Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014
(Giảng lần thứ 4)
Tập 132
Chủ giảng: Hòa Thượng Tịnh Không
Ngày giảng: 11/11/2014
Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy
y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu
Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn,
quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 370, bắt đầu xem từ hàng đầu tiên:
Đây là giải thích kinh văn, 阿難當知。如來正覺。其智難量。無有障礙 “A
Nan đương tri, Như Lai Chánh Giác. Kỳ trí nan lượng, vô hữu chướng ngại” (A Nan nên biết, trí Chánh Giác của Như Lai, rất khó đo lường, không có
chướng ngại). Chúng ta xem Chú Giải, 正覺者,證悟一切諸法之真正覺智,即如來之實智。故成佛曰成正覺 “Chánh
Giác giả, chứng ngộ nhất thiết chư pháp chi chân chánh giác trí, tức Như Lai
chi Thật
trí. Cố thành Phật viết thành Chánh Giác” (Chánh Giác là giác
trí chân thật chứng ngộ tất cả các pháp, chính là Thật trí của Như Lai. Nên
thành Phật được gọi là thành Chánh Giác). Thành Chánh Giác chính là thành
Phật. Phật pháp phù hợp với khoa học hiện đại đã nói, điều quan trọng nhất
trong khoa học chính là phải có bằng chứng, không phải tùy tiện nói suông là
coi như xong, đó gọi là chứng cứ rõ ràng. Phật pháp Đại thừa, Phật pháp Tiểu thừa
đều coi trọng chứng, chứng được chính là chân thật, đức Phật đã nói là Tín Giải
Hành Chứng, chứng được mới xem như chính quý vị thật sự có thành tựu. Quý vị
tin, tin rồi, quý vị lý giải, lý giải nhưng chưa thật sự tu hành, tu hành thì nhất
định phải cầu chứng, cũng chính là nói chứng thực điều Phật đã nói, là thật,
không phải giả, tín ấy mới gọi là thật tin. Nếu chưa chứng được, thì không thể
tính là thật tin, sau khi chứng được mới tính là thật tin. Nếu chưa chứng được,
mà chúng ta tin những gì Phật Bồ-tát đã nói, đây là ngưỡng tin, hoặc là tin chư
Phật Bồ-tát nhất định không vọng ngữ, niềm tin của chúng ta từ đây mà có. Còn sự
thật thì sao? Sự thật chúng ta vẫn chưa nhìn thấy, chưa nhìn thấy Thế giới Cực
Lạc, chưa nhìn thấy A Mi Đà Phật. Đối với Phật, đối với pháp, đối với những vị
thầy truyền pháp ấy, nếu không có tín tâm thật sự, thì cả đời chúng ta niệm Phật
cuối cùng chưa hẳn được vãng sanh. Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, 能不能往生,決定在信願之有無 “năng bất năng vãng sanh, quyết định
tại tín nguyện chi hữu vô”
(vãng sanh được hay không, quyết định bởi
có tín nguyện hay không). Có thật tin, thật nguyện, thì nhất định cảm được
A Mi Đà Phật: hiện thân tác chứng cho quý vị. Chứng này có một chút giống như
thọ ký nói trong kinh Đại thừa.
Công
phu niệm đến Thành phiến. Thế nào gọi là Thành phiến? Trong tâm chỉ có A Mi Đà
Phật, ngoài A Mi Đà Phật thì cũng không có ý niệm nào. Không có vọng tưởng,
không có tạp niệm, chỉ có một câu Phật hiệu, chưa đoạn Tập khí phiền não, tuy
chưa đoạn, nhưng không khởi tác dụng. Vì sao không khởi tác dụng? Bởi Phật hiệu
này niệm niệm liên tục, nên không khởi được. A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật, câu
này nối tiếp câu kia, nếu đoạn phiền não rồi, vậy thì chứng quả; nếu chưa đoạn
phiền não, thì dùng công phu này để hàng phục dừng lại, đó là Thành phiến. Công
phu này trong các Pháp môn khác là phàm phu, nếu không thể chứng quả, thì quả
báo tương lai ở nhân thiên. Trong nhân thiên có trời Dục giới, có trời Sắc giới,
vẫn còn dục vọng, vẫn chưa đoạn sạch sẽ dục vọng, là trời Dục giới; không có dục
vọng nữa, đó chính là trời Sắc giới. Chưa ra khỏi Lục đạo luân hồi thì không được
tính là chứng quả, mức độ thấp nhất phải chứng được Sơ quả Tu-đà-hoàn của Tiểu
thừa, Sơ tín vị Bồ-tát của Đại thừa. Đại thừa là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh,
Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, có tổng cộng 51 cấp bậc. Đầu tiên Thập tín
vị là phàm phu, cũng coi là không tệ, là tiểu Thánh, được gọi là tiểu tiểu
Thánh. Từ Sơ trụ, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, đó là Tam hiền, Tam hiền
của Biệt giáo, đi lên tiếp là Thập địa, Thập địa là Thánh nhân, Tam hiền Thập
thánh, Tam hiền là 30 thứ bậc của Bồ-tát. Quả vị của các ngài trong Thập tín vị
đã đạt được, tương đương với Tứ quả Tứ hướng của Tiểu thừa, Tiểu thừa có tám thứ
bậc, Đại thừa có 10 thứ bậc, bên trên là Sơ trụ.
Chứng
được Sơ quả, thì bản năng, thần thông, sáu loại thần thông là bản năng, mỗi người
đều có, chính là trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói: 一切眾生皆有如來智慧德相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu
Như Lai trí huệ đức tướng”
(Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng
của Như Lai), thần thông này là thuộc về đức, đức năng. Trong Sơ tín vị Bồ-tát
của Đại thừa chỉ có hai loại hiện ra là: Thiên nhãn thông và Thiên nhĩ thông,
tuy các ngài chưa thoát khỏi Lục đạo luân hồi, nhưng các ngài tu hành trong Lục
đạo luân hồi, sẽ không thoái chuyển, các ngài chứng được Bất thoái chuyển. Các
ngài từ Sơ tín đến Nhị tín, đến Tam tín, đến Thất tín vị thì bằng với A-la-hán,
vượt khỏi sáu đường luân hồi, sau đó dần dần tiến lên, trong Thập pháp giới, chưa
rời khỏi Thập pháp giới, chứng được Pháp giới Thanh văn, Pháp giới Duyên giác,
Pháp giới Bồ-tát, Pháp giới Phật ở trong Thập pháp giới. Cần phải phá một phẩm
Vô minh, thấy một phần Chân tánh, thì các ngài ra khỏi Thập pháp giới. Ra khỏi
Thập pháp giới, trong Biệt giáo thì các ngài là Sơ địa, trong Viên giáo thì các
ngài là Sơ trụ. Địa vị đó cao rồi, đó gọi là Pháp thân Bồ-tát, các ngài minh
tâm kiến tánh, nếu chưa minh tâm kiến tánh, thì các ngài không thể vượt khỏi Thập
pháp giới. Do đây đủ biết, Thập pháp giới là mê do Tự Tánh mà biến hiện ra, Lục
đạo luân hồi là do Kiến tư Phiền não biến hiện ra, Phật giảng rất rõ ràng về điều
này. Nên đoạn Kiến tư Phiền não rồi, thì không thấy Lục đạo luân hồi nữa; minh
tâm kiến tánh thì không thấy Thập pháp giới nữa, hiện nay những gì trước mặt
chúng ta là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Chúng ta tu hành ngay trong một đời thật
không dễ đạt được điều ấy.
Phá Vô
minh thật khó, Vô minh là Khởi tâm Động niệm, với Khởi tâm Động niệm thì chúng
ta hoàn toàn không có cảm giác, cách đoạn thế nào? Kiến tư Phiền não thì chúng
ta có cảm giác, Trần sa Phiền não thì có cảm giác, Vô minh Phiền não thì không
có cảm giác, bởi tần số quá cao rồi. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, trong một
giây tần số dao động sóng là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, trong một giây, chúng ta
chắc chắn không có cách nào biết, nên là khó, thật khó! Loại phiền não mà chúng
ta có cảm giác thì đoạn trước: tài sắc danh thực thùy, danh văn lợi dưỡng, thất
tình ngũ dục, đây là những thứ rất rõ ràng. Đoạn hết những thứ này, đặc biệt là
tham sân si mạn nghi (Tư hoặc), mới có thể thoát ly Lục đạo luân hồi, chứng được
quả vị Tiểu thừa, bảy lần tới lui trong cõi trời cõi người. Chúng ta cũng biết
Đại thừa so với Tiểu thừa, Sơ tín vị Bồ-tát chưa ra khỏi luân hồi, cũng là bảy
lần qua lại trong cõi trời cõi người, thọ mạng nhân gian hết thì sanh cõi trời,
thọ mạng trên trời hết thì lại đến nhân gian, các ngài sẽ không đọa ba đường
ác, các ngài cũng sẽ không trở thành A-tu-la, sẽ không trở thành La-sát, đó là
Thánh nhân. Còn Như Lai Chánh Giác thì sao? Như Lai ở đây mức độ thấp nhất là
Minh tâm Kiến tánh. Minh tâm Kiến tánh, kiến tánh thành Phật, nên hai chữ Như
Lai đối với các ngài có thể dùng. Các ngài sẽ không đến Thập pháp giới, lại sẽ
không vào Lục đạo luân hồi, nhưng chúng sanh trong Lục đạo, chúng sanh trong Thập
pháp giới có duyên với các ngài, có duyên, người đó có cảm, thì Như Lai liền có
ứng, cảm ứng đạo giao, bất khả tư nghì.
