Responsive Menu
Add more content here...

Tập 120 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Duyên Khởi Của Đại Giáo

TẬP 120

Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Học Viện Tịnh Tông Australia.

Thời gian: Ngày 18 tháng 10 năm 2014.

Dịch giả: Vũ Văn Trà.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

         Kính chào: chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: 阿闍黎存念,我弟子妙音, 始從今日,乃至命存, 皈依佛陀,兩足中尊; 皈依達摩,離欲中尊; 皈依僧伽,諸眾中尊。 “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn.” (Bạch Thầy A-xà-lê thương xót! Con Đệ tử Diệu Âm, kể từ hôm nay, cho đến suốt đời, con xin quy y Phật, lưỡng túc tôn; Con xin quy y Pháp, ly dục tôn; Con xin quy y Tăng, chúng trung tôn). (3 lần)

         Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 349, trang 349, đếm ngược đến hàng thứ ba. Tiêu đề, D3, 「餘四眾」“Dư Tứ chúng”(Tứ chúng còn lại), chia làm bốn. Đoạn thứ nhất, 「比丘尼眾」“Tỳ-kheo-ni chúng”(Chúng Tỳ-kheo-ni).

         【又有比丘尼五百人。】“Hựu hữu Tỳ-kheo-ni ngũ bá nhân”(Lại có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni): lúc đó tham gia Pháp hội của đức Thế Tôn, có 500 vị nữ chúng xuất gia. 「清信士眾」“Thanh tín sĩ chúng”(Chúng Thanh tín sĩ).

         【清信士七千人。】“Thanh tín sĩ thất thiên nhân”(Bảy ngàn vị Thanh tín sĩ). Thanh tín sĩ chính là Ưu-bà-tắc, hiện nay, chúng ta gọi là Cư sĩ, Cư sĩ tại gia từng thọ Tam Quy, Ngũ giới, Bồ-tát giới. Còn có nữ chúng.

     【清信女五百人。】“Thanh tín nữ ngũ bá nhân”(Năm trăm vị Thanh tín nữ). 「清信女即優婆夷」“Thanh tín nữ tức Ưu-bà-di”(Thanh tín nữ tức là Ưu-bà-di). Cuối cùng là 「諸天大眾」“Chư Thiên đại chúng”(Đại chúng Chư Thiên). Mời xem Kinh văn:

         【欲界天。色界天。諸天梵眾。悉共大會。】“Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm Chúng, tất cộng đại hội”([Và] chư thiên trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Phạm Chúng đều cùng đến dự đại hội).

         Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. 「以上經文,獨見《漢譯》。《魏譯》則僅有菩薩與比丘眾。」“Dĩ thượng Kinh văn, độc kiến Hán Dịch. Ngụy Dịch tắc cận hữu Bồ-tát dữ Tỳ-kheo chúng” (Kinh văn ở trên, chỉ thấy trong bản Hán Dịch. Còn bản Nguỵ Dịch thì chỉ có chúng Bồ-tát và Tỳ-kheo). Trong bản Tống Dịch, cuối Kinh có câu nói thế này: 「並天龍八部一切大眾,聞佛所說,皆大歡喜。」“Tịnh thiên long Bát bộ nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ”(Cùng với trời rồng Bát bộ tất cả đại chúng, nghe lời Phật dạy, đều rất hoan hỷ). 「均廣於《魏譯》」“Quân quảng ư Ngụy Dịch”(Đều nhiều hơn bản Ngụy Dịch), Ngụy Dịch là bản của ngài Khang Tăng Khải, bản của ngài Khang Tăng Khải đơn giản, cuối Kinh chỉ có chúng Bồ-tát và chúng Tỳ-kheo. Không có Tứ chúng này, chính là Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, chư Thiên đại chúng, bản Ngụy Dịch không có đoạn này. 「以上通序終」“Dĩ thượng Thông Tự chung”(Phần Thông Tự ở trên đã hết). Văn Kinh phần Thông Tự đến chỗ này đã viên mãn rồi.

         Trời Dục giới có sáu tầng, “Dục” là tình dục, chưa có đoạn dục của nam nữ, thì gọi là Dục giới. Càng hướng lên trên thì càng phai nhạt, đại khái trời Tứ Vương, trời Đao Lợi: gần giống với nhân gian chúng ta, trời Dạ Ma thì rất nhạt rồi; Đi lên trên nữa, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, đều vẫn chưa đoạn dục này, nhưng rất nhạt. Lên cao nữa thì đã đoạn dục, gọi là trời Sắc giới, Sắc giới có 18 tầng trời, tu Thiền Định. Thiền Định, Sơ thiền có ba trời, Nhị thiền, Tam thiền cũng là có ba trời, Tứ thiền có chín trời. Tứ thiền có chín tầng trời, Ngoài ba trời thông thường ra, còn có một loại tu Vô tưởng định, đó là trời ngoại đạo, ở tại Tứ thiền, địa vị tương đối cao. Trong nhà Phật có Ngũ Bất Hoàn thiên, là nơi tu hành của Tam quả A-na-hàm trong Tiểu thừa. Căn cơ bén nhạy, chúng ta thường xưng là người Thượng căn, quý ngài trực tiếp chứng A-la-hán; Nếu là trình độ thông thường, trình độ Trung-Hạ, thì quý ngài vẫn phải trải qua trời Tứ không, sau đó mới có thể thoát khỏi Lục đạo luân hồi, chứng quả A-la-hán. Nếu chúng ta đều có thể hiểu rõ, đều có thể minh bạch đối với những tình hình này, thì mới biết sự thù thắng của Pháp môn Tịnh tông. Đó gọi là vượt Tam giới theo chiều thẳng đứng, thời gian rất dài; Còn Tịnh tông là vượt Tam giới theo chiều ngang, không cần đi qua chư Thiên, ngay cả trời Tứ Vương, Đao Lợi cũng không cần. Ở nhân gian tuổi thọ hết, thì A Mi Đà Phật liền tiếp dẫn chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, gọi là hoành siêu, không cần thông qua Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, không cần thiết. Nhanh chóng, mà còn thành tựu vô cùng thù thắng, cảnh giới này là không thể nghĩ bàn.

         Khó có dịp gặp, thân người khó được, Phật pháp khó nghe, trong Phật pháp khó nhất là Pháp môn Tịnh Độ, đời này chúng ta gặp được, đây là vô cùng may mắn. Đã gặp được, một đời nhất định phải thành tựu, không thành tựu thì quá đáng tiếc. Không thành công thì khi quý vị mất thân người, vẫn ở trong Lục đạo luân hồi, vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp. Người chẳng thể không có chí khí. Pháp môn này tu học vô cùng đơn giản, chỉ cần đầy đủ chân thật tin tưởng, tin phương tây có Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc có A Mi Đà Phật, 48 nguyện của A Mi Đà Phật tiếp dẫn tất cả chúng sanh khổ nạn trong khắp Pháp giới hư không giới, chúng sanh khổ nạn chính là chúng sanh của sáu đường, mười Pháp giới, một đời viên mãn thành tựu, đến nơi đâu để tìm! Trong 84 ngàn Pháp môn không có, trong vô lượng Pháp môn cũng chẳng có, sao quý vị may mắn như vậy, đời nay quý vị gặp được rồi, đã gặp được mà để lỡ mất, vậy thật là quá đáng tiếc!

         Trong phần Tự của Kinh này, văn chữ không nhiều, phần Tự có ba phẩm, tiếp theo 「大教緣起第三」“Đại Giáo Duyên Khởi Đệ Tam”(Phẩm Thứ Ba: Duyên Khởi Của Đại Giáo) là Biệt Tự, tổng cộng có ba phẩm, đây chính là dáng dấp của Đại Kinh. Tiếp theo là đoạn thứ hai trong phần Tự, 「發起序」“Phát Khởi Tự”, cũng gọi là Biệt Tự. Phía trước là Chứng Tín Tự, cũng gọi là Thông Tự. Thông Tự có hai phẩm, Biệt Tự có một phẩm, phần Tự tổng cộng có ba phẩm Kinh văn. Chúng ta xem giới thiệu đơn giản của Niệm lão, thế nào là Biệt Tự.

