Responsive Menu
Add more content here...

Tập 126 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Duyên Khởi Của Đại Giáo

TẬP 126

Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 29 tháng 10 năm 2014.

Dịch giả: Vũ Văn Trà.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 358, trang 358, chúng ta bắt đầu xem từ câu thứ hai của hàng thứ sáu, từ Kinh Pháp Hoa:

          「《法華》中龍女成佛,八歲之龍女,能立即成佛,確極特殊,但特而非奇。因眾生本來是佛,人人有分,個個現成,故龍女成佛並不名Pháp Hoa trung Long Nữ thành Phật, bát tuế chi Long Nữ, năng lập tức thành Phật, xác cực đặc thù, đãn đặc nhi phi kỳ. Nhân chúng sanh bổn lai thị Phật, nhân nhân hữu phần, cá cá hiện thành, cố Long Nữ thành Phật tịnh bất danh kỳ” (Trong Kinh Pháp Hoa: Long Nữ thành Phật, Long Nữ tám tuổi, có thể lập tức thành Phật, thật vô cùng đặc biệt, nhưng đặc biệt mà không hiếm lạ. Bởi vì chúng sanh trước nay là Phật, ai cũng có phần, mỗi người vốn có, nên Long Nữ thành Phật cũng không gọi là lạ). Bài trước chúng ta học đến chỗ này, tiếp tục xem phần sau. 「唯此經中之淨宗一法,既是最奇,又是最特。下依經中《寶蓮佛光品》從依正、因果、主伴、一多等說明之。依常情而論,池中蓮花,應是依報。」Duy thử Kinh trung chi Tịnh tông nhất pháp, ký thị tối kỳ, hựu thị tối đặc. Hạ y Kinh trung Bảo Liên Phật Quang Phẩm từ Y Chánh, Nhân Quả, Chủ Bạn, Nhất Đa đẳng thuyết minh chi. Y thường tình nhi luận, trì trung liên hoa, ưng thị Y báo” (Chỉ một pháp Tịnh tông trong Kinh này, đã là hiếm lạ nhất, còn là đặc biệt nhất. Tiếp theo dựa vào Phẩm Bảo Liên Phật Quang trong Kinh từ Y báo Chánh báo, Nhân Quả, Chủ Bạn, Một Nhiều v.v… [để] nói rõ điều đó. Theo thường tình mà luận, thì hoa sen trong ao, phải là Y báo). Mỗi người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc: đều là hoa sen hoá sanh, hoa sen từ đâu đến vậy? Nhân chính là 48 nguyện của A Mi Đà Phật: do nguyện lực mà biến hiện ra, đó là Nhân; Duyên là tín nguyện trì danh của chúng sanh thế giới ở mười phương, tin thật nguyện khẩn thiết, trong ao thất bảo liền sẽ sanh ra một đoá hoa sen. Quý vị xem có Nhân có Duyên. Tương lai vãng sanh, Phật liền dùng đoá hoa sen ấy đến tiếp dẫn quý vị, hoa sen đó có tên của quý vị, tuyệt đối không thể sai. Chúng ta niệm Phật, thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thì hoa sen trong ao thất bảo đã được sanh ra. Công phu niệm Phật của chúng ta rất chăm chỉ, niệm rất kiên định, thì đoá hoa sen ấy càng ngày càng lớn, quang sắc càng ngày càng đẹp; Nếu chúng ta niệm Phật lười nhác, hoặc là thay đổi, không niệm Phật nữa, đổi dùng Pháp môn khác, thì hoa sen liền khô héo, đã khô héo thì về sau không thấy nữa, đã biến mất rồi. Chúng ta liền hiểu rõ, có lẽ rất nhiều hoa sen trong ao báu, vô lượng vô số, bên trong lớn nhỏ, khô héo không nhất định. Người niệm Phật nhiều, thì nhiều hoa sen; người vãng sanh ít, đó chính là nói rõ rất nhiều hoa sen trong ao báu: đều có thể héo tàn đi, không còn nữa. Đến khi nào duyên thành thục rồi, đời sau kiếp sau lại gặp được Pháp môn này, họ có thiện căn, họ có phước đức, nếu gặp được duyên, thì trong ao báu lại sanh ra hoa sen. Điều này vô cùng kỳ lạ, cũng vô cùng đặc biệt. Cho nên, đó phải là Y báo, người vãng sanh là Chánh báo, đó là chiếu theo lệ thường để nói.

          「若說是但一一花出三十六百千億光一一光中出三十六百千億佛可見佛從花現故云花外無佛故不能說是依」Nhược thuyết thị Y, đãn nhất nhất hoa xuất tam thập lục bá thiên ức quang, nhất nhất quang trung xuất tam thập lục bá thiên ức Phật; Khả kiến Phật tùng hoa hiện, cố vân hoa ngoại vô Phật, cố bất năng thuyết thị Y”(Nếu nói là Y báo, song mỗi một hoa phát ra 36 trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi một ánh sáng hiện ra 36 trăm ngàn ức Phật; Có thể thấy Phật hiện từ hoa, nên nói ngoài hoa không có Phật, do đó không thể nói là Y báo), trong hoa hiện Phật. 「若說是正報經中說花有百千億葉明明說是花葉而非佛身故不能說是正」Nhược thuyết thị Chánh báo, Kinh trung thuyết hoa hữu bá thiên ức diệp, minh minh thuyết thị hoa diệp, nhi phi Phật thân, cố bất năng thuyết thị Chánh”(Nếu nói là Chánh báo, thì trong Kinh nói hoa có trăm ngàn ức cánh, rõ ràng nói là cánh hoa, mà chẳng phải thân Phật, nên không thể nói là Chánh báo). Không thể nói đó là Y báo, cũng chẳng thể nói đó là Chánh báo. 「若說是因但此乃如來果德之成就故不是因」Nhược thuyết thị Nhân, đãn thử nãi Như Lai quả đức chi thành tựu, cố bất thị Nhân”(Nếu nói là Nhân, nhưng đây là sự thành tựu bởi quả đức của Như Lai, nên không phải là Nhân), là sự thành tựu bởi 48 nguyện của A Mi Đà Phật. Vừa mới nói qua, hoa sen là đến từ 48 nguyện, do trong quả đức hiện ra, đó không phải Nhân. Nếu quý vị nói đó là Quả, 「然此花是十方世界所生之物」nhiên thử hoa thị thập phương thế giới sở sanh chi vật”(nhưng hoa ấy là vật được sanh ra bởi mười phương thế giới), người của thế giới mười phương, người niệm Phật, không có người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật thà niệm Phật, thì trong ao đó không sanh ra hoa, không có hoa đó, 「不待行人果覺功圓則不是果」bất đãi hành nhân quả giác công viên, tắc bất thị Quả”(không đợi quả giác công đức của người tu hành viên mãn, thì không phải là Quả). Nói đó là Nhân, nói đó là Quả: cũng không thể giảng viên mãn sự thật này, vừa giống Nhân, vừa giống Quả, vừa giống Y báo, vừa giống Chánh báo.

          「若說是主則能含十方三世無量慧含攝一切其伴甚多」Nhược thuyết thị Chủ, tắc năng hàm thập phương tam thế vô lượng huệ, hàm nhiếp nhất thiết, kỳ Bạn thậm đa”(Nếu nói là Chủ, thì có thể chứa vô lượng huệ của mười phương ba đời, hàm nhiếp tất cả, Bạn của Chủ ấy rất nhiều). Đây là nói từ trên Chủ, Bạn. Nếu nói đó là Bạn, 「則心外無法唯是如來正覺。極樂之依正主伴一切一切唯是阿彌陀如來自心所現」tắc tâm ngoại vô pháp, duy thị Như Lai Chánh Giác. Cực Lạc chi Y Chánh Chủ Bạn nhất thiết nhất thiết, duy thị A Mi Đà Như Lai Tự Tâm sở hiện”(thì ngoài tâm không có pháp, chỉ là Như Lai Chánh Giác. Tất cả toàn bộ Y báo Chánh báo Chủ Bạn của Cực Lạc, chỉ là do Tự Tâm của A Mi Đà Như Lai hiện ra). Uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật: triển hiện ra Thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhưng Thế giới Cực Lạc lại: có quan hệ mật thiết với cõi nước chư Phật mười phương, không chia ra. Vì sao có quan hệ đặc biệt như vậy? Có nguyên nhân, nguyên nhân là gì? Do khắp Pháp giới hư không giới: chính là Pháp thân của đức Mi Đà Như Lai, chính là Tự Tánh của tất cả chúng sanh thế giới mười phương. Chính là giống với Ngũ uẩn mà chúng ta thường giảng, Ngũ uẩn là sắc hay là tâm? Quý vị muốn nói đó là tâm, nhưng Ngũ uẩn có hiện tượng vật chất; Quý vị muốn nói đó là sắc, nhưng Ngũ uẩn vốn là có thọ tưởng hành thức. Thọ tưởng hành thức là tâm, sắc pháp là vật chất, tâm và vật hoà hợp thành một thể, không thể chia ra. Hiểu rõ đạo lý này, thì Y Chánh trang nghiêm của Thế giới Cực Lạc: đã có một khái niệm.