Ví dụ
về cảm ứng trong đời này của chúng ta, ở thời đại này, ví dụ rất rõ ràng là lão
Hòa thượng Hư Vân. Mọi người đều biết, lão Hòa thượng lúc 47 tuổi phát tâm triều
bái Ngũ Đài sơn, ba bước một lạy, từ Phổ Đà lạy đến núi Ngũ Đài tại Sơn Tây đã
dùng thời gian hơn ba năm. Ba bước một lạy, trong đó có hai lần bị bệnh, khi bị
bệnh đều ở nơi hoang vắng, không có ai ở gần đấy, khi tính mạng đang bị đe dọa,
thì gặp được một người ăn xin, người ăn xin đã cứu ngài. Người ăn mày đó xin
cơm cho ngài ăn, ở trên núi tìm một số cây thuốc giúp ngài chữa bệnh, đã ở hơn
nửa tháng, bệnh của ngài khỏi rồi, ngài tiếp tục lạy về phía trước. Hướng đến
người ăn xin thưa hỏi, hỏi cao danh quý tánh của ngài, người ấy nói là Văn Kiết,
Văn trong văn chương, Kiết trong Kiết tường. Hỏi ngài ở đâu? Người ấy nói nhà
tôi ở Ngũ Đài sơn, người ở Ngũ Đài sơn đều biết tôi. Lão Hòa thượng lạy đến Ngũ
Đài sơn, niệm niệm không quên vị ân nhân này, hỏi có ai biết Văn Kiết không,
nhưng không ai biết. Đến trong chùa lạy Bồ-tát Văn Thù, rồi hướng đến đại chúng
thỉnh giáo có người nào biết có người ăn xin tên là Văn Kiết không? Đại chúng
nói với ngài, đó là Hóa thân của Bồ-tát Văn Thù. Đây chính là lão Hòa thượng có
cảm, Bồ-tát Văn Thù có ứng. Ứng thân này không phải là giả, đã ở cùng với ngài
hơn một tháng. Điều này nói rõ ngài Văn Thù là Đẳng giác Bồ-tát, đó là ngài thị
hiện, thân phận thật sự sớm đã thành Phật rồi. Trên kinh Đại thừa, đức Thích Ca
Mâu Ni Phật nói với chúng ta, là sớm thành Phật rồi, ngài là thầy của bảy vị Phật.
Đừng nói ngài, mà học trò bên dưới của ngài cũng có bảy vị thành Phật, tư cách
rất già dặn. Ngài dùng thân phận của Đẳng giác Bồ-tát, ở Thế giới Cực Lạc trợ
giúp A Mi Đà Phật giáo hoá chúng sanh, cũng dùng thân phận Đẳng giác, ở thế giới
Hoa Tạng giúp đức Tỳ Lô Giá Na Phật giáo hoá chúng sanh. Chúng ta phải ngưỡng
tin những điều này, thật sự tin đức Thích Ca, đức Mi Đà, chư Phật Như Lai chắc
chắn không vọng ngữ, không được hoài nghi chút nào, hoài nghi thì chúng ta sai
rồi.
Điều
khó nhất của học Phật, là tín tâm. Đầy đủ niềm tin chân thành, thì chẳng ai mà
không thành tựu. Người niệm Phật như chúng ta nhiều, nhưng người thật sự tin
không nhiều, người thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ không nhiều, phải thật
phát nguyện. Thế giới của chúng ta ở đây và Thế giới Tây Phương Cực Lạc, trên bộ
Kinh này giảng vô cùng rõ ràng, giảng rất sáng tỏ, nhất định phải làm cho rõ
ràng. Thế giới này còn có thể ở hay sao? Quá khổ rồi, hiện nay chúng ta ở thế
gian này đích thân cảm nhận được. Thế giới Cực Lạc so với nơi đây của chúng ta,
là hai sự đối lập rõ ràng, người của thế giới đó Vô Lượng Thọ, người 100 tuổi của
thế giới này rất ít; thế giới đó A Mi Đà Phật ngày ngày giảng kinh dạy học
không gián đoạn, còn Thiện tri thức ở đây quá ít quá ít rồi, đến đâu để tìm?
Chúng ta gặp được bộ Kinh này, bản hội tập này, gặp được Tập Chú của lão Cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ, đây đều là duyên sâu với Tịnh Độ, đây đều là Phật Bồ-tát gia
trì, thật không dễ gặp. Gặp được mà chúng ta tin tưởng, chúng ta thật sự phát
nguyện, niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ; vẫn chưa đi, chưa đi là Phật giữ chúng ta ở
đây biểu pháp, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền. Lão Hòa thượng Hải Hiền là đã
nhìn thấy A Mi Đà Phật, chúng ta đừng có vội, không lâu nữa sẽ nhìn thấy thôi.
Những việc này được Bồ-tát Đại Thế Chí nói với chúng ta rất rõ ràng, trong 25
Viên Thông của Kinh Lăng Nghiêm, thứ 24 là Bồ-tát Đại Thế Chí, thứ 25 là Bồ-tát
Quán Thế Âm. Bồ-tát Đại Thế Chí nói với chúng ta, người niệm Phật 憶佛念佛 “ức Phật niệm Phật”, ức là trong tâm nghĩ, trong miệng
không niệm mà trong tâm nghĩ Phật, đôi khi trong tâm nghĩ mà trong miệng niệm
Phật, trong miệng không niệm mà trong tâm nghĩ Phật, không gián đoạn. Bồ-tát
nói với chúng ta 現前當來必定見佛 “hiện tiền đương lai tất định kiến
Phật” (hiện tại tương lai nhất định thấy Phật),
hiện tiền là chúng ta sống ở thế gian này, trong mộng thấy Phật, trong định thấy
Phật; có duyên phận đặc biệt, cũng giống như Bồ-tát Văn Thù biến thành người ăn
xin đến ở với quý vị một tháng, hai tháng đều có thể được, như vậy gọi là hiện
tiền thấy Phật. Tương lai thấy Phật, là vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, ngày
ngày quý vị ở cùng với A Mi Đà Phật, không thể nghĩ bàn! Trực tiếp tiếp nhận
giáo huấn của A Mi Đà Phật, làm gì có đạo lý không thành Phật! Chúng ta có tình
cảm với thế giới này, có rất nhiều oán thân mà chúng ta hy vọng độ họ, hiện nay
chúng ta chưa thành Phật, năng lực độ chúng sanh rất có hạn, chỉ có thể giới
thiệu những kinh điển này cho mọi người, còn tin hay không đó là duyên phận của
họ. Nếu đến Thế giới Cực Lạc, tâm từ bi của quý vị tha thiết, đã gặp A Mi Đà Phật
một lần thì có thể trở về, không cần chờ thành Phật ở Thế giới Cực Lạc mới trở
về, chưa thành Phật cũng có thể trở về, bản nguyện oai thần của A Mi Đà Phật
gia trì quý vị, quý vị sẽ không mê mất Tự Tánh, quý vị biết quý vị từ Thế giới
Cực Lạc trở lại, quý vị tùy lúc có thể quay trở lại Thế giới Cực Lạc, quý vị
nói xem quý vị tự tại biết bao. Không thể bỏ lỡ cơ hội, bỏ lỡ là thật đáng tiếc
rồi, nhất định phải nắm chắc. Những câu chữ này trên kinh, đều đang cảnh tỉnh
chúng ta, khuyên nhủ chúng ta.
如來正覺 “Như Lai Chánh Giác” (Như Lai Chánh Giác), Chánh Giác là trí huệ vốn đầy đủ trong Tự
Tánh, 其智難量 “kỳ
trí nan lượng” (trí ấy khó đo lường), không có cách nào
đo lường trí huệ này, lớn không có bên ngoài, sâu không có đáy, trí huệ chân thật
là của Tự Tánh vốn có. Lục Tổ Huệ Năng của Thiền tông thời nhà Đường khi khai
ngộ, khai ngộ chính là Kiến tánh, Kiến tánh, tánh là như thế nào? Báo cáo của
ngài làm với Ngũ tổ chỉ có 20 chữ, ngài nói câu thứ ba: 何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), xưa nay chính mình đã đầy đủ,
không thiếu khuyết chút nào. Đầy đủ điều gì? Trên Kinh Hoa Nghiêm, đức Thích Ca
Mâu Ni Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”,
đây chính là vốn tự đầy đủ, đức Phật quy nạp ba loại lớn này thì đã bao gồm tất
cả rồi. Quý vị xem, thứ nhất là trí huệ; thứ hai là đức năng, thần thông đạo lực
là thuộc về đức năng, đầy đủ sáu loại thần thông, trên kinh Đại thừa nói là Tam
minh Lục thông; tướng hảo chính là toàn thể vũ trụ, cả vũ trụ đều là do Tự Tánh
biến hiện. Phía sau có một câu, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn
pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp),
vạn pháp từ đâu tới? Khi không hiện vốn là đầy đủ, gặp được duyên, hiện ra
chính là cả vũ trụ. Phải biết điều này, cả vũ trụ bao gồm cõi nước của chư Phật
Bồ-tát. Chư Phật Như Lai, cõi nước của chư Phật Bồ-tát từ đâu ra? Từ Tự Tánh biến
hiện ra. Tự Tánh của ai? Tự Tánh của chính mình, phải biết điều này. Nên chúng
ta cầu vãng sanh, là Tự Tánh Mi Đà, duy tâm Tịnh Độ. Thế giới Cực Lạc từ đâu mà
đến? Là do Tự Tánh của tôi biến hiện; A Mi Đà Phật từ đâu đến? Cũng là do Tự
Tánh của tôi biến hiện. A Mi Đà Phật là một thể với tôi, Thế giới Cực Lạc cũng
là một thể với tôi, chẳng những Thế giới Cực Lạc, mà khắp pháp giới hư không giới
chính là một thể với tôi, học Đại thừa không có khái niệm này, vậy học uổng phí
rồi. Chúng ta và chư Phật thân thiết biết bao. Ngược lại chúng ta xem chúng
sanh Lục đạo, xem những chúng sanh trong địa ngục tam đồ có quan hệ thế nào với
chúng ta? Đều là do Tự Tánh của tôi biến hiện, tất cả là một thể với tôi, trên
là chư Phật Bồ-tát, dưới là địa ngục A Tỳ, là một thể. Vì sao có loại tình hình
này? Bởi một niệm giác chính là Phật Bồ-tát, một niệm mê chính là chúng sanh địa
ngục (chúng sanh trong ba đường ác), do mê hay ngộ mà cảnh giới biến hiện ra
khác nhau.
