Responsive Menu
Add more content here...

Tập 129 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Duyên Khởi Của Đại Giáo

TẬP 129

Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 07 tháng 11 năm 2014.

Dịch giả: Vũ Văn Trà.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

Bạch thầy A-xà-lê thương xót chứng minh! Con Đệ tử Diệu Âm, kể từ hôm nay, cho đến suốt đời, con xin quy y Phật, bậc lưỡng túc tôn; Con xin quy y Pháp, tôn quý trong pháp ly dục; Con xin quy y Tăng, hàng tôn quý trong tất cả chúng. (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 365, hàng thứ ba từ trái sang, khoa đề: 「真實利生」“Chân thật lợi sanh”(Thật sự lợi ích chúng sanh). Mời xem văn Kinh:

【光闡道教。欲拯群萌。惠以真實之利。】“Quang xiển đạo giáo, dục chẩn quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi”(Làm rạng rỡ xiển dương Phật giáo, mong cứu quần sanh, ban cho lợi ích chân thật).

Cho nên, khoa đề của chúng ta, là chân thật lợi ích tất cả chúng sanh. Chúng ta xem chú giải của Niệm lão, 『光闡道教,欲拯群萌』“quang xiển đạo giáo, dục chẩn quần manh”(làm rạng rỡ xiển dương Phật giáo, mong cứu quần sanh), 「光者,明也,大也,廣也」“quang giả, minh dã, đại dã, quảng dã”(quang: là làm sáng tỏ, là lớn, là rộng), có ba ý nghĩa này. 「闡者,開也」“Xiển giả, khai dã”(Xiển: là mở ra). 「道教,指正道實教」“đạo giáo, chỉ chánh đạo Thật giáo”(Đạo giáo: chỉ Chánh đạo Thật giáo), là giáo huấn chân thật, 「即諸佛之教化」“tức chư Phật chi giáo hoá”(tức là giáo hoá của chư Phật), tất cả chư Phật thị hiện trong mười Pháp giới, trong chúng sanh Lục đạo, chỉ dạy tất cả chúng sanh, đều bao gồm trong danh từ này, 「總指世尊一代時教」“tổng chỉ Thế Tôn Nhất đại Thời Giáo”(tóm lại chỉ Nhất đại Thời giáo của đức Thế Tôn). Thế Tôn, là đức Thích Ca Mâu Ni Phật; Nhất đại Thời giáo, là thời đại đó của đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện. Theo ghi chép của cổ Đại đức Trung Hoa, thì đức Phật Diệt độ đến năm nay: là 3041 năm; ghi chép của người phương Tây: là hơn 2500 năm, chênh lệch nhau khoảng 600 năm. Loại nào ghi chép chính xác? Đều có căn cứ. Do thời gian, không gian đều chẳng phải thật, nên không cần dùng thời gian để khảo chứng, quan trọng nhất là nghĩa lý của Kinh: phải thật sự thông suốt hiểu rõ.

Đức Thế Tôn trụ thế 80 năm, người nước ta tính tuổi mụ, người nước ngoài nói tuổi tròn là 79 tuổi. Lúc tại thế, 19 tuổi buông bỏ quyền kế thừa ngôi vua, xả bỏ đời sống vinh hoa phú quý trong cung đình. Chúng ta đã học Phật, quán sát kỹ lưỡng, biểu diễn của đó đức Phật là buông xuống Phiền não chướng. Sau đó, Ngài lại dùng thân phận: là tầng lớp trí thức. Trong xã hội, tuyệt đại đa số là tầng lớp tri thức, tầng lớp tri thức học rộng nghe nhiều, ưa thích sự việc này. Cho nên, sau khi Ngài rời khỏi gia đình, thời ấy Ấn Độ là khu vực: Tôn giáo học thuật vô cùng hưng thịnh. Ngài học qua tất cả Tôn giáo, Ngài cũng từng thân cận tất cả học phái, đã học 12 năm, cho rằng không thể giải quyết vấn đề, nên ngay sau đó đã buông xuống, đó là buông xuống Sở tri chướng. Hai chướng, 19 tuổi buông xuống Phiền não chướng, 30 tuổi buông xuống Sở tri chướng, đi làm gì vậy? Đã đi nhập định, ở dưới cây Tất-bát-la nhập định, buông xuống vạn duyên. Buông xuống Phiền não chướng, tâm thanh tịnh hiện tiền; Buông xuống Sở tri chướng, tâm bình đẳng hiện tiền. Nửa đoạn sau của đề Kinh Vô Lượng Thọ: là “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”, Ngài dùng tâm thanh tịnh, bình đẳng để tu định, ở dưới cây Tất-bát-la: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Kiến Tánh tức là khai ngộ, chính là Giác trên đề Kinh, giác ngộ triệt để rồi. Sau khi tự giác mới có thể giác tha, chính mình chưa giác ngộ triệt để: thì làm sao dạy được người khác? Chúng ta phải biết điểm này. Chính chúng ta chưa đoạn Phiền não, chưa phá Sở tri chướng, mà đã bắt đầu giáo hoá chúng sanh, thì dạy chúng sanh thành mê hoặc điên đảo, không biết làm thế nào, loại hiện tượng này là bình thường.

Sau khi đức Thích Ca Diệt độ 1000 năm, thì Phật giáo truyền đến Trung Hoa. Pháp vận của đức Phật chia làm ba thời kỳ, thời kỳ Chánh pháp, là 1000 năm sau khi Phật Diệt độ; Thời kỳ Tượng pháp, 1000 năm thứ hai sau khi Phật Diệt độ; Từ sau 1000 năm thứ ba, tổng cộng mười ngàn năm, gọi là thời kỳ Mạt pháp, Pháp vận của đức Phật tổng cộng là 12 ngàn năm. Cho nên, hoàn toàn chính xác: là 1000 năm sau khi Phật Diệt độ: Phật giáo truyền đến Trung Hoa, truyền đến Trung Hoa là thời kỳ Tượng pháp của Phật giáo. Sau 1000 năm, thời gian đó là 1000 năm thứ hai: là triều nhà Hán của Trung Hoa, sau 1000 năm đến thời kỳ Tượng pháp, thời Tuỳ Đường là Tượng pháp. Thời kỳ Chánh pháp Giới Luật thành tựu, thời kỳ Tượng pháp Thiền định thành tựu, thời kỳ Mạt pháp Tịnh Độ thành tựu, đây là đức Phật dạy trong Kinh Đại Tập. Chúng ta quan sát tỉ mỉ, chúng ta sanh ở thời kỳ Mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật: 1000 năm thứ nhất, và bắt đầu của 1000 năm thứ hai. Năm nay là năm thứ 41 của 1000 năm thứ hai. Nếu tuổi của chúng ta là 60, 70 tuổi, thì đó là cuối cùng của 1000 năm thứ nhất, và giai đoạn đầu của 1000 năm thứ hai; Nếu tuổi tác chúng ta là 41 tuổi; vậy thì vừa đúng gặp được: 1000 năm thứ hai trong một vạn năm Mạt pháp: của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vẫn coi là không tệ.

Tình hình của Phật pháp sau này ra sao? Tôi nghĩ đồng học học Phật chúng ta: đều rất quan tâm, tôi cũng không ngoại lệ. Thời trẻ, tôi thỉnh giáo với Đại sư Chương Gia: về Phật pháp của từ nay về sau. Thầy nói với tôi, có hưng có suy, hưng suy chẳng phải do pháp mà do người, tâm người thiện, Phật pháp bèn hưng thịnh; tâm người bất thiện thì Phật pháp bèn suy. Một vạn năm của Mạt pháp, thiện ác của tâm người: quả thật có hưng có suy, then chốt là ở chỗ nào? Quan trọng vẫn là ở giáo dục, giáo hoá của chư Phật. Thế gian này có giáo hoá của Phật, Phật pháp liền hưng vượng, chúng sanh là thiện; Không có giáo hoá của Phật, thì chúng sanh là bất thiện, Phật pháp liền suy. Chúng ta thấy được hiện tượng này rồi, tự mình đã thể nghiệm được, giáo hoá quan trọng. Tiêu chuẩn của cổ nhân, sau khi khai ngộ: mới được giảng Kinh, mới được thuyết pháp. Chúng ta chưa khai ngộ, làm thế nào? Thầy dạy bảo chúng tôi, người chưa khai ngộ chúng ta giảng chú giải, người chú giải sai thì quý ngài chịu trách nhiệm, chúng ta chỉ cần đem chú giải: không giảng sai là được, điều này là tốt. Chân chánh phát tâm giảng chú giải, cũng sẽ đạt được sự gia trì của chư Phật Bồ-tát, giúp quý vị khai mở trí huệ. Chúng ta không làm được Triệt ngộ, thời kỳ Mạt pháp không có nữa; nhưng có khả năng Đại ngộ; Tiểu ngộ thì càng dễ dàng. Then chốt của mê hay ngộ là ở buông xuống, vì sao quý vị không ngộ? Bởi chưa buông xuống danh văn lợi dưỡng, chưa buông xuống Ngũ dục Lục trần, chưa buông xuống tham sân si mạn. Thất tình Ngũ dục vẫn đang quấy phá, đó chính là nguyên nhân của quý vị không khai ngộ. Buông được càng nhiều, thì điều quý vị ngộ: là càng sâu càng rộng. Cho nên học Phật, Đại sư Chương Gia nói với tôi, chính là học buông xuống, học nhìn thấu. Quan trọng nhất là buông xuống, buông xuống mới nhìn được thấu, nhìn thấu sẽ giúp quý vị buông xuống nữa. Bốn chữ này, nhìn thấu giúp buông xuống, buông xuống giúp nhìn thấu, bổ trợ cho nhau, từ mới phát tâm đến địa vị Như Lai. Người thật dụng công phu, điều này chính là con đường thành Phật. Nhìn thấu mà không buông xuống thì bằng với chưa nhìn thấu.