         「下一品為別序」“Hạ nhất phẩm vi Biệt Tự”(Phẩm tiếp theo là Biệt Tự), chính là Đại Giáo Duyên Khởi, 「亦為發起序」“diệc vi Phát Khởi Tự”(cũng là Phát Khởi Tự), nói rõ duyên khởi của Pháp hội lần này. 「序中如來現瑞放光」“Tự trung Như Lai hiện thụy phóng quang”(Giữa phần Tự Như Lai hiện tướng lành phóng quang), Tôn giả A Nan 「喜悅請問」“hỷ duyệt thỉnh vấn”(vui mừng thưa hỏi), đức Thích Ca Mâu Ni Phật 「正答所疑」“chánh đáp sở nghi“ (liền trả lời những điều nghi ngờ), trong phẩm này chia làm ba đoạn lớn. Thể hiện sự rộng lớn của bộ [Kinh] này, những sự khen ngợi này đều là sự thật, không có câu nào là phóng đại, thực sự là nói với chúng ta, 「廣大、圓滿、簡易、直捷、方便」“quảng đại, viên mãn, giản dị, trực tiệp, phương tiện”(rộng lớn, tròn đầy, đơn giản dễ dàng, thẳng tắp nhanh chóng, thuận tiện). Chúng ta cần chính là ba điều này, cần đơn giản dễ dàng, cần thẳng tắp nhanh chóng, cần thuận tiện, ba điều kiện này là không có trong 84 ngàn Pháp môn. Rộng lớn, viên mãn, 「究竟」“cứu cánh”(rốt ráo), trong 84 ngàn Pháp môn có những điều này, vô lượng Pháp môn cũng có, Kinh này cũng đầy đủ. Nhưng nhất định phải biết, không có giản dị, thẳng tắp, phương tiện, cho nên, chúng ta không thể tu những Pháp môn đó, một đời không thể thành công. Nhất định phải nên ghi nhớ, duy nhất một đời mà chúng ta có thể tu thành công, thì chỉ có bộ Kinh này, ngoài bộ Kinh này ra không có bộ thứ hai.

         Kinh A Mi Đà và Kinh này là cùng một bộ. Trong Thập Lục Quán Kinh, 15 phép quán phía trước cũng không phải việc dễ dàng, Trì Danh Niệm Phật tức là phép quán thứ 16. Nhất định phải y theo Kinh Vô Lượng Thọ, hoặc là Kinh A Mi Đà để tu học, thì được thành tựu. Chẳng những được thành tựu, mà còn cứu cánh, thật khó được, cứu cánh là chứng được quả vị Diệu Giác của Viên giáo, đó gọi là cứu cánh. Thời gian bao lâu? Một đời, một đời này liền chứng được, vãng sanh thì chứng được. Cho nên 「第一希有,難逢法寶」“đệ nhất hy hữu, nan phùng Pháp Bảo”(là Pháp Bảo khó gặp được, hiếm có bậc nhất), hai câu này là khen ngợi, tán thán rất thích đáng, không có quá mức chút nào. Pháp Bảo này chính là: Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác.

         Chúng ta xem tựa đề của phẩm, 「大教緣起第三」“Đại Giáo Duyên Khởi Đệ Tam” (Phẩm Thứ Ba: Duyên Khởi Của Đại Giáo). Đoạn đầu là: 「光瑞發起」“Quang Thụy Phát Khởi”(Quang Minh Tướng Lành Phát Khởi), Như Lai hiện tướng lành phóng quang. Mời xem văn Kinh:

         【爾時世尊。威光赫奕。如融金聚。又如明鏡。影暢表裡。現大光明。數千百變。】 “Nhĩ thời Thế Tôn uy quang hách diệc, như dung kim tụ, hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý, hiện đại quang minh số thiên bá biến” (Lúc bấy giờ, uy thần quang minh của đức Thế Tôn sáng chói rực rỡ như ánh sáng của vàng nung chảy, cũng như gương sáng, trong ngoài thông suốt, hiện ánh sáng lớn, trăm ngàn biến hóa).

         Phát khởi như thế nào? Đức Như Lai phóng quang phát khởi. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. 「釋尊將欲演說無上殊勝淨土法門」“Thích Tôn tương dục diễn thuyết vô thượng thù thắng Tịnh Độ Pháp môn”(Đức Thích Tôn sắp diễn nói Pháp môn Tịnh Độ thù thắng vô thượng). Đọc Kinh, nghe giảng, phải đặc biệt lưu ý những chỗ này, không được tùy tiện xem qua. Bộ Kinh này ở trong tất cả Kinh điển, đặc biệt là Đại thừa, có địa vị như thế nào, đầu tiên cần phải hiểu rõ. Đó là vô thượng thù thắng, vô thượng, là không có gì cao hơn nữa, bên trên không có, chính là vô thượng, tối cao; Thù thắng, là tất cả Pháp môn, tất cả Kinh giáo: cũng không thể sánh được với Pháp môn này, Pháp môn này gọi là Pháp môn Tịnh Độ. 「故現瑞放光」“Cố hiện thụy phóng quang”(Nên hiện tướng lành phóng quang), bởi vì nguyên nhân này. Hiện tướng lành phóng quang, 「以興起阿難之問端」“dĩ hưng khởi A Nan chi vấn đoan”(để hưng khởi điều muốn hỏi của ngài A Nan), ai hiểu được? Ngài A Nan hiểu, ngài A Nan xem thấy đức Phật phóng quang, khởi lên điều muốn hỏi, 「並令聞者生希有想,生難遭想」“tịnh linh văn giả sanh hy hữu tưởng, sanh nan tao tưởng”(cùng khiến cho người nghe sanh ý niệm hy hữu, sanh ý nghĩ khó gặp). Những phàm phu chúng ta đây, nghe câu hỏi của ngài A Nan và giải đáp của đức Thế Tôn, phải biết sanh ý niệm hy hữu, hiếm có khó gặp, ngày nay, chúng ta đã gặp được.

         Hoa Nghiêm, Pháp Hoa không khó, đó cũng là một đời thành tựu, nhưng là căn tánh nào? Là người Thượng thượng thừa, đây là đối tượng dạy học. Còn Pháp môn này trùm khắp ba căn, từ Thượng thượng căn đến Hạ hạ căn, người nào cũng có phần. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa nói lời chân thật chỉ có Thượng thượng căn có phần, những người khác không có phần; Pháp môn này thì người nào cũng có phần, điều này thật hiếm có. Sanh ý niệm khó gặp, thật sự là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, đời này chúng ta có thể gặp được, đặc biệt là gặp được bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, gặp được Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, duyên này quá thù thắng, vô cùng thù thắng. Tại sao vậy? Vì chúng ta xem năm loại bản dịch gốc, xem hai loại bản Hội tập, của ngài Vương Long Thư và Ngụy Mặc Thâm, xem bản Tiết Hiệu của ngài Bành Tế Thanh, rất khó thấy được diện mạo thật của Tịnh tông; Có thể thấy được mơ hồ, không rõ ràng. Lần hội tập này của Hạ lão Cư sĩ rất là rõ ràng, không có mơ hồ chút nào. Người thế hệ chúng tôi đây không nhiều người thấy được bộ Kinh điển này, rất nhiều người không gặp được. Tập Chú của Niệm lão thì càng muộn hơn, ở nước ngoài, tôi là người đầu tiên thấy được, sau khi xem được thì vô lượng hoan hỷ, tôi đề xuất yêu cầu, in một vạn cuốn để lưu thông ở Đài Loan.

         Người thế hệ chúng ta đây có phước báu, vô cùng may mắn, đã gặp được. Có xem hiểu được không? Đây là vấn đề then chốt. Thật sự đã xem hiểu, thì quyết trọn một lòng, y giáo tu hành, đời này chúng ta nhất định thành tựu. Thế nào là hiểu? Thật sự hiểu được, là như trong Kinh Kim Cang nói: ‘Pháp còn phải xả, huống chi phi pháp’. Pháp là gì? Là tất cả Pháp mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy, tôi toàn bộ không học nữa, tôi buông xuống tất cả, tôi chuyên học Pháp môn Tịnh Độ. Đó là thật sự hiểu rõ! Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, tín, nguyện, trì danh, nhất hướng chuyên niệm, cầu sanh Tịnh Độ, thì việc lớn của chúng ta đã viên mãn. Điều kiêng kỵ nhất chính là học rất nhiều, học rất tạp, đem tinh thần, sức lực, thời gian: toàn bộ phân tán mất, vậy thì quá đáng tiếc. Cho nên, người thật sự hiểu rõ, thì buông xuống pháp thế gian, cũng buông xuống pháp xuất thế gian, tôi chỉ chọn một môn này, đây là trí huệ chân thật. Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài; Đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách. Lão Hòa thượng Hải Hiền chỉ là một câu danh hiệu, Mà Minh tâm Kiến tánh, tự thấy nghĩa sách chính là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật.