          Thế giới Cực Lạc: là do nguyện lực của A Mi Đà Phật hiện ra, mục đích A Mi Đà Phật hiện ra Thế giới Tây Phương Cực Lạc: là tại đâu? Là để tiếp dẫn: chúng sanh Thập Pháp giới: trong tất cả cõi nước chư Phật mười phương, chủ yếu là do muốn độ những chúng sanh ấy, giúp những chúng sanh đó: một đời viên mãn thành Phật, điều tốt này thật sự không thể nghĩ bàn. Cho nên, Thế giới Cực Lạc: quý vị nói thế nào cũng không phải, [nói] thế nào cũng đều đúng, không thể nói đó là Y báo, chẳng thể nói đó là Chánh báo, cũng có thể nói đó là Y báo, là Chánh báo. Sáng tỏ rồi, nói phải, nói không phải đều đúng; Khi không sáng tỏ, nói đúng, nói không đúng đều là sai. Cho nên, nơi đó đầy đủ sự kỳ diệu, đặc biệt, kỳ đặc đạt đến vô cùng. Tự Tâm của đức Mi Đà chính là Tự Tâm của chúng sanh, đó là một không phải hai, Tự Tâm này chính là Tự Tánh, chính là Chân Như, chính là Bản Tánh, chúng sanh và Phật là một thể. Vì vậy, đức Mi Đà vận dụng: đồng thể đại bi, vô duyên đại từ: để gia hộ chúng sanh. Ý nghĩa đoạn này sâu, Niệm lão đặc biệt làm giải thích đơn giản.

          Tiếp theo nói, tất cả toàn bộ Y báo Chánh báo Chủ Bạn: của Cực Lạc, chỉ là do Tự Tâm của A Mi Đà Như Lai hiện ra. 「欲說是一法但一花中有無量光其中出生無量法」Dục thuyết thị nhất pháp, đãn nhất hoa trung hữu vô lượng quang, kỳ trung xuất sanh vô lượng pháp”(Muốn nói là một pháp, nhưng trong mỗi hoa có vô lượng ánh sáng, trong đó sanh ra vô lượng pháp). Đây là một tức là nhiều; 「若說是無量則只是一句名號」Nhược thuyết thị vô lượng, tắc chỉ thị nhất cú danh hiệu”(Nếu nói là vô lượng, thì chỉ là một câu danh hiệu), nhiều tức là một, một nhiều không hai. 「三種莊嚴入一法句」Tam chủng trang nghiêm, nhập nhất pháp cú”(Ba loại trang nghiêm, nhập vào một câu pháp). Ba loại trang nghiêm này: là trong Luận Vãng Sanh nói, đã nói 17 loại Y báo trang nghiêm, Chánh báo trang nghiêm, Chánh báo chia ra Chủ, Bạn, Chủ là Phật, A Mi Đà Phật, tám loại trang nghiêm; Bạn là mỗi một người: vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, tức là Bồ-tát. Sanh đến Thế giới Cực Lạc, bất luận là Thật Báo độ, Phương Tiện độ, Đồng Cư độ, chỉ cần quý vị đã đến Thế giới Cực Lạc, gặp được A Mi Đà Phật, hoa nở thấy Phật, thì đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát, câu nói đó thật sự không thể nghĩ bàn! Đối với người của Thật Báo độ thì không có gì để nói, A-duy-việt-trí chính là Pháp thân Bồ-tát, sanh Thật Báo độ. Phương Tiện độ cũng là A-duy-việt-trí, vậy thì kỳ diệu rồi. Phương Tiện độ là Thanh văn, Duyên giác, Tam thừa Bồ-tát, chưa kiến Tánh, tuy đã chứng được Vị bất thoái, Hạnh bất thoái, nhưng niệm của quý ngài vẫn thoái chuyển, đó chính là sự kỳ diệu đặc biệt. Kỳ diệu đặc biệt nhất là Đồng Cư độ, Đồng Cư độ là phàm phu vãng sanh, chưa chứng quả, ngay cả Sơ quả Tiểu thừa cũng chưa chứng được, cũng làm A-duy-việt-trí Bồ-tát. Nói cách khác, tuy Thế giới Cực Lạc có tên của bốn độ, ba bậc, chín phẩm, có tên gọi đó, nhưng trên thực tế? Trên thực tế không có, trên thực tế là A-duy-việt-trí Bồ-tát là bình đẳng, đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát, tất cả đều như thế, vậy tức là hết thảy đều là Pháp thân Bồ-tát. Đó cũng là một trong những điều kỳ đặc, kỳ ở trong kỳ lạ, đặc ở trong đặc biệt.

          Ba loại trang nghiêm, nhập vào một câu pháp, câu pháp đó chính là một câu danh hiệu, một câu danh hiệu tổng nhiếp tất cả pháp. 「所以說此」Sở dĩ thuyết thử”(Cho nên nói [Pháp môn] này), chữ “thử” ở đây là nói Pháp môn này, 「乃奇中之奇,特中之特,不可稱、不可說、不可思議之法。亦不可安名,只是勉強名之為奇特法」Nãi kỳ trung chi kỳ, đặc trung chi đặc, bất khả xưng, bất khả thuyết, bất khả tư nghì chi pháp. Diệc bất khả an danh, chỉ thị miễn cưỡng danh chi vi kỳ đặc pháp”(Là pháp kỳ lạ ở trong kỳ lạ, đặc biệt ở trong đặc biệt, không thể xưng, không thể nói, không thể nghĩ bàn. Cũng chẳng thể lập tên, chỉ là miễn cưỡng gọi đó là pháp kỳ đặc). Pháp kỳ đặc chính là một bộ: Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ này. 「今日世尊欲宣彌陀弘願一乘、最奇特之法」Kim nhật Thế Tôn dục tuyên Mi Đà hoằng nguyện Nhất thừa, tối kỳ đặc chi pháp”(Ngày nay đức Thế Tôn sắp tuyên thuyết hoằng nguyện Nhất thừa của đức Mi Đà, pháp kỳ diệu đặc biệt nhất). Cho nên đức Phật phải 「住於彌陀之所住,佛佛相念。故曰住奇特法」trụ ư Mi Đà chi sở trụ, Phật Phật tương niệm. Cố viết trụ kỳ đặc pháp”(trụ chỗ mà đức Mi Đà trụ, Phật Phật niệm nhau. Nên nói trụ pháp kỳ đặc). Đức Mi Đà, tâm ta vốn là một thể, thuyết pháp như vậy, nghe pháp cũng như vậy.

          Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo, đoạn này nói rõ cho chúng ta chính là một thể, trụ chỗ mà Phật trụ, đoạn tiếp theo là giảng về hạnh của Đạo sư. 『住諸佛所住導師之行,最勝之道』Trụ chư Phật sở trụ Đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”(Trụ hạnh Đạo sư mà chư Phật trụ, đạo thù thắng nhất). 「導師」“Đạo sư” là chỉ hạnh dẫn dắt chúng sanh thành Phật, vậy mới xưng là Đạo sư. Nghĩa hẹp là chuyên môn xưng đối với Phật, còn Bồ-tát xưng là thầy, không xưng là Đạo sư, Đạo sư là xưng hô đối với Phật. 「最勝之道」Tối thắng chi đạo”(Đạo thù thắng nhất), chính là tín nguyện trì danh, tám chữ mà trong Kinh này nói, 「發菩提心,一向專念」phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”(Phát tâm Bồ-đề, một hướng chuyên niệm), tám chữ này. Trong Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích, tỉnh lược tám chữ thành bốn chữ, càng đơn giản. 「信願」“Tín nguyện” chính là phát tâm Bồ-đề, thật sự tin có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật sự tin: Thế giới Cực Lạc có A Mi Đà Phật, đều không có chút hoài nghi. Tự chúng ta phải phát đại nguyện chân thành của Chân Tâm, nguyện sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, không có cách nghĩ thứ hai, cả đời tôi đây: chỉ một mục tiêu, một phương hướng ấy, không có phương hướng thứ hai, đó gọi là tâm Vô thượng Bồ-đề. 「持名」“Trì danh”, là chấp trì danh hiệu. Giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, Sư phụ dạy ngài một câu Phật hiệu này, đó là truyền thụ pháp cho ngài, cả đời ngài 92 năm chưa từng bỏ mất, đã niệm 92 năm. Ngài làm chứng minh cho chúng ta, chư vị nên xem kỹ đĩa phim đó, cần dùng tâm cung kính, tâm chân thành, để quý vị xem ngài.

