TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017 (Giảng
lần thứ 4)
PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập 113
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 03 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng
học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm,
ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung
tôn” (3 lần).
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú: trang thứ 342, hàng thứ ba từ trái sang, Khoa đề: 作不請友 “Tác bất thỉnh hữu” (Làm bạn không mời). Mời xem
Kinh văn:
【心常諦住度世之道。於一切萬物。隨意自在。為諸庶類。作不請之友。】“Tâm thường đế trụ độ thế chi đạo. Ư
nhất thiết vạn vật, tùy ý tự tại. Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu” (Tâm thường an trụ thực sự trong đạo
độ thế. Đối với tất cả vạn vật, tùy ý tự tại.
Vì các loài hữu tình, làm bạn không mời mà đến).
Chúng ta xem Chú
Giải của Niệm lão: 『心常諦住度世之道』“Tâm thường đế trụ
độ thế chi đạo” (Tâm thường an trụ thực sự trong đạo
độ thế), 諦者,安也。度者,出也。故本句之大義為:心常安住於出世無為之道。 “Đế giả, an dã. Độ giả, xuất dã. Cố bổn cú chi đại nghĩa vi: tâm
thường an trụ ư xuất thế vô vi chi đạo” (Đế là an. Độ
là xuất. Nên nghĩa quan trọng của câu này là: tâm thường an trụ nơi đạo xuất thế
vô vi). Câu nói này rất quan trọng, người học Phật
ngay trong đời này, không ra khỏi sáu đường luân hồi, thì nguyên nhân xảy ra ở
đâu, bởi tâm chúng ta không đặt ở: đạo xuất thế vô vi, chính là liễu sanh tử ra
khỏi ba cõi, chúng ta học được trên Đại kinh, đức Phật ứng hóa đến thế gian
này, là vì sao? Thật sự là lòng đại bi vô tận của Ngài, vì giúp chúng ta lìa khổ
được vui. Khổ có cứu cánh khổ, cứu cánh khổ là gì? Chính là sáu đường luân hồi,
không ra khỏi sáu đường luân hồi, thì chư vị chưa rời khỏi cứu cánh khổ, chưa
nhổ sạch gốc của khổ. Câu tiếp theo, nếu chư vị không sanh đến thế giới Cực Lạc,
thì chư vị không đạt được niềm vui rốt ráo. Cho nên Đại sư Thiện Đạo: ở Pháp
môn Tịnh tông này, ngài từng nói một câu: 如來所以興出世,唯說彌陀本願海 “Như Lai sở
dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” (Sở dĩ Như Lai hưng khởi xuất thế, chỉ bởi thuyết biển bổn nguyện
của đức Di Đà). Câu nói này: Niệm lão trích dẫn
vào trong Chú Giải này. Quá khứ chính chúng tôi, còn đã khắc một con dấu ấy,
văn ở bên trong chính là hai câu nói này. Hai câu nói này quá quan trọng, đức
Phật xuất hiện ở thế gian chính là vì thuyết: Kinh Vô Lượng Thọ, chính là vì
nói Pháp môn này. Vì sao lại nói vô cùng nhiều Pháp môn, 84 ngàn Pháp môn, vô
lượng Pháp môn? Là vì những chúng sanh phước mỏng, thiện căn không dày đó, họ
không tin pháp này. Pháp này: là pháp khó tin mà tất cả chư Phật đều nói, nhưng
rất dễ dàng thành tựu. Nói cách khác, giúp chư vị lìa cứu cánh khổ, được vui rốt
ráo, là bộ Kinh như vậy, thật khó tin! Nếu thật tin, thì người [chỉ] một năm,
hai năm [là] vãng sanh, chúng ta đã từng thấy. Họ dựa vào điều gì? Họ dựa vào
trí huệ, [mà] lựa chọn Pháp môn này. Đức Phật nói Pháp môn này, họ vừa nghe liền
tiếp nhận, đó là trí huệ. Tâm an trụ ở trong Pháp môn này, thật thà niệm Phật,
đó là thực sự có phước. Gặp được rồi, đó là duyên phận, cần có trí huệ, cần có
phước đức. Trên Kinh Di Đà nói rằng: 不可以少善根福德因緣得生彼國 “Bất khả dĩ
thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (Không thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được
sanh cõi ấy), thiện căn chính là trí huệ, thiếu
khuyết những điều ấy, thiếu một điều trong ba điều thì đều không thể vãng sanh.
Cho nên chúng ta muốn thực sự lìa khổ được vui, không chỉ thoát khỏi sáu đường
luân hồi, mà còn thoát khỏi mười Pháp giới, thực sự không thể nghĩ bàn, chính
là một câu Phật hiệu, thật tin nguyện thiết, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật
thì có thể làm được. Thật khó tin, Lý quá sâu rồi. Sâu đến mức độ nào? [Như] đức
Phật nói ở trên Kinh: 唯佛與佛方能究竟 “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu
cánh” (Chỉ Phật với Phật mới rốt ráo được), chư
vị thành Phật rồi mới biết được. Chư vị chưa thành Phật, thì đối với việc triệt
để hiểu rõ Pháp môn này, là không làm được. Nếu chúng ta muốn triệt để hiểu rõ,
thì đến thế giới Cực Lạc trước, đến thế giới Cực Lạc thì hiểu rõ rồi, vì sao vậy?
Bởi đã thấy được A Di Đà Phật, thấy Phật liền khai trí huệ, thấy Phật liền tiêu
nghiệp chướng. Hiện nay chúng ta, chúng ta niệm Phật chính là trí huệ, chúng ta
niệm Phật chính là tiêu nghiệp chướng, chắc chắn như vậy. Thế giới Cực Lạc như
vậy, nơi đây cũng như vậy, không tin thì không còn cách nào. Cho nên những Bồ-tát
ấy ‘tâm thường đế trụ’, chữ ‘đế’ chính là chân thật, thật thà, có ý nghĩa này,
vô cùng thật thà mà trụ ở đạo độ thế.
Chúng
ta tiếp tục xem Chú Giải phía sau: 《淨影疏》云:諦謂安諦,謂常安住真實無為度世之道。 “Tịnh Ảnh Sớ vân: đế vị an đế, vị thường an trụ Chân Thật vô vi
độ thế chi đạo” (Trong Tịnh Ảnh Sớ nói rằng: đế là
an đế, là thường an trụ đạo độ thế Chân Thật vô vi). Trong sách Chân Giải nói rằng: 出有為,證無為 “Xuất hữu
vi, chứng vô vi” (ra khỏi hữu vi, chứng được vô vi), hữu vi là có sanh có diệt, nên gọi là hữu vi, hữu vi là pháp
thế gian, bao gồm mười Pháp giới, mười Pháp giới đều là hữu vi. Vô vi là Tự
Tánh, vượt khỏi hữu vi chứng đắc vô vi, chính là minh Tâm kiến Tánh được nói
trong Thiền tông, minh Tâm là xuất hữu vi, kiến Tánh là chứng vô vi, quả vị như
vậy vãng sanh đến thế giới Cực Lạc: là sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong Sách
Chân Giải nói rất hay: những Bồ-tát ấy thực sự liễu sanh tử ra khỏi ba cõi,
nhưng mà như thế nào? 而不著無為 “Nhi bất trước vô vi” (Mà không chấp trước vô vi), trước là
trước tướng, chấp trước, các ngài không chấp trước vô vi. Vì sao vậy? Bởi các
ngài cần đạo độ thế. Độ thế là thế nào? Độ hóa chúng sanh. Nếu muốn trụ vô vi,
thì tách rời sự liên hệ với chúng sanh, chúng sanh không nhìn thấy ngài, ngài
quay về Thường Tịch Quang rồi, nhưng tuy là quay về Thường Tịch Quang, mà gặp
được chúng sanh có duyên, thì ngài vẫn hiện thân thuyết pháp. Hiện thân thuyết
pháp như vậy gọi là không trụ vô vi, ngài xuất hiện từ Thường Tịch Quang, làm
xong sự việc, thì lại trở về Thường Tịch Quang rồi. Đó là Pháp thân Bồ-tát, chư
Phật Như Lai, đức Phật ấy là Pháp thân Phật, không phải Phật phổ thông, mà là
Pháp thân Phật. Không trụ hai bên, không còn trung đạo, đó gọi là ‘đế trụ’, đó
là thực sự an trụ. 此菩薩心常住無住處涅槃 “Thử Bồ-tát tâm thường trụ Vô Trụ Xứ
Niết-Bàn” (Tâm bậc Bồ-tát ấy thường trụ Vô Trụ
Xứ Niết-Bàn), Tiểu thừa là Niết-Bàn có trụ xứ, Đại
thừa Bồ-tát trụ ở Vô Trụ Xứ Niết-Bàn. Chúng ta xem kinh giáo nếu có thể hiểu
thông, Vô Trụ Xứ Niết-Bàn chính là Thường Tịch Quang Tịnh độ, chính là Chân Như
Tự Tánh, rất nhiều Danh từ, đều là nói về một sự việc giống nhau, dạy chúng ta
trong tâm hiểu thông được ý nghĩa này, thì đừng chấp trước tướng Danh tự, vậy
thì đúng rồi. 云心常住 “Vân tâm thường trụ” (Nói tâm thường trụ), thường trụ là nói về tâm, không phải nói thân, thân là giả, có
sanh có diệt. Ở trong đường người của sáu đường, thọ mạng dài là 100 tuổi,
nhưng rất ít thấy người hơn 100 tuổi. Thông thường nói là trường thọ, trường thọ
đại khái đều là chỉ người già 7-80 tuổi, 7-80 tuổi là sống lâu, không đến thọ mạng
đó quá nhiều quá nhiều rồi, vượt quá một nửa, ngoài 100 tuổi thì hiếm có. Cho
nên tâm thực sự là thường trụ, Tâm Tánh không sanh không diệt, không nhơ không
sạch, không đến không đi, không tăng không giảm, Luận Trung Quán giảng về Tám
không, đó là thường trụ.