         Cho nên, thật sự hiểu rõ, thì khẳng định là「依教奉行,求生淨土」 “y giáo phụng hành, cầu sanh Tịnh Độ”. Họ vẫn có ý niệm khác, vẫn muốn tu Pháp môn khác, không làm rõ ràng đối với Pháp môn Tịnh Độ. Vẫn còn có điều cao hơn, họ cho rằng như vậy là đúng, không biết Kinh Vô Lượng Thọ là đạt tới đỉnh cao trong tất cả Kinh giáo, không gì cao hơn Kinh này nữa. Ở trên Kinh Hoa Nghiêm, ở trên Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đến sau cùng đều quay về Tịnh Độ, không quay về Tịnh Độ thì không thể thành tựu viên mãn. Cho nên, chúng ta phải rất bình tĩnh để quan sát, thì quý vị mới có thể thật sự thấy được, tâm của quý vị là quyết trọn một lòng. Chân thành đến vô cùng, cung kính đến tột cùng, quý vị mới có thể nhập môn, quý vị có thể xem hiểu Kinh văn này, có thể xem Chú Giải này đến sanh tâm hoan hỷ. Trong Kinh Hoa nghiêm nói: một là tất cả, tất cả là một, một tức là Kinh Vô Lượng Thọ, tất cả kinh, không chỉ do đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết, mà còn là kinh luận của mười phương ba đời tất cả chư Phật thuyết, đó nghĩa là tất cả. Bộ Kinh này chính là tất cả kinh, tất cả kinh quy nạp lại là bộ Kinh này, đọc bộ Kinh này tức là đã đọc tất cả kinh. Khai ngộ ở trên bộ Kinh này, thì đều khai ngộ tất cả kinh rồi, liền không còn chướng ngại nữa. Cần bao nhiêu thời gian? Tôi nghĩ 10 năm là đủ. Mười năm của chúng ta đã đi qua, mà vẫn dậm chân tại chỗ, thì thật đáng tiếc! Từ hôm nay bắt đầu phát tâm thêm 10 năm nữa, nếu 10 năm không thành tựu, vẫn là dậm chân tại chỗ, vậy thì chỉ tạo thêm Lục đạo luân hồi. Đợi duyên phần trong tương lai, duyên trong tương lai là sau vô lượng kiếp.

         Chúng ta xem trong Chú Giải, 「按圓頓諸經」“án Viên Đốn chư kinh”(chiếu theo các kinh của Viên giáo, Đốn giáo), Viên giáo, Đốn giáo, như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Viên Đốn chư kinh, 「具說本師釋尊放光之相」“cụ thuyết Bổn sư Thích Tôn phóng quang chi tướng”(đều nói tướng phóng quang của Bổn sư Thích Ca Thế Tôn), 「今經亦然」“kim Kinh diệc nhiên”(Kinh này cũng vậy). Đầu tiên khi chưa giảng các bộ Kinh đó thì phóng quang trước, đều nói tướng phóng quang của Bổn sư Thích Ca Thế Tôn, Kinh này cũng vậy, tiếp theo Niệm lão nêu ra năm loại bản dịch gốc, Kinh văn của bản Hán Dịch: 「於時佛坐,思念正道,面有九色光,數千百變,光甚大明。」“Ư thời Phật tọa, tư niệm Chánh đạo, diện hữu cửu sắc quang, số thiên bá biến, quang thậm đại minh” (Lúc đó Phật tọa, nghĩ nhớ Chánh đạo, mặt [Ngài]có chín quang sắc, ánh sáng rất lớn, trăm ngàn biến hóa). Đoạn này là giảng phóng quang, đức Phật ngồi ở nơi đó, mặt có ánh sáng chín màu. 「賢者阿難,即從座起,更正衣服,稽首佛足」“Hiền giả A Nan, tức tùng tòa khởi, cánh chánh y phục, khể thủ Phật túc”(Hiền giả A Nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, cúi đầu dưới chân đức Phật), đó là kính lễ, lễ kính. 「前白佛言」“tiền bạch Phật ngôn”(bạch trước Phật rằng), tiếp theo là thỉnh giáo, 「今佛面目光色,何以時時更變!明乃爾乎?」“kim Phật diện mục quang sắc, hà dĩ thời thời canh biến! Minh nãi nhĩ hồ?” (hôm nay, vì sao quang sắc diện mạo của Phật, luôn luôn biến đổi! Sáng rỡ như vậy)? Đây là lời hỏi của ngài A Nan. Chữ ‘kim’ là hiện nay, ngài A Nan thấy được, 「佛面目光精,數百千色,上下明徹,好乃如是」“Phật diện mục quang tinh, số bá thiên sắc, thượng hạ minh triệt, hảo nãi như thị”(quang minh diện mạo của Phật tuyệt đẹp, trăm ngàn màu sắc, sáng rõ thông suốt trên dưới, tốt lành như vậy), đây là ngài A Nan nghĩ đến. Ngài A Nan ở bên cạnh đức Phật, là Thị giả của đức Thế Tôn, quang minh được phóng hôm nay, ngài A Nan trước nay chưa từng thấy, ngài cảm thấy rất hiếu kỳ, nên đã nêu ra vấn đề này.

         Cho nên 「我侍佛以來,未曾見佛身體光曜,巍巍重明乃爾」“ngã thị Phật dĩ lai, vị tằng kiến Phật thân thể quang diệu, nguy nguy trọng minh nãi nhĩ ”(từ khi con làm Thị giả của Phật đến nay, chưa từng thấy quang minh của thân thể đức Phật chiếu sáng, rực rỡ tối thắng rất sáng như thế), chưa từng thấy qua tình hình như hiện nay. 「我未曾見至真等正覺」“Ngã vị tằng kiến Chí Chân Đẳng Chánh Giác” (Con chưa từng thấy đức Chí Chân Đẳng Chánh Giác), Chí Chân Đẳng Chánh Giác là tôn xưng đối với Phật, ngài A Nan trước giờ chưa thấy qua về đức Phật: 「光明威神,有如今日」“Quang minh uy thần, hữu như kim nhật”(Quang minh uy thần, giống như hôm nay), như tình hình phóng quang minh hôm nay, trước giờ chưa từng thấy. Đoạn này là của bản dịch thời Hán, được phiên dịch sớm nhất. 「《吳譯》同之,唯文字稍簡,餘譯則語而未詳。」“Ngô Dịch đồng chi, duy văn tự sảo giản, dư dịch tắc ngữ nhi vị tường”(Bản Ngô Dịch cũng vậy, chỉ giản lược văn chữ, các bản dịch còn lại thì nói đến nhưng không chi tiết). Tuy bản khác có nói đến, nhưng không chi tiết như vậy, còn đoạn văn này của bản Hán Dịch rất chi tiết. Bản Ngụy Dịch lưu thông nhiều nhất, chính là do ngài Khang Tăng Khải phiên dịch, thời đại phiên dịch của ngài Khang Tăng Khải là Tào Ngụy, Tào Ngụy thuộc phương Bắc của thời đại Tam Quốc, cho nên, gọi là bản Ngụy Dịch. 「兩度云光顏巍巍」“Lưỡng độ vân quang nhan nguy nguy”(Hai lần nói dung nhan rực rỡ tối thắng), trong một câu mà xem thấy hai lần, 「又云威神光光」“hựu vân uy thần quang quang”(lại nói uy thần sáng rỡ). 「《唐譯》云:威光赫奕,如融金聚,又如明鏡,凝照光輝。」“Đường Dịch vân: uy quang hách diệc, như dung kim tụ, hựu như minh kính, ngưng chiếu quang huy”(Trong bản Đường Dịch nói: uy thần quang minh sáng chói rực rỡ, như ánh sáng của vàng nung chảy, cũng như tấm gương sáng, chiếu quang minh hoa lệ). Nói được đơn giản, chỉ có bốn câu.「《宋譯》云:面色圓滿,寶剎莊嚴。」“Tống Dịch vân: diện sắc viên mãn, bảo sát trang nghiêm”(Bản dịch thời Tống viết: Thần sắc viên mãn, cõi nước quý báu trang nghiêm). Vậy nên, hợp năm loại bản phiên dịch lại để xem, 「便知漢、吳兩譯最詳,餘譯乃其簡略」“tiện tri Hán, Ngô lưỡng dịch tối tường, dư dịch nãi kỳ giản lược”(thì biết hai bản dịch thời Hán, Ngô nói tỉ mỉ nhất, các bản dịch khác là giản lược). Chỉ trong bản Tống Dịch: có “bảo sát trang nghiêm”, có câu này, biểu thị 「光中現剎」“quang trung hiện sát”(trong quang minh hiện ra các cõi nước), trong bản dịch khác không có. Câu này hay! Trong quang minh thấy được mười phương cõi nước chư Phật, giống như chúng ta xem TV vậy, ở trên màn hình có thể xem thấy: chiếu các nơi trên toàn thế giới. Trong quang minh của Phật có thể thấy được: cõi nước của tất cả chư Phật ở mười phương ba đời, thanh tịnh, trang nghiêm. 「由是亦可見會集諸譯之必要。」“Do thị diệc khả kiến hội tập chư dịch chi tất yếu”(Do đó cũng đủ thấy việc hội tập các bản dịch là cần thiết). Việc hội tập các bản dịch này, là chỉ sự cần thiết của bản Hội Tập sau cùng: của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư. Trong quyển Kinh này, [những gì] năm loại bản dịch gốc có, thì Kinh này có đủ cả, một câu cũng không bỏ sót. Như ở đây câu ‘bảo sát trang nghiêm’: của bản dịch thời Tống, câu này rất quan trọng, trong bản dịch khác không có, nhưng trong bản Hội Tập viên mãn, tất cả đều có.