          Ngài chứng minh cho chúng ta: thật có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật, ngài thấy Phật rất nhiều lần, thường thường thấy Phật. Trong đĩa phim ngài nói, nhiều lần thỉnh cầu A Mi Đà Phật: dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc, nhưng A Mi Đà Phật không đáp ứng, nói ngài tu không tệ, ở lại biểu pháp cho thế gian này, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật. Đó là chứng minh: ngài thấy A Mi Đà Phật không phải một lần. Trước khi vãng sanh, ngài còn nói, mấy ngày nay A Mi Đà Phật đến nói với tôi, bảo tôi nhanh chóng vãng sanh. Đó là làm chứng cho chúng ta, lão Hoà thượng chắc chắn không có Vọng ngữ, câu nói nào cũng là lời thật. Vì sao ngài ấy: quen thuộc với A Mi Đà Phật như vậy? Do cảm ứng, cảm ứng của thanh tịnh bình đẳng giác. Tâm của chúng ta, niệm đến thanh tịnh bình đẳng giác, thì sẽ giống với lão Hoà thượng, khởi cảm ứng với A Mi Đà Phật, chúng ta niệm Phật, Phật liền hiện tiền; Chúng ta cầu sanh, Phật liền dẫn chúng ta đi. Không dẫn chúng ta đi, đó chính là tình hình của lão Hoà thượng Hải hiền, quý vị có năng lực biểu pháp, cần làm một tấm gương tốt cho mọi người xem.

          Chúng ta đã thấy được ở trong Truyện Ký, Đại sư Huệ Viễn Sơ tổ của Tịnh tông chúng ta, đó là thời đại Đông Tấn, ở Lô Sơn thành lập niệm Phật đường Đông Lâm, chính là Chùa Đông Lâm ngày nay. Ngài ấy bốn lần thấy Phật, thấy được Thế giới Cực Lạc, trước giờ chưa từng nói với ai. Lần cuối cùng, tức là lần thứ tư, ngài mới tuyên bố với mọi người, Thế giới Cực Lạc lại hiện tiền, A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn tôi, trước đây đã từng thấy ba lần. Người khác hỏi ngài, kiểu dáng của Thế giới Cực Lạc thế nào? Là hoàn toàn giống với lời dạy trong kinh. Đại sư Liên công ở đời, kinh mà ngài giảng chính là Kinh Vô Lượng Thọ, còn Kinh A Mi Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ: đều vẫn chưa được phiên dịch ra. Thời đó niệm Phật đường Đông Lâm của Ngài, chỉ dựa vào một bộ kinh: là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh này được truyền đến nước ta sớm nhất. Qua các triều đại tổng cộng 12 lần phiên dịch, cho nên có 12 bản dịch khác nhau. Vô cùng đáng tiếc có bảy loại đã bị thất truyền, trong Đại Tạng Kinh hiện nay chỉ còn năm loại.

          Đối chiếu kỹ lưỡng năm loại ấy, bên trong chênh lệch rất lớn, nói rõ bộ Kinh này là năm xưa đức Thế Tôn tại thế: nhiều lần tuyên thuyết, không phải giảng một lần. Một lần, vậy thì bản gốc tiếng Phạn chỉ là một loại, bất kể phiên dịch thế nào, sẽ không có chênh lệch rất lớn. Rõ ràng nhất là: về nguyện lực, 48 nguyện, nhất định sẽ không sai lệch. Trong năm bản dịch đó có ba loại bất đồng, có hai bản là 48 nguyện, có hai bản là 24 nguyện, có một bản là 36 nguyện. Chênh lệch nhiều như thế, đây là nói rõ không phải là giảng một lần, mà nhiều lần tuyên giảng. Bản kiết tập của ngài A Nan, nguyên bản tiếng Phạn ấy cũng đều được truyền đến nước ta. Nhiều lần tuyên giảng nói rõ bộ Kinh này quan trọng, đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, không có giảng lần thứ hai, chỉ riêng bộ Kinh này, để quý vị nhìn ra rõ ràng: đó không phải là một bản gốc, mà đó là bản gốc khác nhau. Là chứng minh đức Thế Tôn ở đời nói pháp khác nhau, nhiều lần tuyên giảng, mới có thể phát sinh hiện tượng này, cũng hiển thị ra sự đặc thù, kỳ đặc: của Pháp môn này.

          Pháp môn này, gặp được do có duyên, duyên chính là tín nguyện, quyết trọn một lòng, tuyệt đối không thay đổi, dù A Mi Đà Phật tới, dạy tôi có một phương pháp nữa, tôi cũng từ chối, tôi chỉ nương theo pháp này là được rồi, tôi tin pháp này: từng câu từng chữ là do đức Phật nói, chắc chắn thành tựu. Cần phải nghiêm túc học tập Chương Thượng Phẩm Thượng Sanh: của Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Tôi còn nhớ với chương ấy, tôi từng giảng riêng chương đó. Sau khi quý vị thật hiểu rõ, sẽ quyết trọn một lòng, nhất môn thâm nhập, rất nhanh thì thành tựu. Chúng ta thấy được: ở trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng Sanh Truyện, người 3 năm vãng sanh thì quá nhiều quá nhiều. Tuyệt đối không phải là tuổi thọ của họ chỉ còn 3 năm, mà là công phu niệm Phật 3 năm của họ đã thành công, thấy được A Mi Đà Phật, biết thỉnh cầu A Mi Đà Phật, con không cần thọ mạng nữa, bây giờ con đi với Ngài. Phật rất từ bi, Phật liền dẫn quý vị đi. 3 năm, đến Thế giới Cực Lạc: làm A-duy-việt-trí Bồ-tát, còn gì tuyệt hơn! Còn có Pháp môn nào: có thể vượt hơn Pháp môn này, tìm không ra. Quý vị rất may mắn, gặp được đại pháp kỳ diệu đặc biệt: mà tất cả chư Phật cùng đồng khen ngợi. Chỉ có người không đủ thiện căn phước đức nhân duyên, tuy đã gặp được, nhưng họ nghi ngờ, họ không tin, lỡ qua trước mắt, thật đáng tiếc.

          Chỗ này Niệm lão trích dẫn Tịnh Ảnh Sớ, Pháp sư Tịnh Ảnh là người thời triều Tuỳ, ngài cũng tên là Huệ Viễn, Pháp hiệu hoàn toàn giống với Sơ tổ của chúng ta, cho nên trong Lịch sử xưng là Tiểu Huệ Viễn. Ngài có Chú Giải cho Kinh Vô Lượng Thọ, gọi là Tịnh Ảnh Sớ, tức Kinh Vô Lượng Thọ Nghĩa Sớ. Trong đó nói, 「住佛住者涅槃常果諸佛同住」trụ Phật trụ giả, Niết-Bàn thường quả, chư Phật đồng trụ”(trụ [nơi] Phật trụ: là thường quả Niết-Bàn, chư Phật cùng trụ). Trụ chính là chỗ an trụ của tâm, tâm trụ [ở] không chỗ trụ chính là trụ [nơi] Phật trụ. Vì sao? Bởi tâm Phật thanh tịnh, tâm Phật bình đẳng, Phật thấy sắc, nghe âm thanh: không khởi tâm, không động niệm, Khởi tâm Động niệm còn không có, thì Phân biệt, Chấp trước ở đâu ra, đó gọi là trụ [nơi] Phật trụ. Chúng ta cũng thường nói đến, cần phải nhận biết, mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, đó là trụ [nơi] Phật trụ. Có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó là Bồ-tát trụ; Có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là Tiểu thừa trụ, A-la-hán, Bích-chi-phật; Sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt có Chấp trước, đó chính là chúng sanh Lục đạo. Chúng sanh Lục đạo trụ ở đâu? Trụ sáu đường luân hồi.

          Nhớ kỹ, có đủ Khởi tâm động niệm Phân biệt Chấp trước, thì quý vị trụ sáu đường luân hồi. Nếu quý vị có thể buông xuống Chấp trước, tôi cũng không chấp trước nữa, tôi biết đó là giả, chẳng phải thật, tức là không còn để những thứ ấy: vào trên tâm, thì quý vị liền chứng được quả A-la-hán. Chẳng những không chấp trước, mà cũng không cần Phân biệt, vì là giả, thì Phân biệt làm gì, vậy thì quý vị đã thăng cấp, quý vị nâng lên [thành] Bồ-tát. Thật sự đã giác ngộ, dù những hiện tượng này ở trước mắt, đối diện với nó, cũng không có Khởi tâm Động niệm, đó chính là Phật trụ. Tu hành là tu điều gì? 84 ngàn Pháp môn, pháp là phương pháp, môn là con đường, tu điều gì? Chính là tu những điều đó, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước.