Nên
người thật sự giác ngộ, đức thứ nhất trong Tự Tánh, trí huệ đức tướng, trong đức
thì đức thứ nhất là gì? Chính là từ bi, tâm từ bi của Tự Tánh lưu xuất ra. Tâm
từ bi này là thế nào? Tâm từ bi này lưu xuất ra, nhất định là chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ. Chúng sanh này là của cả Pháp giới, tất cả chúng sanh khắp
Pháp giới hư không giới, không phải chỉ trái đất, không phải chỉ loài người, vậy
là quá nhỏ rồi, đó là một chấm nhỏ trong hư không Pháp giới. Chân tâm, từ bi là
đức thứ nhất trong Chân tâm, chính là tâm yêu thương, quý vị yêu thương họ, thì
quý vị mới có thể giúp họ, quý vị mới có thể độ họ, không kèm thêm bất kỳ điều
kiện gì. Vô duyên đại từ, vô duyên, là không có điều kiện; đồng thể đại bi, bi
là nhổ sạch khổ cho chúng sanh, từ là ban vui cho chúng sanh. Ngày nay, chính
chúng ta chưa khai ngộ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ rồi, A Mi Đà Phật
khai ngộ rồi, chúng ta đọc kinh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, học tập giáo huấn
của A Mi Đà Phật. Phẩm thứ sáu trong Kinh này, 48 nguyện là do chính A Mi Đà Phật
tự nói ra, đức Thế Tôn thuật lại cho chúng ta, Ngài hoàn toàn y theo những gì A
Mi Đà Phật nói, Ngài cũng đã nói như vậy. Nên chúng ta học tập kinh giáo của đức
Thích Ca Mâu Ni Phật, học tập lời dạy của A Mi Đà Phật, chúng ta thật làm,
chúng ta thật học. Đời này chúng ta không có bất kỳ mục đích nào, chính là cầu
sanh Tịnh Độ. Chúng ta có tín tâm viên mãn, 100% tín tâm, nhất tâm hướng về.
Thân
thể của chúng ta, thân thể có thể không cần quan tâm, Phật Bồ-tát sẽ quan tâm.
Phật Bồ-tát thật quan tâm sao? Thật quan tâm. Ngay cả nhà khoa học hiện nay đều
biết, nhà khoa học nói với chúng ta, hiện tượng vật chất là từ ý niệm sanh ra,
giống với những gì trên kinh Phật nói, tướng do tâm sanh. Thân thể này của
chúng ta là tướng, là do ý niệm của chúng ta biến hiện, chúng ta thật sự tin Phật,
thật mong muốn vãng sanh, câu Phật hiệu này từ sáng đến tối không gián đoạn,
đây là thiện niệm bậc nhất trong tất cả ý niệm. Ý niệm này quá tốt rồi, không
có gì tốt hơn ý niệm này nữa, ý niệm này gia trì thân thể của chúng ta, thì
thân thể này của chúng ta làm sao mà còn có bệnh tật được? Ngày nay chúng ta vẫn
có bệnh, nói rõ điều gì? Nói rõ chúng ta đối với sự việc này, chính là trong
tín nguyện còn có nghi ngờ, vẫn còn hoài nghi, quý vị chưa đến mức thật sự
không có chút hoài nghi nào; không còn hoài nghi gì nữa, thì thân thể của quý vị
chính là thân kim cang bất hoại, hiện tại liền chứng đắc. Lão Hòa thượng Hải Hiền
làm tấm gương cho chúng ta, 112 tuổi: không cần người khác chăm sóc ngài, ngài
hoàn toàn tự lo liệu về cuộc sống, quý vị sẽ nghĩ thân thể của ngài thật tốt. Đầu
óc minh mẫn, thân thể linh hoạt, làm việc chăm chỉ, buổi đêm ngày vãng sanh đó,
ngài là vãng sanh vào buổi đêm, ban ngày hôm đó vẫn làm việc cả ngày, không nghỉ
ngơi. Ngài ở trong vườn rau làm đất, tưới nước, nhổ cỏ, từ sớm đến tối, ban đêm
vãng sanh, ngài biểu pháp này cho chúng ta. Quý vị nói xem vãng sanh vào ban
đêm, vậy thì có thể nghỉ ngơi nhiều một chút, ngài vẫn còn công việc của ngày
hôm đó, thật sự gọi là làm Hòa thượng một ngày thì đánh chuông đủ một ngày, làm
xong tất cả việc nên làm của chính ngài, ra đi được tự nhiên thoải mái như vậy.
Ngài hoàn toàn biết mấy giờ, mấy phút, mấy giây ra đi, rất rõ ràng, nhưng không
nói với ai, không mong người khác trợ niệm cho ngài. Có đồng tu nói: ngài nói
cho con khi nào ra đi, mọi người chúng con sẽ trợ niệm cho ngài. Ngài nói: Trợ
niệm đó là không chắc chắn, điều đó không đáng tin, tôi không cần người trợ niệm,
tôi nói đi là đi. Ngài rất chắc chắn, không cầu người khác.
Vãng
sanh tự tại như vậy, chúng ta thấy được ba người trong đĩa phim, mẹ của ngài 86
tuổi vãng sanh, là tự tại. Trước khi vãng sanh đích thân gói sủi cảo, cả nhà
sum họp vô cùng vui vẻ, con trai, con gái, cháu gái thảy đều tới. Sau khi ăn
xong bánh sủi cảo, bà ngồi hai chân xếp bằng trên ghế nói với mọi người: Ta đi
đây, thì thật đi rồi. Quý vị xem như vậy tự tại biết bao! Vì sao lúc đó bà nhất
định phải kiên quyết trở về quê nhà? Chính là làm tấm gương này cho con gái của
bà xem, cho cháu gái của bà xem, xem các con cháu có tin không, khi một người
nào đó ra đi tiêu sái như vậy? Bà dựa vào điều gì? Một câu Phật hiệu, cả đời ăn
chay trường niệm Phật, cuối cùng biểu diễn cho mọi người xem. Sau đó là lão
Pháp sư Hải Khánh, là Sư đệ của ngài Hải Hiền, 82 tuổi ra đi, cũng là rất tiêu
sái, biết trước ngày giờ. Những thị hiện, biểu pháp này: đều là làm chứng minh cho
chúng ta, ít nhất quý vị phải tin: thật có Thế giới Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật.
Năm xưa khi Đại sư Ngẫu Ích còn ở đời, ngài đã dùng một biệt hiệu là Tây Hữu
Lão Nhân, Tây Hữu ở đây chính là thật có Tây Phương, thật có A Mi Đà Phật, nên
lấy điều này làm danh hiệu, vì độ chúng sanh. Chúng sanh gọi ngài là Tây Hữu
Lão Nhân, là khẳng định thật có Thế giới Cực Lạc và A Mi Đà Phật. Nên trí huệ đức
tướng của đức Phật: không thể nghĩ bàn, chúng ta không cách nào tưởng tượng,
cũng không cách nào nói rõ ràng, nói sáng tỏ được, đây gọi là 難量 “nan lượng” (khó đo lường).
因佛極證涅槃甚深法性故 “Nhân Phật cực chứng Niết-Bàn thậm
thâm Pháp tánh cố” (Bởi Phật đã chứng được đến tột cùng Pháp
tánh rất sâu của Niết-Bàn), Ngài minh tâm kiến tánh, thấy được Pháp tánh
viên mãn. Thật sự minh tâm kiến tánh, đoạn Phiền não rồi, [đã đoạn] Vô minh Phiền
não, Vô minh Phiền não là gì? Chính là Khởi tâm Động niệm. Đó là Bồ-tát Di Lặc
nói với chúng ta, ý niệm cực kỳ vi tế, một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần. Ý
niệm vi tế như vậy, Ngài rất rõ ràng, không mơ hồ chút nào, đây là Chánh Giác
viên mãn, Pháp tánh viên mãn. Người đoạn Vô minh Phiền não, chính là không khởi
tâm không động niệm. Ở đâu? Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, công phu ở đó. Chúng
ta thấy sắc liền khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, nên là phàm phu.
Pháp thân Bồ-tát: mắt nhìn thấy rất rõ ràng, tai nghe được rất rõ ràng, mũi ngửi
rất rõ ràng, lưỡi nếm rất rõ ràng, nhưng không có Khởi tâm Động niệm, đó là Tự
Tánh thấy, đó là trí huệ, đó là cảnh giới
của Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát đến Diệu Giác Như Lai còn có 42 cấp bậc,
trên Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, Thập trụ, Sơ trụ Bồ-tát là Minh tâm Kiến
tánh, còn có Nhị trụ, Tam trụ, Tứ trụ đến Thập trụ, trên Thập trụ có Thập hạnh,
trên Thập hạnh có Thập hồi hướng, trên Thập hồi hướng có Thập địa, trên nữa có
Đẳng giác, Diệu Giác. Diệu Giác mới là cực chứng đạt đến tột cùng, chứng Pháp
tánh rất sâu đến tột cùng. Sơ trụ Bồ-tát là bắt đầu chứng được, lục căn trong cảnh
giới lục trần, không khởi tâm không động niệm, tất nhiên không có Phân biệt Chấp
trước. Khởi tâm Động niệm sanh ra Phân biệt, trong Phân biệt sanh ra Chấp trước.