         「又古注經家」“Hựu cổ chú kinh gia”(Lại nữa, người chú giải kinh thời xưa), những người thời xưa làm Chú Giải cho kinh, 「多謂本師說此經時未曾放光」“đa vị Bổn sư thuyết thử Kinh thời vị tằng phóng quang”(Phần lớn cho là lúc Bổn sư nói Kinh này chưa từng phóng quang), đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết Kinh Vô Lượng Thọ: không phóng quang, 「蓋未詳考漢、吳古譯之故耳」“cái vị tường khảo Hán, Ngô cổ dịch chi cố nhĩ”(bởi chưa tham cứu kỹ bản dịch cổ thời Hán, Ngô mà thôi). Trong năm bản dịch gốc, bản dịch thời Hán và Ngô có phóng quang, họ chưa thấy được hai bản dịch này, [chỉ] xem được các bản khác, bản khác đã lược bớt đi phóng quang. Đây cũng chính là Kinh Vô Lượng Thọ ở nước ta: vì sao không thể lưu thông, do quá nhiều bản [dịch], xem cả năm loại bản dịch gốc thì rất phiền phức, mọi người không mong muốn xem. Cho nên thịnh hành nhất của Tịnh tông: là A Mi Đà Kinh, A Mi Đà Kinh không có tranh luận, mà bản dịch còn rất hay, là dịch ý, rất hợp khẩu vị của người nước ta, nên lưu thông rộng nhất. Nhưng bộ Kinh đó quá đơn giản, đối với Thế giới Cực Lạc, nếu so với bộ Kinh này, thì Kinh này tường tận [hơn] quá nhiều, giới thiệu chi tiết, có thể dẫn phát tín tâm của chúng ta, nâng cao nguyện tâm của chúng ta, thật muốn vãng sanh.

         Chúng ta xem đoạn tiếp theo, 『世尊』“Thế Tôn”, trên văn Kinh, 「世尊指釋迦牟尼佛」“Thế Tôn chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật”(Thế Tôn chỉ đức Thích Ca Mâu Ni Phật). 「《淨影疏》曰:佛具眾德,為世尊重,故號世尊。」“Tịnh Ảnh Sớ viết: Phật cụ chúng đức, vi thế tôn trọng, cố hiệu Thế Tôn”(Trong Tịnh Ảnh Sớ viết: Phật đầy đủ nhiều đức, được thế gian tôn trọng, nên xưng là Thế Tôn). “Thế” tức là thế gian, “Tôn” là tôn trọng, tôn kính. Phật đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, được thế gian tôn trọng. Đức Phật nói với chúng ta: trí huệ, đức năng, tướng tốt: đều là vốn đầy đủ trong Tự Tánh, không phải đến từ bên ngoài, nhất định phải hiểu ý nghĩa này. Đại sư Huệ Năng nói: 何期自性,本自具足“Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), đầy đủ điều gì? Đầy đủ tất cả, điều gì cũng chẳng khuyết thiếu. Vì sao? Bởi Tự Tánh có thể sanh vạn pháp, đó chính là đầy đủ vạn pháp.

         Đức Phật dạy học đem vạn pháp quy nạp thành ba loại lớn, đó là phương tiện dạy học, ba loại lớn này, thứ nhất là trí huệ, thứ hai là đức năng, thứ ba là tướng hảo, tất cả đều đã bao gồm, vạn pháp không vượt ngoài ba đại loại đó. Trong Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn cũng từng nói: 一切眾生皆有如來智慧德相“Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng”(Tất cả chúng sanh đều có trí huệ-đức-tướng của Như Lai), toàn bộ chúng sanh trong khắp Pháp giới, hư không giới: tất cả đều tương đồng, là bình đẳng. A Mi Đà Phật có trí huệ lớn bao nhiêu, thì quý vị cũng có [thế ấy], quý vị giống với Ngài, không có khác biệt; Đức Mi Đà đầy đủ vô lượng công đức, thì chúng ta cũng có vô lượng công đức, do trong Tự Tánh vốn có; Đầy đủ vô lượng tướng hảo. Tại vì sao hiện nay: chúng ta không có, còn Ngài thì có? Đó chỉ là một bên giác, một bên mê. Chúng ta đã mê, nhưng trí huệ, đức tướng không mất đi, chỉ là không thể hiện ra, không đạt được thọ dụng, vì có chướng ngại. Chướng ngại này là gì? Là phiền não, phiền não vô lượng vô biên. Vô lượng vô biên phiền não, đức Phật cũng quy nạp thành ba loại lớn, Vô minh phiền não, Vô minh là không hiểu rõ, không nhận biết được; Trần sa phiền não, Trần sa là ẩn dụ nhiều, đếm không hết được cát bụi; Kiến tư phiền não, là hoàn toàn không sáng tỏ: chân tướng của Vũ trụ vạn hữu, vốn dĩ là hiểu rõ, nhưng hiện nay toàn bộ không minh bạch, đã thấy sai, nghĩ sai. Trong ý nghĩ có tham, sân, si, mạn, nghi, trong sự thấy có Thành kiến, có Biên kiến, có Tà kiến, đã thấy sai, nghĩ sai rồi, vì vậy đem Nhất chân Pháp giới: biến thành Lục đạo luân hồi.

         Cho nên, đức Phật nói với chúng ta, trong Kinh Hoa Nghiêm dạy: 一切法從心想生“Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), thân thể chúng ta từ tâm tưởng sanh, hoàn cảnh nơi ở của chúng ta từ tâm tưởng sanh. Tại sao ngày nay thế giới loạn như vậy? Do tư tưởng của chúng ta loạn, kiến giải của chúng ta đã loạn, loạn thành một phiến. Vì sao Thế giới Cực Lạc tốt đẹp như thế? Bởi quý ngài đã giác ngộ, quý ngài không mê nữa, tâm của quý ngài chính là thanh tịnh, bình đẳng, giác: được nói trên đề Kinh. Cho nên, trong Tánh đức tất cả hiện ra đầy đủ, vô lượng trí huệ, vô lượng công đức, vô lượng tướng hảo, tất cả hiện tiền. Ba điều này của Phật, thanh tịnh, bình đẳng, giác: cứu cánh viên mãn. Người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đạt được uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, gia trì của vô lượng công đức, thật được tăng thêm, gia trì quý vị, quý vị liền đạt được thọ dụng, không khác nhiều với chính quý vị chứng đắc rốt ráo viên mãn, rất giống nhau. Đến Thế giới Cực Lạc là do Phật gia trì, sống ở Thế giới Cực Lạc một khoảng thời gian, ở lâu rồi tuy không đoạn phiền não: nhưng tự nhiên không còn nữa, điều này vi diệu! Tánh đức tự nhiên hiện tiền, là giống với A Mi Đà Phật vậy. Vì sao? Bởi vốn là giống nhau, không có khác biệt. Do vậy, Phật Bồ-tát thấy tất cả chúng sanh: đều là Phật, đều là Như Lai; chúng ta thấy Phật Bồ-tát: đều coi quý ngài như người bình thường để đối đãi, đây là gì? Là từ tâm tưởng sanh. Nói cách khác, khi nào: địa cầu của chúng ta đây có thể giống Thế giới Cực Lạc, có khả năng không? Có khả năng, trên Lý nhất định giảng được thông. Cần Sự để hiển bày Lý, về trên Sự, cách nghĩ và cách nhìn: của chúng ta giống với A Mi Đà Phật, thì thế giới của chúng ta đây: liền biến thành Thế giới Cực Lạc. Phải thật làm, chúng ta làm thí nghiệm.