          Đại sư Chương Gia dạy tôi buông xuống, buông xuống điều gì? Chính là buông xuống điều đó, thật sự đã buông xuống, đã hiểu rõ Chân tướng sự thật, đó gọi là nhìn thấu, nhìn thấu là thật sự liễu giải Chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật là: Thể là Không tịch, Tướng là giả, Thể là không, chẳng lập một pháp, ngay cả Phật cũng không có. Tự Tánh là Bản Thể, cho nên không được chấp trước, không được khởi tâm động niệm; Do Tướng là giả, cũng không cần khởi tâm động niệm. Bất kể là Tánh, bất kể là Tướng, đều không khởi tâm động niệm, đó chính là trụ nơi Phật trụ. Trụ nơi Phật trụ, nếu quý vị có hành vi, thì hành vi đó là gì? Là chúng sanh có cảm, tự nhiên có ứng, gõ mạnh thì tiếng lớn, gõ nhẹ thì tiếng nhỏ, pháp vốn như vậy, không có Khởi tâm Động niệm, vẫn là trụ nơi Phật trụ. Vậy ứng để làm gì? Ứng là giúp họ giải quyết vấn đề. Bồ-tát có cảm, thì dùng thân Phật để độ các ngài; Nhị thừa có cảm thì hiện Bồ-tát để độ các ngài; Chúng sanh có cảm thì hiện tuỳ loại thân. 32 ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm, đó là nói 32 loại, mỗi một loại có vô lượng vô biên thân, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn với chúng sanh. Đó cũng gọi là kỳ diệu đặc biệt.

          「今日世雄」Kim nhật Thế Hùng”(Ngày nay đức Thế Hùng), Thế Hùng là chỉ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, ngày nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật: 「住彼所住」trụ bỉ sở trụ”(trụ chỗ Phật ấy trụ), trụ chỗ mà A Mi Đà Phật trụ, tức là 「住大涅槃,能起化用」trụ Đại Niết-Bàn, năng khởi hoá dụng”(trụ Đại Niết-Bàn, có thể khởi hoá dụng). Hoá là hoá thân, là biến hoá; Dụng là giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, giúp chúng sanh lìa khổ được vui. Rời khỏi Lục đạo luân hồi, thoát khỏi Thập pháp giới, gọi là lìa cứu cánh khổ; Vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc là được cứu cánh vui. Mười phương chư Phật giống với đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Ai mà đối diện với Ngài, [là] chúng sanh có duyên, [thì] đều có thể khởi đại dụng biến hoá, giáo hoá chúng sanh, đức Phật không làm gì khác, chỉ là dạy học. Nghi thức dạy học thì vô lượng vô biên. Ở thế gian chúng ta đây, 3000 năm trước, đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở Ấn Độ, dùng thân phận Tỳ-kheo để biểu pháp, biểu diễn buông xuống. Buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xuống Thất tình Ngũ dục, trải qua đời sống của người xuất gia, giữa ngày ăn một bữa, mỗi đêm ở dưới cây. Sự thị hiện của Ngài vô cùng sống động, ý nghĩa của sự thị hiện: chính là buông xuống vạn duyên, thân tâm thanh tịnh, biểu diễn cho chúng ta thanh tịnh bình đẳng giác, biểu pháp ấy. Có Quốc vương Đại thần: lễ thỉnh Ngài đi giảng kinh, ở trong cung điện, ở trong hoa viên, Ngài cũng đáp ứng, Ngài không từ chối. Cho nên, ở Tinh xá Trúc Lâm, ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc: cũng đã giảng kinh trong một khoảng thời gian tương đối dài, mấy bộ kinh lớn, sau khi giảng xong thì rời khỏi, lại trải qua đời sống du mục của Ngài. Không cứng nhắc, thị hiện cho chúng ta sự hoạt bát sống động. Đức Phật, đúng như người hiện nay nói là thông tình đạt lý, khiến chúng sanh sinh tâm hoan hỷ.

          Nam nữ già trẻ, các ngành các nghề, chỉ cần quý vị hướng đến Ngài thỉnh giáo, thì Ngài đều dạy quý vị, bao gồm tất cả Tôn giáo. Ở trong Kinh này có thể nhìn ra. Ngài không bài xích, Ngài cũng không khuyên quý vị, Tôn giáo đó của quý vị có vấn đề, chưa từng nói qua lời ấy, đều khen ngợi đối với mỗi Tôn giáo. Chúng ta cần phải học, vì sao vậy? Bởi Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, chẳng những 8 vạn 4 ngàn Pháp môn của đức Phật nói, mà còn bao gồm Tôn giáo khác, tất cả toàn bộ Pháp môn: đều là pháp bình đẳng. Cùng một đạo lý, chỉ cần quý vị nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, thì đều có thể được định, định sâu rồi thì không từ bỏ, đến sau cùng đều có thể thấy Tánh. Cho nên, dùng phương pháp tu hành của Tôn giáo khác, thỉnh giáo với đức Thế Tôn; đức Thế Tôn đều giúp đỡ họ, phá mê khai ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Họ Minh tâm Kiến tánh làm Phật rồi, có xả bỏ Tôn giáo của họ không? Không có, quý ngài đến Tôn giáo đó của quý ngài làm tiên tri, quý ngài đến trong Tôn giáo ấy: để lãnh đạo họ. Bên ngoài thấy được là Tôn giáo khác nhau, bên trong đều là Phật Bồ-tát, vậy thì đúng rồi. Tất cả chúng sanh trước nay là Phật, tu Tôn giáo khác cũng không ngoại lệ, họ vốn là Phật, họ thành Phật có gì kỳ lạ? Không kỳ lạ. Long Nữ tám tuổi thành Phật, rồng là đường Súc sanh, bé gái tám tuổi, thiện căn sâu dày, nghe được thuyết pháp: cô đã khai ngộ, cô đã chứng quả.

          Trong Kinh này đặc biệt nhắc đến Bồ-tát Phổ Hiền, quý vị xem phẩm thứ hai: Đức Tuân Phổ Hiền, chuyên môn nói về sự tu hành, thực tiễn tu hành của Bồ-tát Phổ Hiền. Trong thực tiễn điều quan trọng nhất: chính là mở rộng tâm lượng, tâm bao thái hư, lượng chu sa giới. Hành môn của ngài chính là mười cương lĩnh lớn, Phổ Hiền Thập Nguyện, nguyện nào cũng là dùng tâm chân thành, tâm rộng lớn để tu, chân thành rộng lớn. Đối diện là khắp Pháp giới hư không giới, chẳng lập một pháp, không xả một pháp, được đại tự tại. Lễ kính tất cả chúng sanh trong khắp Pháp giới hư không giới, chúng sanh là nghĩa rộng, hiện tượng của chúng duyên hoà hợp mà sanh khởi: đều gọi là chúng sanh. Động vật là chúng sanh, thực vật cũng là do nhiều duyên hoà hợp mà sanh, khoáng vật vẫn là do nhiều duyên hoà hợp mà sanh, cho đến cả hư không Pháp giới. Nên hàm nghĩa của danh từ ‘chúng sanh’ này: vô cùng vô cùng rộng lớn, tâm cung kính của Bồ-tát Phổ Hiền, viên mãn tròn đầy tất cả đều lễ kính đến rồi.

          Ngày nay chúng ta cung kính với Phật Bồ-tát, nhưng không cung kính với người; cung kính với người tốt, nhưng không cung kính với người ác. Ngài Phổ Hiền không phải vậy, [ngài] đối xử bình đẳng, không có Phân biệt, không có Chấp trước. Trong mắt của ngài, trong tâm của ngài, thấy tất cả chúng sanh đều là chư Phật Như Lai, bình đẳng bình đẳng, xem tất cả chúng sanh và xem A Mi Đà Phật: là hoàn toàn giống nhau; dùng tâm cung kính đối với A Mi Đà Phật thế nào, thì tâm cung kính dùng với tất cả chúng sanh: cũng hoàn toàn tương đồng, không có chút sai biệt. Đó gọi là Hạnh Phổ Hiền, lễ kính, xưng tán, cúng dường hoàn toàn bình đẳng. Không dễ tu Hạnh Phổ Hiền, vì sao? Bởi chúng ta không có tâm bình đẳng. Tuy nói tâm cung kính, nhưng tâm cung kính không đến nơi, không đạt đến tiêu chuẩn mà Phật yêu cầu, chúng ta còn tự cho là đúng, không biết sám hối, chẳng biết cải tiến. Cho nên chúng ta đối với Hạnh Phổ Hiền là hữu danh vô thực. Đây cũng là một trong những nhân tố: khiến công phu niệm Phật của chúng ta không đắc lực, vì sao công phu không đắc lực.