Tiếp theo nói Nhất đại Thời giáo của đức Thế Tôn, chính là sau khi đức Phật khai ngộ thì bắt đầu dạy học, cả đời chưa từng có một ngày không giảng Kinh, không thuyết pháp, ngày nào cũng giảng, đã giảng 49 năm. Trong Kinh điển ghi chép, giảng Kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm. Tất cả Kinh được giảng trong 49 năm, chính là điều được nói sau đây: 「八萬四千法門」“bát vạn tứ thiên Pháp môn”(84 ngàn Pháp môn). Trong Kinh Kim Cang, đức Phật nói với chúng ta, 法門平等,無有高下“Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ“(Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp), có câu này, đó chính là nói rõ: 84 ngàn Pháp môn, mỗi một môn đều có thể giúp quý vị thành Vô thượng đạo. Cho nên đó là bình đẳng, then chốt chỉ là quý vị có biết dùng hay không. Lý niệm dạy học của đức Phật, Ngài dạy cho chúng ta, lý niệm là: nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. 84 ngàn Pháp môn, tuỳ thích Pháp môn nào cũng được, nhưng chỉ thâm nhập một môn, không được làm hai môn, ba môn. Chúng ta đi vào căn phòng này, phòng này chỉ có một cửa, quý vị chỉ có thể từ một cửa mà vào. Nếu có hai cửa, ba cửa, thì quý vị không thể đồng thời vào từ hai cửa, quý vị càng không thể cùng lúc đi vào từ ba cửa. Chẳng thể không hiểu đạo lý này.

Ngày nay, rất rất nhiều đồng học học Phật, thật sự người đời nay không như người xưa, người xưa học 3 năm, quý ngài có thể giảng một bộ Kinh; người thời nay học 3 năm cũng chẳng thể giảng một bộ, nguyên nhân là gì? Do họ đã học quá nhiều, học quá tạp. Sắp xếp môn học của Phật Học viện: không y theo thâm nhập một môn của cổ nhân để sắp xếp, mà giống với trường học thông thường hiện nay, đồng thời xếp rất nhiều khoá trình, mỗi khoá trình có một vị thầy để dạy, mỗi ngày có quá nhiều vị thầy đến dạy quý vị. Tư tưởng của mỗi thầy khác nhau, phương pháp dạy học khác nhau, nên quý vị chỉ nghe được chút thường thức, quý vị không thể thâm nhập Kinh giáo, vấn đề là ở chỗ đó. Không giống với thời xưa, thời xưa chẳng những Phật pháp, mà ngay cả nhà Nho nhà Đạo, đều đã tiếp nhận phương pháp này của Phật pháp, phương pháp này tốt. Mục đích cổ nhân dạy học là gì? Là được Tam-muội, là khai ngộ, dùng điều này làm mục tiêu. Người thời nay không như vậy, người đời nay gọi là quảng học đa văn, quý vị học rất nhiều, thường thức rất phong phú, ghi nhớ rất nhiều. Từ xưa nước ta đã nói đến, 「記問之學,不足以為人師也」“ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư dã”(học vấn do ghi nhớ, không đủ để làm thầy người). Câu nói này nói rất nghiêm trọng, nhớ được nhiều hơn, biết nhiều đi nữa, nhưng quý vị không có công phu sức định, quý vị chưa khai ngộ, thì quý vị không thể làm thầy của người khác. Hiện nay thầy của người khác chính là học rộng nghe nhiều, họ học rất nhiều, họ nhớ rất nhiều.

Tố chất của thầy xưa và nay khác nhau. Thời xưa thầy coi trọng giác ngộ. Ngộ có Triệt ngộ, có Đại ngộ, có Tiểu ngộ, chí ít họ có Tiểu ngộ, dạy Tú tài trẻ thơ. Họ học những môn học là từng môn từng môn, nhất môn thâm nhập, trình độ thâm nhập: tiêu chuẩn của mỗi vị thầy là khác nhau. Thời trẻ chúng tôi ở Đài Trung: học Kinh giáo với thầy Lý, tiêu chuẩn của thầy Lý, đó đều là hạ xuống không ngừng, giảm đến không thể giảm nữa, tiêu chuẩn thầy đề ra, quý vị học bộ Kinh này phải giảng 10 lần, thì quý vị mới được học bộ thứ hai, chưa giảng qua 10 biến, thì không thể học bộ tiếp theo. Điều này đại khái là khai mở nhất trong tiêu chuẩn, mức độ đã thấp nhất. Mười lần là để cho quý vị nhuần nhuyễn, số lần càng nhiều càng tốt, càng nhiều thì tâm quý vị đã định, định có thể khai Huệ. Tâm không định thì không có chỗ ngộ, tâm chỉ có định xuống thì họ mới có thể khai ngộ. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta liền sẽ khẳng định, không nghi ngờ nữa, cả đời tôi chỉ học một bộ Kinh, tôi không cần học bộ thứ hai. Vì sao vậy? Tôi tu Định ở trên bộ Kinh này, từ Tiểu Định đến Đại Định, thẳng đến vốn Định của Tự Tánh. Đó là Đại triệt Đại ngộ, là Minh tâm Kiến tánh, thật có thể đạt được. Cho nên, 84 ngàn Pháp môn, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, mỗi một môn đều có thể giúp quý vị: Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật. Cho nên, học Kinh giáo, thực ra mà nói: là dùng phương pháp Kinh giáo này để tu Thiền định, là ý nghĩa đó, công phu định lực của quý vị càng sâu, thì quý vị giải thích Kinh giáo lại càng thấu triệt, quý vị giảng Kinh này 100 lần: là 100 kiểu dáng, giảng 1000 lần là 1000 hình trạng, lần nào cũng khác. Kinh chưa từng giảng, vừa nghe đã sáng tỏ, vừa xem liền hiểu, đều không có chút chướng ngại nào, đó gọi là thông một Kinh thì thông tất cả Kinh, thông một môn thì môn nào cũng thông. Phải hiểu đạo lý này, đó là thật, không phải là giả. Đức Phật muốn độ vô lượng chúng sanh, căn tánh chúng sanh không giống nhau, vậy thì phải dùng vô lượng Pháp môn, vô lượng Pháp môn là ý nghĩa đó. Người học chỉ cần học một môn, không cần học hai môn.