         Hôm nay, chúng ta ở Toowoomba, những đồng học chúng ta có chịu nỗ lực không? Đồng tu Tịnh Tông Học Hội chúng ta có chịu làm không? Nếu chịu làm, thì ý niệm của chúng ta đã chuyển lại, chúng ta thấy toàn bộ tất cả chúng sanh: đều là chư Phật Bồ-tát, tất cả người, tất cả động vật như vậy, hoa cỏ cây cối cũng thế. Ý niệm vừa chuyển, thì khôi phục năng lượng tích cực, thật đã làm được. Phật Bồ-tát là người tốt, trong xã hội này không có người xấu, quý vị muốn tìm một người xấu thì không tìm được. Làm sao có thể tạo thành? Phật dùng phương pháp gì? Dùng dạy học, 今現在說法“kim hiện tại thuyết pháp“ (nay thị hiện đang thuyết pháp). Dạy học của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, năm đó ở đời, 49 năm không gián đoạn, không ngừng nâng cao lên, quý vị xem, từ A Hàm nâng lên đến Phương Đẳng, nâng lên đến Bát Nhã, nâng cao đến Pháp Hoa, sau cùng mở ra Niết Bàn cho chúng ta, đức Phật đã cho chúng ta viên mãn tròn đầy, người thật sự hiểu được, người minh bạch, người giác ngộ, y giáo tu hành đều thành tựu rồi, thành tựu lớn, không phải thành tựu nhỏ. Giống ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền, Bồ-tát Di Lặc và 16 Chánh sĩ của chúng ta, là thành tựu lớn.

         Tại sao chúng ta vẫn cam tâm đọa lạc? Đọa lạc là do không buông xuống, có tham luyến đối với thế gian này, không biết thế gian này: là Giả, là Không, là mộng ảo bọt bóng. Hiện tại bất khả đắc, chính ở hiện giờ, quý vị không đạt được. Nói chuẩn xác nhất, [về] thân thể, thân thể hiện nay, chân tướng là gì? Là sát-na sanh diệt. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, trong một giây thân thể này đã sanh diệt bao nhiêu lần? 2 triệu 100 ngàn tỷ lần. Một giây đồng hồ, thân thể này đã thay đổi, thay đổi bao nhiêu lần? Đã đổi 2 triệu 100 ngàn tỷ lần. Vậy hiện tướng lần nào là tôi? Không thể được, huyễn tướng, là giả, không phải thật. Chúng ta xem TV bị TV làm mê rồi, trong một giây, tần suất của TV mới 100 lần, còn một giây hiện nay chúng ta là: 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, ngay ở trước mắt, mà chúng ta hoàn toàn không có cảm giác.

         Cách nói này của Phật, hiện nay, nhà Cơ học Lượng tử đã chứng minh, đức Phật nói một chút cũng không sai, thật sự như vậy. Khoa học gia cách xa với Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta: ít nhất 2500 năm, 2500 năm trước Ngài đã nói, ngày nay những nhà Cơ học Lượng tử phát hiện, hoàn toàn giống với lời Phật dạy, hoàn toàn tương đồng. Chúng ta đã khẳng định, chúng ta tin tưởng, không nghi ngờ nữa. Trước đây, chúng ta đọc Kinh Phật, miễn cưỡng tin tưởng, không thể trừ hết gốc nghi, cuối cùng thì nghĩ không thông. Không nghĩ liền thông! Không nghĩ cũng chẳng thông. Báo cáo của Khoa học: đã tăng trưởng tín tâm của chúng ta, hóa giải tai nạn. Dự ngôn tai nạn năm 2012 của người Maya, nhà Cơ học Lượng tử Braden người Mỹ: nói với chúng ta phương pháp hóa giải, lời ấy của ông là nói ở Sydney, họ đã mở một Hội nghị Khoa học, thảo luận vấn đề này. Những nhà Cơ học Lượng tử người Mỹ nói với chúng ta, có thể hóa giải tai nạn này, chỉ cần chúng ta thật sự có thể quay đầu, 棄惡揚善“khí ác dương thiện” (bỏ ác dương thiện), tất cả điều ác, điều không thiện, chúng ta bỏ đi hết, phải phát dương quang đại điều thiện, mặt tốt, bất thiện là mặt xấu, ác chính là mặt tiêu cực, 端正心念“đoan chánh tâm niệm”, thì có thể hóa giải tai nạn này.

         Tai nạn không phải do thiên nhiên, phàm là tự nhiên thì đều là tốt đẹp nhất, vì tự nhiên là do Tự Tánh biến hiện. Chúng ta phải quay về tự nhiên, không nên tạo tác, tất cả toàn bộ tạo tác đều là mặt trái, thuận theo tự nhiên tốt biết bao! Người hiện nay bị tội này, nên chịu khổ nhiều như vậy, đều là gì? Phá hoại tự nhiên, cho rằng bản lĩnh của chúng ta rất lớn, phát triển Khoa học có thể thay đổi tự nhiên. Ngay cả trong ăn uống của chúng ta quan trọng nhất: là sản phẩm nông nghiệp, họ dùng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, đó đều không phải tự nhiên, do sức người tác động thay đổi, có thể làm cho những cây nông nghiệp này, sinh trưởng vừa đẹp mắt vừa lớn, nhưng mà thế nào? Không thể ăn, ăn rồi đều sanh bệnh, đã bệnh thì đều phải chết. Cho nên, hiện nay vấn đề ăn uống này, mọi người đều không mạnh khỏe, đều phát triển không bình thường. Đều ở trước mắt chúng ta, chúng ta đều thấy được, làm sao giải quyết vấn đề này?

         Lần này tôi trở lại, Thị trưởng đến thăm tôi hai lần, chúng tôi cũng bàn đến vấn đề này. Australia đất rộng người thưa, khu vực trung tâm toàn là sa mạc, khoảnh đất này chưa bị ô nhiễm. Đất của nước Mỹ và Trung Quốc đều bị ô nhiễm, còn vùng đất này không bị ô nhiễm. Nếu ở trên vùng đất lớn này: chúng ta phát triển nông nghiệp, thì khiến vùng đất này: tương lai trở thành kho lương thực cho toàn thế giới, thì sản xuất lương thực có thể cúng dường toàn thế giới, ít nhất có thể cúng dường Châu Á. Tôi tin rằng không chỉ riêng tôi: có cách nghĩ này, mà người có cách nghĩ đó rất nhiều. Nhưng Châu Úc thiếu hụt nhất là nguồn nước, hôm qua, đức Giám mục của Thiên Chúa giáo ở đây, ngài Tổng giám mục, chúng tôi thảo luận đến vấn đề này. Phạm vi quản lý của ngài ấy rất lớn, hôm qua tôi thấy được trên bản đồ, mấy mươi Giáo hội đều do ngài phụ trách. Ngài nói với tôi, gần bên trong sa mạc trung tâm này, cư dân vô cùng khổ, ba năm chưa có mưa, làm sao mọi người sống qua được? Ngài nói tỉ lệ tự sát rất cao, mọi người cũng chẳng muốn sống nữa, không sống được. Chúng tôi nghe thấy rất buồn, làm sao giải quyết vấn đề này? Có cách giải quyết không? Có.

         Người dân vùng sa mạc: phần lớn đều là người bản địa của Châu Úc, những người bản địa này có oán hận rất nghiêm trọng, làm sao có thể giúp họ hóa giải oán giận? Chúng ta biết cảnh tùy tâm chuyển. Chính họ cũng nói: 100 năm trước, chưa từng xuất hiện tai nạn giống như tình hình hiện nay, những nông dân bên đây đều vô cùng bình thường, nước mưa cũng rất nhiều. Danh từ Toowoomba này là ngữ âm của người bản địa, ý nghĩa là gì ? Là đầm lầy, ốc đảo, là ý nghĩa đó. Cho nên chúng ta chỉ có từ trên ý niệm để chuyển, sau đó núi sông đất đai, vạn vật: sẽ chuyển theo ý niệm của chúng ta. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh: đó là chân lý, không phải giả. Ngày nay, ý niệm của chúng ta không thiện, tạo thành những tai nạn này; Bỏ ác dương thiện, đoan chánh tâm niệm, thì có thể thay đổi. Trung Hoa có câu ngạn ngữ nói: 福人居福地,福地福人居“Phước nhân cư phước địa, phước địa phước nhân cư” (Người phước ở đất phước, đất phước người phước ở), người có phước báu ở tại nơi đó thì mưa thuận gió hòa, tự nhiên có thể cảm được.