          Trong Hội Sớ nói: 「佛所住不二乘菩薩所能及」Phật sở trụ, bất Nhị thừa Bồ-tát sở năng cập”(Chỗ mà Phật trụ, không phải điều mà hàng Nhị thừa [và] Bồ-tát đạt tới được). Ý nghĩa của chữ “bất” này là không phải, không phải chỗ mà: Hàng Nhị thừa và Bồ-tát có thể đạt tới. Nhị thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát là nói Bồ-tát Tam thừa, Biệt giáo của tông Thiên Thai là: thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi hướng, những Bồ-tát ấy chưa Minh tâm Kiến tánh; Cũng tức là nói, quý ngài ở trong sinh hoạt hàng ngày, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, có Khởi tâm Động niệm. Hàng Nhị thừa, không chỉ có Khởi tâm Động niệm, mà còn có Phân biệt, nhưng không có Chấp trước. Cho nên, chỗ mà Phật trụ là không khởi tâm không động niệm; Hàng Nhị thừa, và Bồ-tát không làm được. 「唯佛與佛住之」Duy Phật dữ Phật trụ chi”(Chỉ Phật với Phật trụ nơi đó thôi), chỉ có Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó là Phật, quý ngài trụ Thật Báo Trang Nghiêm độ. 「又佛說三乘隨他教時各住三乘法」Hựu Phật thuyết Tam thừa tuỳ tha giáo thời, các trụ Tam thừa pháp”(Thêm nữa Phật thuyết Tam thừa tuỳ theo thời giáo của Ngài, mỗi mỗi trụ pháp Tam thừa), thập Trụ Bồ-tát trụ pháp thập Trụ, thập Hạnh Bồ-tát trụ pháp thập Hạnh, thập Hồi hướng Bồ-tát trụ pháp thập Hồi hướng, đó chính là thuận theo điều mà chính quý ngài học tập, tuỳ theo thời giáo của Phật, mỗi mỗi trụ pháp Tam thừa. 「今住佛隨自所住故云住佛所住」Kim trụ Phật tuỳ tự sở trụ, cố vân trụ Phật sở trụ”(Nay trụ chỗ mà chính Phật trụ, nên nói trụ Phật sở trụ). Ngày nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trụ chỗ mà Phật trụ, trụ Nhất chân Pháp giới, trụ Thật Báo Trang Nghiêm độ, cũng tức là trụ tâm Đại Bồ-đề chân thật, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, đó là tâm Phật. 「而流出此殊勝妙法」Nhi lưu xuất thử thù thắng diệu pháp”(Mà lưu xuất ra diệu pháp thù thắng này), chính là Pháp môn Tịnh tông này, niệm Phật thành Phật, là diệu pháp kỳ diệu đặc biệt, thù thắng không gì bằng. 「以為眾生之因心」Dĩ vi chúng sanh chi nhân tâm”(Dùng làm nhân tâm của chúng sanh). Đó vốn là quả giác của Như Lai, thanh tịnh bình đẳng giác trên đề Kinh của chúng ta, chân thành thanh tịnh, bình đẳng chánh giác từ bi, tâm an trụ ở trên đó. Biểu hiện ở một câu Phật hiệu này, sáu chữ hồng danh Nam Mô A Mi Đà Phật, từng tiếng Phật hiệu, mỗi tiếng thanh tịnh bình đẳng giác, mỗi tiếng là chân thành thanh tịnh, bình đẳng chánh giác từ bi. Hoàn toàn tương ưng với tông chỉ tu học của Kinh này, 「發菩提心向專念」phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Dùng điều ấy để làm nhân tâm của chúng sanh.

          「《甄解》曰住佛所住者住普等三昧普等三昧」Chân Giải viết: trụ Phật sở trụ giả, trụ Phổ Đẳng Tam-muội, Phổ Đẳng tam-muội”(Trong sách Chân Giải viết: trụ Phật sở trụ, là trụ Phổ Đẳng Tam-muội, Phổ Đẳng Tam-muội). Chữ “phổ” là phổ biến, “đẳng” là bình đẳng, Tam-muội là định, Thiền định, 「及大寂定」cập Đại Tịch Định”(và Đại Tịch Định), đại tịch định chính là Đại Niết-Bàn. Phổ Đẳng Tam-muội, Đại Tịch Định, 「並是念佛三昧異名」tịnh thị Niệm Phật Tam-muội dị danh”(đều là tên khác của Niệm Phật Tam-muội), còn có tên gọi là Niệm Phật Tam-muội. Nói cách khác, Niệm Phật Tam-muội chính là Phổ Đẳng Tam-muội, phổ biến ngang nhau, bình đẳng. Ở cùng với người Nhị thừa, thì bình đẳng với Nhị thừa; Ở cùng với Tam thừa Bồ-tát, thì bình đẳng với Bồ-tát; Ở cùng với chư Phật thì bình đẳng với chư Phật, quá tuyệt vời. Vì sao vậy? Bởi Tam thừa Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác: quý ngài cũng niệm A Mi Đà Phật, quý ngài cũng cầu sanh Thế giới Cực Lạc, quý ngài vãng sanh vào Phương Tiện Hữu Dư độ. Lục đạo chúng sanh chưa chứng đắc quả địa, niệm Phật vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ. Phía trước từng nói, tuy có khác biệt của bốn cõi ba bậc chín phẩm, nhưng trên thực tế, đến Thế giới Cực Lạc: hoá ra là bình đẳng, Phổ Đẳng Tam-muội. Thật vi diệu, thật sự là kỳ diệu đặc biệt đến tột cùng. 「三世諸佛皆住此念佛故云佛所住。今佛」Tam thế chư Phật giai trụ thử niệm Phật, cố vân Phật sở trụ. Kim Phật”(Chư Phật ba đời đều trụ niệm Phật này, nên nói chỗ mà Phật trụ. Nay đức Phật), hiện nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật, nói cho chúng ta: 「念佛法門住念佛三昧」Niệm Phật Pháp môn, trụ Niệm Phật Tam-muội”(Pháp môn Niệm Phật, trụ Niệm Phật Tam-muội). Tiếp theo là lời của Niệm lão, 「《甄解》之說更切經旨」Chân Giải chi thuyết, cánh thiết kinh chỉ”(Lời trong sách Chân Giải, càng gần với tông chỉ của Kinh), hoàn toàn tương ưng với tông chỉ, phát tâm Bồ-đề, một hướng chuyên niệm của Kinh này, nói thật là hay!

          Tiếp theo giải thích cho chúng ta 「導師之行」Đạo sư chi hạnh”(Hạnh của Đạo sư). 「導師者指引導他人入於佛道者」Đạo sư giả, chỉ dẫn đạo tha nhân nhập ư Phật đạo giả”(Đạo sư: là chỉ cho bậc dẫn dắt người khác vào trong Phật đạo), đó gọi là Đạo sư. Hướng dẫn chúng sanh vào đạo Phật, dùng phương pháp nào? 84 ngàn Pháp môn chính là phương pháp. Còn một đời thành tựu? Một đời thành tựu chỉ có niệm Phật thành Phật. 8 muôn 4 ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp môn, một đời thành tựu không nổi, một đời thành tựu, đó thật sự là: trong tỷ tỷ người khó tìm được một người. Trước kia lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với tôi, ở trong đời này của ngài, những gì mà ngài thấy được, nghe được, một người tu Thiền tông thành tựu cũng không có. Thiền tông là gì? Là Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, một người cũng không có. Tu Mật tông thành tựu, cả đời ngài chỉ thấy sáu người. Người niệm Phật vãng sanh thì quá nhiều quá nhiều, sự thành tựu của niệm Phật vãng sanh: còn cao hơn Thiền, hơn Mật. Vì sao? Bởi sanh đến Thế giới Cực Lạc, được uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, làm A-duy-việt-trí Bồ-tát. Không phải tự lực, mà là uy thần của A Mi Đà Phật gia trì cho quý vị, là Pháp môn tha lực, A Mi Đà Phật đã nâng quý vị lên cao, cần phải cảm ơn đối với Phật. Nếu không cung kính với Phật, đại bất kính, thì tội này là nặng rồi. Quý vị không gặp được Pháp môn này vậy khỏi cần nói, còn đã gặp được Pháp môn này, mà đại bất kính với Phật, là quý vị đã làm trái với kinh giáo.

          Thế nào là kính Phật? Y giáo tu hành là kính Phật, một mực mà niệm là kính Phật. Nghi ngờ là không cung kính Phật, thay đổi phương pháp là không kính Phật, vì sao? Bởi quý vị không thể vãng sanh. Thật sự có thể giúp quý vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đó là cung kính Phật. Phương pháp vãng sanh là: một câu Phật hiệu, không được thay đổi. Bất luận tu Pháp môn nào, quý vị nghe được rồi mà cho phép học tập, kết quả đó là gì? Là niềm tin đối với Pháp môn niệm Phật: càng tăng thêm, tăng trưởng, vậy thì đúng rồi. Thấy được học những Pháp môn đó khó như vậy, Pháp môn này dễ, dễ dàng thì dễ thành tựu, khó thì không dễ thành tựu.

          Tiếp theo trích dẫn Kinh Thập Trụ Đoạn Kiết, trong đó nói, 「號導師者」hiệu Đạo sư giả”(danh hiệu Đạo sư), chữ “hiệu” nghĩa là danh hiệu, Đạo sư là: 「令眾生類示其正道故」Linh chúng sanh loại thị kỳ Chánh đạo cố”(Khiến các loại chúng sanh biết rõ Chánh đạo đó), đó gọi là Đạo sư, chỉ cho họ Chánh đạo. 「《華首經》曰能為人說無生死道故名導師」Hoa Thủ Kinh viết: Năng vị nhân thuyết vô sanh tử đạo, cố danh Đạo sư”(Trong Kinh Hoa Thủ nói: có thể thuyết đạo không sanh tử cho mọi người, nên gọi là Đạo sư). Con đường không sanh tử chính là chỉ niệm Phật vãng sanh, niệm Phật vãng sanh không phải chết, nếu quý vị nói quý vị chết ở đây rồi, đến Thế giới Cực Lạc thì sanh, thì sai lầm, không có sanh tử. Vãng sanh Thế giới Cực Lạc, Nhục thân này là Tướng phần của A-lại-da, là Cảnh giới tướng của A-lại-da, thân này là pháp sanh diệt, nói trắng ra, căn bản đó là hiện tượng giả, căn bản là không tồn tại, điều đó là do nhà Cơ học Lượng tử nói. Buông bỏ, xả đi thân giả này, thì thân thật hiện tiền, thân thật là thân Pháp tánh, thân thật vĩnh viễn không sanh không diệt, đó chính là thuyết đạo không sanh tử, là Đạo sư chân chánh đích thực.

