải của ngài, tôi xem được vô cùng hoan hỷ, vừa lúc đó gặp được Hàn Quán Trưởng hộ pháp, bà 50 tuổi, tôi liền muốn chúng tôi giảng bản này để chúc thọ bà ấy. Hàn Quán Trưởng đã in ba ngàn cuốn, tôi đến Đài Trung báo cáo với thầy, tôi học tập với thầy mười năm, không luận bất cứ việc gì, tôi đều xin ý kiến thầy, dù cho ở nước ngoài, khi về nước việc đầu tiên là đến thăm thầy. Thầy nói với tôi, duyên chưa chín muồi, con hãy thu lại đi, vì nếu có người phê bình, con còn trẻ, kinh nghiệm ít, không chống đỡ được. Khi đó chúng tôi thực sự không hiểu rõ những sự việc này, thầy không đồng ý giảng bản này, cho nên ở Đài Bắc chúng tôi đổi lại giảng Kinh Lăng Nghiêm. Tôi ở Đài Trung chủ tu là Kinh Lăng Nghiêm, thầy giảng một lần, tôi cũng giảng một lần, thầy giảng ngày thứ tư, tôi giảng ngày thứ năm, đem những gì thầy giảng mà giảng lặp lại, là phục giảng, không thiếu một bài, đây là chỗ vững chắc của tôi ở Đài Trung, đây là gốc, gốc của Đại-thừa.

         Đến sau này, quả nhiên gặp phải nhiều vấn đề như vậy. Lúc đầu có người phản đối, nhưng có người ngăn cản cho tôi, lão Cư sĩ Triệu Phác Sơn, lão Hoà thượng Minh Sơn, hai vị ấy còn sống, là hộ pháp của tôi, cho nên tôi đến Trung Quốc Đại Lục, không ai dám phê bình, nếu có phê bình thì hai người đó xuất hiện rồi. Hai vị ấy vãng sanh rồi, tôi vẫn còn người bạn cũ, là tổng giáo mục của Thiên Chúa giáo, đối với tôi vô cùng quan tâm, cũng hộ trì tôi. Những vị ấy đều không còn nữa, nên tôi rất ít tới Trung Quốc Đại Lục. Chỉ khi đi thăm một vài người bạn cũ, về quê hương cúng tổ tiên, đây là hai việc khiến tôi về Đại Lục.

         Rất khó gặp được lão Hoà thượng Hải Hiền, sau khi ngài vãng sanh, đệ tử của ngài là Pháp sư Ấn Chí đến Hồng Kông thăm tôi, mang theo đĩa CD, tôi mới biết đến sự việc này. Các vị nhìn cây tích trượng này, cây tích trượng này là của lão Hoà thượng tặng cho tôi, đây là truyền rất nhiều đời rồi, chỉ định nhất định phải tặng tới tôi, mang tới Hồng Kông giao cho tôi. Cây này của chúng ta ở đây, là bản sao, tích trượng này rất trang nghiêm, tôi nhìn thấy rất hoan hỷ, phục chế ở Thâm Quyến đấy. Tôi hy vọng có thể phục chế 48 cây, 48 nguyện của A Di Đà Phật, tương lai với mỗi một đạo tràng chuyên tu chuyên hoằng Tịnh-tông, chúng ta đều cúng dường tích trượng.

         Cho nên khi thầy còn, tôi có chỗ dựa, thầy không còn nữa, tôi không còn chỗ dựa nữa. Chiếc y này của tôi, ngày đó thầy Lý vãng sanh, tôi đặc biệt đổi cà sa màu đỏ thành cà sa màu này, đây là do Phật chế, áo tràng màu vàng, cà sa màu đỏ tôi không dùng nữa, tôi đắp y điều này là thầy gia trì tôi, thầy không rời xa tôi. Cho nên người ta khuyên tôi, tôi nhất định không thể thay đổi, tôi nói dù cả thế giới đều không tin, tôi vẫn tin. Tại vì sao? Bởi thầy cho tôi mà, thầy không hại tôi đâu, thầy không lừa gạt tôi. Thầy cho tôi, tôi có nhiệm vụ, phải làm đem bản kinh này phát dương quang đại, phải phổ biến hoằng dương. Nếu như tôi thay đổi bản kinh này rồi, vậy là tôi thực sự có tội danh: Pháp sư Tịnh Không khinh sư phản đạo. Đồng học rất nhiều, vì sao thầy không giao cho người khác, lại giao cho tôi? Vì tôi có thể lãnh hội được, tôi dùng cuốn của thầy để giảng bộ Kinh này, trước sau giảng qua mười lần, dùng Chú Giải của Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, giảng chú giải, giảng kinh giảng Chú Giải, đây là lần thứ tư.

         Về già tôi hồi đầu rồi, nếu tôi không quay đầu, thì không nắm chắc vãng sanh, Hoa Nghiêm, bộ kinh điển thích nhất cũng buông xuống rồi. Pháp môn này đơn giản, dễ dàng, chỉ cần hết lòng hết dạ, thì thành tựu cao đến không cách gì ước tính được. Lão Hoà thượng Hải Hiền niệm tới lý-nhất-tâm-bất-loạn. Công phu ngài thành phiến, tôi đoán chắc cần ba năm, cùng với thợ vá nồi gần giống nhau; sau khi đạt đẳng cấp này, lại hướng nâng lên cao, nhiều nhất 3 tới 5 năm, ngài đạt tới sự-nhất-tâm-bất-loạn, sự-nhất-tâm-bất-loạn, là A-la-hán, tâm thanh tịnh hiện tiền, khai trí huệ rồi. Lại tiếp tục hướng cao lên, cũng khoảng 3 tới 5 năm, cho nên ngài đạt lý-nhất-tâm-bất-loạn. Cảnh giới của lý-nhất-tâm-bất-loạn, là tương đồng với đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh của Thiền-tông vậy. Lão Hoà thượng tự nói, tôi nghe được trong CD rằng: ‘Tôi điều gì cũng biết’. Câu nói này, nếu không thực sự minh tâm kiến tánh, mà nói câu này là đại vọng ngữ, điều gì cũng biết chính là người minh tâm kiến tánh. Ngài cũng không nói điều gì, vì chúng ta biểu pháp như vậy. Thời đại này là loạn thế, đặc biệt là thời đại đề xướng thuyết vô thần, quý vị mà nói nhiều rồi, thì phiền phức sẽ tới, chẳng bằng không nói. Làm một lão quý nhân làm ruộng, không có ai để ý tới quý vị, bình bình an an, cảnh giới không ngừng nâng cao hơn. Không phải người bình thường, chúng ta đi tốt con đường này, đi con đường này thì có nắm chắc sẽ đi được thông.

         Cần tin tưởng Pháp môn là bình đẳng, không có cao thấp, đây là sự thật, không phải giả. Nhưng căn tánh chúng sanh bất đồng, tôi suy xét chính mình phiền não tập khí rất nặng, so với người thường thì nhẹ hơn chút, nhưng so với thầy Lý, thì tôi không được như thầy. Tôi dưới hội của thầy mười năm, thầy cho tôi cầu học 5 năm. Tôi đến bái thầy là có điều kiện, là được giới thiệu bởi Pháp sư Sám Vân, và lão Cư sĩ Chu Kính Trụ, Chu lão là bạn tốt của thầy, tuổi của hai ngài gần bằng nhau, giới thiệu tôi với thầy. Thầy biết tôi đã từng học với tiên sinh Phương Đông Mỹ, và Đại sư Chương Gia, cho nên giao ước cho tôi ba điều: điều thứ nhất, ông muốn bái tôi làm thầy, thì từ ngày hôm nay, chỉ được nghe một mình tôi giảng kinh, bất cứ Pháp sư Đại đức Cư sĩ nào giảng kinh, cũng không được nghe. Đây là điều kiện thứ nhất, chỉ được nghe một mình thầy giảng; điều kiện thứ hai, xem văn tự, không luận là kinh điển, hoặc là những sách thế gian nào, không có được sự đồng ý của thầy, thì không được xem, cho tôi điều kiện này; điều kiện thứ ba là ra thời hạn, không phải không có thời hạn, 5 năm thôi, 5 năm học giới, đó là học giới, một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu. Tôi đi hỏi những đồng học khác, thầy không có ra điều kiện này, không có, Châu Gia Lân không có, Từ Tỉnh Dân cũng không có, chỉ riêng đối với tôi có hạn chế như vậy.

