Responsive Menu
Add more content here...

Tập 135 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Tập 135

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 17 tháng 11 năm 2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 373, hàng cuối cùng:

別序又名發起序,蓋為發起全經正文 “Biệt Tự hựu danh Phát Khởi Tự, cái vi phát khởi toàn Kinh chánh văn” (Phần Tựa riêng còn gọi là phần Tựa Phát Khởi, bởi vì phát khởi chánh văn của toàn Kinh). Hiện tại bởi vì Tôn giả A Nan khải vấn, đưa ra vấn đề, nên đức Thế Tôn đồng ý vì ngài mà nói rõ, 演此究竟方便、最極圓頓之殊勝淨土法門 “diễn thử cứu cánh phương tiện, tối cực viên đốn chi thù thắng Tịnh Độ Pháp môn” (xiển dương Pháp môn Tịnh Độ thù thắng tối cực viên đốn phương tiện rốt ráo như vậy). Niệm lão từ bi, ở sau phần Phát Khởi Tự viên mãn, đặc biệt làm một tổng kết, nói rõ đại ý của phần này. Phần này chỉ có một phẩm duyên khởi của Đại Kinh, Đức Tuân Phổ Hiền là phẩm Tựa, phần Tựa có hai phẩm. Điều quan trọng nhất trong phần này: chính là xiển dương Pháp môn Tịnh Độ thù thắng tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo như vậy, câu nói này hết sức quan trọng, phía dưới đều là giải thích cho câu này. Chúng ta phải có nhận thức đối với bộ Kinh này, có nhận thức chân thật, vả lại có nhận thức sâu sắc, thì mới có thể được lợi ích. Trên bộ Kinh này nói điều gì? Trong kinh văn phía trước đã nói, là nói ba thứ chân thật: Thứ nhất là Chân thật Chi tế, thứ hai là Trí huệ chân thật, thứ ba là Lợi ích chân thật. Những chân thật này thật sự là đạt đến rốt ráo viên mãn, không phải là chân thật thông thường, mà chân thật ngay trong chân thật, không gì chân thật hơn điều này.

Thật tế là Chân Tâm, là Bản thể. Bản thể có ý nghĩa gì? Bản là căn bản, thể có nghĩa là có thể sanh. Đại sư Huệ Năng nói, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”. Chân thật Chi tế có thể sanh vạn pháp, nên lý thể của tất cả pháp khắp pháp giới hư không giới gọi là Chân thật Chi tế, trong Triết học nói là Bản thể. Chân thật Chi tế là nói Bản thể, chỉ có đó là chân thật, vạn pháp mà Bản thể sanh ra không phải là thật, đó là hiện tượng, nói tóm lại không ngoài ba loại lớn: thứ nhất là hiện tượng vật chất, thứ hai là hiện tượng tinh thần (hiện tượng tinh thần chính là ý niệm, tư tưởng), thứ ba là hiện tượng tự nhiên. Hiện tượng trong vũ trụ dù nhiều đi nữa, cũng không ngoài ba loại lớn này. Ba loại lớn này: chính là Tam tế tướng của A-lại-da, hiện tượng vật chất là Tướng phần của A-lại-da, Tướng phần cũng gọi là Cảnh giới tướng; ý niệm là Kiến phần của A-lại-da, cũng gọi là Chuyển tướng, tại sao vậy? Bởi nó chuyển biến, thay đổi thành vật chất; phía trước điều này còn có một loại Nghiệp tướng của A-lại-da, hiện nay khoa học gọi là năng lượng. Nghiệp chính là động, phải biết Chân Tâm không động, động là Vọng tâm, một niệm không giác nên có Vô minh, Vô minh ở đây chính là thức A-lại-da. Cũng tức là Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới tướng: ở trong sát-na, chính là xuất hiện trong thời gian cực ngắn, đây gọi là mê.

Dùng Chân Tâm, không dùng Vọng tâm, người ấy chính là Phật, chí ít cũng được xưng là Pháp thân Bồ-tát. Trong Thiền tông nói là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, quý ngài chứng được Chân thật Chi tế, quý ngài thành Phật rồi. Pháp thân Bồ-tát chuyển Vô minh, Minh tâm Kiến tánh, chuyển tám thức thành bốn trí, quý ngài dùng Chân Tâm, không dùng Vọng tâm. Quý ngài trụ ở đâu? Bởi chưa đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô minh Phiền não, nên quý ngài trụ ở Thật Báo Trang Nghiêm độ. Cõi Thật Báo của đức Thích Ca Mâu Ni Phật là Thế giới Hoa Tạng, Cõi Thật Báo của đức Mi Đà là Thế giới Cực Lạc, là do Chân thật Chi tế biến hiện ra, đó là năng biến, tất cả các pháp trong khắp pháp giới hư không giới là sở biến. Dùng lời hiện nay để nói, là cả vũ trụ, bao gồm quá khứ hiện tại vị lai, cả vũ trụ từ đâu mà có? Tâm hiện thức biến. Trên Kinh Hoa Nghiêm Phật nói rất rõ ràng, 唯心所現,唯識所變 “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” (chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến). Duy tâm sở hiện, có thể hiện chính là Chân thật Chi tế. Mục tiêu cuối cùng của học Phật, mục tiêu cuối cùng chính là Kiến tánh, Kiến tánh chính là trở về Chân thật Chi tế. Người trở về Chân thật Chi tế gọi là thành Phật, trong Hoa Nghiêm xưng là Diệu Giác Như Lai, quý ngài còn cao hơn Đẳng giác. Bồ-tát có 51 cấp bậc, cao nhất là Đẳng giác, đi lên tiếp là Diệu Giác, trên Diệu Giác thì không có nữa, Diệu Giác gọi là Vô thượng Bồ-đề.

Ở nhân gian, chúng ta không nói đến chuyện khác, có rất nhiều chuyện rất kỳ lạ, buổi sáng tôi xem một đĩa CD, báo chí đưa tin có một ngôi làng dân tộc thiểu số ở Hồ Nam Trung Quốc, trong ngôi làng này có hơn 100 người có thể nhớ được việc trong đời quá khứ, đa phần trong đời quá khứ cũng ở ngôi làng này, chết rồi lại đầu thai cũng làm người, hiện tại vẫn có thể nhớ lại quá khứ, không sai chút nào. Khoa học chưa thể giải thích vấn đề này, chẳng những ở Trung Quốc có, mà ngoại quốc cũng có rất nhiều, nên không cách nào giải thích. Ai có thể nói rõ ràng? Phật nói được rõ ràng. Tại sao vậy? Bởi Phật không gì không biết, không gì không thể, Ngài biết được đâu là thật, đâu là giả. Vả lại Phật không lừa chúng ta, giống như trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói “tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”, lại nói “tất cả chúng sanh xưa nay là Phật”. Phật biết, rõ ràng, mỗi người chúng ta tương lai đều sẽ thành Phật, đến lúc đó quý vị hoàn toàn hiểu rõ, hiện nay quý vị là phàm phu nên không hiểu được. Sự khác biệt giữa phàm phu và Phật ở đâu? Phật kiến tánh rồi, còn phàm phu mê mất Tự Tánh, mê ngộ khác nhau. Người mê mất Tự Tánh gọi là phàm phu. Tâm mê sanh phiền não, tâm giác sanh trí huệ. Mê ngộ không phải là người khác, mà là chính chúng ta. Nền giáo dục của đức Phật, mục tiêu cuối cùng, giúp chúng ta hồi quy Tự Tánh, giúp chúng ta Đại triệt Đại ngộ, như thế mà thôi. Đây là điều chúng ta chẳng thể không biết.

Làm thế nào mới trở về được Tự Tánh? Buông xuống. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn cho chúng ta, chúng ta phải biết xem, phải biết nghe. 19 tuổi Ngài xuất gia, từ bỏ quyền thừa kế ngôi vua, từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý trong cung đình, sự biểu diễn này cho chúng ta thấy điều gì? Buông xuống Phiền não chướng. Ngài biểu diễn cho chúng ta: là dùng tầng lớp tri thức, trong xã hội đại đa số là tầng lớp tri thức, Ngài thị hiện thân phận này. Tầng lớp tri thức thích cầu học, hiếu học đa văn, Ngài đi ra ngoài tham học. Lúc đó, Ấn Độ là đất nước của tôn giáo trên địa cầu, một khu vực phát triển nhất về học thuật. Triết học của Ấn Độ, Ngài học hết 12 năm, tất cả tôn giáo, tất cả học phái, Ngài đều xem qua, đều đi học qua, nhưng không thể giải quyết vấn đề. Là vấn đề gì? Giống như những người đó đầu thai, nhớ lại việc đời trước, đây chính là vấn đề. Buông xả việc cầu học, vì sao vậy? Bởi loại học này chưa rốt ráo. Đến dưới cây Tất-bát-la để nhập định, buông xả 12 năm sở học, những thứ học được gọi là Sở tri chướng. Phật nói chướng ngại chúng ta Minh tâm Kiến tánh có hai loại phiền não lớn: loại thứ nhất là Phiền não chướng, loại thứ hai là Sở tri chướng, buông xuống tất cả, nhập vào Thiền định rất sâu. Thiền định cầu điều gì? Thiền định cầu trí huệ, định đến mức nhất định thì trí huệ hiện tiền. Đại định hiện trí huệ lớn, tiểu định hiện trí huệ nhỏ. Định của A-la-hán hiện tiểu trí huệ, định của Bồ-tát hiện đại trí huệ, định của đức Phật: hiện ra trí huệ rốt ráo viên mãn.