         Chúng ta phải có niềm tin, phải có tâm chân thành, có tín tâm, có tâm cung kính, điều này rất quan trọng. Đầu tiên, chuyển tâm lý, sinh lý của chúng ta, thân tâm mạnh khỏe, tiến thêm một bước, chuyển biến hoàn cảnh nơi ở của chúng ta, thành [tâm] thì linh nghiệm. Loại ví dụ cảm ứng không thể nghĩ bàn này nhiều, chúng tôi trong giảng kinh dạy học: có lẽ đã nói với mọi người rất nhiều. Chúng tôi học kinh giáo, thầy Lý vào lúc đó nói với tôi, học kinh giáo, giảng kinh dạy học lợi ích chúng sanh, điều kiện cơ bản phải thông pháp thế gian và xuất thế gian. Quý vị xem kinh Phật, kinh gọi là Khế kinh, trên thì khế hợp với lý mà chư Phật đã chứng, dưới khế hợp căn cơ chúng sanh được độ. Lý là kinh Phật, Đại diện của kinh Phật là Đại Tạng Kinh, Tam Tạng Mười Hai Thể Loại Kinh, đời này chúng ta có thể thông đạt không? Nếu quý vị không thông thì không khế lý. Còn khế cơ? Cơ là thế gian pháp, với pháp thế gian thầy nêu ra ví dụ, chúng ta không cần bàn gì khác, chỉ riêng nói một bộ, Tứ Khố Toàn Thư do người Trung Hoa biên soạn, quý vị có thể thông được chăng? Không thể thông. Không thông thì không giảng được, không thông thì không có tư cách giảng. Nhưng nếu lại không giảng thì không được, nếu không có người giảng Phật pháp, thì dần dần sẽ diệt mất, lúc này phải làm sao? Thầy dạy tôi bốn chữ, ngài nói phải thông, phải thông pháp thế xuất thế gian, làm sao thông? Cầu cảm ứng, cảm thông. Dùng diều gì cảm? Dùng thành, chân thành, tâm chân thành cầu cảm ứng. Điều kiện cơ bản của tâm chân thành cầu cảm ứng: chính là tâm từ bi, trong tâm Bồ-đề có tâm từ bi, tâm yêu thương chân thành, yêu thương tất cả chúng sanh, đây là cơ sở. Ngạn ngữ xưa nước ta cũng có nói: lượng lớn phước lớn, tâm lượng lớn thì trí huệ cũng lớn, quý vị muốn có trí huệ lớn, phước đức lớn, hoàn toàn từ tâm lượng của quý vị. Tâm lượng của quý vị nhỏ, thì quý vị không có trí huệ, không có phước báu, Khởi tâm Động niệm của quý vị đều đang tạo tội nghiệp; Người tâm lượng lớn, Khởi tâm Động niệm nghĩ đến chúng sanh, nghĩ đến khổ nạn của chúng sanh, tôi làm sao giúp họ, giúp họ lìa khổ được vui. Dùng tâm chân thành cầu cảm ứng, cầu Phật Bồ-tát, chân thành đến vô cùng, gọi là chí thành cảm thông. Không phải chí thành thì đến đâu cầu cảm thông? Thầy chỉ cho tôi con đường này, nói với tôi, chỉ có như vậy mới đi được, mới đi được thông con đường này, nếu không thì quý vị học pháp thế nào?

         Người xưa dạy phương pháp cho chúng ta, chính là lý niệm dạy học mà ngày nay nói, một câu nói, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu; Nhất môn thâm nhập là Giới luật, là Giới, trường thời huân tu là được Định. Có Giới, có Định, Định đến trình độ nhất định thì đã khai ngộ, cho nên, do Giới được Định, do Định khai Huệ, đã khai trí huệ. Tất cả là vốn có, Giới-Định-Huệ đều là vốn có đủ trong Tự Tánh của chính mình, không phải bên ngoài. Giới Định Huệ là Tánh đức, người nào cũng có, chỉ là mê thì không giác, không biết tu. Cho nên người xưa bắt đầu học từ đâu? Là đi con đường này. Hiện nay chúng ta cũng làm Giới-Định-Huệ: có được không? Không được. Tại sao lại không được? Giới-Định-Huệ của cổ nhân có gốc có rễ, còn chúng ta không có gốc rễ. Gốc rễ là gì? Người nước ta gọi là giáo dục cắm gốc, ai nhận được giáo dục này? Người xưa nước ta thật có, đến cuối thời nhà Thanh vẫn còn, Dân Quốc về sau không có nữa.

         Giáo dục cắm gốc này: thông thường là bắt đầu từ thai giáo, người mẹ mang thai thì đã bắt đầu. Bắt đầu thế nào? Bỏ ác dương thiện, đoan chánh tâm niệm, người mẹ cần phải làm được, toàn bộ tất cả mặt trái, không thiện thì không được nghĩ, không nên để những điều này trong tâm, sẽ ảnh hưởng thai nhi. Quý vị nghĩ bất thiện, thai nhi liền nhiễm bất thiện; Quý vị nghĩ thiện thì thai nhi liền nhiễm thiện. Cho nên 10 tháng đó, tâm địa phải thuần tịnh thuần thiện, thì con của quý vị khỏe, đạt được chánh khí. Giống như mẹ của Chu Văn Vương, trên Lịch sử đã ghi chép, thời gian mang thai: mắt không thấy những điều ác, điều không tốt, không xem những điều bất thiện, không nghe điều bất thiện, bất chánh, lời nói hòa nhã, thành khẩn. Cũng chính là điều mà ngày nay chúng ta nói, những yêu cầu trong Đệ Tử Quy, trong thời gian người mẹ đang mang thai, bà ấy đã làm được. Vì thế dù con của bà vẫn chưa sanh ra, nhưng đã được huân tập năng lượng tích cực, nền tảng này tốt biết bao. Sau khi sanh ra, người mẹ cần trông nom đứa con 3 năm, tức là đến khi chúng ba tuổi, 1000 ngày. Một năm 360 ngày, 3 năm là 1000 ngày, để cho đứa bé xem thấy được, chúng nghe được, chúng tiếp xúc được, toàn là thiện, toàn là điều hay. Chúng thấy được: Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức; [Những gì] trái ngược luân thường đạo đức, nhất định không được để chúng trông thấy, không được cho chúng nghe đến, không được để chúng tiếp xúc đến. Đây gọi là giáo dục cắm gốc, từ khi có thai đến ba tuổi, ngạn ngữ xưa có câu nói rằng: 三歲看八十 “Tam tuế khán bát thập”(Ba tuổi thấy 80), ý nghĩa này chính là nói: họ ba tuổi cắm gốc này rất tốt, thì 80 tuổi sẽ không thay đổi. Vì sao vậy? Bởi đứa bé này, ba-bốn tuổi chúng đã biết: điều nào là thiện, điều nào là không thiện, chúng sẽ gạt bỏ điều bất thiện, rời xa, chúng sẽ thân cận điều thiện, có năng lực này. Vậy nên, Phật pháp đến nước ta, họ học Phật không có vấn đề, họ có gốc của Phật Bồ-tát.

         Ngày nay, chúng ta không có loại giáo dục này, không có gốc đó nữa. Chúng ta bổ sung từ chỗ nào? Phải bổ túc từ ba gốc của Nho Phật Đạo. Mọi người học Giới luật, không coi trọng gốc này, tôi muốn xây ngôi nhà, không cần nền móng, quý vị đã trở thành tình hình này, ngôi nhà đó của quý vị có thể xây thành sao? Khó chính là khó ở chỗ này. Không phải Giới luật không tốt, hiện nay giảng Giới luật, nghe Giới luật, nghe hiểu được chăng? Chưa chắc, nghe hiểu thì họ thật được thọ dụng, nghe không hiểu thì mang đến rất nhiều chướng ngại, mang đến rất nhiều phiền phức. Phật pháp Đại thừa dạy chúng ta, 離一切相,即一切法 “ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp“(lìa tất cả tướng, ngay tất cả pháp), tất cả đều đã dính tướng, chấp tướng nghiêm trọng, làm sao đây? Giới luật là không sai, điều gì cũng Chấp trước, tương lai đến nơi nào? Tương lai đến cõi người, làm một người tốt, không mất thân người, có hiệu quả đó, hướng thượng nâng lên thì không được, trong Đại thừa giáo coi trọng: chính là viên giải, viên tu, viên chứng, điều gì cũng viên dung. Bồ-tát Đại thừa hoạt bát biết bao, tự tại dường nào. Mục đích của Giới là ở đâu? Chính là ở thanh tịnh, bình đẳng, giác, tâm quý ngài thanh tịnh. Hiện nay, người trì Giới, tâm không thanh tịnh, đã bị Giới làm ô nhiễm; Tu Định cũng không thanh tịnh, đã bị Định ô nhiễm. Cho nên, Phật pháp hoàn toàn biến thành chướng ngại.