         Sau khi thầy vãng sanh rồi, năm 1998 tôi giảng Kinh ở Singapore, Pháp sư Diễn Bồi ngày trước là trụ trì của chùa Thiện Đạo ở Đài Bắc, ngài hơn tôi mười tuổi, chúng tôi quen nhau từ lâu. Tôi đến Singapore, ngài đến Phi trường đón tôi, tôi đều không dám nhận, đây là một Pháp sư giảng Kinh dạy học, sáng tác mấy chục loại, nhiều tác phẩm nổi tiếng, mời tôi ăn cơm, mời tôi đến đạo tràng của ngài để giảng khai thị, ngài tu Pháp môn Di Lặc Tịnh-độ, không phải tu Di Đà Tịnh-độ, mà tu Di Lặc Tịnh-độ, tôi tán thán, tán thán Di Lặc Tịnh-độ, tán thán lão Pháp sư, Diễn công lão Pháp sư, tán thán đồng học, hôm đó thính chúng có khoảng trên 600 người. Sau khi viên mãn rồi mời tôi ăn cơm, nói với tôi, ngài là xuất gia từ nhỏ, mười mấy tuổi xuất gia, làm Sa-di, ngài theo lão Pháp sư Đế Nhàn. Lão Hoà thượng Đế Nhàn cho ngài ba điều kiện, hoàn toàn giống với điều kiện thầy Lý nói với tôi, tôi mới hốt nhiên đại ngộ, đây không phải thầy Lý tự sáng tạo ra, mà quá khứ tổ tổ tương truyền lại. Nhưng ngài không nghe lời, Đại sư Thái Hư thành lập học viện ở Hạ Môn, ngài đối với Đại sư Thái Hư cũng rất là ngưỡng mộ, nên lén ra đến Hạ Môn rồi. Thật đáng tiếc! Nếu ngài biết nghe lời, kiên định cùng với lão Hoà thượng Đế Nhàn, thì ngài là một đời tổ sư của tông Thiên-thai, ngài Diễn Bồi rất thông minh, thông tông thông giáo, rất khó được! Đã theo với Pháp sư Thái Hư, toàn bộ học tập được là tân phái Phật học, nói lời thật, đã đem Phật học làm thành tri thức để học tập rồi, phương hướng con đường đó hoàn toàn không đúng rồi.

         Con đường này của tôi, tuy có ba vị thầy, nhưng là một con đường. Tiên sinh Phương Đông Mỹ giúp tôi nhận thức Phật giáo, tôi từ trước đối với Phật giáo có hiểu lầm rất sâu, hoá giải hiểu lầm này rồi, mới biết được Phật pháp là đại học vấn, biết được Phật pháp có lợi ích lớn, không những tự lợi mà còn có thể lợi tha, có thể lợi ích toàn bộ chúng sanh, vô cùng đáng để học tập. Dưới toà Đại sư Chương Gia học ba năm, Đại sư chăm sóc đặc biệt đối với tôi, chúng tôi mỗi tuần gặp mặt một lần, ngày chủ nhật, ngài dành thời gian cho tôi một tới hai giờ đồng hồ, có vấn đề gì ngài giải đáp cho tôi. Lão nhân gia ngài, chúng ta xem tấm hình của ngài, thấy trên tấm hình ngài như vậy, đi đứng nằm ngồi đều ở trong định, rất ít nói, không nói lời vô ích.

         Tôi theo ngài ba năm, việc đại sự quan trọng nhất, là như trước khi tôi ở đây, bao gồm tôi học tập với ngài, cũng là xem Phật pháp như tri thức để đối đãi, là thành phần trí thức, đối với công phu tu hành không để trong tâm. Sự chướng ngại số một, là đối với giới luật sinh ra hiểu lầm rất lớn, là trong tâm chúng tôi nghĩ vầy: Chúng ta là người hiện đại, người của thế kỷ 21. Những giới luật phương thức sinh hoạt của Phật là của người Ấn Độ vào 2500 năm trước, chúng ta cần học tập những điều này làm gì? Không cần thiết. Kinh sách của Ngài, tất cả đạo lý đã giảng, thậm chí những phương pháp, trí huệ, điều này thì chúng ta cần, đặc biệt rất nhiều điều mà khoa học ngày nay có thể tiếp cận được, điều này rất khó có được. Đại sư Chương Gia thật có trí huệ, phương tiện thiện xảo, quan tâm đối với tôi, chăm sóc làm cho tôi cảm thấy rất cảm kích. Nếu tuần đó tôi không có đến, không báo xin nghỉ với ngài, thì ngài liền gọi điện thoại tới, bảo trợ lý của ngài, thị giả của ngài gọi tới hỏi, có phải bị bệnh rồi không, hay có việc gì rồi, tại sao hôm nay không tới vậy? Quan tâm như vậy làm tôi không thể lười nhác được, chủ nhật mỗi tuần, đều phải tới gặp mặt lão nhân gia, hướng đến lão nhân gia báo cáo, tuần này tôi học được những gì. Mỗi lần ra về, ngài nhất định tiễn tôi ra đến cổng, nhẹ nhàng nói với tôi một câu: “Giới luật rất quan trọng”, tôi cũng chỉ nghe như gió thổi qua tai, cũng không để tâm.

         Khi ngài đi rồi, tôi cùng Cam Châu hoạt Phật, và một số người bên cạnh ngài, ở nơi hỏa táng, nơi hỏa táng là đặc biệt kiến lập cho ngài, không như thông thường, đặc biệt làm riêng cho ngài một chiếc tháp, ở liều vải bên tháp đó, mấy người họ ở bảy ngày bảy đêm, tôi ở đó ba ngày ba đêm. Tôi tự phản tỉnh, trong ba năm đó, ngài rốt cuộc dạy tôi những gì, tôi học được những gì. Vừa phản tỉnh, khái niệm đầu tiên nghĩ ra là: giới luật rất quan trọng, vì sao ngài lại phải nói với tôi nhiều lần như vậy, lại không nói thẳng thắn, nói thẳng ra sợ tôi không chịu được, chạy đi mất, không học với ngài nữa, cho nên dùng phương pháp này, nhẹ nhàng diễn tả. Cho nên tôi cảm thấy lão nhân gia vãng sanh, tôi cảm thấy: ngài là vì tôi mà biểu pháp vậy, để tôi cảnh giác được, mới coi trọng giới luật, suy nghĩ được hai tuần, nghĩ ra một chút cửa đạo rồi.