Trí huệ không đến từ bên ngoài, ở trên kinh Phật nói với chúng ta, 心外無法,法外無心 “tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm” (ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm), từ trong pháp thì thấy Chân Tâm, từ trong Chân Tâm hiểu rõ tất cả pháp. Đại sư Huệ Năng nói câu cuối cùng ấy rất hay, “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”. Không nghĩ đến vạn pháp từ đâu tới, vũ trụ từ đâu ra. Đều từ Tự Tánh mà tới, Tự Tánh của ai? Tự Tánh của chính mình. Tự Tánh của Phật, Tự Tánh của chúng sanh và Tự Tánh của chính chúng ta là một Tự Tánh, nên thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, mới biết khắp pháp giới hư không giới và ta là quan hệ thế nào? Là một thể. Lão tử từng nói, 天地與我同根,萬物與我一體 “thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (trời đất cùng một gốc với ta, vạn vật là một thể với ta). Đây là cảnh giới gì? Đây là cảnh giới trên quả địa của Như Lai. Lão tử lúc đó, Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa, Phật giáo là truyền từ đời nhà Hán, Lão tử là người ở thời đại Xuân Thu, cùng thời đại với Khổng tử. Vậy Lão tử là người thế nào? Nếu ngài không phải là Phật, thì cũng là Bồ-tát Bát địa trở lên. Tại sao vậy? Bởi chỉ có Bát địa trở lên thì cảnh giới đó mới hiện ra, ngài mới có thể nói ra được vậy. Thế nên có rất nhiều việc kỳ lạ trên thế gian này, thì tìm ai? Tìm Phật Bồ-tát. Phật Bồ-tát biết. Tìm người khác, không ai có thể nói rõ ràng cho quý vị, không ai nói tường tận được cho quý vị, nếu có người nói rõ ràng, nói tường tận cho quý vị, thì Phật không cần xuất hiện ở thế gian. Họ không thể, vì sao? Bởi họ chưa đoạn hết phiền não, nhất định chúng ta phải biết đạo lý này.

Phiền não vô lượng vô biên, Phật cũng chia thành ba loại lớn: Loại lớn thứ nhất là Vô minh Phiền não, loại lớn thứ hai là Trần sa Phiền não, loại lớn thứ ba là Kiến tư Phiền não. Đoạn hết Kiến tư Phiền não, thì tâm thanh tịnh hiện tiền, định nhỏ, tiểu trí huệ. Tuy nhỏ, nhưng công đức thật thù thắng, vì sao? Bởi không còn lục đạo luân hồi nữa, quý ngài đã ra khỏi lục đạo luân hồi. Công phu Thiền định của Bồ-tát cao hơn A-la-hán, Bồ-tát được tâm bình đẳng, đề Kinh của chúng ta là thanh tịnh bình đẳng giác, tâm bình đẳng là Bồ-tát, công phu Thiền định sâu hơn A-la-hán và Bích-chi-phật, nên trí huệ lớn hơn quý ngài. Một chữ cuối cùng là giác, giác là đại giác, chính là giác ngộ hoàn toàn, Minh tâm Kiến tánh, người như vậy trên Kinh Hoa Nghiêm chúng ta xưng quý ngài là Pháp thân Bồ-tát, quý ngài trụ ở Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thế giới Cực Lạc thật sự có: bốn cõi ba bậc chín phẩm, trình độ tu hành của mỗi người khác nhau: có Đẳng giác Bồ-tát, có Pháp thân Bồ-tát (tức là Địa thượng Bồ-tát), có Tam hiền Bồ-tát, cũng có trời người chưa chứng đắc quả vị, là đới nghiệp vãng sanh. Nhưng Thế giới ấy đặc biệt, Thế giới ấy khác với cõi nước Phật thông thường, dù là phàm phu vãng sanh, vãng sanh vào Hạ hạ phẩm của Đồng Cư độ, Hạ hạ phẩm là thế nào? Người tạo tác tội nghiệp, lúc mạng sắp hết nhất tâm sám hối, niệm Phật vãng sanh, mang theo Ngũ nghịch Thập ác, mang những loại tội nghiệp này, sanh đến Thế giới Cực Lạc gặp được A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật dùng vô lượng công đức của 48 nguyện gia trì họ, thì họ trở thành A-duy-Việt-trí Bồ-tát.

A-duy-Việt-trí có nghĩa là gì? Viên mãn chứng được ba loại bất thoái, đó là Pháp thân Bồ-tát. Quý vị xem thoáng chốc nâng địa vị lên đến bình đẳng với Phật rồi. Nên Pháp môn Tịnh Độ này khó tin, không ai chịu tin! Một thân tội nghiệp, ở trong đời này, ngay trong mấy năm rất ngắn, liền có thể tu thành Phật, ai tin được chứ? 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, mỗi một môn đều phải tu vô lượng kiếp: mới có thể đạt được cảnh giới ấy, cảnh giới của A-duy-việt-trí, đâu có thuận lợi như Thế giới Cực Lạc? Đây cũng là vấn đề: mà chúng ta không cách nào giải quyết. Tuy không giải quyết được vấn đề, nhưng quý vị phải thật sự tin điều đó, thì quý vị thật sự đạt được lợi ích đó rồi. Hiện nay ở đây, chúng ta không cách nào giải quyết vấn đề này, Phật giảng cho chúng ta cũng không hiểu, nhưng nếu vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, quý vị gặp được A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật giảng cho quý vị, thì quý vị sáng tỏ. Nhanh chóng, gặp Phật thì vấn đề được giải quyết rồi, tất cả pháp của thế và xuất thế gian cũng không còn thắc mắc nữa, biết hết rồi. Nên pháp này gọi là phương tiện rốt ráo, tối cực viên đốn, viên là viên mãn, đốn là đốn siêu, không có cấp bậc, viên đốn đến tột cùng, đạt đến đỉnh cao nhất, không có pháp viên đốn nào có thể vượt qua pháp này. Pháp này vượt qua tất cả viên đốn, giống như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm đều là đại giáo viên đốn, Tịnh Độ vượt hẳn rồi. Thù thắng không gì sánh được, đây là Pháp môn Tịnh Độ. Nếu gặp được Pháp môn này, là đại phước báo! Gặp được mà không thể vãng sanh, thì phước báo cũng không thể nghĩ bàn. Tại sao? Bởi không thể vãng sanh là quý vị hiện tại, quý vị đã kết duyên với Thế giới Cực Lạc, đời này chưa thể vãng sanh, đời sau kiếp sau được thân người lại gặp được Phật pháp, có cơ hội vãng sanh nữa.

Đời này chúng ta gặp được, cũng là trong đời quá khứ đã từng tu Pháp môn này, nên sau khi gặp được thì sanh tâm hoan hỷ. Đời này có đi được không? Then chốt ở: tín nguyện, quý vị có phải là thật tin, có phải là thật muốn đi không. Thật tin, thật muốn đi, phải buông xuống thế giới này. Nếu có tham luyến đối với thế giới này, vẫn chưa buông xuống, đó chính là chướng duyên vãng sanh Thế giới Cực Lạc, chướng ngại quý vị, thì quý vị không đi được. Buông xuống triệt để, không nhiễm một trần, biết thế giới này là giả. Trên Kinh Kim Cang nói rất hay, 凡所有相皆是虛妄 “những gì có tướng đều là hư vọng”, tướng này bao gồm cả hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên, tất cả đều là giả, không có thứ nào là thật. Bài kệ cuối cùng của Kinh Kim Cang nói rất hay, 一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (tất cả pháp Hữu vi, như mộng ảo bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế). Đây là khuyên chúng ta, thế giới này không phải là thật, chẳng những lục đạo không phải là thật, mà Thập pháp giới cũng không phải thật. Tại sao vậy? Bởi do A-lại-da biến hiện ra, A-lại-da là pháp sanh diệt, dùng thuật ngữ khoa học ngày nay để nói, đó là một loại hiện tượng dao động của sóng năng lượng. Tần số của dao động này cực kỳ cao, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần dao động, ở ngay trước mắt, bao gồm cả thân thể của chúng ta, một chút cảm giác chúng ta cũng không có, đây là mê. Mê quá sâu, mê quá nặng rồi, học Phật phải phá mê khai ngộ. Dùng cách nào để phá mê? Dùng trí huệ. Trí huệ do đâu mà có? Từ tâm thanh tịnh mà có. Tâm thanh tịnh đến từ đâu? Từ trì giới giữ quy củ mà đến. Giáo giới của Phật, tôi nghe hiểu được, tôi sáng tỏ, tôi y giáo phụng hành, cầu điều gì? Cầu định. Định chính là tâm thanh tịnh trên đề kinh của Kinh này, không có mảy may ô nhiễm, đó là gì? Đó là A-la-hán, Bích-chi-phật. Đi lên tiếp, không chỉ thanh tịnh mà còn bình đẳng, bình đẳng là không động, động thì không bình đẳng, không động, là đại định của Tam hiền Bồ-tát trở lên. Giác là khai ngộ, kiến tánh.