Trên kinh Đại thừa nói rất rõ ràng, không khởi tâm không động niệm là Phật, là
Pháp thân Đại sĩ; có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước là Tam
thừa Bồ-tát, chính là Bồ-tát, Phật trong Thập pháp giới, là quý Ngài; Nếu có Khởi
tâm Động niệm, có Phân biệt, không có Chấp trước, là A-la-hán; tất cả đều có, Khởi
tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước đều có, là chúng sanh Lục đạo. Chúng sanh Lục
đạo đều có tất cả, nhưng họ có sự khác biệt về nặng nhẹ. Người địa vị cao trong
Lục đạo, phiền não nhẹ một chút, họ có, mà chưa đoạn; đi xuống, phiền não trong
ba đường ác nặng, ô nhiễm sâu, trong đó có khác biệt, đều không rời khỏi Lục đạo
luân hồi. Tuy phiền não nhẹ một chút, họ có công phu tu hành, phiền não nhẹ một
chút, nhưng cũng có lúc hồ đồ. Hồ đồ đã làm chuyện sai, họ đọa càng ngày càng
nghiêm trọng, từ trời Sắc giới thoái chuyển đến trời Dục giới, từ trời Dục giới
thoái chuyển xuống cõi người, thậm chí vào đường súc sanh, đường địa ngục.
Mỗi
người chúng ta: đều đã trải từng qua Lục đạo, vô lượng kiếp trong quá khứ đến
nay, đường nào cũng đã nán lại, đời này sau khi được thân người đã quên hết
toàn bộ quá khứ, khi nào sẽ nhớ lại được? Quý vị chứng được Nhị quả là biết rồi.
Sơ quả thì Lục thông chỉ có hai loại: là Thiên nhĩ, Thiên nhãn. Nhị quả
Tư-đà-hàm, Nhị quả Tư-đà-hàm có thêm hai loại thần thông xuất hiện: là Tha tâm
thông, Túc mạng thông. Túc mạng thông chính là biết đời quá khứ của chính mình,
đại khái chúng ta tin tưởng 50 đời trong quá khứ chắc là không có vấn đề, quý
ngài có thể biết 50 đời trong quá khứ (A-la-hán biết 500 đời trong quá khứ), Nhị
quả có năng lực như vậy. Tha tâm thông, trong tâm người khác khởi ý niệm, quý
ngài biết. Đi lên tiếp, chứng Tam quả A-na-hàm, lại có thêm một loại Thần túc
thông. Loại này rất lợi hại, quý ngài có thể bay, có thể biến hóa, nếu quý ngài
đi ra ngoài du hành thì không cần phương tiện giao thông, trong tâm nghĩ, thì
thân thể của quý ngài đến rồi. Đi lên nữa là Tứ quả A-la-hán, A-la-hán có Lậu tận
thông, tức là đoạn hết Kiến tư Phiền não, vượt khỏi Lục đạo luân hồi, không thấy
Lục đạo luân hồi nữa, giống như một giấc mộng, tỉnh mộng rồi, thì cũng tìm
không thấy dấu vết của Lục đạo. A-la-hán cũng độ chúng sanh, nhưng chưa tích cực,
quý ngài thích chúng sanh nào thì quý ngài độ họ, nếu quý ngài không thích, thì
quý ngài không để ý tới họ. Không giống như Bồ-tát, Bồ-tát là vô duyên đại từ,
đồng thể đại bi, A-la-hán không có, Bích-chi-phật cũng không. Quyền giáo Bồ-tát
tuy có, nhưng không thể so sánh với Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát quả thật
lưu lộ ra đức lớn thứ nhất trong Tự Tánh, thật sự là từ bi đến vô cùng, dù oan
gia đối đầu có khổ có nạn thì quý ngài cũng vẫn cứu họ. Tại sao vậy? Bởi quý
ngài biết vốn là một thể, khi mê muội không thể trách họ. Nên tâm địa thanh tịnh
không có ô nhiễm, sau khi hiểu rõ, thì chúng ta sẽ thật làm.
Trên
thế giới này, hiện nay chúng ta gặp phải đời loạn, không phải là thịnh thế,
thái bình thịnh thế thì dễ. Còn sanh ra trong thời đại này, là đời loạn, người
mê muội rất sâu, thật không dễ giác ngộ, nên phải chịu lấy rất nhiều uẩn khúc. Cứu
giúp chúng sanh khổ nạn, những chúng sanh ấy thường hay gây phiền phức, thậm
chí đưa quý vị vào chỗ chết, quý vị nhìn thấy rất rõ ràng, nhìn thấy rất sáng tỏ.
Thật sự khi [họ] đưa quý vị vào chỗ chết, thì vẫn cảm ơn họ, vì sao vậy? Bởi đúng
lúc đến Thế giới Cực Lạc rồi. Trước khi quý vị sắp đi, nhất định nhìn thấy A Mi
Đà Phật đến tiếp dẫn quý vị, người khác không thấy, nhưng quý vị nhìn thấy. Phải
có tín tâm, không có tín tâm không được, tín tâm quyết định quý vị có được vãng
sanh hay không, phẩm vị cao hay thấp, là bởi công phu niệm Phật sâu hay cạn.
Công phu sâu hay cạn không nhất định là niệm được nhiều hay ít, không liên quan
đến nhiều hay ít, mà là sâu hay cạn của tâm, cũng là sâu hay cạn của tín tâm,
sâu hay cạn của tâm ưu chuộng. Tôi rất ưa chuộng đối với Thế giới Cực Lạc, thì
tâm này sâu, ngày ngày mong đi, mọi lúc đều mong đi, thì quý vị sẽ cảm được A
Mi Đà Phật đến báo tin cho quý vị. Chỉ cần quý vị vừa đạt đến Công phu Thành
phiến, thì duyên chín muồi rồi, duyên với A Mi Đà Phật. Phật hoặc là trong mộng,
hoặc là trong định, quý vị nhìn thấy rồi, Ngài sẽ nói với quý vị, quý vị còn thọ
mạng bao lâu.
Giống như Pháp sư Oánh Kha, đó là một người xuất gia phá giới, phá
trai, không giữ thanh quy. Chính ngài cũng còn tốt, còn tin tưởng nhân quả, biết
những việc mình đã làm thì tương lai chắc chắn đọa địa ngục. Nghĩ đến khổ của địa
ngục liền sợ hãi, hướng đến các đồng tham đạo hữu thỉnh giáo, làm thế nào có thể
giúp tôi không đọa địa ngục? Có đồng học đưa quyển Truyện Vãng Sanh cho ngài
xem, sau khi ngài xem rồi vô cùng cảm động, sau khi đọc xong liền đóng cửa
phòng của mình lại, ở trong đó dốc sức niệm Phật, ba ngày ba đêm không ngủ
không nghỉ, cầu A Mi Đà Phật đến cứu ngài. A Mi Đà Phật thật đến rồi, chân
thành đến tột cùng! Phật nói với ngài: con vẫn còn mười năm dương thọ, mười năm
sau Ta đến đón con. Ngài cũng là phước chí tâm linh, hướng A Mi Đà Phật cầu
xin, con không cần mười năm thọ mạng nữa, bây giờ con đi theo Ngài. Đức Phật rất
từ bi, đức Phật liền đồng ý, nói với ngài, như vậy được rồi, ba ngày sau Ta đến
đón con. Ngài vô cùng vui mừng, sáng sớm hôm sau mở cửa phòng ra, nói với mọi
người, ba ngày sau A Mi Đà Phật đến đón tôi vãng sanh. Người trong chùa đều cho
là ngài nói dối, đóng cửa lại niệm Phật ba ngày ba đêm, thì Phật đến tiếp dẫn,
không có ai tin. Nhưng ngài nói chuyện lại không giống như nói để gạt người,
cũng may thời gian ba ngày không dài, chúng tôi sẽ đợi ông, xem rốt cuộc là thật
hay giả. Đến ngày thứ ba, ngài lễ thỉnh đại chúng niệm Phật tiễn ngài vãng
sanh, ngài đến làm tác chứng chuyển cho mọi người, mọi người niệm Phật được khoảng
một khắc (một khắc của thời xưa, đại khái là nửa giờ của chúng ta bây giờ), nói
với mọi người A Mi Đà Phật đến rồi (người khác không nhìn thấy, chỉ có ngài
nhìn thấy), cáo biệt với đại chúng, ngài thật ra đi rồi. Phật để ngài ở lại ba
ngày, bảo ngài biểu pháp, làm chứng minh cho người niệm Phật. Việc này được viết
trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Truyện Vãng Sanh, sau hơn 1000 năm, chúng ta
xem được những ghi chép này đều xúc động, như vậy ngài vãng sanh cũng đã độ rất
nhiều người, đây là công đức. Nếu A Mi Đà Phật liền đưa ngài đi, thì rất nhiều
người cho rằng Pháp sư tự tử, vậy thì hoàn toàn khác rồi. Nên A Mi Đà Phật có
trí huệ, lưu một khoảng thời gian để ngài biểu pháp, để ngài độ chúng sanh,
phương pháp này hay, là thật, không phải là giả.