         Phật pháp là pháp xuất thế, là phương pháp để siêu việt tam giới, siêu việt mười pháp-giới. Nho và đạo của Trung Hoa, pháp thế gian, ngay cả các tôn giáo khác, đều không vượt qua thiên đạo, vậy trong Phật pháp nói, là pháp thế gian, sinh lên trời, thiên đường, trời dục-giới, trời sắc-giới, đại đa số là trời dục-giới. Tại vì sao? Bởi họ chưa đoạn dục, sáu tầng trời dục-giới là nơi quy tụ của họ, những thứ họ tu hành này có thể thay đổi được. Muốn siêu việt lục đạo luân hồi, muốn siêu việt thập pháp-giới, điều này không thể thay đổi, nếu thay đổi lời này, thì đi không được rồi. Tôi nghĩ đến đạo lý này, nghĩ thông đạo lý này, vậy mới đọc giới kinh, tôi mới tìm sách giới luật để đọc, không ai dạy, tôi muốn học mà không có ai dạy. Tôi ở Đài Trung muốn học Lễ là Lễ Ký, mà thầy không dạy. Tôi hướng tới thầy thỉnh pháp, ngài chưa từng từ chối, thỉnh Hoa Nghiêm, ngài cũng không từ chối, nhưng khi tôi thỉnh ngài giảng Lễ, hình như năm, sáu lần, tôi đã thỉnh năm, sáu lần, ngài mới miễn cưỡng giảng cho tôi mấy chương. Tôi hỏi ngài vì sao vậy? Ngài nói không có ai thực làm, tôi giảng rồi, giảng rồi các ông không làm theo được, giảng uổng công, vậy có ý nghĩa gì. Vậy tôi mới rõ, thực sự muốn học, thực sự chịu làm, thì ngài dạy, ngài chẳng phải không dạy, mà người thật muốn học tập càng ngày càng ít, không đủ điều kiện để học tập.

         Tôi theo tiên sinh Phương Đông Mỹ, vốn dĩ chỉ là muốn đến trường để nghe bài học của ngài, tôi viết một bức thư tự giới thiệu về mình. Viết một bài văn cho ngài xem. Một tuần sau ngài trả lời thư tôi, hẹn tôi tới nhà ngài gặp mặt. Chúng tôi là đồng hương, nhưng chưa có quen biết, đem hoàn cảnh quê nhà khi còn nhỏ, báo cáo đến ngài. Cuộc sống lưu vong sau khi kháng Nhật, bốn năm không có đi học, thất học bốn năm. Cho nên hỏi bằng cấp của tôi, tôi tốt nghiệp sơ trung, lớp thứ nhất trung học Nam Kinh, học được nửa năm trung học, học được nửa năm lớp thứ nhất trung học, thì toàn quốc bùng phát chiến tranh rồi, lại phải chạy nạn. Tôi chạy tới Đài Loan, ở Đài Loan không người thân thích, không có một ai chăm sóc, do vậy cần phải tìm việc làm, cần tự lo cuộc sống của mình. Chư vị nghĩ xem, không có bằng cấp, không có kinh nghiệm, không có bất cứ một quan hệ nào, không có chỗ nương dựa, cuộc sống đó gian khổ biết bao.

         Tôi từ nhỏ tự biết số mạng của mình, nên tôi không có oán trời trách người, nhẫn nhục chịu đựng, thích đọc sách, thích suy ngẫm nhiều vấn đề, dụng tâm rất chuyên nhất, không có bị nhiễm những thứ hào nhoáng xa xỉ. Tại sao? Bởi không có tiền, sinh hoạt phí một tháng vô cùng eo hẹp. Nhưng muốn đọc sách, muốn mua sách, tiền của tôi đều dùng mua sách hết rồi. Tôi ở Đài Loan nhiều năm như vậy, phí sinh hoạt mỗi tháng dùng ở mức thấp nhất, tôi chỉ dùng tám đồng Đài tệ, ăn ở là của nhà tập thể, không cần tiền, khi đó phí sinh hoạt cuộc sống mỗi tháng hơn 50 đồng, tôi tiết kiệm tới mức đó. Cùng với lão sư, lão sư ngày ăn một bữa trưa, khi đó tôi một ngày ăn hai bữa, quá ngọ không ăn, đoạn mất bữa tối rồi. Lão sư một ngày ăn một bữa, mấy chục năm rồi, nên tôi học tập thầy. Tôi học theo đến tháng thứ tám, tôi mới báo cáo với thầy, tôi nói với lão sư, con bây giờ cũng ngày ăn một bữa trưa thôi. Bao lâu rồi? Tôi nói tám tháng rồi. Sức khoẻ thế nào? Tôi nói sức khoẻ rất tốt. Thầy vỗ bàn một cái, mãi mãi không nên thay đổi, người tới không cầu phẩm tự cao. Cuộc sống đơn giản. Nhưng mà tôi vẫn không theo kịp thầy, thầy một bữa cơm hai đồng Đài tệ, tôi một bữa cần ba đồng. Tại sao vậy? Vì lượng tôi ăn nhiều hơn thầy. Phí sinh hoạt một tháng của thầy là 60 đồng, tôi cần 90 đồng, đó là khi tôi ở Đài Trung. Sau khi xuất gia rồi quay lại Đài Trung, lão sư nói với tôi, mỗi tháng nếu con dùng tiền vượt qua 150 đồng, thì con không phải là người xuất gia.

         Chúng ta đang thảo luận vấn đề ăn uống này, tôi báo cáo với thầy, tôi nói sự tâm đắc này của tôi, ăn uống là bình thường, tiêu hao  năng lượng tỷ lệ thuận với thức ăn cần, quý vị tiêu hao nhiều, mà quý vị bổ sung năng lượng không đủ, thì quý vị sẽ mắc bệnh. Năng lượng tiêu hao, tiêu hao tới chỗ nào vậy? Tôi báo cáo với thầy: là do vọng niệm. Tại sao khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, hàng Tỳ-kheo ngày ăn một bữa không vấn đề gì? Bởi tâm họ ở trong thiền định, họ không có tạp niệm, họ không có vọng tưởng. Lão sư hoàn toàn đồng ý. Tôi nhìn thấy lão sư, lượng công việc của thầy, là lượng công việc của năm người thường chúng ta, thầy một ngày ăn có một chút như vậy. Do vậy có thể thấy, năng lượng tiêu hao cho lao tâm lao lực không nhiều, nhiều nhất là do vọng tưởng, mỗi ngày sáng đến tối suy nghĩ lung tung, vậy nên mỗi ngày ba bữa vẫn không đủ, vẫn cần phải thêm điểm tâm. Tôi ngộ ra đạo lý này, lão sư khẳng định cho tôi, đồng ý rồi.

         Sau này rời Đài Trung ra ngoài giảng Kinh, tiếp nhận giảng Kinh đều là đồng học trẻ. Tôi ở nước ngoài nhiều duyên như vậy, nhờ kết duyên được trong vô tình, rất nhiều người không biết, khi đó là giảng toạ Chuyên ngành Phật học tại Từ Quang, ngài Hoà thượng Quả Thanh biết. Nguồn gốc của giảng toạ này, là tôi kiến nghị với lão sư làm. Đại học Bình Minh Xã Hội Đài Loan đã làm rồi, lão Cư sĩ Châu Tuyên Đức khi đó là giảng viên Đại học Đài Loan, là tín đồ Phật học thành kính. Cùng với lão sư Lý rất thân thiết, hai ngài đều là đệ tử quy y của Đại sư Ấn Quang, tự mình mang tin tức này đến Đài Trung báo cáo thầy Lý. Thầy Lý vui vẻ, Phật giáo thông thường đều bị xã hội đại chúng phê bình, là mê tín, bây giờ sinh viên Đại học chuyên ngành lại học Phật, những giảng viên lại học Phật, tất cả có thể làm cho mọi người thấy mới lạ, đây không phải mê tín, thầy Lý vô cùng vui vẻ. Khi ngài về, chúng tôi tiễn lão sư Châu, sau khi tiễn ông quay về, tôi cùng nói với thầy, tôi nói thầy à, sự việc này chưa hẳn là việc tốt. Thầy nhướng mắt nhìn tôi, tại sao không phải là việc tốt? Tôi nói đó là sinh viên chuyên ngành, phần tử trí thức cấp cao, giả như lỡ họ giảng Phật học, lại giảng lệch rồi, giảng sai rồi, tương lai ai có thể giúp bọn họ uốn nắn quay lại.