又《會疏》曰:悲智相印,以為棲神之宅,故云諦住。 “Hựu Hội Sớ viết: bi trí tương ấn, dĩ vi tê thần chi trạch, cố
vân đế trụ” (Trong Hội Sớ nói thêm rằng: bi trí
phù hợp nhau, mà làm nơi lưu lại bậc Thánh, nên nói đế trụ). Cũng nói được hay. Bi là từ bi, từ bi là ân đức, không có từ
bi thì ngài không đến nữa, cho nên có trí đức, có bi đức. Bồ-tát trụ ở ngay
trong đại trí, đại từ bi, đó chính là đạo độ thế. Từ bi là động lực, thúc đẩy
chư vị đang làm, những gì chư vị làm đều là trí huệ, trí huệ chân thật. Trí huệ
chân thật là không để lại dấu vết, cũng chính là như chúng ta thường nói, không
Khởi tâm không động niệm, không Phân biệt không Chấp trước, đó là trí huệ chân
thật, tâm phải an trụ vào nơi ấy. Dùng tựa đề của Kinh này: thì nói được rất rõ
ràng, rất sáng tỏ, đó chính là清淨平等覺 “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”, Thanh tịnh là Giới, Bình đẳng là Định, Giác là Huệ, chính là
Tam học Giới Định Huệ. Giới Định Huệ là trong Tự Tánh: vốn có đầy đủ, không phải
đến từ bên ngoài, tất cả chúng sanh đều có, chỉ là đã mê mất Tự Tánh, tuy có
nhưng không thể hiện tiền.
Câu tiếp theo: 『於一切萬物隨意自在』“Ư nhất thiết vạn vật tùy ý tự tại” (Tùy ý tự tại đối với tất cả vạn vật), 萬物指萬法。自在者,通達無礙也 “Vạn vật chỉ vạn pháp. Tự tại giả,
thông đạt vô ngại dã” (Vạn
vật chỉ vạn pháp. Tự tại là: thông đạt không ngăn ngại). Phải có bản lãnh này mới có thể độ hóa chúng sanh, đương nhiên
chính mình có trước, đã đầy đủ, sau đó mới có thể giáo hóa chúng sanh, ‘đối với
tất cả vạn vật tùy ý tự tại’. Trong Phẩm Tựa Kinh Pháp Hoa nói rằng: 盡諸有結,心得自在 “Tận chư Hữu
kiết, tâm đắc tự tại” (Tận hết các Hữu kiết, thì tâm
được tự tại), tận là đã sạch sẽ, chư Hữu kiết,
kiết chính là phiền não. Chư hữu: Dục giới hữu, Sắc giới hữu, Vô sắc giới hữu,
đó gọi là Tam hữu, ba loại phiền não ấy khiến chư vị: mãi mãi không thể vượt khỏi
sáu đường luân hồi. Vì vậy chúng ta liền sáng tỏ, chúng ta muốn vãng sanh thế
giới Cực Lạc, thì chắc chắn phải đoạn tận ba loại hữu này, hoàn toàn buông xuống,
đều không thể có mảy may nào. Có, đó chính là chướng ngại, chướng ngại chư vị
vãng sanh, cho nên phải triệt để buông xuống, đến Phật pháp cũng phải buông xuống.
Vì sao vậy? Bởi chư vị dùng tâm Chấp trước để học Phật, chư vị dùng tâm Phân biệt
Chấp trước để học Phật, thì Phật ấy là gì? Phật ấy là pháp thế gian, là giả,
không phải thật. Phật thật là gì? Phật thật là Tâm Tánh của chính mình. Tâm
Tánh của chính mình có hình dáng ra sao? Ở đâu? [Trong] kinh luận, Tổ sư Đại đức
đều nói với chúng ta: 不可得 “bất khả đắc” (không thể được). Tổ sư Đạt Ma đến
Trung Hoa, ngài Huệ Khả gặp được rồi, cầu Tổ sư Đạt Ma an tâm cho ngài, tâm
ngài không an. Tổ sư Đạt Ma bảo ngài: ông đưa tâm đây ta an cho ông. Ngài Huệ
Khả hồi quang phản chiếu, trả lời Tổ sư một câu rằng: 我覓心了不可得 “Ngã mích
tâm liễu bất khả đắc” (Con tìm tâm hoàn toàn không thể
được), ngài bảo con tìm tâm, con tìm tâm không thể được,
tìm không thấy. Tổ sư Đạt Ma trả lời ngài một câu rằng: 與汝安心竟 “dữ nhữ an
tâm cánh” (đã an tâm cho ông rồi), ta đã an xong tâm cho ông rồi. Ngài đã khai ngộ ngay trong câu
nói ấy. Đó là tâm pháp, không phải sự, không phải vật chất. Chắc chắn là có, vì
sao không thể được? Bởi vì không phải hình tướng, không phải hình tướng vật chất,
cũng không phải hình tướng của ý niệm. Ý niệm đều là Vọng niệm, đó là Tự thể (bản
thể) của tất cả vạn hữu, tất cả vạn pháp rời khỏi tâm đều biến mất rồi, [bởi]
tâm là bản thể của tất cả vạn pháp. Càng cần hiểu rõ, tâm chỉ có một, không có
hai. 十方三世佛,共同一法身 “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng
nhất Pháp thân” (Mười phương ba đời Phật, cùng chung
một Pháp thân), Pháp thân chính là Tự Tánh, Pháp
thân chính là Chân Tâm, mười phương ba đời Phật cuối cùng nếu luận tâm là một
tâm. Đức Phật tỉ dụ sự việc ấy với biển lớn, những chúng sanh chúng ta, tâm của
chúng sanh: giống như bọt nước nổi lên trong biển lớn, biển lớn là một, mà bọt
nước trong biển lớn là vô lượng vô biên, thật quá nhiều rồi. Lúc chưa phá bọt
nước đó ra, thì ai cũng cho rằng chính mình có tâm, là độc lập, tâm của tôi
khác với tâm của chư vị. Sau khi đã phá bọt nước thì đều trở về biển lớn, sau
khi phá rồi đều là một, liền biết được, không phải là hai. Thông tin này vô
cùng quan trọng đối với chúng ta, vì sao vậy? Bởi nếu như chúng ta tin tưởng,
tiếp nhận rồi, thường xuyên quán sát như vậy, thì phiền não của chúng ta liền
nhẹ, dần dần sẽ không còn nữa, trí huệ liền sanh ra, trí huệ đức tướng vốn có
trong Tự Tánh: liền hiển lộ ra bên ngoài. Cho nên, chư Hữu kiết chính là tất cả
phiền não, phải buông xuống, buông được vô cùng sạch sẽ, chư vị liền được tự tại,
vì sao vậy? Bởi thấy Tánh rồi. Nhìn thấy Chân Tâm liền được tự tại, trí huệ đạo
lực thần thông thảy đều hiện ra, đều là vốn có trong Tự Tánh.
又自在者 “Hựu tự tại
giả” (Và tự tại là), tự tại đó là
ý nghĩa gì? Mọi việc chư vị làm đều vừa lòng đẹp ý, không có chướng ngại, đó gọi
là tự tại. Chúng ta muốn làm việc gì, đều phải chờ đợi đầy đủ các duyên, duyên
không đầy đủ, thì mong muốn đó là Vọng tưởng, không thể thực hiện. Nhưng mà
minh Tâm kiến Tánh, ngài được tự tại rồi, ngài không có chướng ngại, ngài biết
cả quá khứ, hiện tại, vị lai. Câu tiếp theo là: 神通自在 “Thần thông
tự tại”, thông đạt, Thần cũng là ý nghĩa của thông, đối
với tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, thông đạt vô ngại thì gọi là Thần,
nên gọi là Thần thông, dùng một chữ cũng được, hai chữ cũng được. Tiếp theo Niệm
lão nói với chúng ta: 夫心有拘累,隨物而轉,故為煩惱所縛 “Phu tâm hữu câu lũy, tùy vật nhi
chuyển, cố viết phiền não sở phược ” (Tâm phàm phu có gò
bó trói buộc, mà chuyển theo vật, nên bị phiền não ràng buộc), tâm chúng ta thực sự là theo vật mà chuyển. Ngược lại thì: 若能轉物,則同如來 “nhược năng
chuyển vật, tắc đồng Như Lai” (nếu có thể chuyển
vật, thì đồng với Như Lai), Như Lai đúng là tương phản với
chúng ta, chúng ra bị vật chuyển rồi, Như Lai có thể chuyển vật. Ngài dùng điều
gì để chuyển? Ngài dùng là Chân Tâm, Chân Tâm được đại tự tại. Chân Tâm có ba đức:
có đức Bát-nhã (Trí huệ), có đức Pháp thân, có đức Giải thoát (Giải thoát là tự
tại), không chuyển theo cảnh giới, thì cảnh giới sẽ theo Chân Tâm mà chuyển,
cho nên gọi là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Tâm tưởng ngày nay của chúng ta,
không chuyển nổi hiện tượng vật chất, là nguyên nhân nào? Bởi tâm của chúng ta
bị phiền não trói buộc, cho nên chỉ có thể chuyển theo vật, mà không có cách
nào chuyển vật. Vậy phải làm thế nào? Buông xuống, buông xuống phiền não, buông
xuống lo lắng, buông xuống Khởi tâm động niệm, buông xuống Phân biệt Chấp trước,
thì chư vị có thể chuyển vật rồi. Trên kinh giảng, chúng ta thường xuyên niệm đến,
việc theo vật mà chuyển này quá đáng sợ, chúng ta theo Kiến tư phiền não trong
sáu đường: thì chuyển đến nơi đâu? Chuyển đến địa ngục, chuyển đến ngạ quỷ,
chuyển đến súc sanh, chuyển đến la-sát, chính là càng sa xuống càng sâu, thực sự
gọi là khổ không thể nói.