Chúng
ta xem tiếp, Niệm lão trích dẫn: 「《嘉祥疏》曰:如來正覺其智難量者,明真智妙絕,照窮法界,非下情所測 “Gia Tường Sớ viết: Như Lai Chánh
Giác kỳ trí nan lượng giả, minh chân trí diệu tuyệt, chiếu cùng Pháp giới, phi
hạ tình sở trắc” (Trong
Gia Tường Sớ nói: Trí Chánh Giác của Như
Lai khó đo lường, là nói rõ chân trí diệu tuyệt, soi chiếu cùng tận Pháp giới,
chẳng phải là hạng hạ tình mà đo lường được). Đây là thật. Đại sư Gia Tường
nói với chúng ta, Như Lai Chánh Giác, trí huệ mà Ngài đã chứng được là Tự Tánh,
chân trí viên mãn đầy đủ, trí huệ Bát-nhã. Chân trí diệu tuyệt, diệu tuyệt
chính là chúng ta không cách nào tưởng tượng, cũng không cách nào nói rõ ràng.
Tác dụng của trí đó? Là chiếu cùng tận Pháp giới, chữ “cùng” có nghĩa là tận
cùng, khắp Pháp giới hư không giới, ánh sáng của trí đó đều chiếu sáng hết. Sự
chiếu sáng này chính là Thường Tịch Quang, chứng được quả vị Diệu Giác liền trở
về Thường Tịch Quang, đây là tầng cao nhất, thù thắng nhất trong Tịnh Độ, là
Thường Tịch Quang Tịnh độ. Pháp thân Bồ-tát trụ Thật Báo Trang Nghiêm độ, đã đoạn
hết một phẩm Sanh tướng Vô minh Phiền não cuối cùng, Phiền não đó là Tập khí.
Đoạn hết phiền não liền chứng được Sơ trụ, chính là Pháp thân Bồ-tát, sanh Thật
Báo độ, trong Thật Báo độ quý ngài có Tập khí, không dễ đoạn Tập khí. A-la-hán
đoạn Kiến tư Phiền não rồi, chứng được quả A-la-hán, quý ngài vẫn còn Tập khí của
Kiến tư Phiền não, A-la-hán cần phải đoạn hết Tập khí này, thì quý ngài lên một
cấp, là Bích-chi-phật; Bích-chi-phật cao hơn A-la-hán, ngay cả Tập khí của Kiến
tư Phiền não thì Bích-chi-phật đều đoạn rồi, ở trong địa của quý ngài phải đoạn
Trần sa Phiền não, đoạn Trần sa Phiền não rồi, thì quý ngài lên đến Bồ-tát; tuy
là Bồ-tát, nhưng vẫn còn mang Tập khí của Trần sa Phiền não, Bồ-tát cần phải đoạn
hết Tập khí của Trần sa Phiền não, thì quý ngài thành Phật. Phật trong mười
Pháp giới chứ không phải là Phật thật, Đại sư Thiên Thai nói quý ngài là Tương
tự Tức Phật, vì sao vậy? Bởi chưa phá Vô minh. Phá Vô minh rồi chính là chuyển
A-lại-da thành Đại Viên Cảnh trí, quý ngài vẫn chưa làm được, quý ngài vẫn dùng
A-lại-da, nhưng dùng được đúng, không dùng lệch, không dùng tà, nên rất giống
Phật nhưng không phải là Phật thật. Phật thật thì dùng Chân tâm, Phật của mười
Pháp giới thì dùng A-lại-da, dùng Vọng tâm, không phải dùng Chân tâm. Nên quý ngài
cần phải ở trong cảnh giới của quý ngài đoạn hết Vô minh, cũng chính là thật sự
làm được không khởi tâm không động niệm, chỉ cần thấy sắc nghe tiếng không khởi
tâm động niệm, thì không có Thập pháp giới nữa. Cũng giống như Lục đạo, vẫn là
một giấc mộng, tỉnh giấc mộng ấy, xuất hiện cảnh giới gì? Chính là Thật Báo
Trang Nghiêm độ, cũng gọi là Nhất chân Pháp giới.
Vì sao
là thật? Bởi tất cả ở trong Pháp giới này không sanh không diệt, tức là đó
không phải pháp sanh diệt, là không sanh không diệt. Tự Tánh không có sanh diệt,
nên cảnh giới mà Tự Tánh biến hiện là không sanh không diệt. Thập pháp giới là
bởi vì dùng A-lại-da, A-lại-da là pháp sanh diệt. Nên trên Kinh Hoa Nghiêm nói:
vũ trụ này cũng như Y chánh trang nghiêm của Thập pháp giới, 唯心所現,唯識所變 “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” (chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến). Nhất chân Pháp giới, chỉ có tâm
hiện không có thức biến. Ngày nay thế giới của chúng ta ở là do có thức biến,
thức là pháp sanh diệt, hiện tượng dao động sóng. Đây là lời giải thích mà nhà
Cơ học Lượng tử hiện đại đưa ra cho chúng ta, chúng ta thấy báo cáo của họ: giống
với những gì trên kinh Phật nói, chứng minh là thật, không phải giả. Trong Thật
Báo độ đoạn Vô minh Phiền não rồi, nhưng chưa đoạn Tập khí của Vô minh Phiền
não. Không có cách nào để đoạn Tập khí này, tôi phải dùng phương pháp nào để đoạn?
Quý vị lại khởi tâm động niệm, vậy thì hỏng rồi, liền bị rơi xuống. Không khởi
tâm không động niệm, thì đoạn thế nào? Mặc kệ đi, thời gian lâu rồi tự nhiên sẽ
không còn. Cần thời gian bao lâu? Ba a-tăng-kỳ kiếp, tức là ba đại a-tăng-kỳ kiếp
thì tự nhiên không còn Tập khí Vô thỉ Vô minh nữa, nên vãng sanh đến Thật Báo độ.
Người của Thật Báo độ không khởi tâm không động niệm, thì 41 phẩm ở đâu ra? Vẫn
còn Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác thì thế
nào, vậy quý vị còn thì không phải có phân biệt chấp trước hay sao? Nên trong cảnh
giới đó, đây là lời của Phật nói với chúng ta, còn trên thực tế thì sao? Trên
thực tế ngay cả với khái niệm thì quý vị cũng không có, cũng không sanh ý niệm,
Pháp giới bình đẳng. Nhưng Tập khí này chướng ngại các ngài vào Thường Tịch
Quang, còn trí huệ đức tướng của chư Phật Như Lai không bị chướng ngại chút
nào. Vì thế những Pháp thân Bồ-tát ấy có thể ở trong Lục đạo, có thể ở trong Thập
pháp giới hiện thân thuyết pháp, hoàn toàn theo ý của chúng sanh. Chúng sanh
nghĩ Phật, quý ngài hiện Phật, chúng sanh nghĩ Bồ-tát thì quý ngài hiện Bồ-tát,
giống như 32 Ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên hiện thân gì độ được thì quý
ngài liền hiện thân ấy, quý ngài tự tại biết bao. Tuy hiện thân thuyết pháp,
nhưng quý ngài không có khởi tâm động niệm, quý ngài cũng không có phân biệt chấp
trước.
Đức
Thích Ca Mâu Ni Phật vào 3000 năm trước ở trên thế giới này của chúng ta chính
là loại thân này, đó là Ứng hóa thân. Ngài có Khởi tâm Động niệm hay không?
Không có, có Phân biệt Chấp trước hay không? Không có. Nên đức Thích Ca Mâu Ni
Phật nói với chúng ta, tất cả pháp mà Ngài đã thuyết trong 49 năm, không nói một
chữ nào, nếu ai nói Ngài thuyết pháp thì gọi là báng Phật. Tại sao vậy? Bởi
không có Khởi tâm Động niệm thì thuyết bằng cách nào, vốn dĩ tất cả các pháp đều
có cảm ứng. Giống như chúng ta đánh trống, chúng ta gõ xuống, thì trống tự
nhiên vang lên, chiếc trống cũng không suy nghĩ, quý vị đã đánh tôi, đánh rất mạnh,
tôi phải làm thế nào để đáp lại quý vị? Không có, hoàn toàn không có. Vì vậy
chúng ta biết Phật Bồ-tát như thế, bậc Thánh của Tiểu thừa cũng như thế, vô
thuyết mà thuyết, thuyết mà vô thuyết, tất cả là nghi ngờ của chúng sanh, kiến
giải của chúng sanh, dẫn tới phản ứng của Tự Tánh, là đến như vậy. Nên kinh Phật
không có ý nghĩa. Đây là thật, nói lời chân thật. Không có ý nghĩa bên trong,
quý vị học tập từ từ, sẽ nhìn thấy trong đó vô lượng ý nghĩa, từng chữ từng câu
đều là vô lượng nghĩa, nói không hết. Mỗi một chữ đều là vô lượng nghĩa, ý vị
vô cùng, nên kinh Phật có pháp vị, thật sự khiến quý vị sanh tâm hoan hỷ. Trong
tâm hoan hỷ này không có tình chấp, là pháp hỷ, khác với sự hoan hỷ của người
thế gian, hoan hỷ của người thế gian là có tình chấp, còn bên trong hoan hỷ của
Phật pháp thì tràn ngập trí huệ. Do đó chiếu cùng tận Pháp giới, vào Thường Tịch
Quang. Thường Tịch Quang ở đâu? Chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có,
tất cả chúng ta đều ở trong Thường Tịch Quang, không rời khỏi Thường Tịch
Quang. Phật biết chúng ta, nhưng chúng ta không biết Ngài, chúng ta có thể tin,
có thể nguyện liền tương ưng với Ngài, có thể làm cảm động Ngài hiện thân, làm
cảm động Ngài đến giúp chúng ta, đưa chúng ta ra ngoài. Tiếp dẫn đến Thế giới
Tây Phương Cực Lạc, chính là vượt qua Thập pháp giới, kéo chúng ta từ Lục đạo,
từ Thập pháp giới đi ra ngoài.