          「《佛報恩經》曰大導師者」Phật Báo Ân Kinh viết Đại Đạo sư giả”(Trong Kinh Phật Báo Ân nói: Đại Đạo sư là), Đại Đạo sư là chỉ ai? 「以正路示涅槃徑」Dĩ chánh lộ thị Niết-Bàn kính”(Dùng đường chính [để] chỉ rõ đường tắt [đến] Niết-Bàn), chữ “kính” là đường tắt, đường thẳng, con đường gần nhất, con đường nhanh nhất, 「使得無為常樂故」sử đắc Vô vi Thường Lạc cố”(nên khiến được Vô vi Thường Lạc). Tiếp theo Niệm lão có mở dấu ngoặc, 「無為指無為法」Vô vi chỉ Vô vi pháp”(Vô vi chỉ pháp Vô vi), tất cả pháp: pháp vốn như vậy, 「常樂指常樂我淨」Thường Lạc chỉ Thường Lạc Ngã Tịnh”(Thường Lạc chỉ Thường Lạc Ngã Tịnh). Tự Tánh đầy đủ bốn đức: Thường Lạc Ngã Tịnh đó, quý vị kiến Tánh liền đạt được. Trong Đại thừa giáo nói ba đức, 「法身」Pháp thân”, Pháp thân có Thường Lạc Ngã Tịnh, 「般若」Bát-nhã” có Thường Lạc Ngã Tịnh, 「解脫」Giải thoát” có Thường Lạc Ngã Tịnh, đó là thật sự, đều không giả chút nào. Thường là vĩnh hằng bất diệt, tức là không sanh không diệt, đó gọi là Thường; Lạc là không khổ, lìa tất cả khổ, lìa khổ chính là Lạc; Ngã, là chính mình có thể làm chủ tể; Tịnh, chính là tâm thanh tịnh, không có ô nhiễm, nói cách khác, chắc chắn không bị ảnh hưởng bởi cảnh giới bên ngoài, không bị ngoại cảnh quấy nhiễu. Bốn đức của Niết-Bàn, quý vị đều đạt được bốn điều ấy, đó gọi là Đại Bát-Niết-Bàn.

          「又《甄解》曰導師行者即彌陀世尊平等引接無所遺故。」Hựu Chân Giải viết: Đạo sư hạnh giả, tức Mi Đà Thế Tôn bình đẳng dẫn tiếp vô sở di cố” (Thêm nữa sách Chân Giải viết: Hạnh Đạo sư, tức là đức Mi Đà Thế Tôn bình đẳng tiếp dẫn không có việc bỏ sót). Nói rất hay! Do A Mi Đà Phật bình đẳng tiếp dẫn chúng sanh. Thật sự đầy đủ tín nguyện, lão thật niệm Phật, thì đều sẽ không bỏ sót một ai. Không nên cho rằng A Mi Đà Phật đã quên mất quý vị, A Mi Đà Phật sẽ không bỏ quên quý vị, chỉ có quý vị quên mất A Mi Đà Phật. Ngay trong vừa quên thì đã phát sinh chướng ngại rồi, là A Mi Đà Phật không thể hiện thân ở trước mặt quý vị. Cho nên chúng ta trong ngày thường phải bồi dưỡng: niềm tin đối với Phật, niềm tin đối với Thế giới Cực Lạc, niềm tin đối với đức Thích Ca Mâu Ni Phật, niềm tin đối với Pháp môn được nói, không được có chút nghi ngờ. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ-tát!

          Cổ nhân nước ta, giáo dục nước ta thời xưa, từ nhỏ đã bồi dưỡng tín tâm của họ, dạy Ngũ thường, Ngũ thường là đức, đức hạnh căn bản của làm người. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, là Tánh đức. Niềm tin đối với Thánh Hiền, đối với Tổ tông, trước nay chưa từng có nghi ngờ; có niềm tin đối với người khác, tánh người vốn thiện, không tin thế gian này có người xấu. Người xấu là chưa được qua giáo dục, tập tánh đã học điều xấu, không phải Bản Tánh của họ, Bản Tánh thuần tịnh thuần thiện. Cho nên nói: 「性相近,習相遠」Tánh tương cận, tập tương viễn”, chữ “tập” chính là thói quen, là ô nhiễm. Vì vậy người nào cũng có chỗ đáng kính, có lúc đáng kính, có việc đáng kính, làm sao có thể thất kính? Bồ-tát Phổ Hiền không như vậy, ngài đã làm được lễ kính viên mãn, thật sự là dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tu tất cả cung kính.

          Trong sách Chân Giải nói, hạnh Đạo sư: tức là Mi Đà Thế Tôn bình đẳng tiếp dẫn không có bỏ sót. 「又大導師者即彌陀世尊以本願引攝五乘」Hựu Đại Đạo sư giả, tức Mi Đà Thế Tôn, dĩ bổn nguyện dẫn nhiếp Ngũ thừa”(Thêm nữa Đại Đạo sư, tức là đức Mi Đà Thế Tôn, dùng bổn nguyện dẫn dắt nhiếp thọ Ngũ thừa), Ngũ thừa là chỉ tất cả chúng sanh trong pháp giới. Ngoài Tam thừa, Tam thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát; lại thêm người, trời: [đó là] Ngũ thừa. Dẫn dắt nhiếp thọ, cũng tức là tiếp dẫn đại chúng vãng sanh Thế giới Cực Lạc. 「故今本師演說本經正是住彌陀之所行也」Cố kim Bổn sư diễn thuyết bổn Kinh, chánh thị trụ Mi Đà chi sở hạnh dã”(Nên nay đức Bổn sư diễn thuyết Kinh này, chính là trụ nơi hạnh của đức Mi Đà). Hạnh của A Mi Đà Phật, chính là tiếp dẫn đại chúng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ: trong cõi nước tất cả chư Phật: của mười Pháp giới. Năm hạng người đó, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, trời, người. Trên thực tế còn bao gồm: Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục, đây là ba đường ác. Chúng sanh của tam ác đạo, trong vô lượng kiếp quá khứ, đã kết duyên với A Mi Đà Phật, từng tu Pháp môn này, trong A-lại-da hàm chứa: Chủng tử của Tịnh Độ. Chư Phật Bồ-tát hoá thân ở trong đường ác, giúp họ giác ngộ, giúp họ niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Trong Phật môn có một quyển sách nhỏ là: 《物猶如此》Vật Do Như Thử” (Loài Vật Mà Còn Như Vậy), chuyên môn là kể về đường Súc sanh niệm Phật vãng sanh, thật có. Hiện nay vẫn có, quý vị chỉ cần lưu ý thì quý vị sẽ phát hiện, quý vị sẽ thấy được. Súc sanh niệm Phật, trong đời quá khứ chúng là người niệm Phật, công phu niệm Phật vẫn không tệ, lúc mạng sắp hết một niệm sai lầm, đoạ vào đường Súc sanh, không thể vãng sanh. Bởi công phu niệm Phật rất sâu, nên dù đã làm súc sanh, nhưng chúng sám hối, chúng hối hận chúng biết sai rồi, cho nên chúng thấy được tượng Phật, thấy được người niệm Phật, chúng cung kính.