         Không dễ dàng, Phật pháp cần thầy giỏi, căn cơ chính mình vẫn phải tốt, gặp được thầy giỏi, còn cần Đạo tràng tốt, đó [là] hoàn cảnh tu học, ở trong đó, quý vị thành tựu sáu Ba-la-mật; Hướng thượng nâng lên, thành tựu Mười đại Nguyện vương, đó là Nhất thừa giáo, còn cao hơn Bồ-tát một tầng. Tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần, đó là đạt đến yêu cầu, đạt được mục tiêu của Trì giới. Chẳng những không ô nhiễm, mà tâm còn không động, không lay động, tâm là Định, bất động, không dao động: chính là hai chữ ‘bình đẳng’ trên tựa đề Kinh: của chúng ta, giống như nước không có sóng, yên lặng, bình đẳng. Tâm của chúng ta không bình đẳng, mà có cao thấp, vì sao thế? Bởi hiện nay, dạy học từ nhỏ là dạy cạnh tranh, cạnh tranh thì bình đẳng ở đâu ra? Khi vừa cạnh tranh, thì nước liền dao động sóng, đã mất đi tâm bình đẳng. Lại tăng thêm ô nhiễm nghiêm trọng, ô nhiễm là gì? Là tự tư tự lợi, chỉ có chính mình không có người khác. Ngày nào cũng đang tạo nghiệp luân hồi, thì làm sao thoát ly luân hồi?

         Cho nên, còn kém xa: những ông cụ bà lão trong nông thôn, họ cũng không biết điều gì, chưa từng đọc qua sách, không biết chữ. Sư phụ dạy họ một câu A Mi Đà Phật: một mạch mà niệm, họ rất thật thà, họ nghe lời, họ thật sự một mạch mà niệm. Khi vãng sanh thị hiện tướng lành: khiến mọi người ngạc nhiên, thành công rồi. Vì sao vậy? Bởi họ đầy đủ Giới-Định-Huệ. Thâm nhập một môn, đó là Trì giới, trong tâm họ ngoài A Mi Đà Phật ra, họ cũng không để điều gì. Đoạn ác không dính tướng đoạn ác, tu thiện không có tướng tu thiện, phù hợp với Tam luân thể Không, Không, Vô tướng, Vô tác, Đại Tam Không Tam-muội, họ tương ưng với điều đó. Quý vị hỏi họ, họ không biết, họ không nói ra, gọi là ngầm hợp đạo mầu, họ thật đã làm được, quý vị hỏi họ, họ không biết. Họ cũng không cần biết, tất cả đã thực tiễn ở trong đời sống, thực hiện trong công việc, trong xử sự đối nhân tiếp vật, họ hoàn toàn đã làm được.

         Từ xưa tới nay, xuất gia, tại gia, rất nhiều tấm gương, tấm gương đó chính là biểu pháp trong cách dạy học. Lão Hòa thượng Hải Hiền là tấm gương tốt của chúng ta, quý vị tỉ mỉ để nghe, dần dần sẽ hiểu rõ. Số lần nghe nhiều, càng nhiều càng hoan hỷ, vì sao vậy? Bởi quý vị đã khế nhập, quý vị nghe hiểu, nghe rõ ràng, thì được thọ dụng; Số lần nghe ít không tác dụng. Tốt nhất là chuyên nghe, không nên nghe tạp nữa, không thể học rất nhiều. Một câu Phật hiệu khắc cốt ghi tâm, thì có thể giúp quý vị thân tâm mạnh khỏe, giúp quý vị pháp hỷ sung mãn, tâm tình vui vẻ, thân tâm mạnh khỏe, có thể giúp quý vị hóa giải tai nạn, không mê tín. Chỉ cần cầu trên nhân: thanh tịnh, bình đẳng, giác, trên quả là trí huệ, phước báu, Đại thừa là trí huệ, vô lượng thọ là phước báu, trang nghiêm là tướng tốt, tốt đẹp! Thanh tịnh, bình đẳng giác là nhân, trí huệ, mạnh khỏe trường thọ, đời sống mỹ mãn là phước báu.

         Đời sống hạnh phúc, cũng không phải là nói về ăn mặc chỗ ở đi lại của quý vị sung túc, không phải ý nghĩa đó. Lương thực lành mạnh nhất, thực phẩm trong Chùa Lai Phật là tốt cho sức khỏe nhất, người ở đó là tự mình trồng trọt. Dùng tâm thế nào trồng trọt? Dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác để canh tác, thì thực phẩm đó có thể không tốt sao? Lão Hòa thượng Hải Hiền tự tay trồng trọt, ngài là người như thế nào? Là người đã chứng đắc Minh tâm Kiến tánh, mỗi một hạt gạo, mỗi một lá rau: đều được ngài gia trì. Chính chúng tôi cũng trồng rau, khi có một số Phật tử trồng rau, nhất định phân chia một vùng nhỏ, để cúng dường những côn trùng nhỏ, động vật nhỏ; Cây ăn trái, thì chỉ định có mấy quả cúng dường loài chim nhỏ. Động vật rất hợp tác với chúng tôi, chúng tôi cúng dường chúng, chúng sẽ chừa lại cho chúng tôi. Đó chính là cảnh tùy tâm chuyển, tâm chúng ta có thể chiếu cố đến chúng, thì chúng cũng chiếu cố đến chúng ta, cũng báo đáp. Khỏe mạnh nhất.

         Vì vậy, người chẳng thể không có đức, thế nào là đức? Đức của nhà Phật chính là Giới-Định-Huệ; Đức của thế gian, là Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức, tổng cộng quy nạp lại: trên thực tế là 12 chữ, gốc rễ của Văn hóa truyền thống nước ta, 12 chữ này, chính là Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, Nhân, Ái, Hòa, Bình, chỉ 12 chữ đó. Người nước ta 5000 năm nay chưa từng làm trái, y giáo phụng hành, quốc gia dân tộc sừng sững trên thế giới này, không bị đào thải mất. Bốn nền Văn minh cổ đại trên thế giới, thì ba nền Văn minh khác đều không còn, vì sao mà không còn nữa? Bởi không có 12 chữ đó. Trung Hoa vẫn có thể tồn tại, là có 12 chữ này, nếu bỏ đi 12 chữ ấy, thì Văn minh truyền thống nước ta cũng sẽ diệt mất.

         Cho nên “Phật đầy đủ nhiều đức, được thế gian tôn trọng”, chúng ta làm Đệ tử của Phật, phải giống như Phật vậy, đầy đủ nhiều đức. Đồng học Tịnh tông, trước đây chúng ta đề xuất Ngũ Khoa Hành Môn, nhất định phải học tập, nhất định phải tuân thủ. Điều thứ nhất, nguyên tắc chỉ đạo, Tịnh Nghiệp Tam Phước, nhất định không được làm trái. Điều đầu tiên của Tam Phước là, 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業“Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp“ (Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, tâm từ không giết, tu mười nghiệp thiện), chính là ba gốc của Nho Phật Đạo. Hiếu thân tôn sư, thực tiễn ở Đệ Tử Quy, không có Đệ Tử Quy, thì hiếu thân tôn sư là giả, đó là gốc ở trong gốc, không có gốc này, thì điều gì cũng đều xong rồi. Hai câu phía trước, Đệ Tử Quy; Câu thứ ba, Cảm Ứng Thiên, tâm từ không giết giảng nhân quả báo ứng; Cuối cùng tu mười nghiệp thiện. Chúng ta suy xét xem, mười nghiệp thiện lấy điều gì làm cơ sở? Lấy Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên làm nền móng. Không có Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên, thì không tu tốt được thập thiện nghiệp, không có cơ sở vững chắc. Chúng tôi đề xướng điều này là có căn cứ, không phải tùy tiện mà nói.