Định khởi tác dụng tức là hiểu rõ, tất cả pháp là do Tự Tánh biến hiện, chỉ cần quý vị thấy được Tự Tánh, hiểu rõ thông suốt hoàn toàn năng biến sở biến, đây là Đại triệt Đại ngộ. Đức Thế Tôn biểu diễn cho chúng ta, định mà Ngài đắc ở dưới cây Tất-bát-la, là khai ngộ. Nên cây này, về sau chúng ta đều gọi là cây Bồ-đề, là kỷ niệm đức Thích Ca Như Lai ở dưới cây này nhập định, khai ngộ, diễn thuyết tất cả kinh giáo 49 năm. Tất cả kinh giáo được diễn thuyết trong 49 năm đó, Ngài học từ đâu? Không học, tất cả đều là trong Tự Tánh lưu xuất ra, lúc bấy giờ không có ai biết, Phật không có thầy. Ý nghĩa rất sâu xa ở trong đây, nói với chúng ta, thành Phật có phải do niệm thật nhiều kinh, phải học thật nhiều giáo hay không? Không phải vậy, đó là pháp thế gian. Học Phật là thành tựu thế nào? Năm xưa Đại sư Chương Gia nói với tôi, “nhìn thấu được, buông xuống được”, là thành tựu như vậy. Nhìn thấu là hiểu rõ chân tướng sự thật, sau khi hiểu rõ phải buông xuống. Buông xuống từ cạn đến sâu, đầu tiên buông xuống phiền não của Tiểu thừa, là Kiến tư Phiền não. Chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, buông xuống năm loại Kiến hoặc, buông xuống Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến rồi, thì quý ngài chứng được Tu-đà-hoàn, chắc chắn không đọa ba đường ác. Tuy chưa rời khỏi lục đạo luân hồi, qua lại bảy lần cõi trời cõi người, thọ mạng trên trời hết rồi, đến nhân gian, thọ mạng nhân gian hết, lại đi lên cõi trời, quý ngài nhất định sẽ không đọa ba đường ác, quý ngài nhất định sẽ không trở thành A-tu-la, sẽ không trở thành La-sát. Sau đó đoạn thêm năm loại Tư hoặc, từ Nhị quả là đoạn Tư hoặc, Tư hoặc là gì? Tư hoặc là tham sân si mạn nghi, năm chữ này. Đoạn sạch năm chữ này, thì quý ngài thành A-la-hán, vượt qua lục đạo luân hồi. Thế thì chúng ta biết lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Chính là do Kiến tư Phiền não biến hiện ra, nếu không có Kiến tư Phiền não thì không có lục đạo nữa. Lục đạo là giả, giống như giấc mộng, tỉnh mộng rồi, thì dấu vết của cảnh giới trong mộng cũng không có.

Thoát khỏi lục đạo thì đến đâu? Đến Pháp giới Thanh văn trong Thập pháp giới. Trong Thập pháp giới dần dần tiến lên tiếp, tiến lên chính là buông xuống, A-la-hán buông xuống Kiến tư Phiền não, nhưng còn tập khí của Kiến tư Phiền não, nên A-la-hán trong giai đoạn này: cần phải đoạn hết tập khí. Thật đoạn hết tập khí, quý ngài vượt qua rồi, quý ngài là Bích-chi-phật, không gọi là A-la-hán, thăng cấp rồi. Bích-chi-phật phải buông xuống gì? Phải buông xuống Trần sa Phiền não, buông xuống Trần sa Phiền não thì quý ngài thành Bồ-tát. Bồ-tát phải buông xuống gì? Tập khí của Trần sa Phiền não, có tập khí của Trần sa Phiền não. Lại đoạn hết tập khí của Trần sa Phiền não, quý ngài thành Phật trong Thập pháp giới. Phật của Thập pháp giới là giả, không phải thật, Đại sư Thiên Thai gọi quý ngài là Tương tự Tức Phật, rất giống, rất giống Phật, nhưng không phải chân Phật. Chân Phật và giả Phật phân biệt từ đâu? Dùng A-lại-da là giả Phật, dùng Tự Tánh là chân Phật. Quý ngài vẫn chưa kiến tánh, nhưng quý ngài hoàn toàn hiểu rõ đối với Tam học: Giới Định Huệ, vả lại đều làm được, nhưng nhìn từ trên hình dáng, quý ngài không khác với chân Phật. Quý ngài phải buông xuống gì? Quý ngài chưa buông xuống Tập khí của Vô minh Phiền não, nên quý ngài cần phải buông xuống Vô minh Phiền não. Sau khi buông xuống thì quý ngài thành chân Phật, không phải là Tương tự Tức Phật nữa, ngài Thiên Thai gọi là Phần chứng Tức Phật. Tại sao có Phần chứng? Bởi quý ngài chưa đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô minh Phiền não, nên gọi là Phần chứng. Vô minh Phiền não trong Hoa Nghiêm được chia thành 51 cấp bậc, thì biết rằng không dễ đoạn. 51 cấp bậc là Tập khí, Tập khí của Vô minh Phiền não, đoạn sạch sẽ, thì quý ngài thành Phật. Thành Phật rồi đi đâu? Thành Phật, không có Thật Báo độ nữa, thì hiện ra gì? Thường Tịch Quang hiện tiền. Quý Ngài hòa vào Thường Tịch Quang, trở về Thường Tịch Quang, đây là Phật rốt ráo viên mãn, Hoa Nghiêm xưng là Diệu Giác.

Đây là những điều mà trước kia Đại sư Chương Gia đã dạy cho tôi, bí quyết của thành Phật là: nhìn thấu buông xuống, nhìn thấu giúp quý vị buông xuống, buông xuống lại giúp quý vị nhìn thấu, nhìn thấu lại giúp quý vị buông xuống tiếp, hỗ trợ lẫn nhau, từ sơ phát tâm đến địa vị Như Lai. Khi đó tôi mới học, Đại sư dùng thiện xảo phương tiện nói với tôi đạo lý này. Sau khi học Phật thì mới biết, đó là chỉ quán được nói trong kinh giáo, chỉ chính là buông xuống, quán chính là nhìn thấu. Hoa Nghiêm tu chỉ quán, Pháp Hoa cũng tu chỉ quán, buông xuống đều là dùng công phu này, đó gọi là đại đạo đơn giản nhất, không phiền phức chút nào. Tịnh tông là đại đạo rốt ráo viên mãn, phương tiện hơn Giáo hạ rất nhiều, Giáo hạ làm bao nhiêu năm chưa hẳn đã biết, Tịnh tông không cần phải biết, mà tự nhiên biết rồi. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm tấm gương cho chúng ta. Quý vị thấy từ trước, là đức Thích Ca Mâu Ni Phật, còn cận đại chúng ta thấy lão Hòa thượng Hải Hiền, cả đời ngài chỉ một câu Phật hiệu, chưa từng đi học, không biết chữ, giống như Lục tổ Huệ Năng. 20 tuổi xuất gia, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu: Nam Mô A Mi Đà Phật, dặn ngài cứ thế niệm đi. Còn nói với ngài, khi hiểu rõ rồi thì không nên nói, không nên nói lung tung, không được nói. Hiểu rõ rồi có nghĩa là gì? Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh là hiểu rõ rồi, trong Tịnh tông gọi là Lý nhất tâm Bất loạn, tất cả pháp thế và xuất thế gian không gì mà ngài không thông suốt, không gì mà không sáng tỏ.

Khi nào ngài chứng được? Tôi nói quý vị xem đĩa phim, một ngày xem ba lần, một năm không nên gián đoạn (một ngày xem ba lần, một năm tức là 1000 lần), một ngày niệm 10.000 câu Phật hiệu, lão thật niệm đến cùng, buông xuống tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, học lão Hòa thượng Hải Hiền. Tôi xem đĩa phim của ngài, tôi phán đoán ngài trước 25 tuổi, 20 tuổi ngài bắt đầu niệm Phật, ngài ấy thật thà, nghe lời, thật làm, chân thành, thanh tịnh, cung kính. Đó là mỹ đức của ngài, ngài có những điều kiện ấy, còn người bình thường chưa đầy đủ, đây là kinh nghiệm thành công của ngài. Thông thường ba năm, niệm Phật ba năm được Công phu Thành phiến. Công phu Thành phiến là thấy Phật, A Mi Đà Phật nhất định hiện thân: để nói với quý vị, để an ủi quý vị. Thường thì nhất định nói với quý vị, thọ mạng của con vẫn còn bao nhiêu năm, khi thời gian hết rồi thì Ta sẽ đến tiếp dẫn con, giúp quý vị sanh tâm hoan hỷ, kiên định tín tâm, nguyện tâm của quý vị, đây là thật không phải giả, Thế giới Cực Lạc đã ghi tên, trên đó có tên của quý vị. Công phu Thành phiến lại tiếp tục cố gắng, chưa vội cầu vãng sanh; cầu vãng sanh thì không cần thọ mạng nữa, Phật sẽ dẫn quý vị đi, Phật rất từ bi. Lão Hòa thượng Hải Hiền là muốn đi, nhưng A Mi Đà Phật nói với ngài, con tu được rất tốt, ở thế gian này thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho mọi người, làm tấm gương tốt cho Đệ tử Phật, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật cầu vãng sanh. Nên ngài là có sứ mệnh mà đến. Nếu ngài tiếp tục thêm 5 năm công phu như vậy, chắc chắn được Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất loạn chính cảnh giới của là A-la-hán, Bích-chi-phật, vãng sanh sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Vẫn ở thế gian này tiếp tục nỗ lực, thêm 5 năm nữa, thì ngài sẽ được Lý nhất tâm Bất loạn. Lý nhất tâm Bất loạn chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh bên Thiền tông, tức là điều gì cũng biết. Nhưng Sư phụ dạy ngài, biết rồi thì không được nói lung tung, không được nói. Ngài làm được rồi, quả nhiên ngài không nói. Cách nhìn của tôi, trong vòng 25 tuổi là Công phu Thành phiến, trong vòng 30 tuổi là Sự nhất tâm Bất loạn, trong vòng 40 tuổi là Lý nhất tâm Bất loạn, ngài đã sống 112 tuổi, không phải là phàm phu, mà kiến tánh thành Phật rồi. Người kiến tánh là Phần chứng Tức Phật, cao hơn Phật của mười Pháp giới, Phật của mười Pháp giới là Tương tự Tức Phật, Minh tâm Kiến tánh là Phần chứng Tức Phật. 40 tuổi viên mãn thành tựu, A Mi Đà Phật còn để ngài lại bao nhiêu năm? Ở lại hơn 70 năm, 112 tuổi vãng sanh, vãng sanh tháng giêng năm ngoái, thời gian dài như vậy: đều là làm tấm gương cho chúng ta xem.