          Ngày nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật diễn thuyết bộ Kinh này, chính là trụ vào nơi hạnh của đức Mi Đà. Vô cùng hiếm có khó gặp, chúng ta có thể ở trong thế gian này, có thể ở ngay trong cảnh giới hiện tiền này, gặp được lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bản mới này cho chúng ta, quá hiếm có! Khiến cho những người không đủ thiện căn chúng ta, thấy được bộ Kinh này thì được bổ túc thiện căn, vì sao vậy? Bởi không nghi ngờ nữa, Ngài nói rất rõ ràng, nói rất sáng tỏ. Kinh Vô Lượng Thọ của bản Trung văn hiện nay: có chín loại phiên bản. Ngoài năm bản dịch gốc, còn có bản Hội Tập của ngài Vương Long Thư, bản Hội Tập của ngài Nguỵ Mặc Thâm, bản Tiết Hiệu của ngài Bành Thiệu Thăng, là tám loại bản, lại thêm bản Hội Tập này: của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, là chín bản. Trước đây chúng tôi đem chín loại bản này: đều in cùng nhau, in thành một quyển, thuận tiện cho mọi người tham khảo, quý vị xem xét quý vị ưa thích bản nào. Bản này xuất hiện, đã độ nhiều người, rất nhiều [người] chưa được độ, nhưng gặp được bản này thì được độ, công đức vô lượng vô biên. Học trò của Hạ lão là lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, [dùng] thời gian 6 năm làm thành Tập Chú cho chúng ta, đây là trí huệ Chân Thật. Nếu do chính ngài chú giải, thì người thông thường chúng ta không tin, ngài dùng phương pháp khác, dùng kinh để chú giải kinh, khiến chúng ta tin phục, dùng khai thị của Tổ sư Đại đức để chú giải kinh, ngài đã dùng 83 loại kinh luận, 110 loại Chú Sớ của Tổ sư Đại đức. Cho nên, Kinh là bản Hội Tập, Chú Giải cũng là bản Hội Tập, tận đáy lòng chúng ta kính phục. Chính ngài khiêm tốn, đã nói thấu triệt nghĩa lý của bộ Kinh này. Khiến cho chúng ta đọc rồi thì đoạn nghi sanh tín, tín tâm kiên định, nguyện tâm vững chắc, nhất định được sanh Tịnh Độ, điều này quan trọng hơn tất cả. Hai vị Đại đức ấy: xuất hiện ở thời đại này của chúng ta, cần phải đặc biệt cảm ân, đó là Bồ-tát tái lai, không phải người phàm, người phàm làm không được.

          Thế nhưng thời đại ngày nay: là thời đại của Khoa học, Khoa học nói điều gì? Thứ nhất là dạy chúng ta nghi ngờ, chúng ta dùng tâm nghi ngờ: thì không vào được cửa ấy, vào Khoa học thì được, chứ không vào được học vấn Thánh Hiền. Học vấn của Thánh Hiền phải chân thành, phải cung kính, dùng tâm thanh tịnh để tiếp nhận; Khoa học thì không cần, không cần tâm cung kính, không cần tâm chân thành cũng có thể học được. Đây là chỗ khác: của học thuật Thánh Hiền so với Khoa học. Không thể dùng phương pháp của Khoa học để học kinh giáo, dùng phương pháp của Khoa học để niệm Phật không thể thành công. Kết luận đạt được của việc học Khoa học vẫn là Khoa học, Phật pháp là học vấn của Tâm Tánh, nên phương pháp Khoa học không cách nào giúp chúng ta: Minh tâm Kiến tánh. Với lời đức Phật nói, Khoa học: có thể giúp chứng thực được một phần, khiến chúng ta sanh khởi niềm tin: đối với Phật pháp, đối với điều mà đức Phật nói, với lời Tổ sư Đại đức nói, có lúc có thể đạt được lợi ích đó.

          Câu Kinh văn tiếp theo đây, 「最勝之道」tối thắng chi đạo”(đạo thù thắng nhất). 「《淨影疏》曰無上菩提是最勝道。」Tịnh Ảnh Sớ viết: Vô thượng Bồ-đề, thị tối thắng đạo”(Trong Tịnh Ảnh Sớ viết: Vô thượng Bồ-đề, là đạo thù thắng nhất). Điều mà quả vị Diệu Giác của Đại thừa chứng được: là đạo tối thắng, không có gì vượt qua được, gọi là Vô thượng Bồ-đề. Vô thượng chính là tối thắng. Bồ-đề là tiếng Phạn, dịch thành tiếng nước ta là giác ngộ, sự giác ngộ cứu cánh, sự giác ngộ viên mãn. Không phải tán thán, mà là sự thật, chân thật là không gì không biết, không gì không thể. Thật sự chứng được rồi, đức Thích Ca Mâu Ni Phật chứng được, Cư sĩ Duy Ma chứng được, trong hàng Đệ tử của đức Phật, các Bồ-tát chứng được, ngay trong hàng Cư sĩ tại gia: cũng có không ít người đã chứng đắc, có thể thấy đó không phải là giả, quý ngài nói là sự thật. Thật tu thế nào mới có thể chứng được? Đại sư Chương Gia nói với tôi: nhìn thấu, buông xuống thì chứng được thôi. Nhìn thấu, hiểu rõ chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật, trong Kinh Bát Nhã: giảng rõ ràng nhất, thấu triệt nhất, là thật chẳng phải giả, 「凡所有相,皆是虛妄」phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”(những gì có tướng, đều là không thật). Nghe đến câu này không phải tiêu cực, mà đó là chân tướng sự thật. Quý vị nhất định phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ kinh giáo Đại thừa, mới giải quyết được vấn đề, mới không đến nỗi sanh ra hiểu lầm.

          Những điều mà Phật dạy không thể tưởng tượng, dùng ý kiến của chính mình để giải thích, càng giải nghĩa càng sai lầm. Vì sao vậy? Bởi đức Phật là từ trong Đại Tịch Định mà lưu xuất ra. Phía trước vừa mới học qua, Đại Tịch Định là gì? Là Chân Tâm, chân thành đến tột cùng, không có chút giả dối, không có một Vọng niệm, mà là rất tự nhiên lưu xuất ra. Chúng ta cũng phải trụ Đại Tịch Định mới hiểu được, không thể vào Đại Tịch Định, thì cũng phải có mấy phần công phu định, công phu định lực càng sâu thì quý vị biết càng nhiều, biết cũng càng sâu càng rộng. Không có công phu định lực, tâm tình nông nổi, thì hoàn toàn không hiểu. Nghe không hiểu còn muốn phê bình, nói Phật đã dạy sai, họ dựa vào điều gì? Họ dựa vào Khoa học, Phật nói không giống với nhà Khoa học nói, dùng tiêu chuẩn của Khoa học gia để nhìn Phật pháp, thì Phật hoàn toàn sai. Khoa học ở xã hội ngày nay vô cùng phổ biến, mọi người đều là dùng cách nhìn của Khoa học, để nhìn tất cả pháp, đối với Phật pháp, đối với văn hoá truyền thống của nước ta: cũng không ngoại lệ, không tương ưng với Khoa học thì chính là cặn bã, có lẽ phải nên bỏ đi, vậy thì khó rồi.

          Phật pháp coi trọng tâm pháp, hiện nay nói duy tâm, duy vật. Phật pháp coi trọng duy tâm, cũng không xả bỏ duy vật. Pháp Tướng tông đối với Tướng của vật, nói vô cùng rõ ràng. Phật pháp Đại thừa là viên mãn, là cứu cánh, nhưng Đại thừa có độ sâu nhất định, những độ sâu đó là nói với ai? Là nói với người thanh tịnh bình đẳng giác, quý ngài nghe được sẽ khai ngộ, sẽ Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Chúng ta quan sát kỹ lão Hoà thượng Hải Hiền, cho đến Sư phụ của ngài, lão Pháp sư Truyền Giới, có dấu hiệu để cho chúng ta nhìn ra, quý ngài thật sự là người khai ngộ. Khai ngộ không liên quan với việc từng đọc sách hay không, cũng chẳng liên quan với việc từng đi học hay chưa. Đại sư Huệ Năng vào triều nhà Đường: không biết chữ, chưa từng đọc qua sách, đã làm công quả tám tháng ở Hoàng Mai, mỗi ngày giã gạo chẻ củi. Việc giã gạo bổ củi đó của ngài: không trở ngại ngài dụng công, ngài dụng công thế nào? Nhìn được thấu, buông được xuống, ngài là dùng công phu này. Thật đã nhìn thấu, thật đã buông xuống, nên Ngũ tổ Hoà thượng Hoằng Nhẫn truyền y bát cho ngài. Thật sự đã Minh tâm Kiến tánh, Hình dáng của Tánh là thế nào? Là 20 chữ của ngài báo cáo, đó chính là miêu tả đơn giản đối với Tự Tánh. Tự Tánh tức là Chân Tâm, chính là Bản Tánh, Chân Như Bản Tánh là thanh tịnh, không có ô nhiễm, không sanh không diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không dao động, năng sanh vạn pháp. Ngũ tổ vừa nghe, là thật, chẳng phải giả, liền trao cho ngài y bát.

          Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cây Bồ-đề, đêm nhìn sao sáng, Đại triệt Đại ngộ, cũng đã làm báo cáo, tình hình của Kiến tánh là thế nào? Ngài ở trong định đã nói: một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đó chính là nói chi tiết, thuyết minh tường tận tình hình của Tự Tánh. Bộ Đại Kinh ấy, lưu truyền trên thế giới của chúng ta: Kinh Hoa Nghiêm đó, thật ra: đó là mục lục tóm tắt của: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Giống như Tứ Khố Toàn Thư vậy, dung lượng của Tứ Khố Toàn Thư quá lớn. Ông Kỷ Hiểu Lam đã viết một bộ mục lục tóm tắt, trong mỗi bộ kinh nói những nội dung gì, nêu ra đơn giản sơ lược, có năm quyển, Toàn Thư gồm 1500 quyển, tóm tắt thì năm quyển. Kinh Hoa Nghiêm, do Bồ-tát Long Thọ thấy được, phân lượng bao lớn? Mười Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần kệ, Nhất Tứ Thiên Hạ vi trần phẩm. Nếu chuyển sách này: đến trên địa cầu chúng ta đây thì không để được, chuyển đến hệ ngân hà chúng ta đây cũng không để được. Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần kệ, Nhất Tứ Thiên Hạ vi trần phẩm, cất giữ ở nơi nào? Trong Long Cung của Bồ-tát Đại Long. Bồ-tát Long Thọ đã có duyên gặp được. Lại xem Trung bản, phân lượng vẫn là quá lớn, chúng sanh Diêm Phù Đề: không có năng lực thọ trì bộ Đại Kinh này. Sau cùng xem Tiểu bản, Tiểu bản chính là mục lục tóm tắt, bản đó thì được, 100 ngàn kệ, 40 phẩm, là trọng điểm tóm tắt của Kinh Hoa Nghiêm. Năm xưa đức Thế Tôn là thuyết tỉ mỉ. Bộ Kinh Hoa Nghiêm ấy nói những gì? Chính là: 20 chữ của Đại sư Lục tổ Huệ Năng đã nói, Kinh Hoa Nghiêm cô đọng lại: chỉ 20 chữ ấy, triển khai là: Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần kệ.

          Lục tổ Đại sư Huệ Năng biết, hơn 40 người theo ngài học tập, khai ngộ ở dưới tay ngài, hơn 40 người đều vào cảnh giới đó, không phải là giả. Tổ sư Đạt Ma đến nước ta, chỉ đơn truyền, truyền đến ngài Huệ Năng, thì Pháp môn Thiền tông hưng thịnh không gì bằng. Chùa chiền ở nước ta đều gọi là Thiền tự, người học tập nhiều, Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, hơn 40 người, ở trong Kinh Hoa Nghiêm, địa vị của quý ngài là Sơ trụ trở lên. Những người ấy không cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, thì các ngài đến nơi nào? Các ngài đến Thế giới Hoa Tạng, Thật Báo Trang Nghiêm độ của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều đã đến nơi đó, đến bên ấy để làm Phật. Đây là điều mà chúng ta cần phải biết, chúng ta sanh khởi tín tâm từ chỗ này, sanh khởi tâm cung kính vô thượng đối với Đại pháp của Như Lai, chúng ta triển khai quyển kinh, mới thấy được ra một chút cửa đạo. Từng câu từng chữ của quyển kinh sâu không có đáy, rộng không có biên giới. Cho nên, đọc trăm lần không chán, đọc ngàn lần không chán, đọc vạn lần không chán, lần nào cũng xuất hiện ý nghĩa mới. Kinh không có ý nghĩa, trụ Đại Tịch Định mà giảng. Không có ý nghĩ ở trong, người học tập chúng ta, ở trong Kinh điển này, thể hội được vô lượng nghĩa của từng chữ từng câu. Đọc sách thế gian không thể sánh bằng, sách thế gian là từ trong bộ não của người ta, trong suy nghĩ mà viết ra; Còn đây là xứng Tánh, trong Tự Tánh lưu xuất ra, không có ý nghĩa. Bởi không có ý nghĩa, nên mới có thể trở thành vô lượng nghĩa; Có ý nghĩa, thì chỉ là cách nói đó, không thể làm cách giảng thứ hai, cách nói thứ hai thì đã giảng sai. Kinh điển không thể nghĩ bàn, Phật pháp bất khả tư nghì, Tịnh Độ bất khả tư nghì, tín nguyện trì danh không thể nghĩ bàn, đây là đạo Vô thượng Bồ-đề tối thắng.

          「又《會疏》釋曰:於一切世出世中無有倫匹」Hựu Hội Sớ thích viết: ư nhất thiết thế xuất thế trung vô hữu luân thất”(Và [trong] Hội Sớ giải thích rằng: ở trong thế gian và xuất thế gian không có gì sánh bằng). Thật vậy, hiện nay chúng ta xem lời này thì chúng ta tin, tất cả thế gian, xuất thế gian: không pháp nào có thể so sánh với pháp này. 「《甄解》曰:最勝道者,念佛往生一道」Chân Giải viết: tối thắng đạo giả, niệm Phật vãng sanh nhất đạo”(Trong sách Chân Giải viết: đạo tối thắng, là một đạo niệm Phật vãng sanh), rất rõ ràng, rất sáng tỏ, 「於一切方便中,無上最勝故」ư nhất thiết phương tiện trung, vô thượng tối thắng cố”(bởi ở trong tất cả phương tiện, [là pháp] vô thượng thù thắng nhất). Nếu quý vị bỏ đi, tìm pháp khác, vậy thì thật đáng thương, đó là ngu si. 「又最勝道者解脫德,《涅槃經》云:無上上,真解脫」Hựu tối thắng đạo giả Giải thoát đức, Niết Bàn Kinh vân: Vô thượng thượng, chân giải thoát”(Thêm nữa đạo tối thắng là Đức giải thoát, [trong] Kinh Niết Bàn nói: Vô thượng thượng, thật giải thoát), giải thoát là được đại tự tại, giải là giải mở, thoát là thoát ly, thoát khỏi tất cả khổ, giải mở tất cả Phiền não Tập khí, quay về Tự Tánh, được cứu cánh vui, 「故無上上,即最勝義」cố Vô thượng thượng, tức Tối thắng nghĩa”(cho nên Vô thượng thượng, tức là Nghĩa tối thắng). 「《甄解》之兩說,互為表裡,因念佛即無上上最勝之道,往生必證涅槃也。」Chân Giải chi lưỡng thuyết, hỗ vi biểu lý, nhân niệm Phật tức Vô thượng thượng tối thắng chi đạo, vãng sanh tất chứng Niết-Bàn dã”(Hai thuyết của Chân Giải, bổ sung trong ngoài lẫn nhau, bởi niệm Phật tức là đạo tối thắng Vô thượng thượng, vãng sanh chắc chắn chứng Niết-Bàn). Niết-Bàn này là Đại Bát-Niết-Bàn: mà Như Lai chứng được, không phải là sự chứng đắc của Thanh văn Duyên giác.

          「又正當念佛時,心作心是」Hựu chánh đương niệm Phật thời, tâm tác tâm thị”(Và chính lúc đang niệm Phật, tâm này làm Phật tâm này là Phật), tâm này làm Phật, tâm này là Phật, 「當下即是,即無上上解脫時也」đương hạ tức thị, tức Vô thượng thượng giải thoát thời dã”(ngay đó chính là, là lúc giải thoát Vô thượng thượng). Vậy tôi ngày nào cũng niệm, mà cảnh giới đó không hiện tiền, là do nguyên nhân gì? Có nguyên nhân. Trong niệm Phật của quý vị có xen tạp, có Vọng niệm, nên quý vị không đạt được cảnh giới đó. Phương pháp của ngài Quán Âm, ngài Thế Chí dạy chúng ta, có thể dùng thử xem, dùng phương pháp đó của ngài Quán Âm, ngài Thế Chí, giống với lời giảng này. Bồ-tát Quán Âm dạy chúng ta phản văn, 「反聞聞自性性成無上道」phản văn văn Tự Tánh, Tánh thành Vô Thượng đạo, Bồ-tát Đại Thế Chí dạy chúng ta 「都攝六根」đô nhiếp lục căn”, nhưng sáu căn của quý vị cũng không nhiếp được căn nào, cho nên công phu niệm Phật của quý vị không đắc lực. Thế nào là phản văn? Là chuyên nghe Phật hiệu, nghe Phật hiệu của chính mình niệm Phật. Đặc biệt là niệm thầm, không phải Kim cang trì, Kim cang trì là miệng động, miệng hoàn toàn không động, trong tâm đang niệm Phật, có âm thanh không? Có. Tai nghe âm thanh niệm Phật trong tâm, không nên nghe bên ngoài, đó gọi là phản văn. Đó là tâm hoàn toàn: tập trung chú ý ở trên Phật hiệu, không nghe thấy những thứ bên ngoài. Đây mới là: thật sự buông xuống lục căn ở trên cảnh giới lục trần, nhiếp trọn sáu căn. Quý vị dùng phương pháp đó nhất định có hiệu quả, ngay lập tức chính là lúc giải thoát Vô thượng thượng. 「今日釋尊將演彌陀之妙法故住於彌陀之所住行彌陀之所行念彌陀之所念故云住諸佛所住最勝之道」Kim nhật Thích Tôn tương diễn Mi Đà chi diệu pháp, cố trụ ư Mi Đà chi sở trụ, hạnh Mi Đà chi sở hành, niệm Mi Đà chi sở niệm, cố vân trụ chư Phật sở trụ tối thắng chi đạo”(Nay đức Thích Ca Thế Tôn sắp diễn nói diệu pháp của đức Mi Đà, nên trụ nơi mà đức Mi Đà trụ, hành hạnh mà đức Mi Đà hành, niệm điều mà đức Mi Đà niệm, nên nói trụ đạo tối thắng mà chư Phật trụ). Nói thật hay, quá tuyệt vời. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.

(Hết tập 126)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.

Trả lời 0