         Sau khi thầy nghe tôi nói điều này, lập tức thái độ bình tĩnh trở lại, suy nghĩ một lát, thầy nói: con nói có đạo lý, vậy làm thế nào? Hỏi tôi làm thế nào. Tôi nói thư viện Từ Quang của chúng ta đây, chúng ta có thể mở giảng toạ. Tôi nói lợi dụng ngày chủ nhật, vì gần Đài Trung, khi đó toàn là đi bộ, có thể đi tới thư viện học tập. Chủ nhật mỗi tuần sáng hai giờ, chiều hai giờ, buổi trưa tiếp đãi sinh viên ăn cơm. Nghỉ đông nghỉ hè, chúng ta có thể tiếp đãi bao nhiêu người, phải cho chỗ ăn ở, có khả năng bao nhiêu thì cho bấy nhiêu, chúng ta có một số người, phát đến các Phật học xã trường Đại học khắp Đài Loan, hoan nghênh sinh viên tới học tập, cần đăng ký tham gia. Chuyên ngành giảng toạ này mở được hơn 10 khoá, mỗi một khoá tôi đều tham gia, cho nên tôi với sinh viên là sống cùng nhau. Sinh viên nghe chỗ nào không hiểu thì tôi đều giải thích giúp họ, tôi đến trợ giảng, nên họ có cảm tình rất sâu. Những sinh viên này sau khi tốt nghiệp ra nước ngoài du học, lấy được học vị làm việc ở nước ngoài rồi, tôi vừa ra nước ngoài, nghe nói tôi đến nơi, đều gọi điện mời tôi. Duyên của tôi là do vậy mà có được, từ Chuyên ngành giảng toạ Từ Quang.

         Ngoài ra vẫn còn Pháp sư Đạo An, ở tại đại giảng đường hội Phật giáo Trung Quốc cũng mở ra một chuyên ngành Phật học giảng toạ, mời tôi đi làm tổng chủ giảng, tôi giảng ở đó bốn năm. Sinh viên của hai chuyên ngành giảng toạ này mấy nghìn người, nên pháp duyên nước ngoài của tôi như vậy mà có. Quý vị xem thỉnh thoảng nói một câu như vậy, tự động lão sư Lý hạ quyết tâm phải lập chuyên ngành Phật học giảng toạ, không ngờ đã mở ra duyên phận hoằng pháp của tôi ở hải ngoại. Họ đều có ở đại đa số các quốc gia trên thế giới, đây là con đường tôi đi, sau cùng đi tới Australia.

         Trước khi tôi chưa đến Australia, ở Australia mỗi năm giảng một tháng, ở Australia, hình như cũng khoảng mười năm, cho nên một số tín đồ ở nơi đây rất quen thuộc với tôi. Đến Australia, chính thức di dân tới Australia, là năm 2000, ở nơi đây kiến lập đạo tràng này, cùng với chính phủ liên bang, chính quyền nhà nước, lãnh đạo của chính phủ nơi đây đều quan hệ rất tốt. Tôi đến nơi đây là được Bộ trưởng Di dân mời tôi, hy vọng tôi đến châu Úc giúp châu Úc đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc. Nhiệm vụ này của họ giao cho Đại học Griffith thực hiện. Cho nên tôi với trường học hình thành mối liên hệ. Cùng với những hiệu trưởng, giảng viên của họ thường xuyên gặp mặt. Sau khi xảy ra sự kiện 911, hiệu trưởng Đại học Queensland tới tìm tôi, tới Toowoomba tìm tôi, mời tôi làm giảng viên của Học viện Hoà Bình cho họ, hình như 19 vị, 19 người, đã mở hai lần Tọa đàm. Trường học mời tôi làm giảng viên của Học viện, tôi lên lớp giảng cho sinh viên không nhiều, nhưng cùng với giảng viên của họ tiến hành nhiều lần Tọa đàm. Do từ mối quan hệ này, trường học tặng cho tôi học vị Tiến sĩ, cho tôi có danh phận này, làm đại biểu của trường học để tham gia hội nghị hoà bình của Liên hợp quốc, sự việc này đều không nghĩ đến. Tôi có duyên phận này, đã đưa tất cả tôn giáo đến Liên hợp quốc, ở đại hội Liên hợp quốc, chúng tôi vì hoà bình thế giới mà cầu nguyện, làm được rất thành công.

         Cho nên lần này đến, hình như tôi có ba năm chưa đến đây rồi, lão Hoà thượng Quả Thanh lần này tới đây mở lớp học tập giới luật, tôi nói tôi nhất định phải đến, tôi đến tuỳ hỷ, tôi đến làm ảnh hưởng chúng, hy vọng quý bạn đồng học coi trọng giới luật. Giới định huệ Tam-học nhất nguyên, cổ nhân nói được rất hay, tôi nhớ tôi dùng tiêu đề này, tôi cũng đã giảng qua sáu giờ đồng hồ với quý vị, Tam học là cùng một nguồn. Biết là nhất nguyên, thì sẽ tán thán lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, thì Phật pháp mới hưng vượng. Nếu như Tam-học đứng một mình, đứng một mình vẫn chẳng qua lại, vậy thì bắt đầu suy tàn rồi; sau khi đứng một mình không hỗ trợ qua lại, thì Phật pháp suy rồi. Nghiêm trọng hơn là phê phán lẫn nhau, huỷ báng lẫn nhau, vậy thì Phật pháp diệt rồi. Xã hội đại chúng nghe thấy, chính quý vị cãi nhau, chính mình tranh danh đoạt lợi, tự mình không dung thông lẫn nhau, xong rồi, vậy tôi không học nữa. Người muốn học Phật thoái tâm rồi, đây là đoạn Pháp-thân huệ mạng chúng sanh, quả báo là Vô Gián địa ngục.

         Tôi đối với bên ngoài, cũng như đối với chính nhà mình, giống người tu Tịnh-độ vậy, đối với người không cùng tông phái, thậm chí đối với người bên ngoài không cùng tôn giáo, tất cả quan niệm này đều là do thầy Lý truyền thọ. Thầy giảng Kinh Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm giảng điều gì? Tất cả vũ trụ cùng với mình là một thể. Đại sư Huệ Năng đã nói: “Nào ngờ Tự-tánh, có thể sanh vạn pháp”, Tự-tánh là một, vạn pháp là vô lượng vô biên, chỉ có Phật pháp nói được rõ ràng, nói được sáng tỏ, nói được thấu đáo. Một thể lại không yêu quý nhau được sao? Một thể lại phản đối nhau sao? Mắt có thể phản đối mũi không? Mũi có thể phản đối trái tim hay không? Vừa phản đối thì người sinh bệnh rồi, nghiêm trọng thì sẽ chết, là mất mạng rồi. Cho nên các cơ quan khác nhau thì như là không cùng tông phái, tôn giáo khác nhau, cộng đồng khác nhau, cần đối đãi bình đẳng, hoà thuận lẫn nhau, có vấn đề thì ngồi xuống cùng thảo luận, không nên phê bình, không nên phản đối, không nên tạo nghiệp, không được tạo tội. Cả đời thầy đối với người, không luận đối với người nào, đều cung kính tôn trọng, đây là chúng tôi học được từ ở thân ngài, ngài thân hành ngôn giáo giống Hoà thượng Hải Hiền vậy, làm được rất triệt để. Một lòng kỳ vọng, hy vọng nhân tài thế hệ sau có thể ra ngoài, từ từ phổ biến Phật pháp, có thể phát dương quang đại. Hôm nay chúng tôi đối với điều này rất có tín tâm, tại vì sao? Bởi tất cả xã hội thế giới hướng đến biên giới của sự tồn vong, mà chúng ta ở thời gian hiện nay, cũng là mười, hai mươi năm gần đây, lại hưng thịnh, Phật pháp hưng lại rồi, không hưng được thì vong thôi, thì diệt vong thôi. Trách nhiệm của người thế hệ này rất nặng! Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, tất cả hành vi sẽ đưa thế giới hướng đến sự huỷ diệt, hay là quay trở lại, đem cứu trở lại, thật không dễ dàng, thật khó.

         Chúng ta có tín tâm, nên chúng ta muốn tìm bộ Quần Thư Trị Yếu, trong tâm chúng ta rất muốn biên soạn Tứ Khố, giống như phương pháp để có được bộ sách Quần Thư Trị Yếu này, tuy nhiên Quốc Học Trị Yếu, tìm lại được rồi. Chúng ta nghĩ đó là tổ tông gia trì, cảm ứng rồi. Trước đây Đại sư Chương Gia dạy tôi, chỉ cần thân tâm phụng hiến cho Phật Pháp, phụng hiến cho Phật Bồ-tát, phụng hiến cho tất cả chúng sanh, ngài nói thì con đường của con được Phật Bồ-tát sắp xếp thay cho con. Tôi nghe câu nói này rồi, tốt quá! Tôi có bao nhiêu việc này, tôi không cần tự mình mà phải suy nghĩ chút nào nữa, Phật Bồ-tát dẫn đường cho. Không luận là thuận cảnh nghịch cảnh, đều là giúp tôi nâng cao, cảm ơn, cảm ơn Phật, cảm ơn chúng sanh, cảm ơn thuận cảnh, cũng cảm ơn nghịch cảnh, người phỉ báng tôi, tôi cảm ơn họ, người sĩ nhục tôi, hãm hại tôi, tôi đều làm bài vị sống lâu, mỗi ngày tôi hồi hướng cho họ, cảm ơn họ. Tại vì sao? Bởi họ giống như đến khảo nghiệm tôi, mỗi quan ải tôi đều thông qua, tôi không có giữ sự việc này trong tâm, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, sau khi tôi vãng sanh cũng sẽ quay lại tiếp dẫn họ. Tất cả chúng sanh vốn là Phật, tất cả chúng sanh, trên Giới Kinh đã nói: là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong tương lai. Chúng ta thường nghĩ tới điều này, hoá giải được tất cả rồi, chân thật đắc đại tự tại, pháp hỷ sung mãn, điều gì cũng thuận lợi.

         Mấy năm gần đây chúng ta có duyên phận này, là đại biểu của trường học để tham dự hội nghị của Liên hợp quốc, trước sau tham gia mười mấy lần rồi. Bây giờ tuổi tác cao rồi, không muốn đi nữa, không muốn hoạt động nữa, hy vọng người trẻ tiếp tục làm, sức ảnh hưởng này của tôi đem cống hiến cho quý vị. Đã thấy được tia nắng ban mai, đó là người lãnh đạo Trung Quốc bây giờ là Tập chủ tịch, ông tiếp nhận rồi, ông thật làm, tôi là từ trong tin tức, các bạn đồng học chuyển đến cho tôi. Tôi không xem báo chí, hơn 50 năm không xem ti vi, không xem báo chí, không nghe phát thanh, ngay cả điện thoại tôi cũng không có. Tuy ở đây chúng ta có ti vi, nhưng không có dây an ten, không bắt được tin tức, chỉ là chúng ta dùng để tự học tập, vậy thì người mới có thể thanh tịnh. “Biết ít việc ít phiền não, quen nhiều người thị phi nhiều”, tôi học ở thầy được rất nhiều điều. Con đường này là đại đạo Bồ-đề, Phật Bồ-tát chăm sóc tôi, điều gì chúng ta cũng không lo lắng, việc gì cũng không để trong tâm, điểm này quan trọng hơn hết. Quý vị có một sự việc gì để trong tâm, đó là căn nguyên tạo ra nghiệp báo, không được, không cho phép. Nhất định nghĩ tới Tam-học giới định huệ, trong giới có định, có huệ; trong huệ có giới, có định; trong định có giới, có huệ; một mà ba, ba mà một, đó là một thể, quyết định không thể phân chia. Tại vì sao chúng ta tu giới? Vì đắc định, đắc Tam-muội. Vì sao đắc Tam-muội? Vì đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Chân thật kiến tánh rồi thì chúng ta mới được tính là đã tốt nghiệp, thì việc học tập này viên mãn rồi. Tiểu-thừa A-la-hán là vô học, Đại-thừa minh tâm kiến tánh thì vô học rồi, đến khi đó, biến pháp-giới hư không giới, quá khứ hiện tại tương lai, không có điều gì mà lại không biết. Tại vì sao? Bởi tâm hiện thức biến, nên đều biết tất cả.

         Lão Hoà thượng nói đều biết tất cả, chúng ta nghe rồi trong tâm sáng tỏ, ngài đã tới cấp độ nào rồi? Tối thiểu là Viên-giáo Sơ-trụ, tức Biệt-giáo Sơ-địa. Không phải phàm phu, vì chúng ta đến biểu diễn như thế nào mới có thể chân thật ngay trong một đời vãng sanh thế giới Cực Lạc? Một môn thâm nhập, trường thời huân tu, từ ba tới năm năm thì ứng nghiệm hiện tiền rồi, chưa có triệt ngộ, có tiểu ngộ; có người 10 năm, 8 năm thì có đại ngộ, đại ngộ thì rất hữu dụng rồi. Triệt ngộ là kiến tánh, triệt ngộ là giác mà trên Kinh nói, giác là triệt ngộ. Quý vị xem thanh tịnh bình đẳng, thì thanh tịnh, là tiểu ngộ, là của A-la-hán Bích-chi-Phật, cảnh giới Tiểu-thừa; bình đẳng, là cảnh giới Đại-thừa. Tu thế nào? Bày ra ở đây rất là rõ ràng, đây là nhân, không thể nhiễm ô, phải thanh tịnh, phải bình đẳng, phải giác ngộ. Quả, là Đại-thừa, Đại-thừa đại biểu trí huệ; ‘Vô Lượng Thọ’, Vô Lượng Thọ là đức hạnh; ‘trang nghiêm’, trang nghiêm là tướng hảo. Quý vị xem xét, quý vị tu ba điều này, quý vị đắc được trí huệ, đức năng, tướng hảo, đây là trên Kinh Hoa Nghiêm, Phật đã nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”, tướng là tướng hảo. Toàn bộ trên đề Kinh, đề kinh của ngài Hạ Liên Cư hội tập tuyệt diệu rồi! “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” là của bản Hán Dịch, “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm” là của bản Tống Dịch, quý vị xem hai đề Kinh đó hợp lại, hợp được quá tuyệt diệu, đã đem toàn bộ Tịnh-tông hiển thị ra rồi.

         Chúng ta ngay đời này lại có thể gặp được bộ Kinh này, thầy Lý gặp được rồi, nhưng thầy Lý chưa gặp được Chú Giải của ngài Hoàng Niệm Tổ. Tôi từng đã nghe nói, thầy Lý nói với tôi tên của ngài Hoàng Niệm Tổ, cho nên lần đầu tôi nghe tên của ngài, thì cảm thấy rất quen thuộc, nghĩ rất lâu, nhớ ra là của thầy Lý nói, ngài là cháu của cụ Mai Quang Hy, là học trò của Cư sĩ Hạ Liên Cư. Tới đó tôi mới tiếp nhận, bên nước Mỹ mời ngài, tôi nói nhanh nhanh mời đi, chúng tôi được gặp mặt nhau tại Mỹ. Bởi vì ngài là Kim Cang Thượng sư, vốn là nói mời một vị Mật-tông đến truyền Mật pháp, tôi nói chúng ta tu Tịnh-độ, tìm một vị Mật-tông đến làm chúng ta bị đảo loạn rồi, tôi không tán thành. Sau cùng tôi nghĩ ra, vị Thượng sư này tên gọi là gì? Họ nói tên Hoàng Niệm Tổ. Thấy rất quen, đã nghĩ rất lâu, nghĩ đến thầy đã từng nhắc đến, tôi nói người này có quan hệ với chúng ta, chúng ta cũng xem như người một nhà. Cho nên ở nước Mỹ chúng tôi mới quen đã thân.

         Khi đó ngài làm thành công bộ Chú Giải này rồi, nhưng là bản thảo đầu tiên, vẫn chưa có tu đính qua. In dầu, dùng giấy nến đó in dầu, loại sách đó nhiều nhất chỉ có 100 cuốn, in nhiều nữa thì chữ không rõ ràng, mờ nhạt rồi. Ngài mang theo một bản đến nước Mỹ, đại khái là chọn bản tốt nhất để tặng cho tôi. Tôi vừa xem vô cùng hoan hỷ, lập tức gọi điện thoại hỏi ngài, có bản quyền hay không? Ngài nói thầy hỏi điều này làm gì? Tôi nói không có bản quyền thì tôi in lại, có bản quyền thì tôi tôn trọng ngài. Ngài nói không có bản quyền, lại mong tôi viết lời tựa cho ngài, muốn tôi viết lưu niệm cho ngài, cho nên ở Đài Loan tôi in ra mười ngàn quyển, bản bìa cứng mười ngàn quyển. Quyển sách đó rất đáng nhớ, bởi đó là cuốn bản thảo, những quyển bây giờ đều đã tu đính mấy lần rồi, nội dung phong phú so với khi đó, đó là trải qua như vậy, rất đáng kỷ niệm.

         Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, thầy tốt khó gặp, đâu có vận mạng tốt như vậy! Ba vị thầy ấy của tôi, lại thêm Hàn Quán Trưởng, thiếu một vị thì tôi không thể thành tựu. Hàn Quán Trưởng cho tôi một hoàn cảnh ổn định, giúp tôi không lo lắng đối với ăn mặc chỗ ở, chăm sóc tôi 30 năm, không đơn giản! Bà không phải là một gia đình giàu có, chồng làm ở cửa hàng dược liệu của người bạn, làm công tác bán hàng. Bán hàng mà là không có đãi ngộ, chỉ là bán hàng lấy tiền thù lao, cho nên cuộc sống rất khổ, không phải rất giàu có. Hộ trì như vậy, cho nên tôi cảm ơn, thiếu một người thì tôi không có ngày hôm nay, đại khái sớm vãng sanh rồi, thọ mạng chỉ có 45 tuổi thôi.

         Năm 45 tuổi, ba người bạn của tôi, chúng tôi đều cùng chung cảnh ngộ, ba người đều đã xuất gia, là bạn rất thân, Pháp sư Pháp Dung mất vào tháng ba, Pháp sư Minh Diễn cùng một Sư phụ với tôi, mất vào tháng năm. Tháng bảy tôi ở chùa Đại Giác, chùa Đại Giác ở Cơ Long, An cư Kiết hạ giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi nhớ là tôi chỉ giảng đến quyển thứ ba, Lăng Nghiêm có mười quyển, giảng tới quyển thứ ba, tôi bị cảm nặng, nên tôi biết đến lượt tôi rồi, tôi cũng không tìm bác sĩ, cũng không uống thuốc. Khi đó, có một đồng học ở Đại học Đài Loan, Đại học Chính Trị có một đồng học, Đại học Sư Phạm có hai đồng học, bốn đồng học chăm sóc tôi, tôi nói không cần khám bác sĩ, bác sĩ chỉ thể trị bệnh, không thể trị mạng, mạng của tôi, thọ mạng hết rồi, cho nên giúp tôi niệm Phật cầu vãng sanh. Sau khi các bạn đồng học tan học có thời gian thì đến giúp tôi, giúp tôi nấu chút cháo, ăn chút rau. Một tháng thì hồi phục lại, sau khi hồi phục lại thì tiếp tục giảng Kinh, cửa ải đó qua rồi, chưa ra đi. Cả đời tôi không có bị bệnh qua, không có vào bệnh viện, bệnh viện không hề có bệnh lý của tôi.

         Đợt bầu cử tổng thống ở Đài Loan, khóa thứ sáu, Tưởng Kinh Quốc ra tuyển cử tổng thống, năm đó, chúng tôi đã làm Pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc, mở đầu Pháp hội tôi giảng Kinh Nhân Vương. Gặp được Cam Châu hoạt Phật, chúng tôi cũng rất lâu rồi không có gặp mặt, gặp lại rất vui vẻ. Ngài gọi tôi ngồi bên cạnh ngài, nói với tôi, ngài nói: công đức giảng Kinh của thầy, khi đó giảng Kinh 12 năm, năm đó là năm thứ 12, vận mệnh của thầy thay đổi rồi. Ngài nói ngày trước, chúng tôi nói sau lưng thầy, người rất thông minh, đáng tiếc mạng ngắn, không có phước báu. Ngài nói công đức giảng Kinh trong 12 năm này của thầy, không những thọ mạng kéo dài, ngài nói thầy có tuổi thọ rất dài, thọ mạng của thầy rất dài, sau này phước báu của thầy rất lớn. Tôi không có hy vọng điều này, nhưng ở Đài Trung, thầy đối với những người trẻ chúng tôi, tướng mạo rất bạc, mạng ngắn, thầy nhìn ra được, đều khuyên chúng tôi ra học giảng Kinh, thầy nói giảng Kinh giúp kéo dài tuổi thọ là lớn nhất. Cho nên mừng thọ nên biết, phương thức mừng thọ thế nào tốt nhất? Chân thật kéo dài tuổi thọ? Hãy mời Pháp sư giảng Kinh, đến giảng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Trường Thọ, mở Pháp hội này, âm dương lưỡng lợi, công đức này lớn, điều này người thông thường không biết.

         Luôn luôn có tâm cảm ơn, mỗi chúng sanh đối với tôi đều có ân đức. Tri ân báo ân, không tri ân thì không biết được báo ân. Người cúng cho tôi một bát cơm, thì tôi không thể quên ân một bát cơm này của quý vị, điều này là thật không phải là giả, bồi dưỡng đức dầy của chính mình, tích công luỹ đức, tâm nguyện mãi mãi không thoái thất. Thích Ca Mâu Ni Phật là tấm gương của chúng ta, ngài là dẫn đầu. Chương Gia Đại sư khuyên tôi xuất gia, bởi vì tôi ở Đài Loan một mình, không có vướng bận gì, khuyên tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài dạy tôi xem quyển sách đầu tiên là Thích Ca Phổ, Thích Ca Phương Chí, khi đó ở Đài Loan không mua được cuốn sách này, chúng tôi đến thư viện Thái Hư chùa Thiện Đạo, trong tạng Kinh tìm ra, để sao chép. Tôi nhớ tôi đã sao chép mười mấy bộ Kinh, không tiện lợi như bây giờ. Bây giờ công nghệ in ấn quá thuận tiện rồi, cho nên tôi tiếp nhận cúng dường của đồng học, tứ chúng cúng dường, sinh hoạt đã không cần thiết rồi, không cần thiết tiêu tiền rồi, tôi đem số tiền này, tôi không kiến lập đạo tràng, tất cả in Kinh bố thí, bố thí cho toàn thế giới, đó chính là Quỹ ngân sách Phật Đà Giáo Dục Đài Bắc Đài Loan. Chủng loại bố thí rất nhiều, không cùng tông phái cả thảy đều lưu thông, chỉ cần có người tìm đến, tôi muốn in, in sách của Mật-tông, in sách của Tiểu-thừa, tôi đều in cho họ, đều tặng cho họ, vậy là pháp duyên thù thắng, rộng kết pháp duyên.

         Truyền thống văn hoá chúng ta thực sự sợ bị đoạn diệt, văn hoá truyền thống là gốc rễ của Phật pháp Đại-thừa, không có văn hoá truyền thống, thì Phật pháp Đại-thừa không thể tồn tại. Bây giờ văn hoá truyền thống có vấn đề, chúng ta cần cứu gốc rễ này. Làm thế nào cứu? Sách cổ Tứ Khố Toàn Thư, Tứ Khố Hội Yếu, đây là vật dẫn của văn hoá truyền thống. Đài Loan chỉ có một bộ Tứ Khố Toàn Thư, ở viện bảo tàng cố cung, Hội Yếu cũng là một bộ, bản đơn lẻ. Người đọc sách ở Đài Loan thường nơm lớp lo sợ, sợ sự biến động, sợ thiên tai, những sách này bị tổn thất mất, vậy thì xong rồi, đều hy vọng bộ sách này có thể in lại, in ra. Hơn 12 năm trước, rất khó được, nhà in sách Thương Vụ thật sự in ra rồi. Tôi hỏi tổng Giám đốc đã in bao nhiêu bộ? Ba trăm bộ. Nhà in Thế giới in Hội Yếu, đã in hai trăm bộ, số lượng ít quá.

         Năm Dân quốc thứ một trăm, chính phủ vì kỷ niệm 100 năm, thông báo hai tiệm sách đó, có thể tái bản không? Ông chủ tiệm sách đầu tiên thông báo tôi, tôi tán thán, tôi nói được, tốt quá rồi! Tôi nói với Nhà sách Thương Vụ, tôi muốn 100 bộ, tôi nói giá cũ nhé, không được tăng giá, tuy đã mười năm rồi, tôi vẫn là giá tiền cũ. Khi đó giá cũ một bộ năm mươi nghìn đô la, ông đồng ý rồi, cho tôi giá tiền đó, tôi đã mua một trăm bộ, năm triệu đô la. Sách Hội Yếu, tôi hỏi Nhà in Thế Giới, tôi đặt ông in hai trăm bộ. Khi trước tôi đã mua hơn 70 bộ Hội Yếu, Tứ Khố thì chỉ có một bộ, hiện tại ở trong giảng đường chúng ta, buổi sáng mỗi ngày quý vị thấy trong tủ sách của giảng đường, đó là tôi đã mua một bộ, đó là bộ sau cùng lần in trước của Nhà sách Thương Vụ, đã bán cho tôi. Cho nên tôi đã đặt họ hơn 100 bộ, Hội Yếu đặt in 200 bộ. Không những thế, sau này tôi đến Nhà sách Thương Vụ mua thêm 11 bộ, tổng cộng đã mua 112 bộ, đó là Tứ Khố, Hội Yếu đã mua của họ khoảng hơn 270 bộ, chia tặng cho thư viện trường đại học, thư viện quốc gia toàn thế giới. Như vậy sẽ không bị thất truyền nữa, nếu có thiên tai lớn cũng không thể huỷ diệt toàn bộ, khẳng định vẫn còn lưu lại, dùng phương pháp này để bảo tồn văn hoá truyền thống, vậy tôi an tâm rồi.

         Điều thứ hai, bây giờ nghĩ đến, cần có người để hoằng dương. Làm thế nào để hoằng dương? Cần bồi dưỡng giáo viên, cần bồi dưỡng giáo viên dạy Nho Thích Đạo, cần bồi dưỡng giáo viên dạy Quần Thư Trị Yếu, cần bồi dưỡng giáo viên dạy Tứ Khố Toàn Thư, cần có người để dạy. Cho nên tôi nghĩ đến viện Hán học, Hán học bao gồm Nho Thích Đạo. Cần bồi dưỡng giáo viên, có được một đội ngũ giáo viên lợi dụng phương pháp khoa học kỹ thuật bây giờ để dạy học, có được mấy mươi giáo viên, chúng ta lại kiến tạo kênh truyền hình không dây, kênh truyền hình vệ tinh, mỗi ngày phát giảng 24 giờ, mỗi ngày đều dạy. Chỉ cần có học sinh muốn học môn nào đó, thì chúng ta mời giáo viên giảng môn đó, vậy thì văn hoá truyền thống phổ biến toàn thế giới. Được không? Được.

         Trước khi tôi đến đây lần này khoảng một tuần, có người nói với tôi, ở nước Anh, bây giờ Bộ giáo dục của họ, từ mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, cả thảy đều mở môn học tiếng Trung, phải học từ nhỏ. Có người hỏi quan viên Bộ giáo dục của họ, tại sao quý vị phải làm cách này, họ trả lời, tương lai Trung văn sẽ giống như tiếng Anh bây giờ, sẽ thông dụng toàn thế giới, bạn không muốn học thì sau này sẽ theo không kịp đâu, bây giờ họ bắt đầu dạy từ mẫu giáo. In Đô cũng vậy, toàn quốc gồm trung học tiểu học, học truyền thống văn hoá Trung Hoa, đây là quốc gia Hồi giáo, rất khó có được, tôi thấy rất cảm động, không những họ dịch các bản Trung văn sang In Đô văn, mà còn có Trung văn để đối chiếu. Cho nên khi Chủ tịch Tập Cận Bình viếng thăm Châu Âu, trong cuộc nói chuyện đó, đặc biệt ở tổ chức UNESCO, tôi quen rất nhiều đại sứ quốc gia trong đó, họ đến nói với tôi, bây giờ họ đối với văn hoá Trung Hoa có niềm tin rồi. Đã từng nghe tôi giảng, bây giờ nghe chủ tịch Tập giảng, họ nói chủ tịch Tập giảng giống như thầy giảng vậy, chúng tôi có tín tâm rồi.

         Sự việc tốt, đều là đức của tổ tông, do tổ tông an bài, chúng ta nghĩ điều gì, thì điều đó xuất hiện, đây là bất khả tư nghị. Quần Thư Trị Yếu chúng ta đã mong ba năm rồi, mong được rồi. Quốc Học Trị Yếu đã nghĩ rất nhiều năm, tôi muốn tìm người để thay thế tôi làm, rốt cục không ngờ rằng: đầu năm Dân Quốc đã có người làm xong rồi. Tôi có được bộ sách này như bắt được của báu, đây là gì? Là chìa khoá của Tứ Khố Toàn Thư. Bắt đầu học Tứ Khố Toàn Thư từ đâu? Bắt đầu học từ đây. Quý vị học bộ sách này rồi, thì quý vị đều hiểu toàn bộ đối với Tứ Khố, quý vị cần muốn học thứ gì, thì tự quý vị có thể đi lựa chọn rồi, đó là chìa khoá của Tứ Khố.