Trong những năm này, 20 năm gần đây, rất nhiều đồng học của Tịnh tông: hiểu chưa được thấu đáo đối với giáo nghĩa, phản đối Bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư, phản đối Chú Giải của Hoàng Niệm lão, phản đối chúng ta tu học Pháp môn này (y theo quyển sách này để tu học), lớn tiếng, nhiều người, thời gian dài, xưa nay chưa từng có, mà chúng ta không dao động, chúng ta vẫn kiên trì làm. Lão Hòa thượng cuối cùng vì chúng ta mà tỏ rõ Pháp môn này, chúng ta sáng tỏ rồi, ngài phải kiên trì đến hơn 70 năm. 40 tuổi khai ngộ, 50, 60, 70, 80, 90, 100, 112, là 72 năm. 72 năm thời gian dài như vậy: tác chứng cho chúng ta, chứng minh từng chữ từng câu của Bản Hội Tập là chân kinh, do đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết, lão Cư sĩ Hạ Liên Cư không dùng ý của mình để thêm vào một chữ nào, không có, quý vị tìm không ra, mỗi một câu, mỗi một chữ của ngài đều là kinh văn của bản dịch gốc, không có thay đổi, điều này có thể tin tưởng. Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ không phải là ý của chính ngài, quý vị xem ngài trích dẫn: 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của Tổ sư, tổng cộng 193 bộ sách hay, dùng kinh để chú kinh, dùng khai thị của Tổ sư để giải thích kinh, đó là trí huệ, điều này làm cho người bội phục, không có gì để nói nữa. Cuối cùng chứng minh cho chúng ta, những năm qua chúng ta học quyển sách này, học Chú Giải này là không sai. Làm sao mà biết? Biểu pháp cuối cùng của ngài: là nhìn thấy quyển sách này, trong quyển sách này chính là nói pháp này, khẳng định Bản Hội Tập là chân kinh, Chú Giải của Niệm lão không sai, chúng ta học Pháp môn này không sai. Ngài gặp được bộ sách này thì vô cùng hoan hỷ, như gặp được báu vật! Tại vì sao? Bởi A Mi Đà Phật nói với ngài, chỉ cần quyển sách này xuất hiện, con nhìn thấy, thì thời gian con vãng sanh Thế giới Cực Lạc đến rồi, Ta liền đến đón con. Nên ngài vui mừng vô cùng, cầm lấy quyển sách này chủ động nhờ người chụp hình, cả đời lão Hòa thượng chưa bao giờ chủ động yêu cầu người khác chụp hình cho ngài, chỉ có một lần như thế. Sau khi chụp hình, ba ngày sau, thì ngài ra đi rồi, biểu pháp viên mãn.

Chúng ta nhìn thấy loại biểu pháp này, thì đối với Pháp môn này tín tâm kiên định, không còn dao động, buông xuống triệt để, chẳng những buông xuống pháp thế gian, mà cũng buông xuống Phật pháp. Trên Kinh Kim Cang dạy chúng ta, 法尚應捨,何況非法 “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp“ (Pháp còn nên xả, huống hồ chẳng phải pháp), Pháp chính là tất cả pháp mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thuyết trong 49 năm, buông xuống. Tất cả thế gian không nên để trong tâm nữa, để trong tâm chỉ một câu Phật hiệu này, không lúc nào quên, bất luận lúc nào, bất luận nơi nào, một câu Phật hiệu này phải câu này nối tiếp câu kia, miệng không niệm ra [tiếng], mà trong tâm có. Tu thế nào? Học Bồ-tát Quán Thế Âm, 反聞聞自性,性成無上道 “phản văn văn Tự Tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay nghe lại để nghe Tự Tánh, tánh trở thành Vô Thượng đạo). Bồ-tát Quán Thế Âm nghe thế nào? Hiện nay tôi dạy quý vị, quý vị nghe tiếng niệm Phật của chính quý vị, đừng nên nghe bên ngoài. Miệng tôi không niệm, mà tâm niệm, tâm niệm có tiếng không? Có, người khác không nghe thấy, nhưng chính tôi nghe thấy. Chính mình chỉ nghe tiếng niệm Phật của mình, mặc kệ bên ngoài, đây là phản văn văn Tự Tánh. A Mi Đà Phật chính là Tự Tánh Phật, A Mi Đà Phật chính là Chân Như Bản Tánh, quý vị tu thành công chắc chắn được trí huệ. Được điều gì? Đầu tiên được Niệm Phật Tam-muội, đạt được Niệm Phật Tam-muội, Tam-muội này khởi tác dụng chính là trí huệ, chẳng những quý vị thông suốt một bộ Kinh này, mà quý vị thông hết tất cả Kinh, quý vị hiểu rõ toàn bộ, chẳng có gì mà quý vị không giảng được. Quý vị không biết chữ cũng không sao, chữ thì có thể hỏi người khác, người khác luôn nói với quý vị, còn ý nghĩa quý vị thông suốt vô ngại, phù hợp với lời của Cổ nhân nói “đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách”. Ngàn lần đó là tác dụng thế nào? Ngàn lần là thu tâm, không niệm thì quý vị sẽ suy nghĩ lung tung, khi niệm kinh thì không có vọng niệm, không sanh tạp niệm, đó chính là tu Thiền định, dùng đọc sách để tu Thiền định. Trong sách có ý nghĩa gì? Trong kinh có ý nghĩa thế nào? Không cần để ý, không có ý nghĩa. Khi khai ngộ rồi, là vô lượng nghĩa; nếu chưa khai ngộ, thì không có ý nghĩa. Đó là Bản thể, thì ý nghĩa ở đâu? Đó là Tự Tánh! Chân thật Chi tế không có ý nghĩa, khi khởi tác dụng, có người đến hỏi quý vị, quý vị liền có thể giảng cho họ nghe, họ là Bồ-tát thì quý vị giảng thật sâu, họ là phàm phu thì quý vị giảng rất cạn, tất cả đều được lợi ích. Nên Pháp sư giảng kinh phải khai ngộ mới được, phải hiểu đạo lý này. Hoàn toàn ở dùng tâm. Dùng tâm là thế nào? Dùng tâm đầu tiên chính là buông xuống, trong kinh điển tôi chỉ cần một môn, tôi không làm quá nhiều. Tại sao vậy? Bởi nhiều, thì tâm loạn rồi; Một môn, thì tâm định. Người sơ học xem Chú Giải này 3000 lần, đọc bộ Kinh này, Kinh Vô Lượng Thọ 1000 lần. Một ngày đọc ba lần, thì một năm đọc 1000 lần, ba năm đọc 3000 lần, thì quý vị có thể giảng, quý vị có khả năng tiếp dẫn người sơ học. Kiên trì như vậy, khẳng định quý vị giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, được Công phu Thành phiến, được Sự nhất tâm Bất loạn, được Lý nhất tâm Bất loạn. Do đó ý nghĩa này rất sâu, 最極圓頓之殊勝淨土法門 “tối cực viên đốn chi thù thắng Tịnh Độ Pháp môn” (Pháp môn Tịnh Độ thù thắng tối cực viên đốn).

但以此乃超情離見 “Đãn dĩ thử nãi siêu tình ly kiến” (Nhưng do đây là siêu tình ly kiến), tình là tình thức, khó đoạn nhất, chúng ta gọi là tình cảm. Tình mẹ con, tình anh em: khó đoạn nhất, phải vượt qua. Kiến là kiến giải của chính mình, cách nghĩ, cách nhìn của chính mình, tất cả đều là giả, không có gì là thật, nên phải buông xuống tình kiến. 不可思議難信之法,眾生情執深重,信不能及 “Bất khả tư nghì nan tín chi pháp, chúng sanh tình chấp thâm trọng, tín bất năng cập” (Pháp khó tin không thể nghĩ bàn, tình chấp của chúng sanh sâu nặng, không thể tin được), vì sao không thể tin tưởng? Tuy tin, nhưng bán tín bán nghi. Nhìn từ đâu? Năm xưa, Đại sư Chương Gia cho tôi một tiêu chuẩn, quý vị học kinh này rồi, quý vị hiểu được bao nhiêu thì xem từ đâu? Từ việc quý vị làm được bao nhiêu. Quý vị không làm được, Đại sư nói chư vị chưa hiểu, nếu chư vị hiểu, thì đâu có đạo lý không làm được chứ? Quý vị có thể làm được mười phần, tức quý vị hiểu mười phần; quý vị có thể làm được 100 phần, tức quý vị hiểu 100 phần; quý vị chưa có làm được, thì quý vị hoàn toàn chưa hiểu. Tiêu chuẩn này hay, cả đời tôi được thọ dụng, tuyệt đối không tự cho rằng mình đã hiểu.