Chúng ta nghe kinh nghe pháp, tốt! Chuyển theo kinh giáo hay
không? Chuyển theo kinh giáo: cũng chuyển vào trong sáu đường luân hồi rồi. Cho
nên Bồ-tát Mã Minh: ở trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói với chúng ta, chúng ta cần
dùng tâm thái như thế nào: để học kinh giáo của Như Lai? Thứ nhất là lìa tướng
Ngôn thuyết, thứ hai lìa tướng Danh tự, thứ ba lìa tướng Tâm duyên, thì chư vị
giống như Phật Bồ-tát, sẽ không bị cảnh giới bên ngoài chuyển nữa. Nói cách
khác, nếu chúng ta chấp tướng, chấp tướng Ngôn thuyết, chấp tướng Danh tự, chấp
tướng Tâm duyên, cho rằng tôi nghĩ đều là đúng, nghĩ đều rất có đạo lý, đó gọi
là tướng Tâm duyên, đều sai hết. Cho nên Thiền tông cao minh: là cao minh ở một
chiêu này, vô cùng rõ ràng, đó là giặc đến trảm giặc, Phật đến trảm Phật, chư vị
xem khẩu khí ấy. Giặc là phiền não, trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh không có
phiền não, cũng không có Phật, lấy đâu ra Phật? Phật là giả danh, thực sự tương
đồng cùng với điều mà Lão tử Trung Hoa đã nói: 名可名,非常名;道可道,非常道 “Danh khả
danh, phi thường danh; Đạo khả đạo, phi thường đạo” (Danh có thể gọi tên, thì không phải danh bình thường; Đạo mà gọi
là đạo, thì không phải đạo bình thường). Rời khỏi những giả
danh đó, những hư vọng đó, nói ra một câu, chư vị nói một câu cho tôi nghe thử,
không nói ra được. Có thể nói ra được đều là giả, vì sao vậy? Bởi pháp sanh diệt.
Ngôn thuyết có sanh diệt, Tâm duyên có sanh diệt, chúng ta nghe kinh nghe giáo
thì rất hoan hỷ, trong tâm dường như hiểu rõ rồi, đó đều không phải thực sự hiểu
rõ. Thực sự hiểu rõ là lìa tướng, lìa tất cả tướng, tức là tất cả pháp, lìa tướng
mới có thể khế nhập, chấp tướng thì sao khế nhập được? Không có đạo lý đó. Vì
sao phải lìa tướng? Bởi vì tướng là giả, ‘những gì có tướng đều là hư vọng’,
không có thứ nào là thật. Vì sao đức Phật phải dùng giả? Bởi nói với người hạ
căn. Căn Tánh của người chia ra thượng trung hạ, người thượng căn học Thiền,
người trung căn học Giáo, thực sự chỉ dạy, người hạ căn thì giảng phương tiện.
Chư vị chấp trước điều gì thì để chư vị chấp trước, đổi lại chấp trước của chư
vị, chư vị chấp trước điều bất thiện đó, vậy thì tương lai sẽ đọa ba đường, đức
Phật dùng thiện pháp thay thế bất thiện, khiến chư vị tuy không ra khỏi sáu đường
luân hồi, nhưng chư vị sẽ không đọa ba đường ác, vậy cũng là giúp đỡ rất lớn với
chư vị. Nhưng chư vị chắn chắn phải nghe rõ ràng: không thể sinh ra hiểu lầm,
hiểu lầm rồi, thì phiền phức đó lớn rồi, càng đọa càng sâu, càng sa xuống càng
khổ. Làm sao mới có thể tránh xa hiểu lầm? Chính là buông xuống. Sau khi nghe
xong, hiểu rõ ý nghĩa đó, thì không chấp trước lời nói, không chấp trước tên gọi,
vậy thì viên thông rồi, đó là trí huệ. Cho nên theo vật mà chuyển, đó là bị phiền
não trói buộc.
凡夫著有,二乘滯空 “Phàm phu
trước hữu, Nhị thừa trệ không” (Phàm phu chấp trước
có, Nhị thừa ngưng lại không). Người Nhị thừa nghe
Phật thường nói: ‘tất cả pháp đều không, tất cả pháp không thể được’, ‘những gì
có tướng đều là hư vọng’, các ngài chấp trước không, các ngài chấp trước chẳng
có thứ gì, cho nên các ngài có thể vượt khỏi sáu đường luân hồi, nhưng không thể
vượt khỏi Mười Pháp giới. Trong sáu đường gọi là Nội phàm, phàm phu bên trong
sáu đường; Tứ Thánh Pháp giới trong Mười Pháp giới xưng là Ngoại phàm, phàm phu
bên ngoài sáu đường, họ không phải Thánh nhân, [bởi] Thánh nhân chắc chắn buông
xuống phiền não tập khí. Cho nên câu dưới đây nói: 皆墮情執之中,咸是心隨物轉,故於萬物不得自在 “Giai đọa
tình chấp chi trung, hàm thị tâm tùy vật chuyển, cố ư vạn vật bất đắc tự tại” (Đều đọa trong tình chấp, đều là tâm chuyển theo vật, nên với vạn
vật không được tự tại). Vậy đều nói ra hết tâm thái, cảm
nhận: ngay trong cuộc sống trước mắt chúng ta, chúng ta vì nguyên nhân nào.
Chuyển, người thông minh hạ công phu từ trên gốc rễ, phàm phu hạ căn họ không
biết từ gốc rễ, họ từ trên cành lá. Hạ công phu trên cành lá rất mệt, thời gian
rất dài, đoạn từng điều một của 84 ngàn phiền não, Tiểu thừa cũng có 3000 oai
nghi, chấp tướng, chấp tướng thì rườm rà như vậy, phiền phức như vậy, nếu chư vị
không có tâm nhẫn nại, chư vị không thể giữ lâu, thì chắc chắn không tránh khỏi
đọa lạc. Người có tâm nhẫn nại trên thế gian này: càng ngày càng ít. Cho nên
khiến chúng tôi mới nghĩ đến: câu nói của Đại sư Thiện Đạo. Đại sư Thiện Đạo là
ai? Ở trong truyền thuyết là do A Di Đà Phật hóa thân đến. Lúc tôi ở Nhật Bản:
hỏi Pháp sư Nhật Bản (Tổ sư của họ, thời Triều Đường du học ở Trung Hoa, quá nửa
đều là học trò của Đại sư Thiện Đạo), tôi hỏi Nhật Bản các ngài: có cách nói
này hay không? Họ nói có, Tổ Tổ tương truyền của họ cũng nói đến: Đại sư là A
Di Đà Phật tái lai. Còn có Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ, cũng là A Di Đà Phật tái
lai. Đó là lộ ra Bổn lai Diện mục của các ngài, còn có vô cùng nhiều [bậc]: ứng
hóa ở thế gian này, không tiết lộ ngay trong đời: thì nhiều, tiết lộ thì rất
ít. Rõ ràng nhất ngay trong những bậc ấy: ở Trung Hoa chúng ta chính là ngài
Hám Sơn, cùng Đại sư Triệt Lưu. Đại sư Triệt Lưu là do ngài Hám Sơn chuyển thế,
rất nhiều người đều biết câu chuyện này, ngài lại đến rồi, đến rồi xuất gia,
ngài Hám Sơn không ở địa vị Tổ sư, nhưng ngài Triệt Lưu là đời thứ 10, Tổ thứ
10 trong 13 Tổ của chúng ta, do Đại sư Hám Sơn chuyển thế mà đến, thật có luân
hồi, thật có chuyển thế. Ngài là do Phật Bồ-tát nào tái lai, thì không được tiết
lộ điều đó, nhưng tuyệt đối không phải phàm phu, phàm phu sao có thể tự tại như
vậy. Vì sao ngài lại tái lai, đó là đại từ đại bi, cảm ứng đạo giao với những
chúng sanh đó.