非下情所測 “Phi hạ tình sở trắc” (Chẳng phải là hạng hạ tình mà đo lường được), hạ chính là Tam hiền
Nhị thừa của Pháp thân trở xuống, quý ngài không cách nào biết được, chỉ có
Pháp thân Bồ-tát mới biết, nhưng biết chưa viên mãn, đến khi đoạn hết một phẩm
Tập khí cuối cùng, chứng quả vị Diệu Giác, thì quý ngài mới viên mãn. Chứng quả
vị Diệu Giác, vậy thì không thấy Thật Báo Trang Nghiêm độ nữa, thật sự giống
như Kinh Kim Cang nói: 凡所有相皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”
(Những gì có tướng đều là hư vọng). Nhất chân Pháp giới là đối với
mười Pháp giới mà nói, nói tương đối thì đó là thật, thực tế thì sao? Thực tế
đó cũng không có, thực tế là Thường Tịch Quang, trong Thường Tịch Quang không
có Nhất chân Pháp giới. Trong Thường Tịch Quang không lập một pháp nào, đó
không phải là hiện tượng vật chất, cũng không phải hiện tượng tâm lý, cũng
không phải hiện tượng tự nhiên, không phải gì cả, quý vị không có cách nào để
nói. Nhưng trong điều này, cũng giống như Đại sư Huệ Năng nói, nó đầy đủ thanh
tịnh, đầy đủ không sanh không diệt, đầy đủ vô lượng công đức, trí huệ, đức tướng,
là mãi mãi không động, không có dao động. Đại sư Huệ Năng nói本無動搖 “bổn vô động dao” (vốn không dao động), gọi là Tự Tánh vốn định. Nên quý vị phải có định
công, thì quý vị mới có thể khế nhập cảnh giới. Nếu quý vị không có định công,
vậy quý vị hoàn toàn bị mê, không phải là trong Thập pháp giới mà trong Lục đạo,
phải dùng Thiền định rất sâu để trở về Tự Tánh vốn định là thành Phật, là thành
Chánh Giác. Thế nên Chánh Giác này không phải là Chánh Giác thông thường, mà ý
nghĩa rất sâu.
Tiếp
theo trích dẫn trước tác Chân Giải: của Tổ sư Tịnh Độ tông Nhật Bản, 又《甄解》曰:如來正覺者,乘彌陀一如來成正覺故 “hựu Chân Giải viết: Như Lai Chánh
Giác giả, thừa Mi Đà Nhất như lai thành Chánh Giác cố”
(thêm nữa trong Chân Giải nói: Như Lai Chánh Giác là, bởi nương nhờ Nhất như của
đức Mi Đà để thành Chánh Giác). Như Lai Chánh Giác, hàm nghĩa trong câu kinh văn này rất sâu, trong
Chân Giải tiết lộ tin tức cho chúng ta. Chữ “thừa” chính là nhất hướng chuyên
niệm, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền không bỏ mất trong chốc lát, thật sự là
một câu tiếp nối một câu, đây chính là nương nhờ Nhất như của đức Mi Đà. Công đức
của một câu Phật hiệu này không cách nào để so sánh, trong pháp thế gian và xuất
thế gian đều tìm không thấy. Ý niệm nào tốt nhất? Ý niệm A Mi Đà Phật này là tốt
nhất, ý niệm A Mi Đà Phật này có thể giúp chúng ta hồi quy Tự Tánh, chứng thành
Chánh Giác, nên là thiện niệm số một của thế gian và xuất thế gian. Trong một
niệm này đầy đủ vô lượng vô biên công đức, quý vị làm việc tốt gì cũng không bằng
niệm một câu A Mi Đà Phật. Đây là thật, không giả chút nào. Ai biết? Chư Phật
Như Lai biết. Khi chúng tôi còn trẻ theo thầy Lý học kinh giáo, có hai lần thầy
nói với đồng học chúng tôi, nói đến các ngôi chùa nhỏ ở quê, các ông già bà cả
không biết chữ, trên tay cầm chuỗi tràng hạt, từ sáng đến tối đều là A Mi Đà Phật.
Quý vị nói chuyện với họ, họ cũng là A Mi Đà Phật, nét mặt tươi cười, mỉm cười
nhìn quý vị, Phật hiệu của họ không gián đoạn. Quý vị hỏi họ điều gì, họ đều là
A Mi Đà Phật, dường như ngoài A Mi Đà Phật ra thì họ sẽ không nói lời gì khác.
Hạng người này [như] đần độn, ngu ngốc, thầy nói nhất thiết không nên coi thường
họ, những người như họ tương lai vãng sanh Thế giới Cực Lạc, phẩm vị đều rất
cao. Tại sao vậy? Bởi mỗi niệm trong đó tích công lũy đức, chúng ta làm công đức
như thế nào cũng không bằng họ, nên không thể khinh thường. Một ngôi chùa nhỏ ấy,
có vài người như vậy xuất hiện, thì nơi đó không có tai nạn. Tại sao vậy? Bởi họ
thật tu hành. Những Đương gia Trụ trì trong chùa ấy chưa hẳn là thật tu hành,
còn họ thật tu hành. Nhất định không được coi thường họ, thấy họ phải cung
kính, phải làm lễ, chúng ta phải xem họ như Hóa thân của Bồ-tát ở nơi đó độ
chúng sanh, biểu pháp làm tấm gương tốt cho người khác xem. Lời này là thật,
không phải giả.
此應身即本地身也。其智難量 “Thử Ứng thân tức Bổn địa thân dã.
Kỳ trí nan lượng” (Ứng thân ấy chính là Bổn địa thân. Khó đo lường
trí ấy). Thân ở đây là Ứng thân, Hóa thân, Ứng thân hoàn toàn giống như
thân của chúng ta, Hóa thân là thân biến hóa khác với chúng ta. Lão Hòa thượng
Hư Vân gặp được người ăn xin Văn Kiết là Hóa thân, ngài bỗng nhiên xuất hiện, bỗng
nhiên không có nữa, quý vị cũng tìm không thấy ngài, đó là Hóa thân. Ứng thân,
ngài cũng là thân thể do cha mẹ sanh ra, giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật: thị
hiện là Ứng thân. Ứng thân chính là Bổn địa thân, Bổn địa thân là Pháp thân. Ứng
Hóa thân của chư Phật Bồ-tát do đâu mà có? Từ Pháp thân biến hiện ra, Báo thân
cũng là từ Pháp thân biến hiện ra. Pháp thân trong Triết học nói chính là Bản
thể của vũ trụ, tất cả pháp đều từ điều này mà hiện, không có Pháp thân thì
không cách nào thị hiện. Chúng ta thường hay tỉ dụ Pháp thân như màn hình TV,
chúng ta xem TV, màn hình là một vùng ánh sáng, không có sắc tướng gì, khi ấn một
kênh, thì kênh đó lập tức xuất hiện, đó chính là có thể sanh vạn pháp. Tánh là
màn hình, vạn pháp là sắc tướng mà kênh hiện ra, sắc tướng hòa chung với màn
hình, chắc chắn không thể chia ra. Nếu không có màn hình, thì sắc tướng không
hiện ra, tuy nhiên sau khi hiện ra, thì chân vọng hòa hợp, trong chân có vọng,
trong vọng có chân, trên TV âm thanh sắc tướng nào: rời khỏi màn hình? Không rời
khỏi. Vậy chúng ta biết rằng, tất cả pháp của chúng ta hiện nay, không rời khỏi
Tự Tánh. Tự Tánh là gì? Tự Tánh là hư không, nhưng mắt thịt của chúng ta không
nhìn thấy, người tu hành có công phu thì nhìn thấy. Họ nhìn thấy thế nào? Nhìn
thấy quang, quang này chính là Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang không sanh
không diệt, mãi không biến đổi, có thể hiện tất cả pháp. Tuy tất cả pháp được
hiện ra, nhưng là pháp sanh diệt, không trở ngại Tự Tánh, Tự Tánh cũng không
phương ngại nó, tại sao vậy? Bởi là giả. Tự Tánh là chân không, tuy là thật,
nhưng thật là không, nó không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh
thần, không có hiện tượng tự nhiên, nên không có một pháp nào. Lục tổ Đại sư Huệ
Năng nói, 本來無一物 “bổn
lai vô nhất vật” (xưa nay không một vật), đó chính là Tự
Tánh. Tuy xưa nay không một vật, nhưng nó có thể hiện tất cả pháp, có thể sanh
vạn pháp; vạn pháp được sanh là giả, sát-na sanh diệt, hoàn toàn là không tồn tại.
Nên nhất thiết đừng nên bị những thứ giả này mê hoặc, quý vị coi nó là thật,
thì quý vị sai rồi, đấy là mê ở trong đó, mê ở trong đó liền trở thành phàm phu
Lục đạo.