Pháp môn Tịnh Độ, khi tôi mới học Phật, người đầu tiên giới thiệu cho tôi là Pháp sư Sám Vân, tôi đã sống ở lều tranh của ngài nửa năm, tôi bán tin bán nghi. Người thứ hai là lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, khuyên tôi tu Tịnh Độ, lời nói vô cùng tha thiết, tôi rất cảm ơn ngài, nhưng tôi vẫn không thể tiếp nhận. Tôi học Phật khoảng hơn 30 năm, gần 40 năm, tôi đã giảng Lăng Nghiêm, giảng Pháp Hoa, giảng Hoa Nghiêm. Trên hội Hoa Nghiêm, có một ngày đột nhiên nghĩ tới, Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền mà chúng tôi tôn kính nhất, quý ngài là do học Pháp môn gì mà thành tựu? Tôi cũng chưa giảng xong Kinh Hoa Nghiêm, ở phía trước nên chưa giảng đến, lật ra phía sau của Kinh Hoa Nghiêm, nhìn thấy trong quyển thứ 39 của Tứ Thập Hoa Nghiêm, ngài Văn Thù, Phổ Hiền đều là do tu Pháp môn niệm Phật cầu sanh Thế giới Cực Lạc mà thành tựu. Tôi nhìn thấy kinh văn ấy, rợn tóc gáy, làm sao có thể có việc như vậy? Sau đó tôi mới nghĩ đến lời trong Kinh nói, hai vị đại Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền dẫn 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ của Thế giới Hoa Tạng, tới Thế giới Cực Lạc để tham bái A Mi Đà Phật, hướng đến A Mi Đà Phật cầu giáo, tôi mới tin. Tin rồi, quay đầu lại vô cùng cảm ơn đối với thầy Lý, trước đây thầy Lý nhiều lần khuyên tôi đó là gốc, trên Kinh Hoa Nghiêm ngài Văn Thù, đó là duyên, nhân duyên đầy đủ, tôi tiếp nhận rồi, tôi mới tin tưởng. Ba năm trước, tôi 85 tuổi, lúc đó giảng Hoa Nghiêm, tuy giảng chưa xong, nhưng không giảng nữa, thật sự buông xuống Đại thừa, pháp còn nên xả, thật sự buông xả rồi. Đời này còn những năm cuối đời, chuyên tu Pháp môn này, chuyên hoằng Pháp môn này, tất cả kinh khác tôi đều không giảng nữa, nếu thỉnh tôi giảng kinh thì cũng giảng bộ Kinh này. Tại sao giảng Kinh này? Bởi Pháp môn này phương tiện rốt ráo, tối cực viên đốn, bao trùm cả ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, tất cả mọi người đều được lợi ích chân thật. Dù quý vị không tin, cũng trồng thiện căn cho quý vị, là trồng thiện căn của Vô thượng, tốt! Ngài Hải Hiền cho chúng ta một biểu pháp như thế, tín tâm của chúng ta kiên định, nhất định sẽ không dao động nữa.

Chính bởi vì tình chấp của chúng sanh sâu nặng, không thể tin tưởng, nên ở  發起序中,深入證信。共計五重 “Phát Khởi Tự trung, thâm nhập chứng tín. Cộng kế ngũ chủng” (trong phần Tựa Phát Khởi, thâm nhập chứng tín. Tổng cộng kể ra năm tầng). Năm tầng này, Niệm lão đều liệt kê ra cho chúng ta. 第一、世尊放光現瑞證信。第二、阿難歡喜啟問。阿難之問有兩要義:一者,阿難見佛放希有之光,必是住奇特之法、導師之行、最勝之道。但此法此行此道,必是佛佛相念,而非其他 “Đệ nhất, Thế Tôn phóng quang hiện thụy chứng tín. Đệ nhị, A Nan hoan hỷ khải vấn. A Nan chi vấn hữu lưỡng yếu nghĩa: Nhất giả, A Nan kiến Phật phóng hy hữu chi quang, tất thị trụ kỳ đặc chi pháp, Đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo. Đãn thử pháp thử hạnh thử đạo, tất thị Phật Phật tương niệm, nhi phi kỳ tha”(Thứ nhất, đức Thế Tôn phát ra quang minh hiện tướng lành để chứng tín. Thứ hai, ngài A Nan vui mừng thưa thỉnh. Lời hỏi của ngài A Nan có hai ý nghĩa quan trọng: Một là, ngài A Nan thấy Phật phóng quang hiếm thấy, nên tất phải là trụ vào pháp vi diệu đặc biệt, hạnh của Đạo sư, đạo thù thắng nhất. Nhưng pháp này, hạnh này, đạo này, nhất định là do Phật với Phật niệm nhau, mà không phải Pháp môn nào khác). Cần làm rõ ràng ý nghĩa của những lời này, ngài A Nan là nhìn thấy Phật phát ra quang minh, ánh sáng quá hiếm có, ngài là thị giả của đức Phật, mỗi lần đức Phật phóng quang thì ngài đều nhìn thấy, từ trước đến nay chưa từng được thấy ánh sáng phóng ra hôm nay, điều này quá hy hữu, trong tâm suy nghĩ vì sao Phật phóng quang? Chắc chắn là Phật với Phật niệm nhau. Phật Phật niệm nhau là thật, không phải giả, chẳng có một vị nào mà không niệm A Mi Đà Phật. Là giống nhau, A Mi Đà Phật cũng niệm A Mi Đà Phật. Đó là ý nghĩa gì? Thì ra A Mi Đà Phật là Tự Tánh Phật. Danh hiệu A Mi Đà Phật này có thể nói: là danh hiệu chung của tất cả chư Phật Như Lai. Nên niệm A Mi Đà Phật là niệm hết tất cả chư Phật rồi. Quý vị nghĩ xem một câu A Mi Đà Phật này cách nói thế nào? Đều là được phiên dịch sang từ tiếng Phạn, A dịch là Vô, Mi Đà dịch là Lượng, Vô Lượng Phật, là Vô Lượng! Nên Phật giải thích cho chúng ta Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ đại biểu thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai; Vô Lượng Quang đại biểu mười phương, là danh hiệu chung của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, vì vậy niệm A Mi Đà Phật là niệm tất cả rồi. Đức hiệu của Phật, trong đó đã bao gồm pháp của Phật, pháp đã tu, pháp đã hành, pháp đã chứng, pháp đã dạy, tất cả đều ở ngay trong một câu Phật hiệu này, quý vị niệm hết tất cả rồi. A Mi Đà Phật thứ nhất là Tự Tánh Phật, là Chân Như Bản tánh của chính mình, mở rộng ra: là tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, vô lượng vô biên công đức của chư Phật đều ở ngay trong câu Phật hiệu này. Vì thế Phật Phật niệm nhau: mới có ánh sáng hy hữu thù thắng như vậy, đây là pháp kỳ lạ đặc biệt, hạnh của bậc Đạo sư. Bậc Đạo sư, có thể dẫn dắt tất cả chúng sanh một đời thành Phật, đây là bậc Đạo sư. Chỉ có Pháp môn này, đạo thù thắng nhất chính là Tịnh Độ, tín nguyện trì danh vãng sanh Tịnh Độ, là đường này, con đường này. Nhưng pháp này, hạnh này, đạo này: làm thế nào hoàn thành? Phật Phật niệm nhau, không phải là các Pháp môn khác, thật sự là pháp hiếm có. 84 ngàn Pháp môn giống như một cây đại thụ, là cành lá, A Mi Đà Phật là gốc cây, tìm thấy gốc rễ, thì tất cả lá cây đều ở trong đó. Tìm thấy lá cây, không tìm ra gốc rễ, vậy thì còn rất xa; nếu tìm được gốc rễ, thì có được tất cả. Tìm được cành lá, thì quý vị chỉ biết cành này, mà không biết cành khác.