Chúng ta lại xem câu phía sau: 大士深達法性 “Đại sĩ thâm
đạt Pháp tánh” (Đại sĩ đạt sâu Pháp tánh), kiến Tánh, minh Tâm kiến Tánh, người thấy Tánh thì thế nào? 當相離相 “Đương tướng
ly tướng” (Ngay tướng ly tướng), mắt thấy tướng không chấp trước tướng, cho nên ngài có thể: 不隨物轉 “bất tùy vật
chuyển” (không chuyển theo vật). Chúng ta thì thế nào? Ngay nơi tướng chấp tướng, cho nên liền
chuyển theo cảnh giới bên ngoài, cho rằng cảnh giới bên ngoài đều là thật, chịu
thiệt ở chỗ ấy, không biết cảnh giới bên ngoài đều là giả, không có chút nào là
thật. Ví dụ trên Kinh Kim Cang, ví dụ được hay: 一切有為法,如夢幻泡影 “Nhất thiết
hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Tất cả pháp hữu
vi, như mộng ảo bọt bóng), ví dụ này quá hay rồi. Tất cả
pháp hữu vi, hữu vi chính là có sanh có diệt. Tam tế tướng của A-lại-da chính
là pháp sanh diệt, Danh từ của nhà Phật, là Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới
tướng của A-lại-da. Nếu đổi Danh từ, chính là Tứ phần của Thức thứ tám, Tự chứng
phần là Nghiệp tướng, Kiến phần là Chuyển tướng, Tướng phần là Cảnh giới tướng,
là vật chất, là pháp sanh diệt. Tốc độ sanh diệt, trong một giây sanh diệt 2
triệu 100 ngàn tỷ lần, chính ở trước mặt chúng ta, nhưng chúng ta đều không có
mảy may cảm giác nào. Đó là gì? Đó là mê, mất cảm giác. Bồ-tát minh Tâm kiến
Tánh, tâm các ngài thanh tịnh, nên các ngài cảm giác được, tâm thanh tịnh có thể
cảm giác được một chút, không phải rất rõ ràng, tâm bình đẳng thực sự cảm giác
được rồi. Tâm thanh tịnh: là cảnh giới của A-la-hán, Bích-chi-phật, phiền não
thô nặng, chính là đã đoạn Kiến tư phiền não, nhưng còn Trần sa phiền não. Tâm bình
đẳng, công phu phải sâu hơn tâm thanh tịnh, không những đã đoạn Kiến tư, mà
cũng đoạn cả Trần sa Vô minh. Chỉ cần vừa đoạn Vô minh, thì không thấy mười
Pháp giới nữa, tỉnh mộng rồi, sau khi tỉnh trở lại, thì đều không thấy dấu vết
của cảnh giới trong mộng nữa, đó không phải thật sự. Cảnh giới nào hiện tiền?
Thật Báo độ hiện tiền rồi. Cho nên trên Đại thừa giáo thường nói, 41 địa vị
Pháp thân Đại sĩ ở Báo độ. Báo độ đó chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ, đó là
thật. Thật Báo độ là do tâm hiện, do Tự Tánh biến hiện, bên trong không có A-lại-da.
A-lại-da có sanh diệt, không có A-lại-da thì không sanh không diệt, không biến
không khác, tướng mạo của người là do hóa sanh, mãi mãi sẽ không thay đổi, thực
sự là vô lượng thọ, thọ mạng vô lượng, tướng mạo mãi mãi tươi trẻ, đó là Thật
Báo độ.
Ở trong Đại thừa giáo, đức Phật nói với chúng ta, 41 địa vị
Bồ-tát: Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, đó là 40 vị, trên là Đẳng
giác, vậy là 41, các ngài trụ Thật Báo độ. Vì sao lại hiện cảnh giới đó? Chúng
ta từ trước một mạch học qua, biết phiền não có tập khí, đã đoạn phiền não, mà
chưa chắc đoạn tập khí. Chư vị xem A-la-hán, đã đoạn Kiến tư phiền não rồi, mà
chưa đoạn tập khí. Sau khi ngài chứng đắc quả A-la-hán, các ngài phải đoạn tập
khí, đoạn sạch sẽ tập khí, thì các ngài lên bậc rồi, ngài là Bích-chi-phật,
không còn gọi là A-la-hán nữa. Cho nên địa vị của Bích-chi-phật cao hơn
A-la-hán, đều đã đoạn Kiến tư phiền não [và] cả Tập khí. Bích-chi-phật đoạn điều
gì? Đoạn Trần sa phiền não, đã đoạn Trần sa phiền não, ngài liền là Bồ-tát. Ở
trên cấp bậc của Bồ-tát, đoạn tập khí của Trần sa phiền não, đoạn hết tập khí của
Trần sa phiền não rồi, thì các Ngài thành Phật. Phật ấy là Phật của Mười Pháp
giới, trong Lục tức Phật, Đại sư Thiên Thai phán: các Ngài gọi là Tương tự Tức
Phật, các Ngài rất giống, nhưng không phải thật. Là do nguyên nhân nào? Bởi vì các
Ngài chưa chuyển thức thành trí, các Ngài vẫn là dùng A-lại-da, nhưng dùng rất
chính xác, không có chút sai lầm nào, cũng chính là như Phật đã nói trong kinh
giáo, các các Ngài đều đã làm được, làm được rất tốt, cho nên rất giống Phật.
Nhưng các Ngài vẫn là dùng tâm sanh diệt, vẫn là dùng A-lại-da, các Ngài không
phải Chân Phật. Chân Phật thì sao? Chân Phật [đã] chuyển thức thành trí, chuyển
Tám thức thành Bốn trí, đó là Chân Phật. Không còn A-lại-da nữa, không dùng A-lại-da,
dùng Chân Tâm, không dùng Vọng Tâm. Là Bồ-tát đẳng cấp nào? Viên giáo Sơ trụ trở
lên, Biệt giáo Sơ địa trở lên, các ngài dùng Chân Tâm, không dùng Vọng Tâm. Cho
nên chúng ta học Phật, sẽ học điều gì? Phải dùng Chân Tâm, đừng dùng Vọng Tâm.
Dùng Vọng Tâm rất mệt, dùng Chân Tâm rất tự tại, rất tự nhiên, vì sao vậy? Bởi
đã nhìn thấu, buông xuống. Vọng Tâm là chưa nhìn thấu, cũng chưa buông xuống.
Thực sự nhìn thấu buông xuống, thì sẽ không bị vướng víu bởi Ngũ dục Lục trần:
của thế gian này, các ngài đều đã buông xuống. Đó là Chân Phật, không phải Giả
Phật. các Ngài ở trên địa vị ấy, đã đoạn Vô minh phiền não, các Ngài mới có thể
đạt được địa vị đó. Ở trên địa vị ấy, phải đoạn tập khí Vô thỉ Vô minh, nói
cách khác, trong cõi Thật Báo có 41 cấp bậc, 41 cấp bậc đó, là tập khí dày mỏng
khác nhau, có người tập khí rất nặng, có người tập khí rất nhẹ, là nói như vậy.
Có trở ngại hay không? Không có một chút trở ngại nào, các ngài thực sự trụ ở
Pháp giới bình đẳng, là cõi Thật Báo. Không có Khởi tâm động niệm, lấy đâu ra
Phân biệt Chấp trước? Khởi tâm động niệm, Phân biệt Chấp trước đều không có,
thì còn có cấp bậc nào để nói. Cho nên 41 cấp bậc ấy, không thể nói là thật có,
cũng không thể nói là thật không có, từ mang theo tập khí sâu cạn mà có, nhưng
không cản trở chút nào, đó như không có, giống như hoàn toàn không có. Các ngài
chỉ có chướng ngại một việc, chính là không thể quay về Thường Tịch Quang, các
ngài ở Thật Báo độ là Phần chứng Tịch Quang, không phải Viên mãn Tịch Quang. Nhất
định phải đoạn sạch sẽ tập khí, hoàn toàn không còn nữa, vậy mới là Tịch Quang
rốt ráo, đó mới là Vô thượng Bồ-đề thực sự.
Cho nên ngay nơi tướng
lìa tướng quan trọng, ngay nơi tướng lìa tướng chính là không chuyển theo vật, ở
ngay trong giáo học không bị Phật chuyển, đó là người nào? Là Pháp thân Bồ-tát.
Chưa đến cảnh giới ấy, chúng ta nghe giáo chấp tướng, nghe kinh chấp tướng Ngôn
thuyết, xem kinh chấp tướng Văn tự, cho nên những Danh từ Thuật ngữ ấy, nói đến
Phật thì chúng ta có tướng của Phật, nói đến Bồ-tát thì chúng ta lập tức: trong
não liền có tướng của Bồ-tát, đó đều gọi là chấp tướng. Nếu đã thấy Tánh, thì
nghe Phật giảng kinh [cũng] không chấp tướng. [Trong] Đại Thừa Khởi Tín Luận, cảnh
giới đó cao! Cao thì chư vị nên hiểu được, Đại thừa ở trên mũ của bộ đó. Đại thừa
là người thế nào? Người phát tâm Bồ-đề gọi là Đại thừa. Thế nào là tâm Bồ-đề?
Thanh tịnh Bình đẳng Giác là tâm Bồ-đề. Năm xưa tôi ở nước Mỹ, giảng cho mọi
người về tâm Bồ-đề, tôi liền dùng Thanh tịnh Bình đẳng Giác, rất nhiều đồng học
cũng đều đã tiếp nhận. Tâm Bồ-đề có ba tâm, trên Quán Kinh giảng là: Chí thành
tâm, Thâm tâm, Hồi hướng Phát nguyện tâm; Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng
là: Trực tâm, Thâm tâm, Đại bi tâm. Hợp kinh luận lại xem ý nghĩa thì rõ ràng,
Chí thành Tâm chính là Trực tâm, đó là thể của tâm Bồ-đề, chúng ta giảng giới,
giới thể. Chí thành tâm, Trực tâm là gì? Chính là Tự Tánh, chính là Bổn Tánh. Từ
thể ấy, từ thể khởi dụng có hai loại tác dụng, một là đối với chính mình, là Tự
thọ dụng; hai là đối với người khác, là Tha thọ dụng; Đối với chính mình gọi là
Thâm tâm, Chú Giải của Cổ đức, thâm là ý nghĩa gì? Hiếu đức hiếu thiện, có thể
giảng được thông, nhưng rất không dễ giảng. Cho nên tôi liền đem Thâm tâm: ứng
đối với Đề Kinh của Kinh Vô Lượng Thọ, năm chữ: 清淨平等覺 “Thanh Tịnh
Bình Đẳng Giác”, đó là Tự thọ dụng, là Thâm tâm. Đối
với người khác, đối với chúng sanh, tâm từ bi, đại từ đại bi, đối với người
khác mãi mãi là đại từ đại bi; Đối với chính mình mãi mãi là Thanh tịnh Bình đẳng
Giác. Thanh tịnh Bình đẳng Giác chính là Tam học, Tam huệ, vậy hoàn toàn đầy đủ
Tam Bảo. Thanh tịnh là Giới, là Tăng bảo; Bình đẳng là Định, là Pháp bảo; Giác
là Trí huệ, là Phật bảo. Giác Chánh Tịnh, là Tam đức của Tự Tánh, tôi dùng điều
này để giải thích về Thâm tâm, thì mọi người tương đối rõ ràng một chút về khái
niệm.