         Quần Thư Trị Yếu tốt, có đồng học ở trong chúng ta đây đều biết, Đường Thái Tông hạ lệnh biên tập, chủ ý là từ ông mà có. Hai mươi bảy tuổi làm Hoàng đế, ông là tướng quân, ngày ngày bận lo đánh trận, cho nên rất ít đọc sách. Thiên hạ thái bình rồi, ông lên làm Hoàng thượng, quốc gia lớn như thế, nhân khẩu nhiều như vậy thì làm sao cai trị? Cho nên ông nghĩ đến Tam Hoàng Ngũ Đế, một mạch đến thời đại triều Tấn, trong 2500 năm đó, giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, những giáo huấn đó đều có trong Tứ Khố. Nên ông thành lập một tổ chức nhỏ để sưu tập, sao chép lại tất cả, chép thành một bộ sách Quần Thư Trị Yếu, gồm 500 ngàn chữ.

         Chúng tôi có được bộ sách này rồi, chúng tôi lập tức cho in ra, tặng sách đến nơi đây, tôi sống ở Tịnh xá trên núi này, trong phòng khách nhỏ đặt trên chiếc bàn nhỏ, mọi người vây quanh để thưởng thức. Hôm đó em gái của thầy Ngộ Nhẫn ở tại đó, đột nhiên quỳ xuống nói, tôi là Lý Thế Dân. Tôi vừa nghe, Đường Thái Tông nhập xác, tôi mời ông ngồi. Ông không dám ngồi, vẫn quỳ ở dưới đất cảm ơn. Tôi nói tôi không có làm việc tốt đặc biệt gì cho ông, ông ấy nói ra Quần Thư Trị Yếu, tôi hiểu rõ rồi. Ông ấy từ địa ngục mà ra, vì sao đoạ địa ngục? Khi chiến tranh lập quốc đã giết rất nhiều người, sát nghiệp khiến đoạ địa ngục Vô Gián. Quần Thư Trị Yếu được in ấn, nhờ công đức này ông thoát được địa ngục, nói với tôi bộ sách này có thể cứu Trung Quốc, có thể cứu toàn thế giới. Sau khi nói xong thì cảm ơn, ông liền rời khỏi thân thể, ra khỏi thân thể em gái của thầy Ngộ Nhẫn, đi tới nơi nào rồi? Đến niệm Phật đường của chúng ta để nghe Kinh niệm Phật, khoảng hơn một tháng sau lại đi khỏi rồi. Nghe nói bây giờ, nghe nói là sanh thiên, sanh thiên một khoảng thời gian sau thì sanh qua thế giới Cực Lạc rồi. Làm cho tôi nghĩ ra công đức của ông thật sự lớn. Bộ sách này của ông hiệu quả với nghìn năm vạn đời, sách đó là chân lý, không bị thời gian khống chế, không chịu ảnh hưởng của thời không, bất luận ở thời điểm nào, không luận là ở nơi nào đều hữu dụng, có khả năng cứu toàn nhân loại, công đức này không thể nghĩ bàn!

         Cho nên gần đây tôi lại nghĩ ra, Quần Thư Trị Yếu là của thời Tấn về trước, 2500 năm trước, từ đời Đường về sau, Đường Tống Nguyên Minh Thanh, năm đời này, năm đời đó không ít báu vật, lại biên ra một cuốn Quần Thư Trị Yếu, dân tộc Trung Hoa có thể rất là tuyệt vời, dân tộc Trung Hoa cứu được toàn thế giới, cứu được thế giới này ngàn năm vạn đời. Đó là thế nào? Đó là 1 triệu chữ của bộ sách này, tiếp tục bổ sung, bổ sung tiếp Quần Thư Trị Yếu, là tinh hoa trong tinh hoa của văn hoá truyền thống Trung Hoa, học bộ sách này thì giống như học hết toàn bộ truyền thống văn hoá Trung Hoa rồi. Tôi đã nghĩ, tôi không có năng lực làm, tôi nghĩ vậy. Cho nên hy vọng của tôi bây giờ, là hy vọng viện Hán học này, hiện tại Malaysia có viện Hán học, Hồng Kông có viện Hán học, Indonesia có viện Hán học, hy vọng viện Hán Học hoàn thành công việc này, công việc này quá vĩ đại rồi, một mặt bồi dưỡng giáo viên dạy Quần Thư Trị Yếu, một mặt tiếp tục bổ sung, đây là công đức chân thật trong công đức. Tại vì sao? Bởi cứu tất cả chúng sanh khổ nạn, làm cho địa cầu này mãi an định hài hoà, công đức này rất lớn! Xưa nay chưa từng có, chưa có người nào có thể làm được, người bây giờ làm được. Đương nhiên làm sự việc này, đầu tiên phải tu dưỡng đức hạnh, thực sự phát đại Bồ-đề tâm, vì 5000 năm văn hoá truyền thống mãi được phát triển, vì chúng sanh khổ nạn toàn thế giới, vì chúng sanh thời kỳ khổ nạn nghìn năm vạn thế sau này, công đức này rất lớn! Tất cả chư Phật đều tán thán vô cùng tận.

         Hôm trước Thị trưởng đến thăm tôi, có một vị Bộ trưởng đi cùng, ông ấy quản lý về nông lâm, quản về nông nghiệp, thuỷ hải sản, lâm nghiệp, phải vậy không? Có vị bộ trưởng, của chính phủ liên bang, còn có ba vị nghị viên quốc hội, tôi thảo luận cùng họ ở đây, rất là thú vị. Tôi nói nếu Thị trưởng Toowoomba ủng hộ, chúng ta xây dựng đại học tôn giáo ở nơi này, hy vọng chính phủ cấp cho chúng ta một khu đất, mỗi một tôn giáo xây một học viện, tập trung lại xây một học viện. Chúng ta đoàn kết toàn thế giới, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, phát triển ưu điểm văn hoá của mỗi dân tộc, làm cho văn hoá hoà hợp lại. Đương nhiên, văn hoá Trung Hoa là chủ thể, như Tiến sĩ Joseph Toynbee đã nói, không phải tự chúng ta nói.

         Tất cả tôn giáo quay về giáo dục, tôn giáo học tập lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng nhau hướng lên cao, tôn giáo là người một nhà, trong Phật pháp Đại-thừa nói, tôn giáo trên toàn thế giới là nhất thể,  lời của lão Hoà thượng Trung Tôn Khang Long, người Nhật Bản. Khi tôi đến Nhật Bản gặp mặt ngài, năm đó ngài 100 tuổi, ngài qua đời khi 103 tuổi, nói với tôi: người sáng lập tôn giáo trên toàn thế giới đều là hoá thân của Quán Thế Âm Bồ-tát, ngài Quán Âm có 32 ứng thân, cần dùng thân gì để độ thì hóa thân đó. Nói được rất hay, vô cùng khó được, đều gợi mở cho chúng ta biết, chúng ta phải cố gắng chăm chỉ. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây, cảm ơn mọi người. Cảm ơn lão Hoà thượng Quả Thanh quang lâm chỉ giáo. Cảm ơn.

( Hết tập 106)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0