二者,阿難何能問此妙義 “Nhị giả, A Nan hà năng vấn thử diệu nghĩa” (Hai là, vì sao ngài A Nan có thể hỏi nghĩa vi diệu ấy), ngài A Nan nhìn thấy ánh sáng này, vì sao lại có thể hỏi ra được? 正表阿難本是德遵普賢、從果向因之大菩薩。會中純一無雜,演說圓音,今正是時。會眾殊勝,正表妙法希有 Chánh biểu A Nan bổn thị đức tuân Phổ Hiền, tùng quả hướng nhân chi đại Bồ-tát. Hội trung thuần nhất vô tạp, diễn thuyết viên âm, kim chánh thị thời. Hội chúng thù thắng, chánh biểu diệu pháp hy hữu” (Chính là biểu thị ngài A Nan vốn là tuân theo đức của ngài Phổ Hiền, là đại Bồ-tát từ quả hướng nhân. Trong hội thuần nhất không tạp, diễn thuyết pháp âm viên mãn, nay là đúng lúc. Chúng hội thù thắng, chính là biểu thị diệu pháp hiếm có). Niệm lão nói rất hay, Pháp môn này là thuần nhất không tạp, Pháp môn Tịnh Độ. Thuần nhất là thế nào? Là pháp Nhất thừa. Giống như trên Kinh Pháp Hoa nói, 唯有一乘法,無二亦無三,除佛方便說 “duy hữu Nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết” (chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện thuyết). Nói cách khác, tất cả chư Phật trong mười phương ba đời: thị hiện trong lục đạo, trong mười Pháp giới, giáo hóa tất cả chúng sanh ấy thì dùng phương pháp gì? Chính là dùng phương pháp của Kinh Vô Lượng Thọ. Nói thêm các Pháp môn khác, đó là đối với người chưa tin Pháp môn này, Phật mới thuyết, những Pháp môn đó đều là cành lá. Nếu quý vị có thể tin, có thể lý giải, có thể phát nguyện, thì nhất định Phật sẽ không dài dòng. Nếu thiện căn, phước đức giống như ngài Hải Hiền, lão Hòa thượng cao minh đến tột cùng, chỉ dạy ngài thuần nhất không tạp “Nam Mô A Mi Đà Phật”, niệm liên tục đến cùng, ngài đã niệm 92 năm. Ngài không biết gì cả, chỉ biết một câu Phật hiệu này; niệm đến lúc nhất định, thì điều gì ngài cũng biết, nhưng ngài không chịu nói. Ý nghĩa của biểu pháp này rất sâu! Tâm của chúng ta không thể thuần nhất không tạp, người tiếp nhận đối với Pháp môn này rất ít, lợi ích nhỏ, không phải là nhiều, lợi ích chân thật, tuy ít, nhưng là chân thật, cũng vô cùng đáng quý. Nếu có thời gian, biết rồi, thì phải làm sâu thêm, phải làm rộng ra, phải phát đại tâm, phải phát đại nguyện, mong rằng trong đời này thành tựu, không phải đợi đến đời sau, đó chính là tin thật nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh, thì quý vị thành công rồi.

Đức Thế Tôn vào ngày nay khi thời tiết nhân duyên chín muồi, cũng chính là nói trong hội này: có không ít Bồ-tát, Thanh văn, trời người có thể tin Pháp môn này, có thể tiếp nhận Pháp môn này, có thể phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, duyên chín muồi rồi. Phật nói Pháp môn này cũng hoan hỷ, và vui mừng hơn thuyết bất kỳ bộ kinh điển nào khác, bởi vì nói các Pháp môn khác thì độ một hàng chúng sanh, còn nói Pháp môn này là rộng độ, trên đến Đẳng giác Bồ-tát, dưới tới chúng sanh địa ngục, tất cả đều được độ. Quý vị mới biết Pháp môn này thật sự thỏa mãn bổn hoài độ sanh của Phật, hoan hỷ đến vô cùng! Giống như lão Hòa thượng gặp được quyển sách “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Tăng Tán Thán Tăng”, A Mi Đà Phật dặn ngài, gặp được quyển sách đó, thì công đức biểu pháp của con viên mãn, Ta sẽ tiếp dẫn con vãng sanh, hoan hỷ không gì bằng! Vui thích! Ở thế gian này làm tấm gương tốt, đã làm 92 năm. Chúng ta thấy rõ ràng, thấy sáng tỏ, học tập theo lão Hòa thượng nhất định không sai, đó chính là một câu Nam Mô A Mi Đà Phật này: có thể giúp chúng ta đạt Công phu Thành phiến, Sự nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn, giúp chúng ta ngay trong đời này, rốt ráo viên mãn thành Phật.

Tiếp theo tầng chứng tín thứ ba, 第三重證信,則是世尊讚歎此問之功德難思。佛說:當來一切含靈,皆以此問而得度脫。一語道破淨土法門所以興起之真因,故本品名為《大教緣起》 “đệ tam trùng chứng tín, tắc thị Thế Tôn tán thán thử vấn chi công đức nan tư. Phật thuyết: đương lai nhất thiết hàm linh, giai dĩ thử vấn nhi đắc độ thoát. Nhất ngữ đạo phá Tịnh Độ Pháp môn sở dĩ hưng khởi chi chân nhân, cố bổn phẩm danh vi Đại Giáo Duyên Khởi” (Tầng chứng tín thứ ba, đó là đức Thế Tôn khen ngợi công đức khó nghĩ bàn của lời hỏi ấy. Đức Phật nói: tất cả hàm linh trong hiện nay và tương lai, đều do lời hỏi ấy mà được độ thoát. Một lời đã nói ra hết nhân thậ sự vì sao hưng khởi của Pháp môn Tịnh Độ, nên phẩm này gọi là Đại Giáo Duyên Khởi). Ngài A Nan thưa hỏi, công đức của lời hỏi lớn, không hỏi thì Phật không giảng, một khi hỏi thì Phật cần phải giảng pháp. Ngài A Nan là đại biểu cho hàng chúng sanh căn tánh chín muồi, ưa thích Pháp môn này. Một Pháp môn này thống nhiếp tất cả Pháp môn, danh hiệu này rộng chứa danh hiệu của tất cả chư Phật, hiển thị ra công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn, trí huệ của danh hiệu không thể nghĩ bàn, đức năng tướng hảo của danh hiệu không thể nghĩ bàn. Nếu ngài A Nan không biết, thì làm sao có thể hỏi được? Ngài A Nan trên hình tướng là Sơ quả Tu-đà-hoàn, còn trên thực tế chí ít cũng là Đẳng giác Bồ-tát: ứng hóa mà đến. Đúng là như trên Đại Kinh đã nói, 一佛出世,千佛擁護 “nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ” (một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ). Đức Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện đến trong Thế giới này để độ chúng sanh, nên 1000 vị Phật cùng giúp Ngài, giống như đóng kịch, đức Thích Ca đóng vai chính, còn các Ngài đóng vai phụ. Một tức là nhiều, nhiều tức là một, viên mãn đây là pháp hội trang nghiêm thù thắng không gì bằng, khiến tất cả chúng sanh: nhìn thấy, nghe được, chẳng ai mà không được độ. Đây là duyên khởi của Đại Giáo.

第四重,佛告阿難,如來之所以出興於世者,只為欲拯群萌,惠以真實之利 “Đệ tứ trùng, Phật cáo A Nan, Như Lai chi sở dĩ xuất hưng ư thế giả, chỉ vị dục chẩn quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (Tầng thứ tư, Phật bảo ngài A Nan, sở dĩ Như Lai xuất hiện ở đời, chỉ vì muốn cứu giúp quần sanh, ban cho lợi ích chân thật). Phật ứng hóa đến thế gian này để làm gì, chỉ vì một việc: mang lại lợi ích chân thật cho mọi người. Chữ “huệ” này chính là bố thí, chính là ban cho, đây là ân huệ chân thật, lợi ích chân thật. 云何惠予 “Vân hà huệ dữ” (Làm sao ban cho), dùng phương pháp gì để ban ân huệ cho mọi người? 唯賴彌陀願海六字洪名 “Duy lại Mi Đà nguyện hải lục tự hồng danh” (chỉ nương cậy vào biển nguyện sáu chữ hồng danh của đức Mi Đà). Biển nguyện của đức Mi Đà là chỉ 48 nguyện, 48 nguyện chung quy là một câu danh hiệu: Nam Mô A Mi Đà Phật, trong một câu này đầy đủ viên mãn 48 nguyện, không sót một nguyện nào. Triển khai 48 nguyện: chính là toàn bộ Kinh Vô Lượng Thọ, triển khai Kinh Vô Lượng Thọ: chính là toàn bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, triển khai Kinh Hoa Nghiêm: chính là tất cả kinh giáo mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thuyết trong 49 năm, Nam Mô A Mi Đà Phật bao gồm tất cả rồi. Thế thì chúng ta biết, trong ý niệm của chúng ta thì ý niệm nào tốt nhất? Nam Mô A Mi Đà Phật – ý niệm này tốt nhất, thế và xuất thế gian tìm không ra ý niệm nào tốt hơn ý niệm này, không tìm thấy. Về lời nói, thì lời nói nào hay nhất? Nam Mô A Mi Đà Phật – câu này là lời nói hay nhất. Ý niệm số một ngay trong các ý niệm, lời nói số một ngay trong các lời nói. Rất ít người biết điều này. Người thật sự biết, là lão Hòa thượng Hải Hiền, nên ngài niệm Phật là tranh thủ từng phút từng giây, một giây niệm được một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, một giây ấy ngài cũng không chịu buông xả, buông xả một giây đó là tạp niệm, niệm niệm đều là A Mi Đà Phật. Niệm sáu chữ, niệm bốn chữ đều giống nhau, quý vị thích niệm sáu chữ cũng được, thích niệm bốn chữ cũng được, vô lượng vô biên công đức thù thắng, tại sao không tu? Mỗi người đều mong bản thân tạo ít nghiệp chướng, tu thêm chút công đức, tích công lũy đức, cầu sanh Tịnh Độ. Quý vị dùng cách nào để tích công lũy đức? Niệm Phật.