         Có nền móng này, làm được không sai, lại nâng lên một tầng, phước thứ hai. Phước tiếp theo, 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀“Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng Giới, bất phạm Oai nghi” (Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các Giới, không phạm Oai nghi), [là] Tiểu thừa giáo, quý vị thật sự có thể làm được. Vì sao ngày nay không làm được? Do quý vị không có phước thứ nhất đằng trước, thì làm sao quý vị có thể có thứ hai? Học thế nào cũng không học giống. Sa Di Luật Nghi: mặc dù chỉ có 10 giới, 24 môn oai nghi, nhưng không làm tốt, là học không giống, Tại sao vậy? Bởi không có gốc. Điều học được là lầu gác trên không, biết trong Phật giáo có những việc như vậy, nhưng chính mình không được thọ dụng. Điều thứ hai đầy đủ rồi, mới nâng cao đến Đại thừa, thứ hai là Tiểu thừa, thứ ba là Đại thừa. Đại thừa, 發菩提心,深信因果“Phát Bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả”(Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả), tin sâu nhân quả này: là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, là nói nhân quả này, không phải nhân quả thông thường. 讀誦大乘,勸進行者“Độc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả”, khuyến tấn hành giả là giáo hóa chúng sanh, đọc tụng Đại thừa là thành tựu chính mình. Quý vị nhìn xem, thứ tự mà Phật cho chúng ta, ngày nay, chúng ta đã làm loạn, muốn cao nhất, phía dưới đều không cần, làm sao có thể thành tựu? Quý vị đã làm thí nghiệm, đã thí nghiệm mười mấy năm, hai mươi mấy năm, ba mươi mấy năm, cần phải giác ngộ, vì sao làm lâu dài như vậy mà không thành công? Người xưa hoàn thành đến Minh tâm Kiến tánh: đại khái 10 năm, người niệm Phật, 3 năm được Công phu Thành phiến, 3 năm nữa được Sự nhất tâm Bất loạn, 3 năm nữa được Lý nhất tâm Bất loạn, thật có thể đạt được.

         Lão Hòa thượng Hải Hiền chính là đạt được như vậy, ngài 20 tuổi xuất gia, căn tánh của ngài tốt, mặc dù chưa từng đi học, không biết chữ, nhưng là người thật thà, nghe lời, thật làm, đầy đủ điều kiện này: là được. Sư phụ của ngài không tầm thường, nhất định là người Minh tâm Kiến tánh, [biết] quán cơ, khi nhìn thấy người thanh niên này, người thanh niên đó có thể thành tựu, có tiền đồ, thì bồi dưỡng ngài. Biết ngài sẽ thành tựu, chỉ dạy ngài một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, một mạch mà niệm. Quý vị thấy, ngài đã niệm câu Phật hiệu này: 92 năm, không hề thay đổi. Thái độ học tập của ngài tốt, phù hợp với tiêu chuẩn của cổ Đại đức, thái độ này chính là chân thành, thanh tịnh, cung kính. Tổ sư Ấn Quang nói, “một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”, quý vị cầu học, quý vị có được bao nhiêu, xem quý vị có mấy phần tâm chân thành, có mấy phần tâm cung kính; Không có tâm chân thành, cung kính, thì quý vị cũng chẳng đạt được gì. Những ví dụ này ở ngay trước mắt, nếu quan sát tỉ mỉ, thì quý vị sẽ thấy được, sau đó quý vị mới có thể tin tưởng, quý vị mới có thể thật làm.

         Độ tuổi này của tôi, niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ, không có niệm thứ hai, điều gì của thế gian này cũng không nghĩ, đã buông xuống tất cả. Sau khi buông xuống thì tâm thanh tịnh, thấy điều gì cũng rất rõ ràng. Lúc nào cũng có thể đi, ở nơi nào cũng có thể ra đi, tôi không lựa chọn điều kiện gì, mọi lúc, mọi nơi, được đại tự tại. Mọi người quý vị ở nơi đây phải thật làm, duyên của nơi này tốt, tôi không nói chín muồi, tôi chỉ nói là khó được, vô cùng thù thắng. Ở nơi đây đoàn kết Tôn giáo, đoàn kết dân tộc, đem thành phố nhỏ này: thật sự xây dựng trở thành một thành phố nhỏ kiểu mẫu: đa nguyên văn hóa hài hòa đứng đầu thế giới, làm một tấm gương tốt, để cho người toàn thế giới đến thăm quan. Thành phố nhỏ này có hơn 80 dân tộc, có hơn 100 loại ngôn ngữ, có mười mấy Tôn giáo, mọi người sống cùng nhau giống như anh chị em, như người một nhà, tương thân tương ái, tôn trọng lẫn nhau, khen ngợi lẫn nhau, học tập lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác. Trong đây không có cạnh tranh, càng không có đấu tranh, thật sự là đã làm được, chung sống hòa mục, đối xử bình đẳng. Trong chữ “mục” này, có ý nghĩa thân ái trong đó, tốt hơn hài hòa. Quý vị thật làm, thì tôi sẽ thường xuyên đến nơi đây; Còn quý vị không chịu làm thì tôi không tới nữa, tôi đến đây không có ý nghĩa, tôi buông xuống toàn bộ, không đến nữa. Quý vị thật làm, tôi sẽ đến, tôi đến giúp quý vị.

         Thế giới hiện đại này, nếu không làm ra được, mà chỉ nói thì không có ai tin, nhất định phải làm ra. Trước đây chúng tôi đã làm thí nghiệm: ở Thị trấn nhỏ Thang Trì, đã làm thành công, vô cùng đáng tiếc vẫn là không đủ nhân duyên, chúng tôi đã giải tán. Ngày nay, ở vùng đất Toowoomba này, chúng tôi đã sống 13 năm ở đây, 13 năm đạt được điều gì? Đạt được sự tin tưởng của người dân bản địa đối với chúng tôi, không dễ gì đạt được điều này. Lão tổ tông Trung Hoa dạy chúng ta, minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện, minh đức chính là Minh tâm Kiến tánh, lại nói rõ một chút, chính là thanh tịnh, bình đẳng, giác, là năm chữ này. Chúng ta sinh hoạt làm việc đối nhân xử thế, phải dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác, là Chân Tâm. Thân dân, là chủ động giao thiệp với mọi người. Chúng tôi nhiều năm như vậy, không tệ, bữa tối ấm cúng: đó là kết giao với mọi người, [là] thân dân, đó là biểu hiện cụ thể của thân dân. Nếu muốn làm được, thì thành phố này làm được tương thân tương ái, quan tâm lẫn nhau, chăm sóc lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, chúng ta làm không đủ sự thân dân này, phải thêm gấp bội.

         Chúng tôi có cách nghĩ như vậy, dưới nửa năm, cũng tức là tháng 11, tháng 12, hai tháng này, hy vọng có thể xây dựng một Giảng đường Đạo Đức, lại tiến thêm một bước cùng với mọi người. Sau 2 năm, 3 năm, lại xây một trung tâm hoạt động, trung tâm hoạt động giáo dục đa nguyên văn hóa, mục đích là để nhân dân trong thành phố nhỏ của chúng ta, thường thường tụ hội ở nơi đây, tiếp nhận giáo dục đạo đức, tiếp nhận giáo dục Tôn giáo. Đem Kinh điển trong mỗi Tôn giáo, [phần] có giáo huấn tốt liên quan đến luân lý, đạo đức, nhân quả, trích ra làm tài liệu giảng dạy. Chúng ta khuyên người học tập giáo dục Tôn giáo, chúng ta không thảo luận tín ngưỡng Tôn giáo, không bàn đến điều đó, tín ngưỡng Tôn giáo là việc của chính quý vị, quý vị thích tin Tôn giáo nào thì tin Tôn giáo đó, chúng ta đều tán thán, mỗi Tôn giáo đều bậc nhất, không có thứ hai, mọi người đều bình đẳng, đều đại hoan hỷ. Tôi học Tôn giáo của tôi, tôi cũng học Tôn giáo của quý vị, Tôn giáo của quý vị sắp xếp khóa trình: tôi cũng nghiêm túc học tập. 凡是人,皆須愛 “Phàm thị nhân, giai tu ái“ (Hễ là người, phải yêu thương).

         Làm thêm 3 năm, đã có thành tích, chúng ta tuyển chọn đồng học ưu tú, nhất môn thâm nhập, thực sự nghiên cứu một môn nào đó, hy vọng đắc tam-muội, hy vọng khai ngộ, đây là Viện nghiên cứu của chúng ta. Người như vậy nhiều rồi, Đại triệt Đại ngộ khó, nhưng Đại ngộ thì có thể làm được, người Đại ngộ cần phải có 20, 30 người, thì chúng ta có thể lập ra Đại học, Đại học Tôn giáo liền làm đến được, không có vấn đề. Chúng tôi dự tính 10 năm, sau 10 năm chúng ta xây dựng Đại học ở đây. Thế nhưng quý vị đồng học cần nỗ lực, quý vị đồng học phải có thể đảm nhiệm Giáo thọ, không thể đảm nghiệm Giáo thọ thì không được. Cho nên, mọi người nỗ lực, tôi thường xuyên đến quan sát quý vị; Quý vị không muốn làm, thì tôi không đến nữa. Nơi nào nghiêm túc làm, thì tôi liền đến nơi đó giúp đỡ động viên họ, giúp họ nâng lên. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.

( Hết tập 120)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Nhanh viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.

Trả lời 0