Giới Luật là cắm gốc, không có gốc này thì quý vị không có Định, do Giới được Định. Giới là gì? Giới là bảo quý vị buông xuống, Buông xuống vạn duyên, tâm thanh tịnh mới có thể hiện tiền, buông xuống tất cả pháp, tâm quý vị mới bình đẳng. Tâm quý vị không bình đẳng, tâm không thanh tịnh, là phàm phu, phàm phu Lục đạo. Tâm thanh tịnh chứng quả A-la-hán, tâm bình đẳng là Bồ-tát, giác, đó là Tự Tánh vốn định khởi tác dụng. Bất luận đối với pháp nào, như lời Đại sư Huệ Năng đã nói: 何期自性,能生萬法“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp“(Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp), vạn pháp đó là vũ trụ, toàn thể vũ trụ, đó là vạn pháp. Tự Tánh đã như vậy có thể sanh vạn pháp, quý vị kiến Tánh rồi, đâu có đạo lý không rõ vạn pháp? Không cần học tự nhiên liền sáng tỏ vạn pháp. Cho nên, tu học của Phật giáo, mục tiêu cuối cùng chính là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Chưa đến tầng ấy thì quý vị vẫn phải học, đến cảnh giới đó thì tốt nghiệp, không còn gì để học nữa, gọi là Vô học. Minh tâm Kiến tánh là Vô học của Đại thừa, A-la-hán là Vô học của Tiểu thừa, chỉ đoạn Kiến tư. Đoạn Kiến tư Phiền não thì chứng quả A-la-hán, quý ngài đã tốt nghiệp ở trong Kiến tư Phiền não, quý ngài vẫn còn Trần sa Phiền não, vẫn còn Vô minh Phiền não, nên chỉ là tốt nghiệp Tiểu học, bên trên quý ngài vẫn còn. Đại thừa là viên mãn, tốt nghiệp Đại thừa: chính là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cây Bồ-đề: Đại triệt Đại ngộ, biểu diễn cho chúng ta; Đại sư Huệ Năng, thời nhà Đường, vì chúng ta mà biểu diễn Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cảnh giới đó của Đại sư Huệ Năng hoàn toàn tương đồng với cảnh giới mà: đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã đắc ở dưới cây Bồ-đề. Đức Phật Thích Ca là học rộng nghe nhiều, buông xuống điều đã học, Ngài khai ngộ. Nếu Ngài không buông xuống thì vĩnh viễn không thể khai ngộ, vì sao? Bởi tuy không còn Phiền não chướng, nhưng còn Sở tri chướng. Chúng ta nhất định phải hiểu đối với giáo học của Phật, không hiểu thì quý vị học cả đời cũng không vào được cửa.

「故知光闡道教,即廣宣如來經法」“Cố tri quang xiển đạo giáo, tức quảng tuyên Như Lai kinh pháp”(Nên biết [làm] rạng rỡ xiển dương Phật giáo, tức là truyền rộng kinh pháp của Như Lai), chính là ý nghĩa này, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã làm được, cả đời dạy học, Tổ sư Đại đức đều đã làm được. Tiên sinh Phương Đông Mỹ từng nói với tôi, 200 năm trước, Tự Viện Am Đường của Trung Hoa, những Đại đức xuất gia thời ấy, không kể là nam chúng, nữ chúng, đều là người có đạo đức, có học vấn, có tu dưỡng. Quý vị học Phật, nếu không hiểu chỗ nào trong Kinh giáo, quý vị hướng đến quý ngài thỉnh giáo, quý ngài nhất định giảng giải cho quý vị. Hơn nữa, Tự Viện Am Đường: đó là trung tâm hoạt động dạy học của Phật giáo, luôn luôn giảng kinh, rất hiếm khi gián đoạn. Thời gian giảng kinh dài hay ngắn, Kinh giáo cạn hay sâu, hoàn toàn là ứng cơ thuyết pháp, cơ là người nghe, trình độ thính chúng sâu thì quý ngài giảng rất sâu, trình độ người nghe cạn thì quý ngài giảng cạn, chẳng có Tự Viện Am Đường nào không giảng kinh, là vào 200 trước. 200 năm đến hiện nay, Tự Viện Am Đường dần dần từng bước không giảng kinh nữa. Những chùa lớn ở Đài Loan: mỗi năm có thể giảng một đến hai lần, thời gian dài thì một tháng, ngắn thì một tuần lễ. Tôi từng tham gia hoạt động này, họ không phải là ngày ngày giảng. Phải nhớ kỹ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế ngày nào cũng giảng, chẳng có ngày nào không giảng. Làm thế nào mới có thể phát triển Phật giáo? Giảng kinh thì có thể hưng thịnh, không giảng kinh thì không thể hưng vượng. Chùa chiền là trường học, Phương trượng Trụ trì là Hiệu trưởng, chính Hiệu trưởng có thể không giảng kinh, họ là Thủ trưởng hành chính, họ phải thỉnh mời Pháp sư đến giảng kinh. Về thỉnh mời, đạo lý này cũng có quy củ, đạo tràng của tôi đây là tu Pháp môn gì? Bộ kinh đó nhất định tương ưng với Pháp môn của tôi, nếu không tương ưng, thì phá hoại pháp của tôi rồi. Cho nên, Phật pháp Đại thừa Trung Hoa có tám tông phái, Kinh điển mà tám tông phái căn cứ không như nhau, tông phái nào: thì dùng Kinh sách của tông phái đó, không được làm rối loạn.

[40:28]

Mục tiêu học Phật: là phải khai ngộ, là phải chứng quả. Tín, giải, hành, chứng của Phật pháp, mà chỉ có tín, không lý giải, thì tín đó là mê tín, có thể lý giải hoàn toàn, thì tín này là thật tin; Sau khi đã có tín còn phải hành, y giáo tu hành; không hành, thì quý vị sẽ không có chứng, vì thế sau khi y giáo tu hành là chứng quả. Trong Đại thừa giáo, quả vị đầu tiên là Sơ tín, Sơ tín trong Thập tín, Sơ quả Tiểu thừa, việc đoạn phiền não của Sơ tín trong Đại thừa: hoàn toàn tương đồng với Sơ quả của Tiểu thừa, đều là nói đã đoạn năm loại Kiến hoặc, thật buông xuống. Năm loại Kiến hoặc, điều thứ nhất là Thân kiến, không Chấp trước thân này là ta nữa, biết thân không phải thật, mà là giả. Cho nên, người học Phật thông minh, ta mượn thân thể giả này, ta tu chân. Chân là gì? Chân là quả vị, Tu-đà-hoàn là chân, Tư-đà-hàm là chân, A-na-hàm là chân, A-la-hán là chân. Mượn thân thể giả để tu chân, từng bước từng bước nâng chính mình lên cao. Chứng được Sơ quả, hoặc là Sơ tín vị của Đại thừa, trong nhà Phật được xưng là Thánh nhân, không gọi là phàm phu, quý vị đã siêu phàm nhập Thánh. Vì sao vậy? Bởi tuy quý vị chưa ra khỏi luân hồi, nhưng quý vị ở trong luân hồi là có kỳ hạn, không giống phàm phu thông thường chúng ta, phàm phu thông thường ở trong luân hồi không có thời hạn, việc đó là khổ.

Sau khi chứng được Tu-đà-hoàn của Tiểu thừa, quả vị cao nhất của Tiểu thừa là A-la-hán, A-la-hán siêu việt sáu đường luân hồi, vĩnh viễn không đến luân hồi nữa. Phải thời gian bao lâu? Qua lại bảy lần trên trời và nhân gian, nhân gian tuổi thọ ngắn, trên trời thọ mạng dài, thời gian qua lại trên trời và nhân gian: bảy lần đó rất lâu, không dễ dàng. Tuy quý ngài chưa rời khỏi Lục đạo, nhưng quý ngài chắc chắn không đoạ ba đường ác, cũng sẽ không trở thành A-tu-la. Quý ngài chỉ là ở trời và người, thọ mạng ở trên trời hết thì đến nhân gian, thọ mạng cõi người hết lại đến cõi trời, bảy lần qua lại thì chứng quả A-la-hán, đã thoát khỏi luân hồi, đến Pháp giới Thanh văn trong Thập pháp giới. Còn quả vị của Đại thừa? Là đệ Thất tín, chứng được Sơ tín, Nhị tín, Tam tín, Tứ tín, Ngũ tín, Lục tín, Thất tín, thì ra khỏi Lục đạo, là quả vị của Đại thừa. Còn Bát tín vị? Bát tín vị chính là Duyên giác, Duyên giác trong Thập pháp giới, Cửu tín vị là Bồ-tát, Thập tín vị là Phật. Thất tín ra khỏi luân hồi, Thập tín ra khỏi Thập pháp giới, điều này được nói trong Viên giáo của Kinh Hoa Nghiêm, nói rất đơn giản, chúng ta không khó để lĩnh hội. Biệt giáo Thiên Thai, địa vị trong đó nhiều, bên trong có Tam hiền. Cho nên, giáo, lý, hành, quả, chúng ta phải phát tâm chân thành để học tập, hy vọng đạt được quả báo. Chánh pháp, Tượng pháp dễ dàng, 1000 năm thứ nhất của Mạt pháp vẫn không tệ, hiện nay chúng ta ở 1000 năm thứ hai, ngàn năm thứ hai không sánh bằng thứ nhất; ngàn năm thứ ba không sánh bằng thứ hai. Phật pháp từ nay về sau thì đời sau không bằng đời trước, chân tướng sự thật này: hiện nay chúng ta thấy được đặc biệt rõ ràng.