Phàm
phu Lục đạo tạo nghiệp chịu quả báo, tạo nghiệp là giả, chịu quả báo cũng là giả,
cũng giống như nằm mộng, nhưng mộng thường không tỉnh. Trong mộng có thiện có
ác, có khổ có vui, làm rõ ràng rồi, đây là không đáng! Làm thế nào có thể thoát
ra? Phật pháp dạy chúng ta, chỉ dẫn chúng ta thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi mê
mộng, trở về tỉnh táo. Y chánh trang nghiêm của mười Pháp giới do Tự Tánh biến
ra, tất cả cảnh giới đều là do Tự Tánh hiện. Vì sao hiện được? Bởi quý vị có ý
niệm, ý niệm của quý vị có nhiễm có tịnh, có thiện có ác, nên cảnh giới khác
nhau. Tất cả đều là do Tự Tánh biến, rời khỏi Tự Tánh, thì không có một pháp
nào có thể được. Sau khi hiểu rõ, cảnh giới tốt thì không nên sanh ưa thích,
nghịch cảnh thì không nên chán ghét, không nên oán hận, quý vị có thể dùng tâm
bình thường để sống. Điều thù thắng vô cùng trong tâm bình thường, chính là niệm
một câu A Mi Đà Phật này, niệm Phật sống tốt biết bao! Các cụ ông ở dưới quê
thiếu mặc, thiếu ăn, các cụ niệm A Mi Đà Phật nét mặt tươi cười, các cụ hưởng
vui ở trong đó, không nhìn thấy các cụ chịu khổ ở trong đó. Quý vị lắng tâm để
quan sát, quý vị nghĩ kỹ, học Phật lâu rồi, thoáng chốc sẽ nghĩ ra, là Bồ-tát
thị hiện, không phải là người phàm. Người nơi đó tạo nghiệp phải gặp nạn, có mấy
người ấy ở nơi đó, họ có phước, ngày ngày họ đang tích công lũy đức, phù hộ người
nơi đó: tiêu tai miễn nạn, từ bi đến tột cùng. Họ dùng phương pháp gì? Một câu
Phật hiệu, điều này thật tuyệt vời!
Câu tiếp
theo đây, 其智難量,念佛三昧為所住,住此發勝妙智故 “kỳ trí nan lượng, niệm Phật
Tam-muội vi sở trụ, trụ thử phát thắng diệu trí cố” (khó đo lường trí ấy, niệm Phật Tam-muội là sở trụ, do trụ vào điều này
mà phát ra trí huệ thù thắng vi diệu). Tiếp theo là Niệm lão giải thích cho
chúng ta, 蓋謂釋迦如來正覺,乃乘彌陀一如之乘而來成正覺,故與彌陀同一真如,亦即同一法身。當前現瑞之應身佛 “cái vị Thích Ca Như Lai Chánh
Giác, nãi thừa Mi Đà Nhất như chi thừa nhi lai thành Chánh Giác, cố dữ Mi Đà đồng
nhất Chân Như, diệc tức đồng nhất Pháp thân. Đương tiền hiện thụy chi Ứng thân
Phật” (Đại khái là đức Thích Ca Như Lai Chánh Giác,
là nương nhờ Nhất như thừa của đức Mi Đà mà thành Chánh Giác, nên cùng một Chân
Như với đức Mi Đà, cũng tức là cùng một Pháp thân. Hiện giờ hiện tướng lành và Ứng
thân Phật), thật sự chính là Pháp thân Như Lai, trong dấu ngoặc nói 本地身 “Bổn địa thân” (Bổn địa thân), Bổn địa là Pháp thân. Đây là đem thân phận của đức
Phật Thích Ca, nói rõ ràng thân phận thật sự với chúng ta. Chúng ta sáng tỏ đạo
lý này, cả đời chỉ một câu Phật hiệu, thảy đều buông xuống tất cả ý niệm, cũng
là nhập vào cảnh giới của đức Phật Thích Ca. Điều này không thể nghĩ bàn! Những
lời này: không phải suy đoán, mà là lời chân thật. Đoạn cuối cùng này, Niệm lão
giải thích cụ thể cho chúng ta, làm thế nào mà nương nhờ Nhất như thừa của đức
Mi Đà, đây là nhân, phía sau để thành Chánh Giác đây là quả. Chúng ta phải chú
trọng trên nhân, chúng ta và đức Thích Ca Mâu Ni Phật tu học là cùng một nhân,
tương lai có thể được quả báo như nhau. Nương nhờ Nhất như thừa của đức Mi Đà,
chính là một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Lão Hòa thượng Hải Hiền 20 tuổi xuất gia,
Sư phụ đã nhìn trúng ngài, ngài là bậc pháp khí, tương lai ngài nhất định có
thành tựu. Pháp khí nhìn từ đâu? Ngài có đủ ba điều kiện chính là pháp khí,
ngài ấy thật thà (thành khẩn), nghe lời, thật làm, đầy đủ ba điều kiện này: thật
thà, nghe lời, thật làm, đó chính là bậc pháp khí. Tuy ngài chưa từng đi học,
không biết chữ, nên chỉ dùng phương pháp niệm Phật dạy cho ngài, chỉ dạy ngài một
câu Nam Mô A Mi Đà Phật (hoặc là niệm A Mi Đà Phật, Nam Mô A Mi Đà Phật đều được),
cứ niệm liên tục. Quý vị xem ngài quả thật là nghe lời, đã niệm 92 năm. 92 năm
không chuyển hướng, không chuyển hướng ở đây là tiếng địa phương (tiếng Hà
Nam), tức là không thay đổi. Chỉ niệm câu này đến cùng, ngoài câu này ra thì
không để thứ gì trong tâm, để trong tâm chỉ một câu này, như vậy gọi là nương
nhờ Nhất như thừa của đức Mi Đà. Điều này quá tuyệt vời! Đức Thích Ca Phật
nương nhờ Nhất như thừa của đức Mi Đà, Ngài đã thành Phật. Cho nên cùng một
Chân Như với đức Mi Đà, cũng tức là cùng một Pháp thân. Hiện giờ hiện tướng
lành và Ứng thân Phật, thật sự là Pháp thân Như Lai. 一如彌陀住於念佛三昧 “Nhất như Mi Đà trụ ư niệm Phật
Tam-muội” (Nhất như đức Mi Đà trụ vào niệm Phật Tam-muội),
trong câu này quan trọng nhất là chữ “trụ”, tâm của chúng ta trụ ở trong niệm
Phật Tam-muội, mời tất cả những thứ khác đi ra ngoài. Cũng chính là buông xuống
tất cả, buông xuống vạn duyên, trong tâm chỉ niệm danh hiệu của Phật, sẽ thành
Tam-muội. Tam-muội có nghĩa là Chánh định, tâm định rồi, định trên câu Phật hiệu
này, đây là Chánh định, là đại định của chư Phật Như Lai. Khởi tác dụng của định
này liền khai trí huệ, 發勝妙之智慧 “phát thắng diệu chi trí huệ” (phát ra trí huệ thắng diệu), thù thắng, vi diệu. Đây là trí huệ thù
thắng vi diệu, chúng ta xem thấy trong đĩa phim của lão Hòa thượng Hải Hiền.
Quý vị thấy cuộc sống mỗi ngày của ngài, ngài trong công việc, ngài đối người
tiếp vật, lời nói cử chỉ của ngài, tổng kết chính là một câu này, ngài phát ra
trí huệ thù thắng vi diệu.
故其智難量 “Cố kỳ trí nan lượng” (Cho nên nói khó đo lường trí ấy), trí huệ của ngài, chúng ta không
có cách nào đo lường. 因此非地上及等覺諸大士所能稱量測度也 “Nhân thử phi Địa thượng cập Đẳng
giác chư Đại sĩ sở năng xưng lượng trắc độ dã” (Do đó chẳng phải là các bậc Đại sĩ Địa thượng và Đẳng giác có thể ước
lượng đo lường được). Không phải là Địa thượng Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát ở
đây là chỉ Tam hiền của Biệt giáo, cho đến Thập địa của Viên giáo, bởi vì phía
sau còn có Đẳng giác. Đẳng Giác Bồ-tát cũng không cách nào: thấy được viên mãn,
quý ngài là nhìn thấy, nhưng chưa thấy được viên mãn, phải trở về Thường Tịch
Quang thì mới viên mãn.
由於勝妙真智,照了真如 “Do ư thắng diệu chân trí, chiếu
liễu Chân Như” (Do bởi chân trí thù thắng vi diệu, nên chiếu
rõ Chân Như), Chân Như là Tự Tánh, Chân Như là Bản thể, 並能通達一切諸法,無有阻礙,故曰無有障礙 “tịnh năng thông đạt nhất thiết
chư pháp, vô hữu trở ngại, cố viết vô hữu chướng ngại” (đồng thời thông đạt được tất cả các pháp, không có trở ngại, nên nói là
không có chướng ngại). Câu này rất quan trọng. Chúng ta thường nói Như Lai
Bồ-tát là Nhất Thiết Chủng trí, Nhất Thiết Chủng trí tức là trí huệ của quý
Ngài không gì không biết, không gì không thể. Đây là lời khen ngợi đối với Thần,
khen ngợi đối với Thượng đế trong các tôn giáo thông thường, chứ không phải là
thật, là lời khen ngợi, đâu có bậc người ấy? Trong Phật giáo Đại thừa là thật
có bậc người ấy. Trong Phật pháp đã thật có bậc người ấy, thì chúng ta có thể
tin rằng Thần, Thượng đế: cũng rất có thể là bậc người ấy. Tại sao vậy? Bởi nên
dùng thân Thượng đế độ được liền hiện thân Thượng đế, nên dùng thân thần Thánh
độ được thì các ngài liền hiện thân thần Thánh, quý ngài biến hóa vô cùng, tùy
theo nguyện vọng của chúng sanh mà biến hóa. Nào có đạo lý không thể được!
Trong Phật pháp Đại thừa nói được thông tất cả, trí huệ của quý ngài thật sự
không có chướng ngại, tại sao vậy? Bởi tất cả pháp là do Tự Tánh biến hiện, chỉ
cần quý vị kiến tánh, thì vấn đề được giải quyết rồi.