Cho nên chúng ta học Phật, chư vị nói có đạt được, đắc điều
gì? Công phu cạn nhất [là] được tâm thanh tịnh, đã đoạn Kiến tư phiền não rồi. Chưa
đoạn Kiến tư phiền não, thì tâm Thanh tịnh không hiện tiền. Cho nên tâm Thanh tịnh
hiện tiền, thì người ấy là Thánh nhân, không phải phàm phu. Sơ quả của Tiểu thừa
chính là Thánh thân, Tiểu tiểu Thánh, ngài đã đoạn tận 88 phẩm Kiến hoặc trong
Tam giới rồi. Đó là Kiến tư phiền não, chưa đoạn Tư phiền não, nhưng đoạn Kiến
phiền não rồi. Đức Phật vì dạy học thuận lợi mà khởi kiến, quy nạp 88 phẩm Kiến
hoặc thành năm loại lớn, vậy dễ nói. Thứ nhất là Thân kiến, chấp trước thân là
chính mình, đó là sai lầm. Tất cả hết thảy bất thiện, gốc đó là Thân kiến. Sâu
hơn Thân kiến một tầng: là Ngã kiến, Ngã kiến sâu hơn Thân kiến. Chư vị xem nửa
bộ trước Kinh Kim Cang, phá Ngã tướng, Thân kiến là ở trên tướng: 無我相、無人相、無眾生相、無壽者相 “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” (Không tướng ta, không tướng người, không tướng chúng sanh,
không tướng thọ giả), đó đều là tướng. Càng sâu hơn
chúng ta nói Linh hồn, có Thân kiến, đây là thân. Thân kiến là ai? Mạt-na thức,
Thức thứ bảy, Thức thứ bảy là do bốn phiền não lớn tạo thành. Mạt-na thức đầu
tiên là Thân kiến, từ Thân kiến sanh khởi lên chính là Ngã kiến. Ngã, Ngã kiến,
chấp trước thứ ấy, chúng ta thường nói là linh hồn, chính là chỉ điều ấy. Ngã
ái, Ngã ái là tham; Ngã mạn, kiêu mạn, Ngã mạn là sân giận; Ngã si, chư vị xem
tham sân si. Tham sân si chính là ba phiền não căn bản, từ đâu mà đến? Từ Ngã
kiến mà đến. Không có ngã, mà chấp trước có ngã. Ngã là gì? Ngã chính là tham
sân si, chính là Ngã ái, Ngã mạn, Ngã si. Cho nên nửa bộ sau Kinh Kim Cang nói
được sâu: 無我見、無人見、無眾生見、無壽者見 “Vô ngã kiến, vô nhân kiến, vô chúng
sanh kiến, vô thọ giả kiến” (Không Ngã kiến,
không Nhân kiến, không Chúng sanh kiến, không Thọ giả kiến), Bồ-tát chứng đắc được, là tâm Bình đẳng; Phía trước là tâm
Thanh tịnh, Tiểu thừa chứng đắc được. Chúng ta có năng lực: ngay ở trong đời
này: chứng đắc Sơ quả của Tiểu thừa hay không? Đó là sự thật, chúng ta phải
nghiêm túc nghĩ xem, sau đó lựa chọn Pháp môn. 84 ngàn Pháp môn: đều phải thông
qua con đường này, không có con đường thứ hai có thể đi, nhất định là đoạn phiền
não chứng Bồ-đề, có thể đoạn được hay không? Chứng được Sơ quả, đó là Tiểu tiểu
Thánh, là nhỏ nhất; Ở Đại thừa chính là Bồ-tát Sơ tín vị, Sơ tín của Thập tín,
công phu đoạn chứng hoàn toàn tương đồng, đều là đoạn Kiến hoặc. Đã đoạn Kiến
hoặc liền có hai loại Thần thông hiện ra, Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông.
Sáu loại Thần thông là trên Tự Tánh có, mà bị phiền não che lấp lại, chư vị có thể
đoạn phiền não, thì sáu loại Thần thông tự nhiên hiện tiền, đó thực ra không phải
do tu được. Tu là trừ chướng ngại mà thôi, đoạn phiền não gọi là tu, sau khi đã
đoạn phiền não thì Tánh đức liền hiện tiền, trí huệ lưu lộ, đã hiển lộ ra.
Trong cảnh giới ấy,
chưa chuyển thức, vẫn là A-lại-da, A-lại-da không quản lý, là ai quản lý? Mạt-na
cùng với Ý thức thứ sáu, hai thức ấy quản lý. Thức thứ sáu Phân biệt, Mạt-na Chấp
trước, chúng ta thử nghĩ: chúng ta có phải ở trong cảnh giới đó hay không, làm
điều gì mỗi ngày, nhưng chính mình không biết. Đức Phật nói ra, chúng ta nghĩ
là thật, không sai, ta đích thực sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, đều
là Phân biệt Chấp trước liên đới đến nhau, dùng được rất quen thuộc, giống như
kết hợp lại một cách rất tự nhiên. Mắt thấy sắc, nhãn thức thấy sắc trần, đi
theo liền khởi Phân biệt, liền khởi Chấp trước. Nó thực sự là có thứ tự, nhưng
tốc độ đó quá nhanh, giống như là đồng thời, chúng ta không nhìn thấy ngay
trong có cách nhau. Nếu chư vị có thể nhìn thấy: 1 phần 2 triệu 100 ngàn tỷ
giây, thì chư vị nhìn thấy rồi, Nhãn thức nhìn thấy đầu tiên, sau đó Ý thức thứ
sáu Phân biệt, Thức thứ bảy Chấp trước, thì chư vị sẽ nhìn được tầng thứ đó vô
cùng rõ ràng. Trên kinh đức Phật thường nói, ai có bản lãnh ấy? Bát địa trở
lên. Bồ-tát Bát địa trở lên: vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, 2 triệu 100 ngàn
tỷ lần sanh diệt trong một giây, mỗi lần sanh diệt các ngài đều nhìn được rất
rõ ràng, các ngài có bản lãnh ấy, vậy tâm phải rất thanh tịnh. Cho nên lìa tướng,
đừng Chấp trước, tướng là giả. Cảnh giới bên ngoài là giả, căn cũng là giả, căn
mắt, căn tai, mũi lưỡi thân căn có thể thấy: cảnh giới bên ngoài đều là giả, đều
là hiện tượng vật chất. Căn Ý thức thứ sáu là thật, đó là nói dựa vào ví dụ, so
với hiện tượng vật chất thì như thật, hiện tượng vật chất không có [Ý thức] thì
vẫn tồn tại, nhưng [Ý thức] cũng vẫn là giả, không phải là thật, bởi vì các
ngài còn có hiện tượng đó, nên các ngài không ra khỏi Mười Pháp giới, có bản
lãnh ra sáu đường luân hồi, mà chưa ra khỏi Mười Pháp giới. Mười Pháp giới phải
phá Vô minh, không còn Khởi tâm động niệm nữa, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng:
nhìn được rõ ràng, nghe được sáng tỏ, mà không có Khởi tâm động niệm. Đó là
Pháp thân Bồ-tát, chính là minh Tâm kiến Tánh, các ngài không có chướng ngại. 當相離相,不隨物轉 “Đương tướng
ly tướng, bất tùy vật chuyển” (Ngay tướng lìa tướng,
không chuyển theo vật), [phải] Pháp thân Bồ-tát, [chứ]
Bồ-tát trong Mười Pháp giới không làm được, cho nên các ngài không có chướng ngại,
các ngài không có bị trói buộc.
宗門云 “Tông môn
vân” (Tông môn nói rằng), Tông môn là Thiền tông, trong Thiền tông có hai câu nói, mọi
người đều rất quen thuộc: 但自無心於萬物,何妨萬物常圍繞 “Đãn tự vô tâm ư vạn vật, hà phương vạn
vật thường vi nhiễu” (Chỉ tự vô tâm với vạn vật, há
ngại vạn vật thường vây quanh). Chỉ cần thấy Tánh
Giới liền viên mãn, thật đã viên mãn, các ngài được đại tự tại, ở ngay trong vạn
vật mà không chấp trước vạn vật, được gọi là: 百花叢中過,片葉不沾身 “Bá hoa tùng
trung qua, phiến diệp bất triêm thân” (Qua giữa
trăm lùm hoa, thân chẳng dính mảnh lá). Cũng chính là
nói, các ngài có thể giữ gìn Thanh tịnh Bình đẳng Giác của các ngài, bất luận ở
cảnh giới nào, thuận cảnh không khởi tham ái, nghịch cảnh không sanh sân giận,
các ngài đều không ô nhiễm chút nào, các ngài cũng không dao động, đó là thấy
Tánh. Tánh có hình dáng thế nào? Đại sư Lục tổ Huệ Năng ở trong Đàn Kinh: nói
được rất rõ ràng, rất sáng tỏ, đầu tiên ngài nói thanh tịnh, 本自清淨 “bổn tự
thanh tịnh” (vốn tự thanh tịnh). Ngài giảng về thanh tịnh, chính là tâm Thanh tịnh trên đề Kinh
của chúng ta, Chân Tâm, nhất định không bị ô nhiễm. Ngày nay chúng ta bị ô nhiễm
là thế nào? Bởi Vọng Tâm, chính là Ý thức thứ sáu, Thức thứ bảy, làm ô nhiễm.
Thức thứ bảy ô nhiễm nặng nhất, Thức thứ sáu là phân biệt nặng, ô nhiễm nhẹ, Thức
thứ bảy là phân biệt nhẹ, ô nhiễm nặng, đó là Vọng Tâm. Dùng Vọng Tâm tu 84
ngàn Pháp môn, bất kì Pháp môn nào: đều cần trải qua những quá trình này, đó là
trên kinh Phật giảng được vô cùng chi tiết, từng thứ bậc một, dần dần leo lên
trên, gọi là ra theo chiều thẳng đứng. Tịnh Độ tông không phải vậy, Tịnh Độ
tông là ra theo chiều ngang, không đi con đường ấy, mà hoàn toàn trái ngược với
con đường thông thường, đó gọi là ra theo chiều ngang. Pháp môn này thật khó
tin! Cho nên không thể tin, không thể tiếp nhận, đó là hiện tượng bình thường.
Nếu chư vị có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, mà không dao động, đó là hiện tượng
đặc biệt, ngay trong một vạn người khó tìm được một người. Vì sao vậy? Bởi họ
nhất định vãng sanh, họ không cần thông qua 84 ngàn Pháp môn, không cần phiền
phức như vậy, chỉ là một câu Phật hiệu. Điều kiện rất đơn giản, thật tin, thật
sự phát nguyện cầu sanh. Tâm sanh tử tha thiết họ mới có thể làm được, tâm sanh
tử không tha thiết thì không làm được. Cho nên phải hiểu được điều này. Cần
viên giải kinh giáo, viên giải khó, viên giải dù sao cũng cần có chút định huệ,
không có chút định huệ thì viên bằng cách nào? Y văn giải nghĩa, ba đời Phật
oan, đó là do các Tổ sư nói, tất cả chư Phật kêu oan uổng, chư vị làm sai ý
nghĩa của Ta rồi. Thật sự, nếu chư vị thật có trí huệ, thì thông tất cả các môn
trong Phật pháp, không có môn nào không thông. 84 ngàn có thể thông với Tịnh Độ
hay không? Thông được, chư vị tu bất kì môn nào, chư vị đem công đức hồi hướng
cầu sanh Tịnh Độ, thảy đều có thể vãng sanh. Không chỉ học Phật giáo, mà Tôn
giáo khác cũng như vậy, nghiêm túc chăm chỉ tu, thì tu Tôn giáo nào, đem công đức
tu hành hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, tuyệt đối vãng sanh.
Pháp môn này vãng
sanh thành Phật dễ dàng, chỉ là khó tin. Khó thế nào? Do không đoạn hết: phiền
não của chúng ta, nghi hoặc của chúng ta, đó là Căn bản phiền não. Đặc biệt là
nghi ngờ, gốc rễ trong gốc rễ, ba gốc tham sân si, tham sân vẫn dễ đoạn, si khó
đoạn, khó đoạn nhất, đoạn ngó sen tơ còn vương, chưa thể chặt đứt sạch sẽ nghi
ngờ đó, thì sinh ra chướng ngại đối với vãng sanh. Làm sao mới có thể chắc chắn
không nghi? Có hai dạng người: một dạng người là thiện căn trong đời quá khứ
sâu dày, họ vừa nghe liền không nghi ngờ, là dạng người như lão Hòa thượng Hải
Hiền; Dạng người thứ hai, là người giống như tôi, phải tốn 30 năm trên kinh
giáo, giúp tôi đoạn nghi sanh tín. Tôi giảng Hoa Nghiêm, giảng Lăng Nghiêm, giảng
Pháp Hoa, đã hiểu rõ ở trong ấy. Vì sao vậy? Bởi ba bộ Kinh ấy đến sau cùng đều
quay về Tịnh Độ, có thể không tin sao? Đó là dạy quay về Tịnh Độ, nếu tôi không
phải [do] ba bộ Kinh ấy, thì Pháp sư Sám Vân khuyên tôi, tôi cũng chưa tiếp nhận.
Thầy Lý khuyên tôi, bảo tôi xem Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, tôi từng xem qua, ba bộ
chú giải của Kinh Di Đà: Sớ Sao của ngài Liên Trì, Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích,
Viên Trung Sao của ngài U Khê, tôi đều nghiêm túc học qua, hơn nữa tôi cũng từng
giảng Yếu Giải và Sớ Sao. Tôi vẫn nhớ được, tôi giảng Sớ Sao của Đại sư Liên
Trì: tổng cộng đã dùng hơn 300 lần, chính là đã giảng hơn 300 lần, một lần là 1
giờ rưỡi, thời gian một năm: hình như tôi đã giảng viên mãn trong ba năm, nếu mỗi
ngày giảng mà nói thì cần giảng một năm, giảng được rất chi tiết. Lúc đó chưa
có ghi hình, có băng ghi âm, tôi đến nước Mỹ, đem theo một bộ băng ghi âm đó, đến
nước Mỹ giảng kinh, tôi liền đem hộp băng: bày ở phía trước bàn của tôi. Người
ta đến xem, đây là gì? Là Kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà nhiều như vậy ư? Mọi người
cũng ngẩn ra. Họ nhìn thấy điều này, thì không dám xem nhẹ Kinh A Di Đà, một
ngày giảng 1 giờ rưỡi Kinh A Di Đà: có thể giảng một năm. Không có thứ ấy, chư
vị nói thì người ta không tin. Hiện nay chúng ta giảng bộ Kinh này cùng Chú Giải,
một năm giảng một lần, thì dùng bao nhiêu thời gian? 1200 giờ. Trong Đại học
nào có loại Khóa trình này? 2 giờ là một học phần, 600 học phần, có lúc còn phải
vượt quá. Không dễ dàng! Vậy mới khiến chúng ta sanh khởi lòng tin.
Hoa Nghiêm, [là]
Đại thừa trong Đại thừa, là Nhất thừa giáo, quá khứ tôi từng giảng hai lần, đều
chưa giảng viên mãn, quá lớn rồi. Lần thứ hai có ghi hình, giảng đến chỗ nào?
Giảng đến Sơ trụ trong Thập trụ, đại khái là 1/5 của toàn Kinh, đã dùng hơn 4000
giờ. Cho nên lúc đó tôi tính toán một chút, giảng viên mãn bộ Kinh ấy cần 20
ngàn giờ. Không giảng kỹ thì nghe không hiểu, nghe rồi không có ý vị; Giảng kỹ
thì nghe có ý vị, có ý vị cần thời gian dài như vậy. Cho nên Kinh ấy không thể
nghĩ bàn, không cách nào tưởng tượng, thực sự bao hàm vô lượng nghĩa. Bất luận
là kinh Đại thừa hay Tiểu thừa, chỉ cần là do đức Phật thuyết, thì mỗi chữ mỗi
câu đều là vô lượng nghĩa, giảng không hết được. Chúng tôi trong hơn 60 năm
nay, lãnh hội sâu sắc được điểm này, cho nên đã buông Hoa Nghiêm rồi, chuyên
công Tịnh Độ. Vì sao vậy? Bởi vì chỉ có tín nguyện trì danh là tôi có thể làm
được, tôi có nắm chắc, bất kì một môn nào khác, đoạn Kiến phiền não, không cần
nói đến Tư phiền não, chính là Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ, Tà kiến,
thì tôi không có năng lực: có thể đoạn sạch sẽ ngay trong đời này. Nói cách
khác, tôi đi con đường ấy, thì tôi không chứng được Tu-đà-hoàn, không nắm được
Tu-đà-hoàn, thì sanh tử luân hồi trong sáu đường, đó gọi là gì? Phải sanh tử thế
nào thì sanh tử thế ấy. Khác với chứng được Sơ quả, chưa ra khỏi sáu đường luân
hồi, nhưng các ngài nhất định không đọa ba đường ác, hết thọ mạng ở nhân gian rồi
thì sanh thiên, ở trên trời tiếp tục tu hành, hết thọ mạng ở trên trời rồi thì
lại đến nhân gian, các ngài chỉ có hai đường trời người. Hơn nữa có kỳ hạn, là
bảy lần, qua lại bảy lần các ngài chứng được quả A-la-hán, thì vượt khỏi sáu đường
luân hồi, mãi mãi thoát khỏi luân hồi, các ngài đến Pháp giới Thanh văn của Tứ
Thánh rồi, cho nên các ngài là Thánh nhân, các ngài không phải phàm phu. Nhưng
nếu các ngài chứng được minh Tâm kiến Tánh, vẫn là thời gian rất dài rất dài,
đâu có nhanh như Tịnh Độ, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc: liền làm A-duy-việt-trí
Bồ-tát. A-duy-việt-trí Bồ-tát là bậc nào? Là Bồ-tát minh Tâm kiến Tánh, Bồ-tát
vượt khỏi Mười Pháp giới, vậy thì thuận tiện có thể chiếm phần lớn rồi! Đời này
chưa gặp được duyên này, thì cũng không có gì để bàn, nhưng gặp được trước mặt
mà bỏ lỡ, thì thực sự đáng tiếc, không đi đường thẳng mà đi đường vòng, đường
vòng vòng quá nghiêm trọng rồi, chính chư vị không cách nào tưởng tượng. Cho
nên quay đầu lại đi đường tắt, [lại là] tắt trong những đường tắt.
Vô tâm với vạn vật, Thiền tông như vậy, niệm Phật cũng như vậy.
Niệm Phật có gì khác với Thiền tông? Thiền tông thì tâm địa thanh tịnh, chính
là ‘Xưa nay không một vật’ mà Đại sư Huệ Năng nói, ngài trở về ‘Xưa nay không một
vật’, ngài thì làm được, chúng ta thì không làm được. Ưu điểm của Tịnh tông ở
đâu? Là có một vật. Có một vật thì dễ làm, một vật đó là gì? Là A Di Đà Phật.
Chúng ta chỉ cần: trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra
thì không có thứ gì, vậy thì đúng rồi, thì cùng Thiền tông chỉ ‘tự vô tâm với vạn
vật’, cảnh giới đó gần như bằng nhau rồi. Một vật đó thật không đơn giản, thực
sự không thể nghĩ bàn, bởi vì một tiếng A Di Đà Phật này: là danh hiệu chung: của
mười phương ba đời tất cả chư Phật. A Di Đà Phật là chữ Phạn, hoàn toàn dịch
thành chữ Trung Hoa, không phải không thể dịch, rất dễ dịch, mà vì tôn trọng nên
không dịch. A: ý nghĩa của nước ta là ‘Vô’; Di Đà: ý nghĩa là ‘Lượng’; Phật: ý
nghĩa là ‘Giác’, dịch thành ý nghĩa nước ta là Vô Lượng Giác. Chư vị nghĩ xem, tôn
Phật nào không phải Vô Lượng Giác? Cho nên niệm Vô Lượng Giác, là đem danh hiệu
của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời: đều đã niệm hết, cũng không sót
Ngài nào. Danh hiệu của chư Phật khác: không phải dung chứa như vậy, đây là
dung chứa tất cả, không sót điều nào, vậy quá khó được rồi. Dung chứa danh hiệu
của Phật, dung chứa trí huệ của Phật, dung chứa đức năng của Phật, dung chứa thần
thông của Phật, đều bao gồm tất cả trong đó, cho nên một câu Phật hiệu này, là
Pháp môn đại tổng trì trong Đại thừa. Chư Phật Như Lai: giáo hóa chúng sanh đã
nói vô lượng Pháp môn, đều ở ngay trong một câu Phật hiệu, niệm câu Phật hiệu
này thì thảy đều đã niệm đến. Đó không phải cành lá, 84 ngàn Pháp môn là làm
công phu trên cành lá, đây là từ gốc rễ, cho nên đây là Quả giáo, không phải
nhân. 84 ngàn Pháp môn đều là từ nhân đến quả, còn Pháp này là quả, quả đến quả,
lấy quả làm nhân, đạt đến thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là Quả giáo, thì chứng
quả rồi. Chứng quả ngay từ không cần chính mình tu, đến thế giới Cực Lạc nhìn
thấy A Di Đà Phật, A Di Đà Phật dùng vô lượng công đức: của 48 nguyện gia trì
chư vị, chư vị lập tức liền bằng với A Di Đà Phật. không phải ngang với Phật phổ
thông, mà ngang với A Di Đà Phật, trí huệ của A Di Đà Phật, thần thông của A Di
Đà Phật, đức tướng của A Di Đà Phật, chư vị đều đạt được. Người thực sự hiểu
rõ, họ khuyên chư vị, họ yêu thương bảo vệ chư vị, không để chư vị đi đường oan
uổng. Chư vị có thể đi thông đường oan uổng, thì tuyệt vời, nếu đi không thông,
đi không thông thì vào ba đường ác rồi, quá đáng sợ!
Tiếp theo đây nói rằng: 進而物隨心轉,故能隨意自在 “Tiến nhi vật
tùy tâm chuyển, cố năng tùy ý tự tại” (Vào đến vật
chuyển theo tâm, nên có thể tùy ý tự tại). Làm được đến
một câu Phật hiệu, lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta. Chư vị xem,
ngài chỉ dùng câu Phật hiệu này, đã niệm câu Phật hiệu này 92 năm. 20 tuổi ngài
bắt đầu niệm, 20 tuổi xuất gia, Sư phụ liền dạy ngài một câu danh hiệu, không dạy
điều gì khác. Ngài cũng không biết chữ, dạy ngài cứ niệm tiếp mãi, ngài liền vô
cùng thật thà, 92 năm không chuyển hướng. Không chuyển hướng chính là đi một mạch,
chính là một câu danh hiệu. Ngài niệm đến mức nào? Chư vị xem trong báo cáo nói
là: minh Tâm kiến Tánh. Thật sự không? Là thật, tôi tin tưởng, Lý Nhất tâm Bất
loạn chính là minh Tâm kiến Tánh. Lúc nào đắc được Lý Nhất tâm Bất loạn? Tôi dự
đoán phải khoảng ở 40 tuổi, Sự Nhất tâm Bất loạn: phải khoảng 30 tuổi, [còn]
Công phu Thành phiến, người như ngài nhiều nhất là ba năm. Cho nên ngài sớm đã
thành Phật. Minh Tâm kiến Tánh, kiến Tánh thành Phật, chắc là khoảng 40 tuổi,
thì ngài đạt được cảnh giới đó. Sau đó sống nhiều năm như vậy, là do A Di Đà Phật
dặn dò ngài, giao nhiệm vụ cho ngài, để ngài làm biểu pháp. Biểu pháp chính là
thế nào? Là làm tấm gương cho Đệ tử Phật, làm tấm gương của tu Tịnh Độ. Hơn nữa
lấy tấm gương của tu Tịnh Độ làm chủ, thông thường học Phật đó là kế tiếp,
chúng ta thấy biểu pháp sau cùng của ngài, chính là một bộ: Nếu Muốn Phật Pháp
Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, là quyển sách đó. Chư vị xem người xung quanh
ngài: đã báo cáo với chúng ta, ngài không biết chữ, nhìn thấy những tín đồ ấy
mang theo sách đến, hỏi họ đó là sách gì? Mọi người nói với ngài, quyển sách
này: gọi là: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng. Ngài nghe đến
tên sách đó, thì vô cùng vui mừng, giống như của báu mà mong đợi mỗi ngày, của
báu ấy cuối cùng cũng xuất hiện rồi, vui mừng như vậy! Lập tức mặc áo tràng đắp
y, cầm quyển sách ấy, chư vị chụp cho tôi một tấm hình. Cả đời, trước giờ chưa
từng chủ động nhờ người chụp hình cho ngài, ý nghĩa đó sâu sắc. Chư vị xem, chụp
xong tấm hình ấy, ba ngày thì ngài ra đi rồi. Mọi người mới hiểu được, đó là lần
biểu pháp sau cùng, hiển dương pháp ấy.
Sau cùng lại biểu
pháp nữa cho mọi người, chính là ngày vãng sanh đó, ban đêm vãng sanh, ban ngày
đã làm việc cả ngày, biểu pháp đó cho chúng ta. Ban đêm thì sẽ ra đi, nhưng ban
ngày cũng không hề nghỉ ngơi, từ sáng đến tối ở trong vườn rau: tưới nước, nhổ
cỏ, làm đất, đã làm một ngày. Làm đến hoàng hôn, có người nhìn thấy: Lão Hòa
thượng, ngài vẫn làm à? Ngài nói: nhanh thôi, tôi sắp làm xong rồi, làm xong
thì tôi không làm nữa. Mọi người cũng không hiểu được, lời này là hai ý nghĩa,
ngài làm xong, ban đêm thì vãng sanh thôi. Đến lúc buổi sáng ngày hôm sau, đến
xem, thì đi rồi. Mới biết lời của lão Hòa thượng, trong lời có lời, chúng ta lơ
là sơ suất nghe không hiểu, đó chính là ngài tiết lộ cho chúng ta thông tin
ngài vãng sanh, lúc nào vãng sanh? Ban đêm vãng sanh. Ngài không cần người trợ
niệm cho ngài, chính mình niệm Phật vãng sanh. Mỗi ngày niệm Phật lạy Phật, trước
giờ không đánh khánh, mà đêm hôm ấy đánh khánh. Ngài đã nghỉ ngơi một chút, một
giờ thức dậy, sau khi thức dậy thì đánh khánh niệm Phật, lạy Phật, niệm Phật,
kinh hành, ở trong phòng của chính ngài. Sáng sớm ngày hôm sau, mọi người sau
khi tu xong khóa sáng rồi, thấy đèn của phòng lão Hòa thượng chưa tắt, tiến vào
xem thử, thấy đi rồi, tự tại biết bao. Đó chính là tùy ý tự tại, vãng sanh có
thể tùy ý tự tại.