Chúng ta tu Pháp môn này có nắm chắc không? 84 ngàn Pháp môn kia, bất kỳ một môn nào cũng phải đoạn Phiền não chứng Bồ-đề, thật sự không nắm chắc. Phiền não Tập khí rất nặng, đoạn không nổi, vậy phải làm sao? Đây chính là phía trước đã đọc qua, Như Lai bởi vô tận đại bi: khai mở cho chúng ta Pháp môn đặc biệt, chính là tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ. Điều kiện của Pháp môn này rất đơn giản, chỉ cần quý vị đầy đủ tín nguyện hạnh, thì quý vị được thành tựu. Trong Kinh A Mi Đà đã nói: 不可以少善根福德因緣,得生彼國“Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”(Không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân duyên, mà được sanh nước ấy), thiện căn, do tu trong đời quá khứ. Phước đức cũng là tu trong đời quá khứ. Do đó có thể biết, Pháp môn Tịnh Độ, đời này quý vị vãng sanh được, vậy thì nói rõ thiện căn phước đức nhân duyên của quý vị sâu dày, đây là do đời trước tu, vô lượng kiếp tu được, ở trong đời này quả báo hiện tiền, không phải ngẫu nhiên. Pháp môn này nổi tiếng là nan tín chi pháp, làm sao quý vị có thể tin? Cho nên thật sự tin được, thật sự chịu phát nguyện, chân chánh chịu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, là do người đó như lời dạy trên kinh đã dạy: có đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên. Nhân duyên là quý vị có cơ hội gặp được, đời này quý vị có thể giữ vững không thay đổi, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, chẳng có người nào mà không thành công. Chúng ta thấy được trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ở trong Truyện Vãng Sanh, ngay trong đời này chúng ta thấy được, rất rất nhiều người niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, lúc vãng sanh tướng lành hiếm có, chúng ta tin họ thật sự vãng sanh. Những người này đối với tôi mà nói: là làm chứng minh cho tôi.

Gần đây nhất, chúng ta thường hay nhắc đến, ba vị Đại đức vãng sanh ở Chùa Lai Phật tại Nam Dương, Hoà thượng Hải Khánh, mẫu thân của Hoà thượng Hải Hiền; tháng một năm ngoái, lão Hoà thượng Hải Hiền: 112 tuổi vãng sanh. Quý ngài là tự nhiên vãng sanh, không có sanh bệnh, nói đi là đi, ai có thể làm đến được! Lão Hoà thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta, làm tấm gương cho chúng ta thấy, ngài vãng sanh vào ban đêm, ban ngày làm việc cả ngày, cả ngày từ sáng sớm đến tối, ở trong vườn rau lớn, làm đất, nhổ cỏ, tưới nước, làm việc nhà nông, đã làm suốt ngày, ban đêm thì đi. Mặc dù tiết lộ tin tức cho người khác, nhưng người ta nghe không hiểu, người khác thấy lão Hoà thượng làm việc vất vả, hơn 100 tuổi vẫn ở nơi đó làm việc, liền khuyên ngài có thể nghỉ ngơi, ngày mai lại làm, nghỉ ngơi thôi. Ngài nói thế nào? Nhanh thôi, sắp làm xong rồi, làm xong thì tôi không làm nữa. Đúng thật, đã làm xong, ban đêm niệm Phật vãng sanh rồi. Cho nên, có ẩn ý trong lời nói, mà không nghe ra. Trước lúc lão Hoà thượng vãng sanh một tháng, đến thăm hỏi khắp nơi, thăm những người bạn cũ, chào từ biệt, gặp mặt lần cuối cùng, lần sau không đến nữa. Rất sáng tỏ, không mê hoặc chút nào, không điên đảo, không cần người trợ niệm. Có đồng tu nói với ngài, ngài nói với con khi nào vãng sanh, để chúng con mời một số người trợ niệm giúp ngài. Ngài nói với mọi người, trợ niệm đó là không tin được, trợ niệm không chắc chắn, tôi không cần người trợ niệm, tôi chính mình đi. Ngài thật sự là chính mình đi, buổi tối đã niệm Phật cả đêm, đến sáng sớm hôm sau: người ta đến trong phòng để thăm, thì đèn vẫn sáng, đi xem, ngài đã đi, thật sự đi rồi.

Tôi hy vọng đồng học nên xem nhiều: đĩa CD ấy, ngày nào cũng xem, coi như Kinh Vô Lượng Thọ để xem, đó là tổng kết của Kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta đang đọc Kinh Vô Lượng Thọ, đang giải Kinh Vô Lượng Thọ, đang học Kinh Vô Lượng Thọ, còn ngài làm được vô cùng viên mãn, từng ly từng tý trong Kinh Vô Lượng Thọ: ngài hoàn toàn đã làm được, đĩa CD đó là Kinh Vô Lượng Thọ sống. Học lão Hoà thượng, lão Hoà thượng cả đời chỉ một câu Phật hiệu, ngài không biết chữ, chưa từng đi học, 20 tuổi xuất gia, Sư phụ chỉ truyền cho ngài một câu: “Nam Mô A Mi Đà Phật”, dặn dò ngài cứ niệm liên tục mãi, ngài đã niệm câu Phật hiệu này 92 năm, 112 tuổi tự tại vãng sanh. Mẹ của ngài cũng là tự tại vãng sanh, mẫu thân 86 tuổi, trước khi vãng sanh đích thân xuống bếp làm sủi cảo, nấu xong sủi cảo là cùng ăn với người nhà, con của bà, con gái, cháu gái cũng ở đó, rất hoan hỷ, sau khi ăn xong ngồi xếp bằng ở trên ghế, nói với mọi người: “ta đi đây”, thật đi rồi. Quý vị xem tự tại biết bao, tiêu sái dường nào, nói đi là đi ngay. Khu vực Nam Dương có duyên với Phật, ngài Hải Khánh cũng là biết trước ngày giờ tự tại vãng sanh. Ngoài những vị ấy ra, nói tổng quan ngắn gọn: đại khái có mười mấy người, đó là mười mấy vị Phật, vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì thành Phật.

Ngài Hải Hiền cho chúng ta niềm tin, nói với chúng ta phương Tây thật có Thế giới Cực Lạc, chẳng phải là giả, ngài thường thấy A Mi Đà Phật, cho nên, thật có A Mi Đà Phật. 48 nguyện của A Mi Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh, một chút cũng không giả. Chỉ cần quý vị chuyên, quý vị nghi ngờ thì xong rồi, quý vị xen tạp Pháp môn khác cũng sai rồi, nhất định không thể xen tạp. Cả đời lão Hoà thượng trì giới niệm Phật. Giới là gì? Tâm thanh tịnh là Giới, mục tiêu của Trì giới là được tâm thanh tịnh, được tâm thanh tịnh, thì trì giới viên mãn rồi. Tâm thanh tịnh lại nâng lên thành tâm bình đẳng, trong tâm thanh tịnh không có ô nhiễm, trì giới để quý vị buông xuống ô nhiễm. Trong tâm bình đẳng không có Phân biệt, quý vị vẫn còn tâm Phân biệt, thì ngay cả công phu Trì giới đó cũng không có nữa. Vì sao vậy? Bởi tôi giữ, Giới Luật của tôi tốt, 戒為無上菩提本“Giới thị Vô thượng Bồ-đề bổn”(Giới là gốc của Vô thuợng Bồ-đề), không sai chút nào, chỉ chăm chú ở trên Giới, không thể hướng thượng nâng lên. Quý vị có Trì giới không? Không có. Tại sao? Vì tâm quý vị không thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện tiền thì Trì giới viên mãn. Hướng lên trên nữa là không có Phân biệt, không có Phân biệt là tâm bình đẳng, công phu cao hơn Trì giới. Trì giới là A-la-hán, Bích-chi-phật, ở trong Đại thừa là Thập tín vị; tâm bình đẳng là thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi hướng, Đại triệt Đại ngộ là Sơ địa trở lên, là điều mà Biệt giáo Thiên Thai nói, chẳng thể không hiểu điều này. Không hiểu, chẳng phải Giới không đúng, mà quý vị học sai Giới rồi, quý vị học lệch, học nghiêng rồi. Phật thuyết chính là Chánh pháp, nhưng quý vị tu là Tà pháp, điều này sẽ sanh ra chướng ngại đối với vãng sanh Tịnh Độ, chướng ngại quý vị lâm chung không thể vãng sanh.