Công đức của niệm Phật, lão Hòa thượng Hải Hiền biểu diễn cho chúng ta thấy, ba năm câu này nối tiếp câu kia, không mất đi, được Công phu Thành phiến. Công phu Thành phiến sẽ cảm được: Phật đến đưa tin tức cho quý vị, quý vị nhìn thấy A Mi Đà Phật, có người nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, tín tâm kiên định, sẽ không dao động nữa. Niệm liên tục không ngừng, 3 năm đến 5 năm được Sự nhất tâm Bất loạn, thêm ba năm đến năm năm nữa là Lý nhất tâm Bất loạn. Do đó chứng được Lý nhất tâm là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, khoảng bao lâu? 10 năm đến 20 năm thì tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp vẫn chưa đi, đó chính là nhận lời phó chúc của A Mi Đà Phật, giao phó của A Mi Đà Phật, quý vị lưu lại ở Thế giới Ta Bà làm tấm gương tốt cho người sơ học xem, người chưa học nhìn thấy quý vị, muốn học rồi, sanh khởi niềm tin; người đã học Phật nhìn thấy quý vị, sẽ biết tu hành thế nào để có thể thành tựu, giúp A Mi Đà Phật tiếp dẫn đại chúng. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã thành tựu bản thân trước 40 tuổi, sau 40 tuổi, là 70 năm độ chúng sanh, làm tấm gương tốt cho người khác xem, những gì ngài làm đều là đúng, không có việc nào là làm sai. Quý vị xem ngài có một việc, chuyện về nhân viên thu tiền điện. Ngài cảm thấy rất ngạc nhiên, vì sao tiền điện của tháng này nhiều hơn tháng trước đến như vậy? Vậy đương nhiên là tham ô, ghi chép giả dối. Lão Hòa thượng hỏi vấn đề này, người thu tiền điện ấy không nói gì với ngài, liền tát ngài hai cái. Lão Hòa thượng nhanh chóng lấy tiền để đưa cho anh ta, anh ta muốn bao nhiêu thì đưa cho bấy nhiêu. Trong việc này ngài cũng không làm sai, người xung quanh nhìn thấy đều không phục, muốn tìm người thợ điện ấy phân xử với anh ta. Lão Hòa thượng nói: bỏ đi, được rồi, độ lượng phải lớn, người học Phật phải có thể nhẫn nhịn, nhẫn được thì tự nhiên bình an. Việc này người bình thường không thể chịu nổi, còn ngài hoàn toàn có thể chịu đựng. Chịu thiệt bị lừa nhưng không kêu oan, dường như không có việc gì, cũng tức là: hoàn toàn không để những việc này trong tâm, để trong tâm chính là một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, đây là Đệ tử của nhà Phật, đây là Đệ tử của đức Mi Đà. Vì sao? Bởi thế gian là giả, mỗi người tạo nghiệp thì mỗi người chịu báo, không sai chút nào, cần gì phải tranh giành? Làm ra tấm gương tốt cho người xem. Chúng ta tin rằng người thợ điện ấy đi về, nhất định có một ngày nghĩ lại, sẽ cảm thấy hổ thẹn, có lỗi đối với lão Hòa thượng, tuổi tác lớn như vậy, đó là bắt nạt người, tội này nặng biết bao! Ấy đều là chỗ mà chúng ta phải học tập cho tốt.

Phật độ chúng sanh là dùng câu Phật hiệu này, ý nghĩa của câu Phật hiệu này sâu rộng không có giới hạn, bởi vì câu Phật hiệu này: thật sự tổng nhiếp vô lượng vô biên Pháp môn. Ngài A Nan vừa hỏi, Phật liền diễn thuyết cho mọi người. Pháp này thật sự là 希有難逢,如優曇花 “hy hữu nan phùng, như Ưu Đàm hoa” (hiếm có khó gặp, như hoa Ưu Đàm), thật không dễ nhìn thấy, 當來一切眾生,全賴阿難之問而得度脫,故佛讚阿難以證信 “đương lai nhất thiết chúng sanh, toàn lại A Nan chi vấn nhi đắc độ thoát, cố Phật tán A Nan dĩ chứng tín” (tất cả chúng sanh trong tương lai, đều nhờ lời hỏi của ngài A Nan mà được độ thoát, nên đức Phật khen ngài A Nan để chứng tín). Ý nghĩa tầng thứ tư là như vậy.

第五重,世尊深知此實為一切世間難信之法,故曉喻眾生曰:如來覺智難量,神通無礙,定慧究暢,於法自在。世尊所說,真實不虛,萬勿輕疑,但當仰信 “Đệ ngũ trùng, Thế Tôn thâm tri thử thật vi nhất thiết thế gian nan tín chi pháp, cố hiểu dụ chúng sanh viết: Như Lai Giác trí nan lượng, thần thông vô ngại, định huệ cứu sướng, ư pháp tự tại. Thế Tôn sở thuyết, chân thật bất hư, vạn vật khinh nghi, đãn đương ngưỡng tín” (Tầng thứ năm, đức Thế Tôn biết rõ đây thật là pháp mà tất cả thế gian khó tin, nên nói rõ cho chúng sanh hiểu rằng: Trí giác của Như Lai khó đo lường, thần thông vô ngại, định huệ thông suốt rốt ráo, tự tại với pháp. Lời đức Thế Tôn nói, chân thật không hư dối, nhất thiết chớ nghi ngờ, chỉ nên kính tin). Mấy câu này quan trọng hơn tất cả, chúng ta có thể tin, có thể tiếp nhận, có thể y giáo phụng hành, là người đại trí huệ, người đại phước đức, tại sao vậy? Bởi đời này họ thành Phật rồi. Nếu không phải là đại trí huệ, đại phước đức thì chắc chắn có hoài nghi, gọi là bán tín bán nghi, họ không thể y giáo phụng hành. Họ biết nói cho người khác nghe, nhưng chính họ làm không được, là nguyên nhân gì? Thiện căn phước đức chưa đủ. Làm thế nào để bổ sung? Lão thật niệm Phật là bổ sung, bổ sung rất nhanh. Giống như tấm gương của lão Hòa thượng Hải Hiền, một năm, hai năm, ba năm thì bổ sung đủ rồi. Tại sao vậy? Bởi hiện nay quý vị thật sự biết, thế nào là đại phước đức, thế nào là đại trí huệ, thế nào là đại nhân duyên, Nam Mô A Mi Đà Phật. Chỉ cần nắm chắc câu Phật hiệu này, niệm niệm không quên, đi đứng ngồi nằm đều không rời Phật hiệu này, rất nhanh thì thiện căn phước đức nhân duyên của quý vị bổ sung đầy đủ rồi. Nếu tu Pháp môn khác, phải bổ sung, thì quá khó quá khó rồi, quý vị phải làm bao nhiêu việc tốt? Người ta làm 10.000 việc tốt, 100.000 việc tốt, không bằng quý vị niệm một câu A Mi Đà Phật. Vì sao người khác không làm? Bởi không tin. Nếu họ tin, thì thật đạt được rồi. Tiên sinh Viên Liễu Phàm làm 3.000 việc tốt mới có thể thay đổi vận mạng, làm 10.000 việc tốt mới kéo dài được tuổi thọ, ngài ấy không biết, nếu là niệm A Mi Đà Phật thì điều đó càng tuyệt vời hơn, phước báo của ngài ấy không chỉ là tăng gấp mười lần. Chúng ta phải hiểu rõ được chân tướng sự thật này, từng câu là lời thật, đức Phật biết. Chúng ta nhất định phải biết, trí giác của Như Lai khó đo lường, thần thông vô ngại, định huệ thông suốt rốt ráo, tự tại với pháp, với tất cả những lời Phật nói: chẳng thể không tin, không tin thì sai rồi. Vì vậy Niệm công ở đây khuyên chúng ta, lời đức Thế Tôn nói, chân thật không dối, nhất nhiết chớ nghi ngờ, chỉ nên ngưỡng tín, ngưỡng là cung kính, nhất định phải tin tưởng. Chúng ta ngu si, tập khí phiền não rất nặng, không hiểu rõ chân tướng sự thật, nhưng chỉ cần là lời của đức Thế Tôn nói, thì chúng ta không hoài nghi. 是乃喻示我等,佛是果覺,我是凡夫,焉可以凡夫愚昧之分別心,妄測如來聖智 “Thị nãi dụ thị ngã đẳng, Phật thị quả giác, ngã thị phàm phu, yên khả dĩ phàm phu ngu muội chi phân biệt tâm, vọng trắc Như Lai Thánh trí” (Đây là nói rõ cho chúng ta, đức Phật là quả giác, chúng ta là phàm phu, sao có thể dùng tâm phân biệt ngu muội của phàm phu, để tùy tiện đo lường Thánh trí của Như Lai), vì vậy 但當信受,必滿所願 “đãn đương tín thọ, tất mãn sở nguyện” (chỉ nên tin nhận, nhất định viên mãn sở nguyện). Sở nguyện này chính là chúng ta cầu sanh Thế giới Cực Lạc. Nhất định có thể viên mãn nguyện vọng của chúng ta, chúng ta phải tin, phải tiếp nhận, cũng không thể hoài nghi.