如《淨影疏》云:由成勝通 “Như Tịnh Ảnh
Sớ vân: do thành thắng thông” (Như trong Tịnh Ảnh
Sớ nói rằng: bởi thành tựu Thần thông thù thắng), Thông là Thần thông, thắng là Thần thông thù thắng nhất, 於一切物變化隨意 “ư nhất thiết
vạn vật biến hóa tùy ý” (biến hóa tùy ý với tất cả vật). Tôn Ngộ Không chỉ có 72 phép biến hoá, không sánh nổi với Tam
quả A-na-hàm. Thần thông của Tôn Ngộ Không là do tu được, không phải do kết quả
được, nên có hạn. Thần thông của người niệm Phật thù thắng không gì sánh bằng.
Lão Hòa thượng Hải Hiền từng nói rằng: ngài điều gì cũng biết, chỉ là không
nói. Điều gì cũng biết, chính là nói rõ ngài thấy Tánh, chưa thấy Tánh thì không
dám nói câu ấy, nói câu ấy là đại vọng ngữ, minh Tâm kiến Tánh có thể nói. Nói
cách khác, tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, chư vị có nghi hoặc thì
thỉnh giáo với ngài, ngài đều sẽ nói với chư vị. Có sự việc ấy, không phải
không có, ngài giảng cho người ta, không phải giảng kinh dạy học, tràng giang đại
hải, ngài chỉ có mấy câu nói, liền thức tỉnh chư vị, vậy thì cao minh đến tột
cùng, ngài đã khiến chư vị tỉnh ngộ rồi. Cho nên biến hóa tùy ý với tất cả vật,
故能利物,名為自在 “cố năng lợi vật, danh vi tự tại” (nên có thể làm lợi cho vật, gọi là tự tại), thật sự được tự tại.
大士神通自在 “Đại sĩ thần
thông tự tại”, Đại sĩ đây là chỉ 16 Chánh sĩ Hiền Hộ: được nói ở
phía trước, đều là Bồ-tát tại gia, là Đẳng giác Bồ-tát tại gia, địa vị mà các
ngài chứng được là bình đẳng với: ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền, ngài Di Lặc,
ngài Địa Tạng, thị hiện là thân phận tại gia. Thần thông của các ngài tự tại, vậy
mới có thể: 於一切萬物心無拘束 “Ư nhất thiết vạn vật tâm vô câu thúc” (Tâm không trói buộc bởi tất cả vạn vật), tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, các ngài không có chướng
ngại, hoàn toàn hiểu rõ, bất luận là Sự hay Lý, là Tánh hay Tướng, là nhân hay
quả, đều thông đạt vô ngại. Cho nên các ngài có thể: 隨緣變化,饒益眾生 “Tùy duyên
biến hóa, nhiêu ích chúng sanh” (Tùy duyên biến
hóa, lợi ích chúng sanh). Ý nghĩa trong hai câu này rất
sâu, các ngài có năng lực nhìn thấy chúng sanh đó, đời đời kiếp kiếp trong quá
khứ họ ở đường nào, họ đã học điều gì, Bồ-tát đều biết, cho nên thuyết pháp liền
khế cơ. Quá khứ chư vị từng học, hiện nay dạy tiếp cho chư vị, thì rất dễ dàng
nhập môn, không khó khăn chút nào; Quá khứ chưa từng học, hiện nay dạy chư vị
Pháp môn đó, thì cảm giác xa lạ, công phu không đắc lực. Hiện nay phàm phu
thông thường (những Pháp sư): không có năng lực này, không biết tình trạng
trong đời quá khứ của họ, nên những pháp được dùng thường xuyên trở ngại không
vào, họ học được cũng rất khổ sở, người dạy cũng mê hoặc. Gặp được Pháp thân Bồ-tát
thì dễ dàng rồi, Pháp thân Bồ-tát ngài nào cũng có Thần thông, có Thiên nhãn
thông, có Túc mạng thông, có Tha tâm thông, nên dễ dạy.
Tiếp theo dẫn ra ví dụ: Hay, vô cùng
hay! 納須彌於芥子 “Nạp Tu Di ư giới tử” (Thu núi Tu Di vào
hạt cải), đó là hình dung năng lực thần thông của các
ngài, núi Tu Di là ngọn núi lớn nhất: ở trung tâm thế giới Ta Bà. Đức Phật nói
với chúng ta, Vũ trụ quan giảng trên Kinh Hoa Nghiêm, đó là cảnh giới Hiện lượng
của Phật, hiện nay tuy Khoa học nói được rất nhiều, nhưng chưa có kết luận cuối
cùng. Sáng sớm nay tôi nhìn thấy một phần: đó là tiêu đề của tin tức báo chí:
được truyền đến trong tuần. Bên trong có một điều, phát hiện mới nhất của nhà
Khoa học là: trung tâm của hệ Ngân hà không có Hố đen: (trước đây nói có Hố
đen), họ nói Hố đen không tồn tại, trên lý luận nói không thông; Nói cách khác,
lật ngược lại điều ấy, thì điều của họ không đáng tin cậy. Do đức Phật nói thì
đáng tin, trung tâm của đơn vị thế giới là núi Tu Di, hiện nay chúng ta chỉ có
thể nói là điểm trung tâm. Nhưng chúng ta ở trên hình: nhìn thấy hình dạng của
hệ Ngân hà, thực sự giống như chiếc đĩa vậy, nổi ở đó, cao ở giữa, do hai bên dần
dần mỏng xuống. Nhìn thấy tấm hình đó, tấm hình đó không phải giả, là Vệ tinh
nhân tạo: chụp lại ở ngay trong vũ trụ. Còn trái đất, quay lại để chụp trái đất,
trái đất là tiểu hành tinh rất nhỏ, không phải rất lớn. Nhưng hành tinh này rất
đặc biệt, hành tinh này là quả cầu nước, loại hành tinh quả cầu nước giống như
trái đất, dường như vẫn chưa được phát hiện. Nhưng loại hành tinh có sinh vật
trong đó, đức Phật có giảng trên kinh, mỗi tinh cầu đều có chúng sanh, tầng
không gian của họ khác với chúng ta. Hy vọng Khoa học phát triển tiến lên tiếp,
có một ngày Khoa học có thể chứng minh, tất cả tinh cầu: đều có chúng sanh hữu
tình sống ở trong. Núi Tu Di lớn, hạt cải nhỏ, có thể đem núi Tu Di chứa vào
trong hạt cải, đó chính là Thần thông. Các ngài đều không có chút chướng ngại
nào, không phóng to hạt cải, không thu nhỏ núi Tu Di, mà vẫn có thể cất vào. 轉四海入毛端 “Chuyển tứ hải
nhập mao đoan” (Chuyển bốn biển vào đầu sợi lông), đó chính là hải dương mà ngày nay chúng ta nói, nước của biển
cả là bao nhiêu, rất lớn, có thể đem nước của những biển cả, đặt trên đỉnh sợi
lông tơ, trên đỉnh lông tơ trên thân chúng ta, đem nước của trái đất: đều tập
trung vào đây, các ngài có thể làm được, những Pháp thân Bồ-tát ấy có thể làm
được. 隨意利他,故云自在。 “Tùy ý lợi tha, cố vân tự tại” (Tùy ý lợi người khác, nên gọi là tự tại). Các ngài giúp chúng sanh đều không có chút chướng ngại nào. Vậy
nếu chúng ta hỏi: Bồ-tát có bản lĩnh lớn như vậy, vì sao không giúp đỡ chúng
ta? Hiện nay chúng ta trải qua ngày tháng quá khổ, vì sao không đến? Đó chính
là câu nói ở trên kinh Phật: 佛度有緣人 “Phật độ hữu duyên nhân” (Phật độ người hữu duyên). Hữu duyên là gì?
Là duyên chín muồi, duyên của chúng ta chín muồi rồi, thì các ngài đến độ chúng
ta. Nếu trên trái đất thật có tai nạn, mà duyên của chúng ta chín muồi rồi, thì
A Di Đà Phật, những Bồ-tát ấy: đều sẽ giúp chúng ta vãng sanh thế giới Cực Lạc,
hoặc là vãng sanh đến cõi trời, các ngài sẽ làm được, đều có năng lực ấy, các
ngài không phải giả, là thật. Chúng ta không có duyên, còn thiếu một chút như vậy,
nỗ lực bổ sung lại, đó chính là gì? Tín tâm, nguyện tâm, đoạn sạch sẽ tất cả
nghi hoặc, thì duyên của chúng ta, duyên Tịnh Độ chín muồi rồi.
Chứng quả rất khó, chúng ta không có năng lực ấy, không làm
được. Nếu có năng lực ấy, giúp chúng ta tu hành chứng quả, thì chúng ta không cần
làm gì cả, dựa vào ngài thì được rồi. Đến A Di Đà Phật cũng không làm được, A
Di Đà Phật vẫn cần chính chư vị: Thật tin nguyện thiết, buông xuống vạn duyên,
buông xuống tất cả thân tâm thế giới, một lòng chuyên niệm, thì các ngài mới
giúp được. Nói tóm lại, vẫn là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Tâm tưởng, tâm
không thể có tạp niệm, không thể có Vọng tưởng, Vọng tưởng, tạp niệm chướng ngại
Chánh tư duy của chư vị, chướng ngại Chánh niệm của chư vị, cho nên Chánh niệm
của chư vị không thể phát huy được năng lực. Nhất định phải hiểu đạo lý này,
sau khi hiểu được chư vị mới thực sự chịu buông xuống, thì cảm ứng đạo giao với
A Di Đà Phật rồi. Tốt, hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta học tập đến đây
thôi, đây là tự tại của Bồ-tát.
(Hết tập 113)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm viên
thành Phật quả
Rộng độ khắp
chúng sanh.
Nam Mô A
Di Đà Phật.