Lão Hoà thượng Hải Hiền chỉ một câu Phật hiệu, viên mãn Tam học Giới Định Huệ, tâm ngài thanh tịnh, tâm ngài không có Phân biệt, tâm bình đẳng hiện tiền, tâm ngài giác ngộ, giác ngộ chính là đã khai mở trí huệ, giác thì không mê, chánh thì không tà, tịnh thì không nhiễm, ngài đã làm được. Trong Tịnh Độ tông đã nói: tâm thanh tịnh là Công phu Thành phiến, có Công phu Thành phiến thì chắc chắn được vãng sanh. Họ buông xuống năm loại Kiến hoặc, có công phu đó, có công phu ấy thì có thể thấy Phật. Bồ-tát Đại Thế Chí nói với chúng ta, 現前當來必定見佛“hiện tiền đương lai tất định kiến Phật“(hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật), thấy A Mi Đà Phật, hiện tiền là trước khi quý vị chưa vãng sanh. Người thông thường vãng sanh: ít nhất thấy Phật ba lần, chính là khi công phu quý vị thành phiến, Phật đến, quý vị đã thấy được, Phật sẽ nói với quý vị, quý vị vẫn còn bao nhiêu thọ mạng, đến lúc thọ mạng hết: thì Phật đến tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Gặp mặt lần thứ nhất, tiết lộ tin tức cho quý vị, bằng với thọ ký cho quý vị. Chính quý vị tin tưởng, vì sao vậy? Do thấy được Phật, đích thân Phật nói cho quý vị, tâm quý vị đã kiên cố, nguyện vãng sanh không đổi nữa, có lợi ích này, niệm liên tục mãi, đến hết mạng. Lần thứ hai gặp Phật, khi gặp Phật lần thứ hai, Phật đến nói với quý vị tin tức, ước định với quý vị thời gian ngày nào đến tiếp dẫn quý vị. Đại khái là thời điểm nào? Ba tháng đến một tháng, có người trước ba tháng đã biết, có số người thì trước một tháng, sẽ nói với quý vị. Trước đây, tôi ở Singapore, lão Lâm trưởng Trần Quang Biệt của Cư Sĩ Lâm, ông là trước lúc vãng sanh ba tháng, ông viết vào một tờ giấy, viết ngày tháng, đã viết mười mấy lần, không có ai dám hỏi ông ý nghĩa là gì, chính là ngày hôm đó vãng sanh, một chút cũng không sai. Cho nên chúng ta biết ông ba tháng trước thấy Phật, Phật giao hẹn với ông, lần thứ ba gặp mặt: là Phật đến tiếp dẫn ông, dẫn ông đi. Cho nên, người vãng sanh: chí ít cũng là thấy Phật ba lần.

Lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài sống 112 tuổi, đã niệm Phật 92 năm, trong 92 năm ngài thấy Phật bao nhiêu lần? Tôi tin tưởng không chỉ 10 lần. Trong đĩa CD của ngài, chúng tôi đã nghe được, ngài nói tôi nhiều lần muốn cầu Phật dẫn tôi đi, Phật không đáp ứng, nói tôi tu không tệ, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật xem thấy, chính là biểu pháp. Quý vị thấy ra nhiều lần, tức không phải một lần, chẳng phải hai lần, mà nhiều lần thấy Phật. Hai năm trước, ngài còn nói, đức Phật nói ngài tu không tệ, bảo ngài hãy trụ thêm hai năm, biểu pháp cho mọi người xem thấy. Trước khi lâm chung mấy ngày, ngài còn nói với những vị lão đồng tu, khả năng mấy hôm nữa tôi sẽ phải đi rồi. Mọi người hỏi ngài vì sao? Ngài nói A Mi Đà Phật đã đến hai lần, nói với ngài, ngài có thể vãng sanh. Quý vị liền nghĩ đến, cả đời ngài gặp Phật bao nhiêu lần! Tiết lộ những tin tức đó cho chúng ta: chính là làm chứng minh cho chúng ta, thật có Thế giới Cực Lạc, chẳng phải giả; Thật có A Mi Đà Phật, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, đó là thật, không phải giả.

Nếu chúng ta đối với biểu pháp của ngài: hoàn toàn xem tường tận, xem sáng tỏ, thật sự đã hiểu, sẽ không nghi ngờ nữa, thì chúng ta ở thế gian này: có năng lực buông xuống tất cả vạn duyên. Không chỉ buông xuống thế gian pháp, mà cũng buông xuống Phật pháp, giống với lời dạy trong Kinh Kim Cang, 法尚應捨,何況非法“Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”(Pháp còn phải xả, huống là phi pháp), tất cả pháp đều xả rồi, đó là người nào? Là Đồng tử Thiện Tài. Quý vị thấy 53 Tham vấn của Đồng tử Thiện Tài, ngài nghe, nhưng ngài không học. Nghe làm gì vậy? Nghe là để viên mãn Hậu đắc trí, chẳng có điều gì mà ngài không biết, ngài tu chỉ một môn, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Vì sao phải học nhiều Pháp môn như thế? Là vì độ chúng sanh, không phải vì chính mình. Căn cơ chúng sanh khác nhau, một Pháp môn không thể rộng độ. Tịnh tông có thể phổ độ nhưng người ta không tin. Cho nên học rộng nghe nhiều là vì độ chúng, nhất môn thâm nhập là thành tựu chính mình. Vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thành tựu chính mình, liền rộng độ chúng sanh. Đến Thế giới Cực Lạc gặp được A Mi Đà Phật, bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, tất cả gì không hiểu rõ thì sẽ sáng tỏ hoàn toàn, không cần học tập, đó là sự thù thắng không gì sánh bằng của Thế giới Cực Lạc.

Chúng ta lại xem Chú Giải tiếp theo, 「拯者,救也,助也。萌者,芽也」“Chẩn giả, cứu dã, trợ dã. Manh giả, nha dã”(Chẩn: là cứu, là giúp. Manh: là mầm chồi). 「群萌」“Quần manh” tức là chỉ: tất cả chúng sanh trong Lục đạo. 「諸如來(諸佛如來)以大悲為體,欲救一切眾生,故曰欲拯群萌」“Chư Như Lai (chư Phật Như Lai) dĩ đại bi vi Thể, dục cứu nhất thiết chúng sanh, cố viết dục chẩn quần manh”(Chư Như Lai (chư Phật Như Lai) dùng đại bi làm Thể, muốn cứu tất cả chúng sanh, nên nói là dục chẩn quần manh). Phật, Bồ-tát, chữ Bồ-tát này thông thường đều là chỉ: Pháp thân Bồ-tát, cũng chính là Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh, không phải phổ thông, mà là Pháp thân Đại sĩ, quý ngài giống với Phật, Phật Đại triệt Đại ngộ, quý ngài cũng là Đại triệt Đại ngộ. Phật đã đoạn sạch Tập khí Vô thỉ Vô minh, Pháp thân Bồ-tát vẫn chưa đoạn hết: Tập khí Vô thỉ Vô minh. Tập khí Vô thỉ Vô minh chỉ chướng ngại một việc, đó là hồi quy Thường Tịch Quang, quý ngài không thể quay về Thường Tịch Quang, ngoài sự việc này ra, thì thần thông, đạo lực, trí huệ của quý ngài: không khác với chư Phật. Cho nên, quý ngài hiện thân trong mười Pháp giới, thuyết pháp giáo hoá chúng sanh, vẫn là trên cúng dường chư Phật, dưới giáo hoá chúng sanh, không ngừng nghỉ, làm không biết mệt. Trong Hội Sớ nói: 「漸頓各稱所宜,隨緣皆蒙度脫,故云拯群萌」“Tiệm Đốn các xứng sở nghi, tuỳ duyên giai mông độ thoát, cố vân chẩn quần manh”(Mỗi mỗi [căn cơ] Tiệm Đốn được thích hợp, tuỳ duyên đều được độ thoát, nên nói chẩn quần manh). Trong Hội Sớ nói rất hay, Tiệm Đốn là chỉ căn tánh của chúng sanh, Đốn căn thì nhanh siêu vượt, tức là thông minh tuyệt đỉnh, chúng ta nói thiên tài, họ vừa nghe, họ liền giác ngộ, liền sáng tỏ. Người Tiệm căn không được, người Tiệm căn phải dần dần, họ không có biện pháp đốn ngộ, Phiền não Tập khí của họ rất nặng. Phật Bồ-tát biết, Phật Bồ-tát có thể thấy được đời quá khứ của họ, quá khứ trong vô lượng kiếp: làm sao mà nhiễm những Phiền não Tập khí đó, [nếu] không biết, thì làm sao quý vị giúp họ đoạn Phiền não? Biết mới được. Tiệm giáo là 84 ngàn Pháp môn, ở trong đó giúp họ tuyển chọn một môn. Đốn giáo thì không cần thiết, Đốn giáo là gì? Là Thiền tông, Thiền là Đốn giáo, Tịnh Độ là Đốn giáo.

Đốn giáo Tịnh Độ là từ nơi nào đến? Là từ trong đời quá khứ: đã từng tu học Pháp môn này, cúng dường vô lượng chư Phật, thành tựu thiện căn phước đức sâu dày, họ vừa nghe thì họ tin tưởng, họ không nghi ngờ, họ liền thật làm, giống như lão Hoà thượng Hải Hiền vậy. Ngài ấy không phải Đốn căn, nhưng thiện căn của ngài ấy sâu dày, Sư phụ dạy ngài ấy một câu Phật hiệu, cứ niệm liên tục mãi. Ngài liền thật làm, ngài thật thà, nghe lời, thật làm, hạng người ấy dễ dạy. Một câu Phật hiệu: lại có thể niệm 92 năm không chuyển hướng, không chuyển hướng tức là không thay đổi, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Người dạng căn tánh ấy, giống với người thợ vá nồi Đồ đệ của lão Hoà thượng Đế Nhàn: cũng là đầy đủ điều kiện đó. Ông ấy niệm Phật 3 năm thì vãng sanh, đứng thẳng mà vãng sanh, biết trước lúc đi. Có phải thọ mạng của ông ấy chỉ còn 3 năm không? Tôi không cho là vậy. Ông ấy là thấy được Phật, Phật nói với ông ấy vẫn còn bao nhiêu tuổi thọ, ông không cần nữa, con bây giờ liền đi với Ngài. Phật đáp ứng ông ấy, thật sự dẫn ông ấy đi. Ông ấy không nói với bất cứ ai. Một đời thành tựu, không thể nghĩ bàn! Cho nên, thật thà, nghe lời, thật làm, hạng người này khẳng định gặp được Thiện tri thức, chắc chắn một đời viên mãn thành tựu, người như vậy quá khó được. Người hiện nay không thật thà, không nghe lời, không chịu thật làm, hạng người như thế đời này không thể có thành tựu, chắc chắn vẫn là làm Lục đạo luân hồi. Về đời sau, nếu họ thật sự trì giới, chăm chỉ tu hành, thì họ sẽ được thân người, khá thì sanh thiên, chứ không ra khỏi Lục đạo luân hồi. Nếu như làm việc không đúng, vậy thì họ đoạ Tam đồ, điều này cũng rất có khả năng, vì sao? Bởi nghiêm trọng nhất là khuyên người khác bỏ đi niệm Phật, để tu Pháp môn của họ. Đó là đoạn Pháp thân Huệ mạng của người khác, tội lỗi này rất nặng, đó là tội nghiệp của Địa Ngục.

Tiếp theo, 「又曰:欲,指釋迦大悲所願」“Hựu viết: Dục, chỉ Thích Ca đại bi sở nguyện”(Lại nữa nói: dục, là chỉ sở nguyện đại bi của đức Thích Ca). Dục chẩn quần manh, chúng ta nói dục là dục vọng, cũng tức là nguyện vọng của Ngài. 「然此一字,通上下,含二義:一謂欲拯群萌,諸如來以大悲為體,欲願未度者令度,未安者令安。光闡道教皆為之也」“Nhiên thử nhất tự, thông thượng hạ, hàm nhị nghĩa: nhất vị dục chẩn quần manh, chư Như Lai dĩ đại bi vi Thể, dục nguyện vị độ giả linh độ, vị an giả linh an. Quang xiển đạo giáo giai vi chi dã”(Nhưng một chữ này, thông với trước sau, gồm hai nghĩa: một là mong cứu quần sanh, chư Như Lai dùng đại bi làm Thể, nguyện mong người chưa độ khiến được độ, người chưa an khiến được an. Làm rạng rỡ xiển dương Phật giáo đều vì điều này). Hoàn toàn xem căn tánh của chúng sanh, cũng chẳng miễn cưỡng chút nào, họ mong muốn được độ, đó chính là mong muốn thoát khỏi Lục đạo luân hồi, liễu sanh tử xuất Tam giới, thì Phật sẽ giúp họ. Còn có một loại, họ vẫn chưa nghĩ đến liễu sanh tử xuất Tam giới, họ chỉ là hiện đang khổ, hy vọng lìa khổ được vui, thì Phật cũng giúp họ, giúp họ được thân người, giúp họ sanh cõi trời, Phật đều có năng lực này. Phật là vĩnh viễn hằng thuận chúng sanh, Phật sẽ không Khởi tâm Động niệm, sẽ không chủ động nhất định muốn cứu quý vị thế nào, không có đạo lý ấy. Không Khởi tâm, không Động niệm, là Phật; Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, là Bồ-tát; Khởi tâm động niệm, vẫn có Phân biệt, nhưng không có Chấp trước, đó là A-la-hán, Bích-chi-phật; Khởi tâm động niệm, Phân biệt, Chấp trước đều có, là chúng sanh sáu đường. Phải nhớ kỹ điều này, chính mình biết, chính mình là chúng sanh Lục đạo. Buông xuống Chấp trước, không Chấp trước nữa mới là A-la-hán, nâng lên nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền. Lại nâng cao, không Phân biệt, không Phân biệt thì thành công, là Đại triệt Đại ngộ, giác rồi. Trong Kinh giáo dạy rất rõ ràng, giảng rất sáng tỏ rồi. Ngày ngày đọc, ngày ngày học tập, vì sao vẫn có thể mê hoặc?

Thứ hai, lại xem tiếp theo: 「二謂欲惠真實之利」“Nhị vị dục huệ chân thật chi lợi”(Hai là muốn ban cho lợi ích chân thật). Huệ nghĩa là ban cho, Phật Bồ-tát vô cùng vui lòng: đem lợi ích chân thật cho chúng sanh, không có gì chân thật hơn điều này nữa. Lợi ích chân thật là gì? Là giúp quý vị lìa khổ được vui. Lục đạo là cứu cánh khổ, Thế giới Cực Lạc là cứu cánh vui. Chỉ có người: đại thiện căn đại phước đức, [mới] có thể tiếp nhận lợi ích chân thật của Như Lai, họ nghe rồi tin tưởng, thật chịu buông xuống. Buông xuống không dễ dàng, người học Phật: ai có thể buông xuống danh văn lợi dưỡng? Chúng ta ở trong đời này, chỉ nghe nói ba vị của Chùa Lai Phật, quý ngài thật sự đã buông xuống, biểu hiện ở lúc vãng sanh tự tại. Không buông xuống thì sao có tự tại như thế? Người nào chết mà không sanh bệnh? Ba ngài ấy đều không sanh bệnh, đều là người rất bình thường, nói đi quý ngài thật ra đi, thần thức của quý ngài rời khỏi thân thể rồi, kiểu dáng sạch sẽ gọn gàng như vậy, người thông thường không làm được. Vì sao quý ngài làm được? Một câu Phật hiệu thì làm được. Ba người đều không biết chữ, đều chưa từng đọc sách, tất cả đều là một câu Phật hiệu, đã thấy mà vẫn không tin được ư? Một người thì có thể nghi, nhưng ba người! Ba người quý vị vẫn nghi ngờ, thì tâm nghi của quý vị quá nặng, quý vị thật sự ra không được [luân hồi], ngay trong đời này, không cách nào thoát khỏi luân hồi. Liên tiếp ba người, tin tức ấy là thật, chẳng phải giả. Cho nên, hy vọng đồng học chúng ta phải thường suy xét, phải lắng lòng quán sát, Lục đạo thật khổ, khổ không thể tả, sao còn lưu luyến? Gặp được Pháp môn Tịnh Độ, phải buông xuống 84 ngàn Pháp môn, phải xả.

Có cần học Giới Luật không? Có thể học, học rồi làm thế nào? Học rồi thì giáo hoá chúng sanh, dạy người đoạn ác tu thiện. Đây là cứu người không đoạ ba đường ác, đời sau vẫn có thể được thân trời người, mong muốn của họ là như vậy, đời sau vẫn ở cõi trời người, thì Giới Luật có thể bảo đảm cho họ. Nếu muốn ra khỏi Lục đạo luân hồi, thì nhất định phải đắc Định mới ra khỏi được, không thể đắc Định, thì không ra khỏi Lục đạo luân hồi. Muốn ra khỏi mười Pháp giới, nhất định phải Đại triệt Đại ngộ, chưa Kiến tánh (Minh tâm Kiến tánh): thì không ra khỏi mười Pháp giới. Thật sự bảo đảm quý vị được siêu vượt: chỉ một câu Phật hiệu này, quý vị không chịu tin, vậy thì chẳng còn cách nào. Ai có thể tin, ai không nghi ngờ, ai thật niệm, niệm niệm liên tục, thì họ chắc chắn thành tựu. “Nhị vị” nghĩa là điều thứ hai, “vị dục”, dục này là ban cho lợi ích chân thật. 「謂如來欲願眾生入彌陀海故」“Vị Như Lai dục nguyện chúng sanh nhập Mi Đà hải cố”(Là bởi Như Lai nguyện mong chúng sanh vào biển nguyện của đức Mi Đà). Điều này là thật, không phải giả. Mỗi một vị Phật, mỗi một vị Pháp thân Bồ-tát, không có vị nào mà chẳng hy vọng chúng sanh: tín, nguyện, trì danh, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Có thể nói đây là nguyện vọng chung: của chư Phật Bồ-tát. Chỉ có Pháp môn này đơn giản rõ ràng, trên thì đến Đẳng giác Bồ-tát, dưới thì đến chúng sanh Địa ngục, chẳng có ai mà không được độ, đây là Chân thật chi lợi. Phía trước nói chân thật: không phải chân thật của cứu cánh viên mãn, Pháp môn này [mới] là chân thật của rốt ráo viên mãn.

「諸佛之所以出興於世,欲說彌陀願力,惠救萬眾生,將為本懷故。」“Chư Phật chi sở dĩ xuất hưng ư thế, dục thuyết Mi Đà nguyện lực, huệ cứu vạn chúng sanh, tương vị bổn hoài cố”(Nguyên nhân của chư Phật xuất hiện ở đời, là mong tuyên thuyết nguyện lực của đức Mi Đà, thương yêu cứu giúp muôn vàn chúng sanh, nên lấy làm Bổn hoài). Còn gì tuyệt hơn! Hy vọng đồng học chúng ta phải chú ý đến, tuyệt đối không nên lơ là, lơ là thì sai lầm lớn, bởi cơ hội quá khó được! Đời sau có thể đến cõi người không? Rất khó. Vì sao? Bởi cõi người phải đầy đủ trọn vẹn Ngũ giới Thập thiện, quý vị dùng Ngũ giới Thập thiện để đánh giá chính mình, Giới Thiện của chính mình có thanh tịnh không? Giới Thiện thanh tịnh, vì sao không thể liễu sanh tử xuất Tam giới? Bởi quý vị có Ngã chưa quên, quý vị chưa buông xuống Thân kiến; chưa buông xuống đối lập, đối lập là Biên kiến; Chưa buông xuống Thành kiến, tự cho là đúng. Tự cho là không đúng, và tự cho là đúng: đều thuộc về Thành kiến; Vẫn còn rất rất nhiều cách nhìn sai lầm, chính quý vị vẫn không biết, làm sao quý vị có thể liễu sanh tử xuất Tam giới? Thật có thiện căn lớn, phước đức lớn, quý vị gặp được Pháp môn này, được uy thần của chư Phật Bồ-tát gia trì. Gia trì diểu dáng thế nào? Quý vị đối với Pháp môn Tịnh tông: vừa nghe liền hoan hỷ, liền tiếp nhận, không có chút nghi ngờ, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, buông xuống vạn duyên, buông xuống toàn bộ pháp thế gian và xuất thế gian, người đó đời này chắc chắn thành tựu, thành tựu chẳng thể nghĩ bàn.

Chúng ta có lý do tin tưởng, lão Hoà thượng Hải Hiền hai mươi mấy tuổi: đã được Công phu Thành phiến, Công phu Thành phiến thì có tư cách vãng sanh. Người thợ vá nồi Đồ đệ của lão Hoà thượng Đế Nhàn: chính là được Công phu Thành phiến, A Mi Đà Phật tiếp dẫn ông ấy vãng sanh. Về lão Hoà thượng Hải Hiền, chúng ta tin tưởng, ngài 20 tuổi xuất gia, Sư phụ dạy ngài câu Phật hiệu này, dạy ngài niệm liên tục mãi. Ngài nghe lời, ngài thật làm. Chúng tôi tin rằng: khi ngài 24-25 tuổi, niệm 4-5 năm, thì chắc chắn được Công phu Thành phiến; Niệm 5-6 năm nữa, thì ngài được Sự Nhất tâm Bất loạn. Cho nên Sự Nhất tâm Bất loạn: nhất định là đạt được ở trước sau 30 tuổi; còn Lý Nhất tâm Bất loạn, khẳng định là đạt được vào khoảng 40 tuổi. Lý Nhất tâm Bất loạn, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, với cảnh giới ấy mà vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc: thì trực tiếp sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, vô cùng thù thắng. Một câu A Mi Đà Phật chứng được Vô thượng Bồ-đề, làm chứng minh cho chúng ta. Đời này chúng ta gặp được là có phước khí, duyên phận này không đơn giản. Chính là nhân duyên được giảng trong Kinh A Mi Đà. Về thiện căn phước đức nhân duyên, nếu chúng ta có một chút thiện căn phước đức, mà gặp được nhân duyên này, thì sẽ thành tựu. Thiện căn phước đức có thiếu khuyết, gặp được cũng tin, nhưng vẫn còn nghi ngờ, vẫn ưa thích đối với Pháp môn khác, vẫn không buông xuống được, đó chính là gì? Là không đủ thiện căn phước đức, dù đã gặp được, nhưng coi thường bỏ mất, đời này không thể thành tựu. 「《甄解》則於上說,結歸後義曰:諸佛之所以出興於世,欲說彌陀願力,惠救萬眾生,將為本懷故」“Chân Giải tắc ư thượng thuyết, kết quy hậu nghĩa viết: chư Phật chi sở dĩ xuất hưng ư thế, dục thuyết Mi Đà nguyện lực, huệ cứu vạn chúng sanh, tương vi bổn hoài cố”(Trong sách Chân Giải thì đối với thuyết trên, mà kết quy nghĩa sau cùng rằng: Nguyên nhân của chư Phật xuất hiện ở thế gian, là mong tuyên thuyết nguyện lực của đức Mi Đà, thương yêu cứu giúp muôn vàn chúng sanh, nên lấy làm Bổn hoài).

Câu tiếp theo đây, 『惠以真實之利』“Huệ dĩ chân thật chi lợi”(Ban cho lợi ích chân thật), “huệ” là ban cho, tức là cho người khác, cũng có ý nghĩa ban ơn, ban ơn là bề trên đối với người dưới, Phật đối với chúng sanh ban cho lợi ích chân thật. 「真實之利者,按善導大師意,指彌陀誓願為真實之利」“Chân thật chi lợi giả, án Thiện Đạo Đại sư ý, chỉ Mi Đà thệ nguyện vi Chân thật chi lợi”(Về Chân thật chi lợi, dựa theo ý của Đại sư Thiện Đạo, thì chỉ thệ nguyện của đức Mi Đà là lợi ích chân thật). Thệ nguyện của đức Mi Đà chính là 48 nguyện, lời nói này rất hay, 48 nguyện, nguyện nào cũng vì chúng sanh. Đại nguyện đệ nhất chính là bình đẳng, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, thân thể tướng mạo của chúng ta: hoàn toàn giống với A Mi Đà Phật, không có khác biệt chút nào. Đức Thế Tôn hiện thân ở thế gian chúng ta đây, hiện Ứng hoá thân, 32 tướng 80 vẻ đẹp. Đức A Mi Đà Phật ở Thế giới Cực Lạc: những gì được hiện là Báo thân, trong Quán Kinh nói rất rõ ràng, tướng có 84 ngàn tướng, không phải 32 tướng, mà 84 ngàn tướng, mỗi tướng có 84 ngàn tuỳ hình hảo, mỗi tuỳ hình hảo phát ra 84 ngàn quang minh, mỗi đạo quang minh có mười phương chư Phật Như Lai: đang giảng kinh thuyết pháp làm Phật sự, vô cùng thù thắng trang nghiêm. Thân là thân Tử Ma Chân Kim Sắc, đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng. 84 ngàn Pháp môn đó: tu thành công thì phải tu vô lượng kiếp, nhất định phải vãng sanh đến: Thật Báo Trang Nghiêm độ của Như Lai, mới có thể thấy được Báo thân của Phật, chính mình cũng là Báo thân, nhưng kém hơn Phật một bậc, không sánh bằng Phật, Báo thân của Phật viên mãn, còn Báo thân của quý ngài có thiếu khuyết. Người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc thì ai cũng viên mãn, giống với A Mi Đà Phật, không có thiếu khuyết. Phước báu đó lớn biết bao, thiện căn ấy lớn dường nào, không có thiện căn, phước báu lớn như vậy, thì làm sao quý vị may mắn đạt được!

Cho nên, ngày nay quý vị nghe được Pháp môn này, mà có nghi ngờ, vẫn không dám tin, đó là bình thường. Nếu quý vị tin hoàn toàn, không có chút hoài nghi, thì quý vị là bất bình thường. Thế nào là bất bình thường? Quý vị vô lượng kiếp đến ngày nay, thiện căn phước đức của quý vị đã viên mãn, không phải viên mãn thì quý vị chẳng thể không có nghi ngờ, không thể tin hoàn toàn. Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này. Chúng ta gặp được tức là có duyên, nhưng duyên chưa đủ, vẫn còn nghi ngờ, thì phải làm sao? Có thể học ông thợ vá nồi, có thể học Pháp sư Hải Hiền, đem câu Phật hiệu này làm tính mạng. Lão Hoà thượng nói khá hay: “A Mi Đà Phật là tính mạng của lão Hoà thượng tôi”, lời này nói rất đúng. Quý vị nắm chắc câu Phật hiệu này ngày đêm không gián đoạn, ít nhất phải giống lão Hoà thượng Đế Nhàn: dạy người thợ vá nồi, niệm tiếp mãi câu Phật hiệu này, niệm mệt thì nghỉ, nghỉ khoẻ thì lại tiếp tục niệm, không phân biệt ngày đêm. Vì sao vậy? Bởi bổ túc thiện căn phước đức của quý vị. Bổ túc đến khi nào thì bổ túc đủ? Không nghi ngờ là đã bổ túc đủ, lại không có chú ý hai chữ bổ túc, tôi nhất tâm nhất ý chỉ cầu sanh Tịnh Độ, không có niệm thứ hai, chứng minh quý vị đã bổ túc, chứng minh quý vị chắc chắn được sanh. Đây là tôi khuyên nhủ đồng học.

Tiếp theo, 「大師偈云:如來所以興出世,唯說彌陀本願海。」“Đại sư kệ vân: Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Mi Đà bổn nguyện hải”(Đại sư nói kệ rằng: Sở dĩ Như Lai hiện ở đời, vì thuyết biển nguyện đức Mi Đà). Hai câu nói này vô cùng quan trọng. Chữ ‘Đại sư’ ở đây là Đại sư Thiện Đạo, Tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ tông chúng ta, nói với chúng ta, mười phương thế giới: chư Phật xuất hiện ở thế gian là vì điều gì? Chỉ là vì giới thiệu biển bổn nguyện của A Mi Đà Phật, cũng tức là giới thiệu Thế giới Tây Phương Cực Lạc, giới thiệu A Mi Đà Phật cho mọi người. Đó là lợi ích chân thật, chân thật ngay trong chân thật, không có lợi ích nào chân thật hơn điều này nữa. Nói cách khác, dạy quý vị chỉ ngay trong đời này viên mãn thành Phật, chính là ý nghĩa này. 「《甄解》讚曰:此今家」“Chân Giải tán viết: thử Kim Gia”(Sách Chân Giải khen rằng: ngài Kim Gia ấy), người Nhật Bản xưng Đại sư Thiện Đạo là Kim Gia. Chùa của Tịnh Độ tông ở Nhật Bản rất nhiều, chúng tôi đi lễ bái thăm viếng thấy được rất nhiều. Đây đều là Tổ sư của Tịnh Độ tông Nhật Bản, trước kia du học ở Đại Đường, nương theo Hoà thượng Thiện Đạo làm thầy, truyền Tịnh Độ tông đến Nhật Bản, những Đại đức Nhật Bản ấy: cảm niệm ân đức của Đại sư Thiện Đạo, tôn ngài Thiện Đạo làm Sơ tổ. Sơ tổ của Tịnh Độ tông Nhật Bản là ai? Là Đại sư Thiện Đạo. Họ học thành tựu: xưng là đời thứ hai, đời thứ ba, rất khó được! Người Nhật Bản cung kính Tổ sư còn long trọng hơn kính Phật, thờ tượng Phật cũng không quá lớn, nhưng thờ tượng Tổ sư rất lớn. Quý vị đến trong Tổ đường xem Tổ sư, Đại sư Thiện Đạo, Đại sư Trí Giả, hầu như mỗi đạo tràng quý vị đều thấy được. Nhiều thế hệ, đến ngày nay: nếp sống này vẫn tồn tại, mỗi ngày thắp hương lễ bái, chúng ta đã thấy được. Nếu lại có thể nghiêm túc học tập Kinh giáo, thì Phật pháp liền hưng thịnh lên.

Khen nói thế này: 此今家獨步妙釋“Thử Kim Gia độc bộ diệu thích”(ngài Kim gia ấy giải thích hay kiệt xuất vượt bậc), Đại sư Thiện Đạo giải thích quá hay, 「他人所未談也」“tha nhân sở vị đàm dã”(điều mà người khác chưa từng bàn nói), trước Đại sư Thiện Đạo, chưa từng nghe người nào nói cách đó, câu nói này là do Đại sư Thiện Đạo nói, “Sở dĩ Như Lai hưng xuất thế, duy thuyết Mi Đà bổn nguyện hải”. Ngày nay chúng ta đã gặp được, sanh vào thời đại này, 84 ngàn Pháp môn, môn nào cũng là đạo khó hành, vô cùng không dễ thành tựu, chỉ có Pháp môn này là đạo dễ hành. Vì sao đạo dễ hành mà lại khó như vậy? Bởi vì khó tin, không phải gì khác. Khó tin cũng là do mười phương chư Phật đã nói, đều nói Pháp môn này khó tin. Pháp môn này vô cùng dễ thành tựu. 「順此祖釋」“Thuận thử Tổ thích”(Thuận theo giải thích của Tổ sư ấy), chúng ta tuỳ thuận giải thích của Đại sư Thiện Đạo, 「以彌陀本願為真實利,則可以八萬四千法門為光闡道教,其義明矣。」“Dĩ Mi Đà bổn nguyện vi chân thật lợi, tắc khả dĩ bát vạn tứ thiên Pháp môn vi quang xiển đạo giáo, kỳ nghĩa minh hỹ” (Dùng bổn nguyện đức Mi Đà làm lợi ích chân thật, thì có thể [dùng] 84 ngàn Pháp môn làm rạng rỡ xiển dương Phật giáo, nghĩa ấy rõ ràng thay). 84 ngàn Pháp môn đến cuối cùng để làm gì? Sau cùng tất cả quay về Tịnh Độ, không có một môn nào chẳng quy về Tịnh Độ. Người tu 84 ngàn Pháp môn, tu thành tựu, tu vô lượng kiếp, vãng sanh đến nơi nào? Vãng sanh đến Thế giới Hoa Tạng. Sau khi đến Thế giới Hoa Tạng, sẽ gặp mặt đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Hiền dùng Thập đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc, có trong Kinh Hoa Nghiêm, đến Thế giới Cực Lạc: vậy mới gọi là chứng đắc cứu cánh viên mãn. Quý vị xem chuyển quanh co một vòng lớn, vẫn là chuyển đến Thế giới Cực Lạc. Cho nên, chân thật có thể tin, [là] đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên, hạng người như vậy đáng được tôn kính. Hiện nay, chúng ta đã hiểu được, người thợ vá nồi, Tam thánh của Chùa Lai Phật ở Nam Dương. Nếu quý vị không hiểu rõ chân tướng sự thật, thì quý vị không sanh khởi tâm cung kính đối với quý ngài; Hiểu rõ chân tướng sự thật, quý vị mới thật sự sanh tâm cung kính, thật sự phát tâm hướng đến quý ngài học tập, một đời chân thật có nắm chắc [thành tựu].

「又《甄解》引《六要》曰:真實利者,指此名號,即是佛智也。」“Hựu Chân Giải dẫn Lục Yếu viết: Chân thật lợi giả, chỉ thử danh hiệu, tức thị Phật trí dã” (Thêm nữa trong Chân Giải dẫn sách Lục Yếu nói: chân thật lợi, là chỉ danh hiệu này, tức là Phật trí vậy). Chỗ này nói càng rõ ràng, thế nào là lợi ích chân thật? Câu danh hiệu này là lợi ích chân thật, nói rõ ràng hơn nữa, càng sáng tỏ hơn, đó là giáo huấn chân thật mà Tổ sư Đại đức: hoàn toàn khẳng định. Chúng ta xem câu danh hiệu không đáng một đồng, ai không biết niệm câu A Mi Đà Phật này chứ? Chính mình thì không chịu niệm, cho rằng sự cao diệu của Phật pháp, câu A Mi Đà Phật này, không sánh bằng 84 ngàn Pháp môn. Sai rồi, thật sai lầm! Ý nghĩa đoạn này rất sâu. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.

( Hết tập 129)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.

Trả lời 0