Việc dạy
học của Phật pháp, mục tiêu cuối cùng, 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, tất
cả đều là: cầu Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, nên nói Pháp môn bình đẳng,
không có cao thấp. Phương pháp con đường khác nhau cũng không sao, nguyên lý là
giống nhau, tại sao vậy? Bởi đều là dạy quý vị đắc định. Tầng lớp tri thức dùng
điều gì để tu định? Dùng đọc tụng để tu định, 讀書千遍,其義自見 “đọc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự
kiến” (đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa trong đó),
tự kiến là khai ngộ, trong sách này nói gì thì đều rõ ràng. Làm thế nào hiểu
rõ? Chính mình hiểu rõ, không cần người khác dạy. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật biểu
pháp cho chúng ta, chúng ta không thể coi thường lơ là, dụng ý của Ngài rất
sâu. Quý vị xem 19 tuổi, Ngài rời khỏi gia đình, từ bỏ quyền thừa kế vương vị,
từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý trong cung đình, Ngài đi tu đạo, đi cầu học.
Lúc bấy giờ Ấn Độ là đất nước của tôn giáo, Ấn Độ là đất nước của học thuật, đặc
biệt là học thuật Triết học. 19 tuổi Ngài đi ra ngoài tham học, đến 30 tuổi tức
là 12 năm, Ngài đã thân cận tất cả các tôn giáo học phái. Điều này nói rõ hiếu
học đa văn, là Tập khí của tầng lớp tri thức, Ngài biểu diễn cho chúng ta xem.
12 năm học như thế nào? Không thể giải quyết vấn đề. Vũ trụ từ đâu đến, tôi từ
đâu tới, vạn vật từ đâu ra, đây đều là vấn đề lớn, không thể giải quyết, Ngài
buông xả rồi, học hết 12 năm, 30 tuổi buông xả. Chúng ta biết, 19 tuổi từ bỏ
gia đình là buông xuống Phiền não chướng, 30 tuổi buông xuống sở học, thảy đều
buông xuống 12 năm sở học, là buông xuống Sở tri chướng, buông xuống hai chướng
rồi. Buông xuống hai chướng mới có thể vào định, mới có thể tu Thiền định,
trong Thiền định đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, giải quyết hoàn toàn vấn
đề đó rồi.
Bí ẩn
của vũ trụ đã hoàn toàn được giải quyết, bởi những gì Ngài khai ngộ hoàn toàn
tương đồng với Đại sư Huệ Năng, Đại sư Huệ Năng rất đơn giản đã nói năm câu,
còn Ngài khai ngộ đã nói một bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, thuyết ở
trong định. Sau khi khai ngộ, nhìn thấy 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ tụ họp trong
định, nên khai giảng Hoa Nghiêm. Đã giảng bao lâu? Trong hai tuần, có trong
kinh nói hai bảy mười bốn ngày, cũng có trong kinh nói ba bảy hai mươi mốt
ngày, giảng viên mãn rồi. Giảng bao nhiêu? Bồ-tát Đại Long lấy Kinh ấy cất về
long cung, Bồ-tát Long Thọ đã nhìn thấy. Phân lượng của bộ Kinh ấy, Đại bản là
10 Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm, trái
đất của chúng ta đây chứa không nổi, hệ Mặt trời, dải Ngân hà của chúng ta cũng
không chứa được, là Đại bản. Xem tiếp Trung bản, [người] trên thế giới này của
chúng ta vẫn không thể tiếp nhận Trung bản, quá lớn rồi. Cuối cùng xem Tiểu bản,
Tiểu bản thật ra mà nói là bản tóm tắt danh mục quan trọng, có 100.000 kệ, 40
phẩm, là Tiểu bản. Ngài nói điều này thì có thể, người thế gian của chúng ta
đây có thể học, nên đã mang Tiểu bản về. Ngài là hoàn toàn nhớ nằm lòng, có thể
đọc thuộc lòng toàn bộ, khi trở về, lại nói ra để viết thành văn tự, tức là
Kinh Hoa Nghiêm hiện nay. Đây là Phật thị hiện cho chúng ta. Kinh lớn như vậy,
đây chính là gì? Đây chính là nói về: chân tướng của vũ trụ vạn hữu, hoàn toàn
là do Tự Tánh biến ra, kiến tánh sẽ hiểu rõ tất cả, chưa kiến tánh mà nói cho
quý vị thì cũng nói không rõ ràng, kiến tánh liền hiểu rõ thôi.
Vì thế,
loại lý niệm và phương pháp dạy học này của đức Phật, truyền đến Trung Hoa, nhà
Nho nước ta tiếp nhận, nhà Đạo cũng tiếp nhận. Nhà nào dạy học cũng đều coi trọng
ngộ tánh, học trò có ngộ tánh phải bồi dưỡng họ, họ có thể thành tựu, thành
Thánh thành Hiền; nếu học trò không có ngộ tánh, chưa có ngộ tánh thì nhiều, Tập
khí phiền não rất nặng, thì chỉ dạy họ biết chữ, đọc sách biết chữ, tương lai họ
có thể học kỹ thuật, học nông nghiệp, học thương nghiệp, thành thạo một nghề, họ
có thể mưu sinh, có khả năng nuôi sống gia đình, tri thức họ cần vậy là đủ rồi.
Những người đạt trình độ cao nhất, có ngộ tánh, nhất định bồi dưỡng họ thật tốt,
họ sẽ thành Thánh thành Hiền. Nên việc dạy học ở nước ta trước đây, đó là dạy học
tư thục theo chiều thẳng đứng, là dạy học riêng biệt, không giống như trường học
hiện nay, trường học hiện nay áp đặt san bằng. San bằng thì người nào chịu thiệt?
Những người có ngộ tánh đó chịu thiệt, những người không có ngộ tánh thì lại
đưa lên không nổi, người có ngộ tánh thì hoàn toàn bị đè xuống. Đây chính là tại
sao rất nhiều trường học thời đại này: không xuất hiện Thánh hiền, có nhà khoa
học, nhưng không có Thánh hiền, chúng ta phải biết đạo lý này. Thế gian có
Thánh hiền, thì xã hội có phước báo. Khoa học chỉ có thể mang lại cho chúng ta
nền văn minh vật chất, hưởng thụ vật chất được một số tiện ích, nhưng những tiện
ích này chúng ta phải trả giá bao nhiêu? Nếu quý vị tính toán điều này, thì lợi
không bù được mất.
Vì vậy,
ngài Toyn Bee có đạo lý khi khen ngợi Trung Hoa, không phải là lời hoa ngôn xảo
ngữ, ngài thật sự nhìn thấy rõ, thấy sáng tỏ, chỉ ra một con đường tươi sáng
cho người chúng ta hiện nay. Ngài nói rõ ràng như vậy, nhưng người tin không
nhiều, lúc đó có rất nhiều người phê bình đối với lời bàn ấy của ngài, đều chỉ
trích ngài nhìn sai rồi, đó là giấc mộng, ảo tưởng của ngài, làm sao có thể trở
thành sự thật? Tôi xem một số đoạn phim ngắn lẻ tẻ của ngài, tôi biết rằng: đó
là cả đời chuyên môn nghiên cứu lịch sử văn hóa của tất cả chủng tộc trên thế giới.
Ngài thật sự là làm thấu suốt rồi, phân loại nền văn minh trên thế giới, chia
thành mười mấy loại, cuối cùng tổng kết thành năm loại lớn, năm nền văn minh lớn,
nền văn minh Trung Hoa là thù thắng nhất. Đây là kết luận do ngài đưa ra. Nền
văn minh này là ổn định, không hấp tấp, tràn đầy trí tuệ, tràn đầy nhân từ, điều
này tốt. Nếu có thể tiếp tục phát dương quang đại, thì người trên khắp thế giới
có thể trải qua một cuộc sống hạnh phúc. Đây là lời ngài nói. Không giống như
phương Tây, phương Tây nóng vội, không có kiên nhẫn, hiếu chiến, cạnh tranh, đấu
tranh, chiến tranh, họ làm điều này. Trung Hoa không phải vậy, Trung Hoa ổn định,
Trung Hoa có kiên nhẫn. Nói đến tính kiên nhẫn thì người nước ta đứng số một thế
giới, an phận thủ thường, nên trong lịch sử 5000 năm, thời gian rất dài người
nước ta là thái bình thịnh thế. Làm sao tạo thành? Do nền văn minh truyền thống
tạo thành. Lúc đó ngài nói những lời này nhưng không ai tin, người ta chất vấn
ngài. Ngài nói quý vị cũng đừng quên, Trung Hoa có lịch sử văn hóa 5.000 năm,
điều này tương lai tất nhiên sẽ được phục hưng, tin rằng những gì ngài Toyn Bee
nói là đúng, không phải giả. Vì vậy, chấn hưng văn hóa truyền thống là cần thiết,
đây là con đường sống, nếu không đi đường này, thì thế giới sẽ đi đến diệt vong.
Người phương Tây không có kiên nhẫn, thích đánh nhau, Đại chiến tranh thế giới
lần thứ 3 là chiến tranh vũ khí hạt nhân sinh học, nếu một khi bùng nổ thì địa
cầu sẽ cùng đến chỗ chết. Chiến tranh này không có kẻ thắng người thua, chính
là sự tự sát tập thể của nhân loại, đây là ngu xuẩn đến tột cùng. Ngài Toyn Bee
không muốn nhìn thấy ngày đó, mà muốn nhìn thấy nền văn minh Đông Á: có khả
năng chấn hưng toàn thế giới. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến
đây thôi.
(Hết tập 132)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh
Nam Mô A Mi Đà Phật