Đoạn tiếp theo, 由上可見,經之序分,全為證信。本經小本之宗 “do thượng khả kiến, kinh chi Tự phần, toàn vi chứng tín. Bổn Kinh tiểu bổn chi tông” (từ trên có thể thấy: phần Tựa của Kinh này, toàn là chứng tín. Tông chỉ Tiểu bản của Kinh này), Tiểu bản là Kinh A Mi Đà, 蕅益大師指為信願持名 “Ngẫu Ích Đại sư chỉ vi tín nguyện trì danh” (Đại sư Ngẫu Ích chỉ ra là tín nguyện trì danh). Đức Thế Tôn giảng Pháp môn này cho chúng ta chỉ bốn chữ này, nhất định phải tin, nhất định phải nguyện sanh Tịnh Độ, nhất định phải niệm Phật. Nếu không niệm Phật, thì quý vị niệm gì? Niệm thứ khác đều tạo nghiệp, chỉ có niệm Phật có thể thành Phật. Mong rằng chúng ta từ đây về sau, khởi tâm động niệm đều là A Mi Đà Phật, tất cả pháp của thế và xuất thế gian đều buông xuống. Tôi nói tứ hoằng thệ nguyện bao nhiêu năm đến nay, tôi đều nói với mọi người, tứ hoằng thệ nguyện, tôi chỉ thực hiện hai nguyện đầu tiên, 眾生無邊誓願度“chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, tôi phát nguyện này; 煩惱無盡誓願斷“phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, dùng cách nào để đoạn? Niệm A Mi Đà Phật thì đoạn rồi. Trong A Mi Đà Phật không có phiền não, không có tập khí, nhất tâm niệm A Mi Đà Phật, cũng sẽ đoạn hết tất cả phiền não. Hiền công niệm Phật: đoạn Kiến tư Phiền não, đoạn Trần sa Phiền não, đoạn Vô minh Phiền não, tôi tin rằng trước 40 tuổi, vui vẻ biết bao, thật hiếm có. 20 tuổi đến 40 tuổi, trong 20 năm vấn đề được giải quyết rồi. Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, không khó! Ai chịu làm, đều có thể làm được. Phật pháp không keo pháp, hi vọng ai ai cũng thành Phật, không có đố kỵ chướng ngại.

Tín nguyện trì danh là hạnh, đây gọi là 三資糧,缺一不可,而信居首,其要可知 “tam tư lương, khuyến nhất bất khả, nhi tín cư thủ, kỳ yếu khả tri” (ba món tư lương, thiếu một không được, nhưng tín ở đầu tiên, có thể thấy tầm quan trọng của tín). Tin đặt ở thứ nhất, có hoài nghi sẽ không thể thành tựu. 序分中先說此經之本,乃真實之際 “Tự phần trung tiên thuyết thử Kinh chi bổn, nãi Chân thật Chi tế” (Trong phần Tựa trước tiên nói gốc rễ của Kinh này, chính là Chân thật Chi tế), đây là gốc rễ của bộ Kinh này, chính là Chân thật Chi tế, nên đáng tin. 本經之用,乃廣惠眾生以真實之利 “Bổn Kinh chi dụng, nãi quảng huệ chúng sanh dĩ chân thật chi lợi” (Dụng của Kinh này, là rộng ban cho chúng sanh lợi ích chân thật), lợi ích của tín nguyện trì danh vô lượng không có giới hạn, lợi ích chân thật, nên quý vị cần phải tin tưởng. 何謂真實之際? “Hà vị Chân thật Chi tế?” (Thế nào là Chân thật Chi tế?) Tiếp theo giải thích cho chúng ta, 正如蓮池大師《疏鈔》中,所開口便道者:靈明洞徹,湛寂常恆;非濁非清,無背無向。大哉真體,不可得而思議者,其唯自性歟! “chánh như Liên Trì Đại sư Sớ Sao trung, sở khai khẩu tiện đạo giả: Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng; phi trược phi thanh, vô bội vô hướng. Đại tai Chân thể, bất khả đắc nhi tư nghì giả, kỳ duy Tự Tánh dư!” (Đúng như Đại sư Liên Trì ngay mở đầu trong Sớ Sao liền nói: linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, không trược không thanh, không quay lưng không hướng đến. Chân thể rộng lớn thay, không thể đắc cho tới nghĩ bàn, đó chỉ có mỗi Tự Tánh mà thôi!) Đây chính là Chân thật Chi tế, những lời này là miêu tả, đó là Chân Tâm, là Chân Tâm của chính chúng ta. Chân Tâm thần diệu, ngày nay chúng ta nói phản ứng vô cùng nhanh nhẹn, minh là trí huệ, đỗng là nhìn thấu suốt, triệt là rốt ráo triệt để, đây là đối với điều gì? Đối với tất cả vạn pháp của khắp pháp giới hư không giới. Tự Tánh khởi tác dụng, là Tự Tánh vốn có, hình dạng của Tự Tánh trạm tịch thường hằng, trạm tịch là không động, trạm nhiên, thanh tịnh, tịch diệt, không có vọng niệm nào. Chúng tôi thường hay giới thiệu với đồng học, nhắc nhở đồng học, Tự Tánh là như thế nào? Không khởi tâm không động niệm: chính là Tự Tánh khởi tác dụng. Khởi tâm động niệm là A-lại-da khởi tác dụng, A-lại-da là mê. Tôi không dùng Vọng tâm, tôi dùng Chân Tâm, Chân Tâm là giác, Bản giác, Tự giác, linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, Tự Tánh khởi tác dụng chính là đại giác. Tiếp theo cũng là miêu tả hai câu này, không trược không thanh, trược là nhiễm ô, thanh là thanh tịnh, Tự Tánh có bị nhiễm ô không? Không có. Khi Đại sư Huệ Năng kiến tánh, câu đầu tiên nói với chúng ta, “nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh”, chữ “thanh tịnh” đó chính là không trược không thanh ở đây. Trược và thanh là tương đối, không có trược thì lấy đâu ra thanh? Không có thanh thì trược ở đâu? Nên là tương đối. Trong Tự Tánh không tìm ra một pháp nào là tương đối, không có, nên Tự Tánh cũng không quay lưng cũng không hướng đến, đó là một thể. Nên không có Phật cũng không có chúng sanh, Phật là giác, chúng sanh là mê, trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh không có mê ngộ. Tự Tánh ở đâu? Chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, đó là Chân Tâm. Phật hoàn toàn sáng tỏ, vì sao? Bởi Ngài đều buông xuống tất cả chướng ngại. Ngày nay chúng ta có chướng ngại mà không buông xuống được, nên không nhìn thấy chân tướng. Chúng ta phải cố gắng để buông xuống, sau khi buông xuống thì rõ ràng chân tướng. Vì thế lớn thay Chân thể, không thể đắc cho đến nghĩ bàn, chỉ có mình Tự Tánh mà thôi! Không cách nào tưởng tượng, không cách nào nói rõ, quý vị không nói rõ ràng được, cũng không tưởng tượng được, đó chính là Tự Tánh.

故知真實之際,即當人之自性也 “Cố tri Chân thật Chi tế, tức đương nhân chi Tự Tánh dã” (Nên biết Chân thật Chi tế, chính là Tự Tánh của đương nhân). Đương nhân là chính chúng ta, không phải người khác. Niệm A Mi Đà Phật là niệm ai? Niệm Tự Tánh của chính mình, niệm Chân Tâm của chính mình, Chân Tâm của chính mình chính là A Mi Đà Phật. Nên niệm Phật không phải là mê tín, phải biết đạo lý này. A Mi Đà Phật là Chân Tâm của chúng ta, là Tự Tánh của chúng ta, niệm A Mi Đà Phật là niệm Tự Tánh Phật không phải niệm Phật khác, Phật khác hay Phật chính mình đó chính là phân biệt vọng tưởng, là một không phải hai. Cũng là Tự Tánh của tất cả chúng sanh, Tự Tánh của chư Phật Như Lai, Tự Tánh của con kiến con muỗi, Tự Tánh của ngạ quỷ địa ngục, là cùng một Tự Tánh. Có thể sanh ra nhiều hiện tượng khác nhau như thế, đều là do mê ngộ sâu cạn khác nhau. Buông xuống tất cả mê, thì sau đó hoàn toàn là giống nhau, Thường Tịch Quang liền hiện ra, có thể hòa vào Thường Tịch Quang chính là thành Phật. Câu tiếp theo đây, 何謂真實之利?《疏鈔》又曰 “hà vị chân thật chi lợi? Sớ Sao hựu viết” (thế nào là lợi ích chân thật? Sớ Sao cũng nói), chúng ta đọc lại câu này, 澄濁而清,返背而向;越三祇於一念,齊諸聖於片言。至哉妙用,亦不可得而思議者,其唯《佛說阿彌陀經》歟! “trừng trược nhi thanh, phản bội nhi hướng; việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư Thánh ư phiến ngôn. Chí tai diệu dụng, diệc bất khả đắc nhi tư nghì giả, kỳ duy Phật Thuyết A Mi Đà Kinh dư!” (gạn đục liền trong, xoay lưng liền hướng; vượt ba đại a-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, ngang bằng chư Thánh nhờ một lời. Diệu dụng vô cùng thay, cũng không thể đắc cho đến nghĩ bàn, chỉ có Kinh Phật Thuyết A Mi Đà mà thôi!) Sớ Sao là Chú Giải Kinh A Mi Đà của Đại sư Liên Trì, Chú Giải vô cùng chi tiết, hoàn toàn dùng Kinh Hoa Nghiêm để giải thích Kinh Mi Đà, nghĩa lý rất sâu. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 135 )

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật.