Responsive Menu
Add more content here...

Tập 138 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Tập 138

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 27/11/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 379, bắt đầu xem hàng thứ 6 từ trái qua:

以下分釋十號 “Dĩ hạ phân thích thập hiệu” (Sau đây chia ra giải thích mười hiệu). Tiếp theo là Chú Giải của Niệm lão, chia ra giới thiệu cho chúng ta mười đức hiệu chung của Phật. Mười đức hiệu chung này biểu thị Tánh đức rốt ráo viên mãn, nhất định phải biết, tất cả chúng sanh cũng có mười hiệu này, Phật có, chúng sanh đều có. Nên trên Kinh Hoa Nghiêm nói: 一切眾生本來是佛 “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật”, tại sao vậy? Bởi từ trong mười đức hiệu thì liền sáng tỏ. Nói từ trên Sự, thì Tánh đức của chư Phật Như Lai không có bất kỳ chướng ngại nào, hoàn toàn hiện tiền, chúng sanh Lục đạo chúng ta mê quá lâu, mê quá sâu, tuy có nhưng không thể hiện ra. Thậm chí nói, bất kỳ điều nào trong mười điều này: hiện nay chúng ta cũng không có, nên trở thành chúng sanh Lục đạo. Nếu chúng ta trừ bỏ chướng ngại, khiến Tánh đức viên mãn của chúng ta hiển thị ra, thì người ấy thành Phật rồi. Do đây có thể biết, mê và ngộ là một niệm, chúng sanh và Phật cũng là một niệm, một niệm giác thì chúng sanh thành Phật, một niệm mê thì Phật thành chúng sanh. Chân tướng sự thật này, nhất định chúng ta phải biết, phải thể hội được. Thật sự lãnh hội được, thì chúng ta đối với việc niệm Phật vãng sanh thành Phật trong đời này, cũng có tín tâm kiên định, sẽ không có chút hoài nghi gì nữa. Nên mười đức hiệu này vô cùng quan trọng, chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão.

Thứ nhất, trình tự sắp xếp, các kinh cũng không nhất định, nhưng thông thường đều sẽ đặt 如來 “Như Lai” ở đầu tiên. Như Lai có nghĩa là gì? 如者,真如也。乘真如之道來成正覺,故名如來 “Như giả, Chân Như dã. Thừa Chân Như chi đạo lai thành Chánh Giác, cố danh Như Lai” (Như là Chân Như. Nương nhờ đạo Chân Như để thành Chánh Giác, nên gọi là Như Lai). Chân Như, thế nào là Chân Như? “Chân” chính là không phải giả, mà là thật. Những gì có tướng đều là hư vọng, là giả, không phải là thật, những gì có tướng ở đây bao gồm Thật Báo Trang Nghiêm độ của chư Phật Như Lai, trên kinh không nói trừ Thật Báo độ, không có câu này, nói cách khác, Thật Báo độ cũng không ngoại lệ. Thật Báo độ với Thập pháp giới và Lục đạo Luân hồi không giống nhau, Lục đạo Luân hồi là tâm hiện, có thức biến, thức A-lại-da biến đổi nó. Biến thành gì vậy? Biến thành Thập pháp giới, biến thành Lục đạo, tất cả đều là việc của A-lại-da. Nếu chúng ta buông xuống thức A-lại-da, thì Thế giới này chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Đặc sắc của Thật Báo Trang Nghiêm độ, là giúp chúng ta nhận thấy rõ ràng về vô lượng thọ, tất cả hiện tượng của nó, không có hiện tượng sanh diệt này ở trong đó, không giống như Thập pháp giới, tất cả pháp trong Lục đạo này của chúng ta đều có sanh có diệt. Sanh diệt này, hiện nay nhà khoa học nhờ vào các thiết bị khoa học mới nhất thì quan sát được, có thể quan sát được một phần ngàn tỷ giây. Trong kinh Phật, cuộc đối thoại giữa Bồ-tát Di Lặc và đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Phật hỏi, 心有所念 “tâm hữu sở niệm” (ý niệm có bởi tâm), tâm này là tâm của phàm phu, chính là ý niệm của chúng ta, chúng ta khởi một ý niệm, 幾念幾相識耶 “kỷ niệm kỷ tướng thức da” (mấy niệm mấy tướng mấy thức). Trong câu này đã hỏi ba việc, có bao nhiêu ý niệm vi tế, có bao nhiêu hiện tượng vật chất, có những hiện tượng tinh thần nào (thức chính là hiện tượng tinh thần, tướng là vật lý, thức là tâm lý), quý vị xem hỏi ba việc. Bồ-tát Di Lặc trả lời, một búng tay, trong khoảng búng tay, 一彈指有三十二億百千念 “nhất đàn chỉ hữu tam thập nhị ức bá thiên niệm” (một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm). 32 ức nhân với 100 ngàn, 100 ngàn là 10 vạn, 32 ức lại nhân 10 vạn, thành 320 ngàn tỷ, đây là một búng tay. Cũng tức là, một ý niệm là 1 phần 320 ngàn tỷ búng tay, chúng ta không cảm thấy gì. Hiện tượng này ở ngay trước mắt, từ sáng đến tối chưa từng rời khỏi chúng ta, hiện tượng vật chất như vậy, hiện tượng tinh thần như vậy, hiện tượng tự nhiên cũng như thế, đó là pháp sanh diệt. Trong Thật Báo độ không có hiện tượng này, dường như là mãi không sanh không diệt, chúng ta nhìn thấy như thế này. Trong Thật Báo độ chỉ có ẩn hiện khác nhau, có duyên thì hiện tướng, không có duyên thì không thấy tướng nữa. Khi ẩn không thể nói nó không, lúc hiện không thể nói nó có, ẩn và hiện nhất như, ẩn hiện không hai, đó mới là chân tướng sự thật, đó là Chân Như. 如 “Như” có nghĩa là hoàn toàn tương ưng, tương ưng viên mãn, tương ưng rốt ráo. Khắp pháp giới hư không giới chính là Chân Như, Chân Như có hiện tướng, Thập pháp giới và Lục đạo còn mang theo A-lại-da, Chân Như biến đổi. Ai có thể thấy được? Người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, quý ngài nhìn thấy được.

Về Chân Như, người nước ta biết, khi Đại Học, Trung Dung được viết thành sách, khi Lễ Ký được viết thành sách, Phật pháp vẫn chưa đến Trung Hoa, thì người Trung Hoa có thể nói ra, 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善 “đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”, minh đức ở đây chính là Chân Như. Tướng của minh đức (minh đức là Thể, Chân Như là Thể), Tướng của nó là như thế nào? Thân dân. Thân dân có nghĩa là gì? Từ bi, yêu thương. Tác dụng của thân dân là chỉ ư chí thiện. Phật pháp nói: Thể Tướng Dụng, một mà ba, ba mà một, là một thể. Nên một số Thánh Hiền, và lão Tổ tông thời xưa của Trung Hoa, chúng ta từ trong giáo nghĩa của Đại thừa để quan sát, không phải là phàm phu, đó là người thế nào? Tôi cảm thấy là chư Phật Như Lai thị hiện ở khu vực của Trung Hoa đây. Giống như Phẩm Phổ Môn đã nói, nên dùng thân gì độ được, liền hiện thân ấy mà thuyết pháp cho, người Trung Hoa tin Thánh Hiền, vì vậy những gì người Trung Hoa tin là cảm, Như Lai liền có ứng, ở Trung Hoa thị hiện thân Thánh Hiền, ở Ấn Độ thị hiện thân của Phật Bồ-tát, ở Châu Âu thị hiện Chúa Giê-su, Mô-sê, hiện thân phận như vậy, tất cả đều là Như Lai, đều là do Chân Như biến hiện. Chân Như biến hiện, thì một câu của ngài Lục tổ nói rất rõ ràng, lão nhân gia nói, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, vạn pháp là toàn thể vũ trụ. Trong Phật giáo nói cả vũ trụ, không có nói do thần tạo, mà nói duyên khởi. Nói rất hay! Duyên khởi dựa vào điều gì? Dựa vào Tự Tánh, Tự Tánh là pháp vốn như vậy. Tự Tánh không sanh không diệt, Tự Tánh không có quá khứ hiện tại vị lai, Tự Tánh là thật, mãi không biến đổi. Tự Tánh cũng là định, ngài Lục tổ tiết lộ tin tức cho chúng ta, 本無動搖 “bổn vô động dao”, Tự Tánh từ trước nay không có động. Dao cũng là động, không dao động, nó cũng không có hành động cực kỳ vi tế, mà như như bất động. Đây là gì? Tự Tánh vốn định. Vì sao Phật giáo chủ trương tu định, đạo lý đã sáng tỏ, bởi chỉ có công phu của định: mới tương ưng với Tự Tánh vốn định, hồi quy Tự Tánh, đây chính là đại định của Như Lai chứng được. Định sanh huệ, huệ là hiểu rõ thông suốt đối với vạn pháp, không có chút sai lầm nào. Thế nên chúng ta biết, vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo đều là vốn sẵn đủ trong Tự Tánh, không liên quan gì tới bên ngoài.

Ngày nay chúng ta đều là hướng ra ngoài cầu, thì sai rồi, phải quay lại hướng vào trong để cầu. Hướng vào trong làm sao phát hiện được? Tu định. Quý vị xem, không khởi tâm không động niệm là Tự Tánh vốn định, đây là đại định rốt ráo viên mãn, mà Như Lai đã chứng được. Bồ-tát chứng được là bậc thứ hai, Bồ-tát có khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là Vô minh Phiền não, giống như nước, vừa động thì vẩn đục ngay, liền nổi sóng, công phu chiếu kiến bị mất hết. Không khởi tâm không động niệm là Tự Tánh vốn định, tự nhiên khai trí huệ. Chúng ta học kinh giáo, 84.000 Pháp môn, học kinh giáo cũng bao gồm trong đó, tất cả đều là tu định, 84.000 loại phương pháp tu định. Vô lượng Pháp môn cũng là tu định, Pháp môn thật sự vô lượng vô biên, tất cả là tu định. Tu định nói đơn giản, chính là buông xuống Khởi tâm Động niệm, buông xuống Phân biệt, buông xuống Chấp trước. Chỉ cần buông xuống Chấp trước, là định của Tiểu thừa, A-la-hán. Không nên xem thường A-la-hán, bởi chứng được quả A-la-hán, thì không còn Lục đạo Luân hồi nữa, đã vượt qua Lục đạo. Lục đạo là một giấc mơ, tỉnh dậy rồi, không thấy Lục đạo nữa. Không thấy, điều gì hiện ở trước mắt? Là hiện Tứ thánh Pháp giới: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật, là Tịnh độ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Lục đạo là Uế độ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, do tạo nghiệp thiện hay ác mà biến hiện ra; trong Tứ thánh Pháp giới không có nghiệp thiện hay ác, nhưng vẫn còn nhiễm tịnh. Chứng được quả A-la-hán, tâm thanh tịnh hiện ra như trên đề Kinh của chúng ta. Cảnh giới này, nếu người đới nghiệp vãng sanh về Thế giới Tây Phương Cực Lạc, vả lại đới nghiệp là Hạ hạ phẩm vãng sanh, thì làm sao A-la-hán sánh được với họ? Không bằng. Tại sao vậy? Bởi A-la-hán không thể có được uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, quý ngài hoàn toàn dựa vào công phu tu hành của chính mình: mà chứng được quả A-la-hán, đoạn hết Kiến tư Phiền não. Còn Hạ hạ phẩm vãng sanh của Phàm Thánh Đồng Cư độ ở Thế giới Cực Lạc, đều được 48 nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, được công đức tu hành tích lũy từ vô lượng kiếp của A Mi Đà Phật gia trì, có thể ngay lập tức nâng người vãng sanh ấy lên A-duy-Việt-trí Bồ-tát, cao hơn A-la-hán rất nhiều rồi. Chúng ta ở Thế giới này muốn chứng A-la-hán, không thể được, đừng nói A-la-hán, mà Sơ quả Tu-đà-hoàn, chúng ta cũng không có phần. Vì sao? Bởi Tu-đà-hoàn phải đoạn năm loại Kiến hoặc trong Tam giới. Thứ nhất là Thân kiến, quý ngài thật không còn chấp trước thân này là ta, quý ngài xác thật coi thân này như một bộ quần áo để đối đãi, không phải là ta, mà là sở hữu của ta. Quần áo không phải là ta, mà sở hữu của ta, quần áo bẩn rồi thì đổi bộ khác, thân thể hỏng rồi đổi thân thể khác, nó không phải là ta. Chúng ta không được, chúng ta thật sự xem thân thể là ta. Quý vị thử công phu này xem, quý vị có làm được không. Nếu có thể làm được công phu này, thì không khó đoạn bốn loại Kiến hoặc khác. Biên kiến, Biên kiến là đối lập, buông xuống đối lập, thì hài hòa hiện tiền, Lục Hòa Kính mà Phật pháp nói liền viên mãn. Giới thủ kiến, Kiến thủ kiến: kết hợp hai loại này lại, người nước ta gọi là Thành kiến, cho mình là đúng, Thành kiến của người nào đó rất sâu, không dễ tiếp nhận giáo huấn của Thánh Hiền. Loại cuối cùng là Tà kiến. Buông xuống năm loại này, đều đoạn sạch sẽ, thì chứng quả Tu-đà-hoàn, Sơ quả Tiểu thừa. Quý vị biết khó biết bao!

Ngày nay chúng ta gặp được Pháp môn này, rất đặc biệt thật đáng vui mừng, quá khó được, chúng ta đã gặp rồi. Gặp Pháp môn này, tu học Pháp môn này dễ dàng, nhưng tin khó, rất khó. Thanh văn, Duyên giác không tin, Tam thừa Bồ-tát không tin, ngay cả Thật giáo Bồ-tát: cũng không tin lắm, chư Phật Như Lai gọi đây là pháp khó tin. Khó tin tại sao chúng ta có thể tin được? Câu trả lời này đã được Phật nói trên kinh, chúng ta là do thiện căn tích lũy được trong đời quá khứ vô lượng kiếp đến nay bao đời bao kiếp tu học Pháp môn này, vả lại còn được sự gia trì của chư Phật Như Lai. Những chư Phật Như Lai ấy, trong quá khứ chúng ta đều đã từng lễ bái quý Ngài, đều đã từng theo quý Ngài học tập, đều đã từng cúng dường quý Ngài, bởi công đức cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai ấy gia trì, nên đời này gặp được có thể tin. Niềm tin kiên định, mong muốn vãng sanh, nhất hướng chuyên niệm, thì đời này thành tựu, chẳng thể không biết điều này. Nếu buông xuống Pháp môn này, học các Pháp môn khác, đó chính là tu tích chút thiện căn, đời này không thể thành tựu. Đây là lời thành thật. Hãy thử xem, đoạn hết Tập khí Phiền não, thì quý vị biết điều đó rất khó.

Nên quý ngài nương nhờ đạo của Chân Như để thành Chánh Giác, giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Chân Như không có hiện tượng, Tánh và Tướng nhất như, chỉ có khế nhập cảnh giới ấy thì quý Ngài hiểu rõ. Lục đạo phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Quyền giáo Bồ-tát đều không biết, toàn là mê rồi. Chân Như ở đâu? Chân Như không đâu không có, Chân Như là Bản thể của tất cả pháp. Chúng ta học tập thường hay dùng màn hình TV để làm ví dụ, màn hình của TV giống như là Chân Như, tướng hiện trong màn hình, đó chính là Nhất chân Pháp giới, Thập pháp giới, Lục đạo Luân hồi, đó là hình ảnh. Hình ảnh không rời khỏi màn hình, màn hình không tách khỏi hình ảnh, khi chúng ta nhìn vào hình ảnh, chân và vọng là một thể. Nhưng người biết xem thì nhìn thấy chân, chân tướng chính là màn hình, trên màn hình không có gì cả, tướng hiện ra là giả tướng, sát-na sanh diệt. Tần số sanh diệt, chính là lời của Bồ-tát Di Lặc nói, một búng tay, 320 ngàn tỷ lần sanh diệt. Một giây chúng ta có thể búng mấy lần? Có người nói với tôi, có thể búng bảy lần, tôi tin tưởng, lại nhân cho bảy, là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, trong một giây. Một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, làm sao chúng ta biết được? Một giây 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, sanh diệt nào là tôi vậy? Không thể được, hoàn toàn không có sự hiện hữu của tôi. Tướng tương tục, hiện tượng chúng ta thấy tất cả đều là tướng tương tục, chúng ta không biết tướng tương tục, cho rằng đó là thật. Tương tục là tương tự liên tục, không phải là hoàn toàn, chính là một ý niệm này, tướng hiện trong đó, tướng hiện là cả vũ trụ, ý niệm thứ hai cũng là cả vũ trụ, nhưng tướng thứ nhất và tướng thứ hai cũng không hoàn toàn giống nhau, giống nhiều khác ít. Cách nhìn của tôi là giống ít khác nhiều, đó là thật, không phải giả, niệm niệm không thể đạt được. Nên ở trên Kinh Kim Cang, Phật mới nói với chúng ta, 「凡所有相皆是虛妄」、「一切有為法,如夢幻泡影」“những gì có tướng đều là hư vọng”, “tất cả pháp hữu vi, như mộng ảo bọt bóng”. Pháp hữu vi chính là hiện tướng mà chúng ta đối mặt hiện nay, hiện tướng từ đâu đến vậy? Là do Tự Tánh của chúng ta biến hiện ra. Tự Tánh của chúng ta có Biệt nghiệp có Cộng nghiệp, Biệt nghiệp Cộng nghiệp vốn là thông nhau, bởi vì hiện nay chúng ta có Chấp trước, có Phân biệt, nên không thông nhau nữa. Buông xuống Phân biệt Chấp trước, tự nhiên liền thông rồi, trí huệ được mở ra, ít nhất đã nhìn thấy một nửa Thật tướng Các pháp. Còn một nửa cần phải đến quả vị Diệu Giác Như Lai, mới hoàn toàn thông đạt, nên đó gọi là Như Lai.

Tiếp theo lại còn một ý nghĩa, 又如諸佛安穩道來,此佛亦如是來,更不去後有中,故名如來 “hựu như chư Phật an ổn đạo lai, thử Phật diệc như thị lai, cánh bất khứ hậu hữu trung, cố danh Như Lai” (thêm nữa như chư Phật đến từ đạo an ổn, Phật nay cũng đến như thế, không đi vào trong Hậu hữu nữa, nên gọi là Như Lai). Hậu hữu là hiện tượng của Lục đạo Luân hồi, không đi vào Hậu hữu nữa, quý Ngài không ở trong luân hồi, quý Ngài xa rời rồi, vậy gọi là Như Lai. Ý nghĩa thứ ba, đây đều là lời Phật thường nói trên kinh, 如諸佛而來,故名如來 “như chư Phật nhi lai, cố danh Như Lai” (như chư Phật mà đến, nên gọi là Như Lai). Phật nay giống như cổ Phật tái lai, câu nói này là lời thật. Hiện nay chúng ta có thể lãnh hội được, Tự Tánh luôn luôn cảm ứng, chúng sanh có cảm thì Tự Tánh tự nhiên có ứng. Người cảm có ý niệm, cũng tức là nói có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt Chấp trước; còn người ứng không có, chẳng những không có Khởi tâm Động niệm, mà cũng không có Phân biệt Chấp trước. Vì vậy gọi là nương nhờ như thật đạo mà đến ứng, nên dùng thân gì độ được liền hiện thân ấy, được tự tại, không có chút chướng ngại gì, giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng sanh, đưa chúng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đây là công đức viên mãn. Có khởi tâm động niệm hay không? Không có, khởi tâm động niệm còn không có, thì ở đâu ra phân biệt chấp trước? Sanh khởi của các pháp, thứ nhất là khởi tâm động niệm, từ khởi tâm động niệm sanh tâm phân biệt, từ trong tâm phân biệt sanh tâm chấp trước, thứ sau nghiêm trọng hơn thứ trước. Trong pháp thế gian không có cách nói như vậy, duy nhất mỗi Phật có, nên Phật nhất định phải xuất hiện ở thế gian. Nếu có người thật giảng được giống như Phật, thì Phật cớ gì phải nhiều việc như vậy, sẽ không cần phải ứng nữa. Chỉ có Phật giảng được rõ ràng, giảng rất sáng tỏ, ngoài Phật ra thì không ai có thể nói thấu triệt hoàn toàn, nói tường tận được. Ẩn hiển của Phật là tự tại, tuy có ẩn hiển, nhưng không có khởi tâm động niệm, nhất định phải biết điều này, nên gọi là Như Lai.

又《合贊》曰:《涅槃梵行品》曰:云何名如來?如過去諸佛所說不變。云何不變?過去諸佛為度眾生說十二部經,如來亦爾,故名如來。 “Hựu Hợp Tán viết: Niết Bàn Phạm Hạnh Phẩm viết: Vân hà danh Như Lai? Như quá khứ chư Phật sở thuyết bất biến. Vân hà bất biến? Quá khứ chư Phật vị độ chúng sanh thuyết thập nhị bộ kinh, Như Lai diệc nhĩ, cố danh Như Lai” (Lại nữa trong Hợp Tán nói: Phẩm Phạm Hạnh của Kinh Niết Bàn ghi: Thế nào là Như Lai? Là không thay đổi với những gì chư Phật quá khứ đã nói. Những gì không thay đổi? Chư Phật quá khứ vì độ chúng sanh mà thuyết 12 bộ kinh, Như Lai cũng vậy, nên gọi là Như Lai). 12 bộ kinh, là nói Phật thuyết kinh sử dụng tổng cộng 12 thể loại khác nhau, giống như trường hàng, kệ tụng, đây là khác biệt về trên mặt văn tự, do đó 12 bộ kinh đại biểu tất cả kinh giáo của cả đời đức Phật đã thuyết. Đức Phật đến thế gian là để thuyết pháp, chẳng thể không biết điều này. Các đồng học đã xuất gia, vì sao xuất gia? Xuất gia vì giáo hóa tất cả chúng sanh mà thuyết pháp, vậy thì đúng rồi. Có vị Phật nào mà không thuyết pháp, có vị Bồ-tát nào mà không thuyết pháp, có vị A-la-hán nào mà không thuyết pháp? Tìm không thấy. Những ngài ấy đến thế gian: chính là một sứ mạng, một nguyện vọng: giúp tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, đây là bản hoài của Phật, đây là bản nguyện của Phật, khiến tất cả chúng sanh rời khổ được vui. Dùng phương pháp gì để giúp chúng sanh rời khổ được vui? Giáo học. Hiện nay chúng ta gọi là dạy học, lời trên kinh Phật gọi là thuyết pháp, 今現在說法 “kim hiện tại thuyết pháp” (nay thị hiện đang thuyết pháp). Bất luận là Đại thừa Tiểu thừa, Hiển giáo Mật giáo, Tông môn Giáo hạ, chỉ là phương pháp giáo học khác nhau, tất cả đều đang thuyết pháp. Hoặc là ngôn giáo, hoặc là thân hành, thân thể làm ra tấm gương cho họ thấy, giúp họ giác ngộ, khi họ đến hỏi, nói rõ ràng, nói tường tận cho họ, thân hành ngôn giáo. Chư Phật Như Lai bao gồm A-la-hán, quý Ngài có nỗi khổ không? Quý vị nghĩ xem có hay không? Đáp án là không. Vậy tại sao không? Bởi quý Ngài không có Thân kiến. Chúng ta có khổ, vì sao? Bởi có thân, chấp trước thứ này là thân, vậy mới có khổ. Quý Ngài không có thân, không có thân thì lấy đâu ra khổ? Nên quý Ngài không có khổ. Quý vị đừng thấy lão Hòa thượng Hải Hiền dường như cả đời rất vất vả, nhưng một chút khổ ngài cũng không có, phá Thân kiến rồi. Nên mỗi ngày ngài hoan hỷ như thế, vui vẻ như vậy, đó là thật, không phải là giả. Còn có khổ đau, còn có mệt nhọc, đó đều là bởi vì có thân, chưa phá Thân kiến. Nếu phá Thân kiến rồi, thì không biết mệt nhọc, tất cả những phiền não bệnh tật đau khổ này không còn nữa. Nên nay Phật đến rồi, Bồ-tát đến rồi, cũng như vậy, xưng quý Ngài là Như Lai.

又《會疏》曰:如來義有三:謂法身、報身、應身 “Hựu Hội Sớ viết: Như Lai nghĩa hữu tam: vị Pháp thân, Báo thân, Ứng thân” (Thêm nữa trong Hội Sớ nói: nghĩa của Như Lai có ba: là Pháp thân, Báo thân, Ứng thân), tất cả là Như Lai. Có hiện tượng này, có sự thật này, nhất định hãy nhớ, bất kể là Ứng thân, Báo thân, Pháp thân, đều không có khởi tâm động niệm, diệu là diệu ở đây. Quý Ngài nói quý Ngài khởi tâm động niệm, đó là biểu diễn trên sân khấu, cho những người chúng ta đây xem mà thôi. Nếu quý Ngài nói với chúng ta tướng chân thật, thì chúng ta không dám tin rằng: đời này tôi sẽ thành Phật. Tại sao vậy? Bởi nhìn thấy quý Ngài tu hành nhiều đời nhiều kiếp mới thành công, tôi không có tu hành như vậy thì làm sao thành công được? Nên quý Ngài hiện thân cho chúng ta, thuyết pháp cho chúng ta, nhất định cần thuận theo căn tánh của chúng ta, chúng ta là Thượng thượng căn, thì quý Ngài dùng pháp Thượng thượng; chúng ta là căn tánh bình thường, thì quý Ngài dùng pháp bình thường; chúng ta là Hạ căn, thì quý Ngài dùng pháp thấp. Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, chúng ta là trình độ Tiểu học, thì Phật là thầy của Tiểu học; chúng ta là trình độ Trung học, thì Phật là thầy của Trung học; chúng ta là trình độ của Viện nghiên cứu, thì Phật là thầy của lớp Tiến sĩ. Chúng ta có Phân biệt, quý Ngài không có Phân biệt, chúng ta có khởi tâm động niệm, quý Ngài không có khởi tâm động niệm.

Tiếp theo trong Kinh Kim Cang nói rất hay, 《金剛經》云:無所從來,亦無所去。此法身如來也 “Kim Cang Kinh vân: vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ. Thử Pháp thân Như Lai dã” (Trong Kinh Kim Cang nói: Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Đây là Pháp thân Như Lai). Pháp thân ở đâu? Pháp thân khắp ở mọi nơi, Pháp thân khắp ở mọi lúc. Vì vậy hiện thân thuyết pháp là đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận, đều ở ngay trước mắt, không có quá khứ vị lai, không có cõi này phương khác, cũng chính là nói thời gian không gian đều không còn nữa, vào ngay lúc này. Đây là nói lời thật, chứ không phải là lời giả.

Tiếp theo trong Luận Chuyển Pháp Luân nói, 第一義諦名如,正覺名來。此報身如來也 “Đệ nhất Nghĩa đế danh Như, Chánh Giác danh Lai. Thử Báo thân Như Lai dã” (Đệ nhất Nghĩa đế gọi là Như, Chánh Giác gọi là Lai. Đây là Báo thân Như Lai). Báo thân Như Lai ở chỗ nào? Đến Thế giới Cực Lạc thì thấy được thôi. Thế giới Cực Lạc, chúng ta ở Đồng Cư độ, Phương Tiện độ, Thật Báo độ, những gì thấy được về A Mi Đà Phật, tất cả đều là Báo thân Như Lai, chúng ta có cơ hội có thể thấy được. Quý vị xem, Đệ nhất Nghĩa đế gọi là Như, đế là chân thật, chân thật bậc nhất, không phải là bậc hai, hoàn toàn là nói về Tự Tánh. Tự Tánh là Đệ nhất Nghĩa đế, có thể sanh vạn pháp, có hai có ba thì không thể sanh, một quá quan trọng rồi, thâm nhập một môn, một hướng chuyên niệm. Chúng ta có thể giữ vững một, một này là nhậm nhất, không phải là độc nhất, bất kỳ một Pháp môn nào, quý vị có thể giữ vững, cả đời giữ vững không thay đổi, thì chẳng ai mà không thành tựu. Thành tựu này là gì? Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ. Đây gọi là Như, Đệ nhất Nghĩa đế là Như. Chánh Giác gọi là Lai, giác ngộ của quý Ngài là chính xác, không có sai lầm. Tại vì sao? Bởi hoàn toàn là vốn có trong Tự Tánh, không phải học từ bên ngoài, tri thức học được bên ngoài, không gọi là trí huệ, đây là Bản tánh, trí huệ vốn đầy đủ hiện tiền. Nên đây là Báo thân Như Lai, thấy được ở Thế giới Cực Lạc.

Tiếp theo dẫn Luận Thành Thật, đây là kinh Tiểu thừa, 乘如實道來成正覺,故名如來。此應身如來也 “thừa Như thật đạo lai thành Chánh Giác, cố danh Như Lai. Thử Ứng thân Như Lai dã” (Nương nhờ Như thật đạo để thành Chánh Giác, nên gọi là Như Lai. Đây là Ứng thân Như Lai). Những gì đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, là cảnh giới này, nương nhờ Như thật đạo. Như thật đạo chính là Đệ nhất Nghĩa đế, Như thật đạo chính là Pháp thân, từ Pháp thân biến hiện ra Ứng thân, Ứng hóa thân. Chư Bồ-tát cũng như vậy, Bồ-tát ở Thật Báo độ, chúng sanh hữu duyên có cảm với quý ngài thì quý ngài liền có ứng, quý ngài từ Thật Báo độ đến, là tướng Ứng hóa thân đến giáo hóa chúng sanh. Thời gian trụ thế dài hay ngắn hoàn toàn là cảm ứng, thời gian chúng sanh cảm ứng dài, thì quý ngài trụ thế thời gian dài; chúng sanh học một giai đoạn không kiên nhẫn được, không muốn học nữa, thì quý ngài ra đi, thị hiện diệt độ. Nên năm xưa đức Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế 80 năm, thông thường chúng ta nói 80 tuổi Ngài viên tịch. Khi đức Thế Tôn xuất hiện ở đời đã nói với chúng ta, thọ mạng người lúc đó bình quân là 100 tuổi, Ngài ra đi sớm hơn, 80 tuổi đã ra đi rồi. Đáng nên được độ (chính là căn cơ cảm ứng tương ưng), hễ là chúng sanh chín muồi thì đều thành tựu, chí ít cũng là A-la-hán. Chứng được A-la-hán, chứng được Bồ-tát, phần lớn, chúng sanh thiện căn chín muồi, đều vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, việc độ hóa này của Ngài viên mãn, giai đoạn này viên mãn rồi, thì thị hiện vào Bát Niết Bàn. Đó là Ứng thân Như Lai.

又天臺《壽量品疏》 “Hựu Thiên Thai Thọ Lượng Phẩm Sớ” (Còn Thọ Lượng Phẩm Sớ của ngài Thiên Thai), Thiên Thai là Đại sư Trí Giả, đối với tôn xưng của Đại sư không xưng danh, cũng không xưng tên tự, cũng không xưng tên hiệu của ngài, mà xưng nơi của ngài cư trú, ngài sống ở núi Thiên Thai. 壽量品 “Thọ Lượng Phẩm” (Phẩm Thọ Lượng) là một phẩm trong Kinh Pháp Hoa, ngài có Pháp Hoa Kinh Văn Cú, chính là Chú Giải về Kinh Pháp Hoa, do Đại sư Trí Giả làm, hiện nay lưu ở trong Đại Tạng Kinh. Trong Thọ Lượng Phẩm Sớ có nói, 如者,法如如境,非因非果,有佛無佛性相常然。遍一切處而無有異為如 “Như giả, pháp như như cảnh, phi nhân phi quả, hữu Phật vô Phật tánh tướng thường nhiên. Biến nhất thiết xứ nhi vô hữu dị vi Như” (Như là pháp như như cảnh, không có nhân không có quả, có Phật hay không có Phật thì tánh tướng vẫn thường hằng như thế. Khắp ở mọi nơi mà không có khác biệt là Như). Ở đây giải thích rất rõ ràng, thế nào là Như? Pháp như như cảnh, như như chính là như thế đó, như thế đó là từ trong Tự Tánh lưu xuất ra, không có nhân quả, không có sanh diệt. Phải nói thế nào về điều này? Chúng ta mới có được một khái niệm. Nhất định phải hiểu được lời của Bồ-tát Di Lặc, 一彈指三十二億百千念 “nhất đàn chỉ tam thập nhị ức bá thiên niệm(một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm). Một búng tay này, cũng chính là 32 ức trăm ngàn chúng ta nhân ra, là 320 ngàn tỷ. Một búng tay có 320 ngàn tỷ ý niệm, mỗi một ý niệm đều hiện tướng, hiện cả vũ trụ, toàn thể vũ trụ, không phải là hiện bộ phận. Giống như chúng ta xem đoạn phim của điện ảnh, mỗi hình ảnh phim đèn chiếu đều là tương ưng với toàn bộ màn hình, không phải là một nửa, không phải là một phần. Mỗi một ý niệm đều là một vũ trụ hoàn chỉnh, nhưng bên trong mỗi một ý niệm, vũ trụ đó cũng không hoàn toàn tương đồng. Chúng ta nhìn thấy phạm vi rất nhỏ, hình như là giống nhau, hôm nay và hôm qua không có thay đổi gì, quý vị nhìn cả địa cầu cũng không giống nhau, quý vị nhìn tiếp hệ Ngân Hà thì càng khác, rồi nhìn Đại thiên Thế giới thì sự khác biệt quá lớn. Nên tôi nói là đại dị tiểu đồng, không phải là đại đồng tiểu dị, mà đại dị tiểu đồng, đây là thật, không giả chút nào, chúng ta mới có thể xem hiểu được ý nghĩa này. Pháp như như cảnh, cảnh giới này chính là như vậy, không có nhân quả, đó là do ý niệm biến hiện ra. Vả lại thời gian quá ngắn, trong một giây, một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, thì chúng ta hoàn toàn không cách nào tưởng tượng. Bởi vì chúng ta vừa khởi một ý niệm đã có 2 triệu 100 ngàn tỷ dao động, một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, quý vị xem nhanh biết bao. Mỗi một hiện tượng dao động sóng là một vũ trụ, là nguyên vẹn, mỗi ý niệm đều khác nhau, tạo thành bức tranh hiện tại đây. Chúng ta sống trong đó, nhưng hoàn toàn không biết, không phải là Phật dùng thiện xảo phương tiện này giải thích cho chúng ta, mà chúng ta không thể tin tưởng. Nếu ngày nay không có nhà khoa học làm chứng minh cho chúng ta, thì tín tâm của chúng ta không vững chắc, vẫn còn nghi ngờ, bởi không phải là cảnh giới của chúng ta.

Hôm nay tôi xem bản báo cáo khoa học, máy ảnh Nano: có thể chụp được một phần ngàn vạn giây, hiện tượng ngắn như vậy mà có thể chụp được. Nên tôi tin rằng, mười năm sau, chứ không phải đến 20 năm, bí ẩn thứ hai của vũ trụ sẽ được nhà khoa học vạch trần, đó chính là ý niệm là gì? Vật chất là gì thì đã sáng tỏ rồi, là không sai chút nào với trên kinh Phật. Hiện nay điều thứ hai, ý niệm là gì? Vật chất là do ý niệm biến hiện, vậy ý niệm là thế nào? Nhà khoa học có mười năm nỗ lực nữa, chắc là có thể làm rõ ràng. Ở trên kinh, Phật nói với chúng ta, phàm phu chúng ta dùng Ý thức thứ sáu, cao nhất của Ý thức thứ sáu, đối với bên ngoài có thể hiểu rõ cả vũ trụ, với bên trong có thể duyên được A-lại-da, Tam tế tướng của A-lại-da, là Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới tướng, chứ duyên không được Tự Tánh. Cũng chính là nói, họ không thể Minh tâm Kiến tánh, nếu họ Minh tâm Kiến tánh, thì họ là Phật Bồ-tát, họ chỉ là một nhà khoa học, hiểu rõ chân tướng sự thật, nhưng không được thọ dụng. Người học Phật không dùng thiết bị khoa học, mà dùng công phu Thiền định, dùng công phu buông xuống. Buông xuống triệt để, người ở trong Thiền định, có thể chứng được Bát-nhã, trí huệ, đức tướng vốn có trong Tự Tánh, giống như Kinh Hoa Nghiêm đã nói. Phật pháp là dạy chúng ta đích thân chứng được, được thọ dụng, thọ dụng chính là: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát. Giải thoát là đại tự tại, không có chướng ngại, trong khắp pháp giới hư không giới, mọi lúc mọi nơi đều có thể hiện thân. Hiện thân vẫn là không có khởi tâm động niệm, đối phương khởi tâm động niệm, thuận theo ý niệm của đối phương hiện thân thuyết pháp, không thuận theo chính mình, tùy thuận chính mình không có ý niệm, thật tuyệt vời, diệu đến tột cùng! Vì vậy Ứng hóa thân, giống như đức Thích Ca Mâu Ni, đó là tấm gương tốt, Ngài không có nhân quả, Ngài không tạo nghiệp. Chúng ta có nhân có quả, có nhân có quả là tạo nghiệp. Nếu không có nhân quả, thì không tạo nghiệp.

Tiếp theo nói, 有佛無佛性相常然 “hữu Phật vô Phật tánh tướng thường nhiên” (có Phật hay không có Phật thì tánh tướng vẫn thường hằng như vậy), có Phật là hiện, không có Phật là ẩn, ẩn hiện nhất như, tánh tướng không hai, thường hằng như vậy, đó chính là như thế. 遍一切處而無有異為如,不動而至為來 “Biến nhất thiết xứ nhi vô hữu dị vi Như, bất động nhi chí vi Lai” (Khắp ở mọi nơi mà không có khác biệt là Như, bất động mà đến là Lai), Ngài đến hiện thân, là “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, vậy gọi là Lai. Đây là Đại sư Trí Giả giải thích về Như Lai cho chúng ta trong Kinh Pháp Hoa, nói rất hay! 指此為法身如來也 “Chỉ thử vi Pháp thân Như Lai dã”(Chỉ ra đây là Pháp thân Như Lai). 蓋佛有法、報、化三身,故如來之釋亦有法、報、應(即化)之異“Cái Phật hữu Pháp, Báo, Hóa tam thân, cố Như Lai chi thích diệc hữu Pháp, Báo, Ứng (tức Hóa) chi dị” (Bởi vì Phật có ba thân: Pháp, Báo, Hóa, nên giải thích Như Lai cũng có sự khác nhau về Pháp, Báo, Ứng(tức Hóa thân)). Ứng chính là Hóa thân. 具如《會疏》所釋 “Cụ như Hội Sớ sở thích” (Giải thích đầy đủ như trong Hội Sớ), Hội Sớ là Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ của Đại sư Tịnh tông Nhật Bản, ngài nói, 一、無來去者為法身 “nhất, vô lai khứ giả vi Pháp thân” (Một, không đến đi là Pháp thân). Pháp thân không có đến đi, chỗ cần liền hiện ra, tùy chỗ mà diệt đi, đây là Pháp thân. 二、正覺於第一義諦、真如實相如是而來,是為報身“Nhị, Chánh Giác ư Đệ nhất Nghĩa đế, Chân Như Thật tướng như thị nhi lai, thị vi Báo thân” (Hai, Chánh Giác từ Đệ nhất Nghĩa đế, Chân Như Thật tướng như thế mà đến, đó là Báo thân). Ngài từ đâu tới? Ngài đến từ Thật Báo độ. 三、乘真如實相之道而成正覺,如是而來,是為應身 “Tam, thừa Chân Như Thật tướng chi đạo nhi thành Chánh Giác, như thị nhi lai, thị vi Ứng thân” (Ba, nương nhờ đạo Chân Như Thật tướng mà thành Chánh Giác, như thế mà đến, đó là Ứng thân). Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên địa cầu của chúng ta, là Ứng thân Như Lai. 諸釋皆可依《會疏》之說,而知其意“Chư thích giai khả y Hội Sớ chi thuyết, nhi tri kỳ ý” (Các giải thích đều có thể căn cứ vào cách nói của Hội Sớ, mà biết ý nghĩa ấy). Những cách giải thích trên đây đều có thể căn cứ vào Hội Sớ, là ba loại của Hội Sớ nói, thì chúng ta hiểu rõ khái niệm về danh tướng này, đó là do Tự Tánh lưu lộ ra.

Tự Tánh tùy duyên không dao động, duyên có thắng có liệt, thù thắng nhất là Pháp thân Bồ-tát của Thật Báo độ. Điều này nhất định giống như A Mi Đà Như Lai, thân hiện ra ở Thế giới Cực Lạc: là từ trong Thường Tịch Quang lưu lộ ra. Thường Tịch Quang chính là Chân Như, Thường Tịch Quang chính là Thật tướng, Thường Tịch Quang là Lý thể của tất cả pháp, trong đó có trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn, tất cả chúng sanh ai ai cũng giống nhau, không có ngoại lệ, nên chúng sanh và Phật bình đẳng. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, có một chút khái niệm này, đối với Thế giới Cực Lạc, 48 nguyện, đại trí đại đức đại năng của A Mi Đà Phật: có thể sanh khởi tín tâm, không còn hoài nghi nữa. Nếu có hoài nghi thì làm sao đây? Nhất định phải đoạn hết nghi, tại sao vậy? Bởi nghi sẽ chướng ngại chúng ta vãng sanh. Phương pháp đoạn nghi sanh tín không gì hơn kinh giáo. Có người giảng kinh giáo, tốt; nếu không có người giảng, thì đọc, đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách, chính mình thấy được ý nghĩa, thì không còn chướng ngại nữa. Đây là ý nghĩa của đức hiệu thứ nhất.

Xem tiếp thứ hai là, 應供 “Ứng Cúng”. Đại Luận là Luận Đại Trí Độ, trong Luận Đại Trí Độ nói, 佛諸結使除盡“Phật chư Kiết sử trừ tận” (Phật đã trừ sạch hết các Kiết sử), dùng lời khoa học hiện nay của chúng ta để nói, trở về Điểm Năng Lượng Điểm 0, Điểm Năng Lượng Điểm 0 chính là Chân Như Tự Tánh. Kiết sử là danh từ thay cho Phiền não, nếu đem những Phiền não này, nói tóm lại, thì không ngoài những điều chúng ta đã nói ở phía trước, Khởi tâm Động niệm là Vô minh Phiền não, Phân biệt là Trần sa Phiền não, Chấp trước là Kiến tư Phiền não, phiền não vô lượng vô biên, quy nạp lại chỉ trong ba loại lớn này. Người thật sự tu hành, chính là ngay trong Cảnh giới tướng hiện tiền, buông xuống phiền não. Mắt thấy sắc không khởi tâm không động niệm, đây là cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, nếu quý vị đến Thế giới Cực Lạc, thì nhất định sanh Thật Báo độ. Nếu như không thể, họ vẫn còn khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đó là Bồ-tát, thì sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Nếu đều có vọng tưởng phân biệt chấp trước, đó là Lục đạo phàm phu, thì sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ. Nhưng nhất định chúng ta phải biết, không thể xem thường Phàm Thánh Đồng Cư độ của Thế giới Cực Lạc. Tại sao vậy? Bởi tuy là Hạ hạ phẩm vãng sanh, nhưng đến Thế giới Cực Lạc được oai thần bản nguyện (tức là 48 nguyện) của A Mi Đà Phật gia trì, đều làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Câu này thật tuyệt vời! Tuy địa vị của quý vị không cao, nhưng trí huệ thần thông đạo lực của quý vị không khác với Pháp thân Bồ-tát. Không phải là do quý vị chứng được, mà A Mi Đà Phật gia trì quý vị, gia trì hữu dụng, chẳng phải là không có tác dụng. Nên quý vị liền có khả năng: đến tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương, chúng sanh có duyên với quý vị, quý vị giống như Pháp thân Bồ-tát, có thể hiện thân thuyết pháp để độ họ, có năng lực này. Có năng lực đến mười phương thế giới để bái Phật, nhất định Phật sẽ tiếp nhận quý vị, quý vị là học trò của A Mi Đà Phật, chư Phật nhìn thấy đều có vài phần kính trọng, đặc biệt hoan hỷ. Quý vị cúng Phật tu phước, nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Tất cả cõi nước chư Phật khắp pháp giới hư không giới, muốn đi liền đi, muốn trở về thì trở về, được đại tự tại. Đây là điều chúng ta tìm trong mơ mà tìm không được, đến Thế giới Cực Lạc thì tâm tưởng sự thành, nên chẳng thể không đi. Phật đã đoạn hết tất cả Phiền não rồi, 得一切智慧 “đắc nhất thiết trí huệ” (được tất cả trí huệ), trí huệ viên mãn, không gì không biết, không gì không thể, đây không phải là lời khen ngợi, mà đây là chân tướng sự thật, 故應受一切天地眾生供養。以是故佛名應供 “cố ưng thọ nhất thiết thiên địa chúng sanh cúng dường. Dĩ thị cố Phật danh Ứng Cúng” (cho nên xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của tất cả chúng sanh trong trời đất. Do đó Phật gọi là Ứng Cúng). Ứng Cúng chính là xứng đáng tiếp nhận sự cúng dường, tại sao vậy? Bởi trồng phước cho chúng sanh. Chúng sanh không có phước, đến đâu để tu phước? Cúng dường Tam Bảo là đại phước báo, chẳng thể không biết điểm này. Vì vậy vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, mỗi ngày phước huệ tu ở thế gian của chúng ta đây: vô lượng kiếp cũng không làm được, ở Thế giới Cực Lạc ngày ngày làm được. Chúng ta làm cho rõ ràng, làm sáng tỏ đối với chân tướng sự thật này, thì không mê muội nữa, thật sự có thể phát tâm, vãng sanh sớm một ngày, thì thành tựu sớm một ngày. Vãng sanh chính là thành tựu, dựa điều gì để thành tựu? Là dựa vào điều này, phước huệ song tu. Ở Thế giới này thì ngày nào mới có thể viên mãn? Ở Thế giới Cực Lạc mỗi ngày đều viên mãn.

又《淨影疏》曰 “Hựu Tịnh Ảnh Sớ viết” (Lại nữa, Tịnh Ảnh Sớ nói), đây là Pháp sư của nước chúng ta, Pháp sư Huệ Viễn ở chùa Tịnh Ảnh vào thời đại nhà Tùy, ngài có Chú Giải cho Kinh Vô Lượng Thọ, gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ. Ngài nói, 證滅相應,故名為應 “chứng diệt tương ưng, cố danh vi Ứng” (chứng và diệt tương ưng, nên gọi là Ứng). Diệt là diệt Phiền não, chứng là chứng được Bát-nhã trí huệ vốn có trong Tự Tánh hiện tiền, Ứng có ý nghĩa này, vậy gọi là Ứng. 又證滅故,合應供養,故云應供 “Hựu chứng diệt cố, hiệp ứng cúng dường, cố vân Ứng Cúng” (Thêm nữa do sự chứng diệt, nên xứng đáng cúng dường, vì vậy nói là Ứng Cúng). Bởi vì Ngài có chứng, Ngài có diệt, chứng chính là trí huệ đức năng tướng hảo trong Tự Tánh tự tại hiện tiền; còn diệt, là diệt ba loại Phiền não, Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước thảy đều diệt hết, lúc ấy xứng đáng đón nhận sự cúng dường. Cúng dường Như Lai được vô lượng vô biên phước báo, chẳng thể không biết, nên gọi là Ứng Cúng. 又《會疏》曰:萬行圓成,福慧具足 “Hựu Hội Sớ viết: vạn hạnh viên thành, phước huệ cụ túc” (Còn Hội Sớ nói: vạn hạnh viên mãn thành tựu, phước huệ đầy đủ), ý nghĩa không khác với ở trên, phía trên nói chứng diệt tương ưng, ở đây nói vạn hạnh viên thành, viên mãn thành tựu, phước huệ đầy đủ, đầy đủ cũng có nghĩa là viên mãn, 應受天上人間供養,饒益有情,故號應供 “ứng thọ thiên thượng nhân gian cúng dường, nhiêu ích Hữu tình, cố hiệu Ứng Cúng” (xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trên trời và nhân gian, lợi ích Hữu tình, nên hiệu là Ứng Cúng). Ở Trung Hoa, mỗi năm các ngôi chùa lớn, có tổ chức cúng dường chư Tăng, bữa cơm chay của thiên Tăng, cúng dường 1000 người xuất gia, thỉnh quý ngài đến ứng cúng, tức là mời quý ngài ăn cơm vào buổi trưa. Trong 1000 người đó, rất có thể, nếu trong nhà người tu cúng dường chân thành, như lý như pháp, sẽ có Phật Bồ-tát, A-la-hán đến ứng cúng. Người cúng trai nên xem mỗi người xuất gia đến ứng cúng: đều như chân Phật, chân Bồ-tát, thì công đức này thù thắng không gì bằng.

Tiếp theo đức hiệu thứ ba, 等正覺,梵語三藐三菩提 “Đẳng Chánh Giác, Phạn ngữ Tam-miệu Tam-bồ-đề” (Đẳng Chánh Giác, tiếng Phạn là Tam-miệu Tam-bồ-đề), đây hoàn toàn là dịch âm, nói đầy đủ là, 阿耨多羅三藐三菩提 “A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. A dịch sang ý nghĩa của nước ta là Vô, 耨多羅為上 “Nậu-da-la vi thượng” (Nậu-đa-la là thượng), như vậy A-nậu-Đa-la là Vô thượng, Tam dịch thành Chánh, Miệu dịch thành Đẳng, Bồ-đề dịch thành Giác, Đẳng Chánh Giác chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nên Đẳng Chánh Giác chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 菩薩因行圓滿而成等正覺 “Bồ-tát nhân hạnh viên mãn nhi thành Đẳng Chánh Giác” (Nhân hạnh của Bồ-tát viên mãn nên thành Đẳng Chánh Giác), Bồ-tát ở nhân địa, Phật là thành quả rồi, nên Phật ở trong quả địa, nhân hạnh của Bồ-tát tu [được] viên mãn, thì quý ngài thành Phật, thành Đẳng Chánh Giác là thành Phật. 舊譯 “Cựu dịch” (Cựu dịch), cựu và tân là vào thời nhà Đường, trước thời Đại sư Huyền Trang đều gọi là Cựu dịch, Đại sư Huyền Trang xây dựng Dịch trường, gọi là Tân dịch, cựu và tân này là cách chia như vậy. 舊譯為無上正遍知 “Cựu dịch vi Vô Thượng Chánh Biến Tri” (Cựu dịch là Vô Thượng Chánh Biến Tri), Chánh là chính xác, không có sai lầm, Biến Tri chính là điều gì cũng biết, khắp Pháp giới hư không giới không gì không biết, không gì không thể, là ý nghĩa như thế.

《維摩經肇註》 “Duy Ma Kinh Triệu Chú ”, chữ “triệu” là Đại sư Tăng Triệu, Đệ tử của Đại sư Cưu Ma La Thập, ngài nói, 阿耨多羅,秦言無上 “A-nậu-Đa-la, Tần ngôn Vô Thượng” (A-nậu-Đa-la, thời Tần gọi là Vô Thượng). Lúc đó Trung Hoa cũng là đang bị chia cắt, chữ “Tần” này chính là Diêu Tần, tức thời đại mà Đại sư Cưu Ma La Thập dịch kinh ở Trung Hoa. 三藐三菩提,秦言正遍知 “Tam-miệu Tam-bồ-đề, Tần ngôn Chánh Biến Tri” (Tam-miệu Tam-bồ-đề, thời Tần gọi là Chánh Biến Tri). Đây là Cựu dịch, dịch thành Vô Thượng Chánh Biến Tri, Đại sư Huyền Trang dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tiếng Phạn là giống nhau, mà hai vị Đại đức dịch khác nhau, nhưng trên ý nghĩa đều thông. Đại sư Tăng Triệu nói, Tam-miệu Tam-bồ-đề, thời Tần gọi là Chánh Biến Tri. 道莫之大,無上也 “Đạo mạc chi đại, Vô Thượng dã” (không gì lớn hơn đạo ấy, nên là Vô Thượng). Chữ “đạo” này là đạo của Phật đã chứng được, chính là Chân Như Tự Tánh, Chân Như Tự Tánh lớn mà không có bên ngoài, nhỏ mà không có bên trong, là Vô Thượng. 其道真正 “Kỳ đạo chân chánh” (Đạo ấy chân chánh), đạo ấy chân thật và  chính xác, 無法不知,正遍知也 “vô pháp bất tri, Chánh Biến Tri dã” (không pháp nào mà không biết, là Chánh Biến Tri). Đây chính là Bát-nhã vốn có trong Tự Tánh hiện tiền, thật sự không gì không biết, không gì không thể, nhất định không phải bởi do học. Chúng ta phải lắng tâm để thể hội điều này, thì đối với khái niệm dạy học, phương pháp dạy học của Cổ nhân, chúng ta mới có thể hoan hỷ tiếp nhận. Thí như môn học của trường học hiện nay rất nhiều, học rộng nghe nhiều; Phật pháp không phải vậy, Phật pháp dạy quý vị nhất môn, cả đời chỉ làm một môn, không thể làm hai môn, hoàn toàn trái ngược với hiện nay, chúng ta đi con đường nào? Con đường đi hiện nay là Phật học, không phải là học Phật, đều biến kinh điển của Phật thành một loại Huyền học, trở thành tri thức, thậm chí nói đó là Thần học, là một bộ phận rất có hạn trong văn hóa.

Chúng ta đã làm nhiều năm như thế, dần dần sáng tỏ, tiếp nhận rồi, bội phục năm vóc sát đất. Mục đích tu học của Phật pháp, là dạy quý vị Minh tâm Kiến tánh, Minh tâm Kiến tánh chính là thành Phật. Nên danh từ này của đức Phật, nếu dùng lời hiện nay để nói, trong nền giáo dục của đức Phật, thì đó là học vị cao nhất, không có gì cao hơn điều này nữa, giống như học vị Tiến sĩ hiện nay. Mỗi một người đều nên phải lấy được, tại sao vậy? Bởi quý vị vốn là Phật, nhưng quý vị đã mê mất Tự Tánh. Phật pháp là pháp bình đẳng, tất cả pháp đều là do Tự Tánh biến ra, nên tất cả pháp là một thể với chính mình. Tại sao không thể thành Phật? Bởi quý vị không thừa nhận, quý vị không tin chính mình là Phật, không tin chính mình có vô lượng trí huệ, không tin chính mình có vô lượng đức năng, không tin chính mình có vô lượng tướng hảo, quý vị đều không tin. Quý vị phải tin, Thế giới Cực Lạc là quê nhà của quý vị, vãng sanh Thế giới Cực Lạc là trở về quê nhà. Quê nhà của tôi đều có sẵn mọi thứ, không thiếu thứ gì, sau khi trở về quê nhà, thì quý vị mới thật sự có năng lực, có trí huệ, có đạo hạnh, để giúp chúng sanh khổ nạn trong cõi nước chư Phật ở mười phương. Quý vị biết những chúng sanh khổ nạn ấy giống như chính mình, hiện nay chính mình đã phá mê khai ngộ, còn những chúng sanh ấy vẫn đang mê, vẫn chưa biết khai ngộ. Họ có duyên với chúng ta, chúng ta có trách nhiệm: cần phải đi giúp họ, vả lại là đi giúp họ vô điều kiện, cũng giống như chư Phật Bồ-tát giúp chúng ta, là không có điều kiện nào. Chúng ta giúp người khác cũng là vô điều kiện, tâm yêu thương chân thành, vô lượng trí huệ đức năng tướng hảo, tiếp dẫn chúng sanh, thật là chẳng pháp nào mà không biết.

Câu cuối cùng 又《淨影疏》曰:正者,理也。於理窮照“hựu Tịnh Ảnh Sớ viết: Chánh giả, lý dã. Ư lý cùng chiếu” (thêm nữa, trong Tịnh Ảnh Sớ nói: Chánh là lý. Chiếu tận cùng đối với Lý thể), trong dấu ngoặc nói (tức là triệt chiếu đối với Lý thể), Lý thể chính là Tự Tánh, hoàn toàn sáng tỏ rồi, không có mê muội chút nào, 故云遍知 “cố vân Biến Tri” (nên nói là Biến Tri). Quý vị xem quý vị vừa kiến tánh, quý vị muốn biết lợi ích này, tôi dùng một môn thì kiến tánh, sau khi kiến tánh thì sáng tỏ tất cả rồi, không cần học nữa, hoàn toàn thông suốt. Tại sao vậy? Bởi đó là bản năng của quý vị, quý vị hoàn toàn trở về Tự Tánh, hoàn toàn khôi phục bản năng. Nếu quý vị không tin, thì quý vị nghiêm túc quay lại suy nghĩ xem, đức Thích Ca Mâu Ni Phật là một tấm gương tốt của chúng ta, những kinh điển mà cả đời Ngài đã thuyết, chúng ta nhìn thấy trong Đại Tạng Kinh, Ngài học từ đâu vậy, ai dạy Ngài? Không có. Tuy khi còn trẻ, 19 tuổi rời khỏi gia đình đi tham học bên ngoài, tất cả tôn giáo, tất cả học phái của Ấn Độ, Ngài đều đã học tập, hơn nữa học tập rất nghiêm túc. Học hết 12 năm, nhưng cảm thấy thế nào? Cảm thấy không có tác dụng, không thể giải quyết vấn đề, nên đã buông xuống. Dùng thuật ngữ của Phật học để nói về thị hiện ấy, 19 tuổi rời khỏi gia đình, là buông xuống Phiền não chướng, Thất tình Ngũ dục; 30 tuổi không tham học nữa, không còn học tập, buông xuống tất cả, buông xuống Sở tri chướng. Buông xuống hai chướng, Ngài nhập định dưới cây Bồ-đề, hoát nhiên đại ngộ, liền có thể giảng 12 bộ kinh cho chúng ta. Chính Ngài tự thông suốt 12 bộ kinh, chứ không có ai dạy Ngài, Ngài có thể giảng. Những ngoại đạo ấy đều nghe không hiểu, những tôn giáo, những học phái mà Ngài đã tham học trước đây, cũng không thể hoàn toàn thông suốt những điều Ngài nói. Những người đó cũng học, mà xem đó như một loại tri thức để học tập, vì sao vậy? Bởi chưa khai ngộ. Tại sao chưa khai ngộ? Bởi phương pháp chưa đúng, nhất định phải thâm nhập một môn mới sẽ khai ngộ. Cùng lúc xem qua rất nhiều môn, thì quý vị học tạp rồi, học lệch rồi, nên quý vị chỉ có thể học được tri thức, còn không có khai mở trí huệ của quý vị. Trí huệ là như thế nào? Trí huệ là khi không dùng thì tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần, khi khởi tác dụng, người khác đến hỏi, thì không có gì mà quý vị không trả lời được, vả lại đều trả lời vô cùng khéo léo, mở mang trí huệ cho người khác, điều này không giống nhau. Chúng ta cần đặc biệt chú ý đối với những chỗ này, để bồi dưỡng tín tâm của chính chúng ta, niềm tin đối với Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nhất định sẽ không gạt người, từng câu nói đều là lời thật. Lời thật chính là lời nói lưu lộ từ trong tâm chân thật, không thông qua suy nghĩ, Ngài không dùng A-lại-da, không dùng Mạt-na, không dùng Ý thức, đã chuyển tám thức thành bốn trí, Ngài dùng điều gì? Đại Viên Cảnh trí, Bình Đẳng Tánh trí, Diệu Quán Sát trí. Đại Viên Cảnh trí chính là đại giác, Bình Đẳng Tánh trí chính là do chuyển thức Mạt-na mà thành tựu, Diệu Quán Sát trí chính là tâm thanh tịnh, do chuyển Ý thức Thứ sáu mà thành tựu, chuyển A-lại-da, dùng lời trên đề Kinh để nói chính là giác; chuyển Mạt-na, là bình đẳng; chuyển Ý thức Thứ sáu, là thanh tịnh. Tự Tánh vốn tự đầy đủ, không đến từ bên ngoài.

Chúng ta phải làm hưng thịnh Phật giáo, phải từ đây mà hưng thịnh, nếu không có vài người thật sự Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì Phật pháp không hưng thịnh. Thiền mà ngài Đạt Ma truyền đến Trung Hoa, nhất định phải đến Tổ thứ sáu Đại sư Huệ Năng, ngài không biết chữ, mà Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, từ đó phát dương quang đại. Năm đời trước đều là đơn truyền, đều là truyền cho một người. Ngày nay, học tập có khó khăn nhất định, mọi người không tin những gì Phật nói, cũng xem đức Phật Thích Ca Mâu Ni như một người bình thường, trí huệ cao hơn người bình thường một chút, mà không thể thừa nhận Ngài là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, vậy thì khó rồi. Khó đến vô cùng, Phật pháp diệt hết ở thế gian này. Đây là thời kỳ Mạt pháp, 10.000 năm của Mạt pháp đã qua 1000 năm, đây là 1000 năm thứ hai, là 41 năm. Chúng ta cần phải thật làm từ phương pháp cũ này, dùng chính mình để làm thực nghiệm, tôi chỉ thâm nhập một môn. Một môn này của chúng ta, trên thực tế vẫn là hai môn, nhưng hai môn là một môn, đó chính là: một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, một câu Phật hiệu. Lấy một câu Phật hiệu làm chủ, không lấy kinh làm chủ, kinh trợ giúp, trợ tu, Phật hiệu chủ tu.

Chúng ta phát tâm giúp đỡ Thế giới khổ nạn này, chúng ta giúp bằng cách nào? Học tập Quần Thư Trị Yếu. Học tập để làm gì? Giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ, giảng thấu đáo, phụng hiến cho cư dân trên trái đất trong thời đại này, nam nữ già trẻ, các ngành các nghề. Chúng ta phụng hiến cho họ, giúp mọi người xây dựng nhận thức chung, mục đích là mong hóa giải xung đột của thế giới, thúc đẩy sự ổn định hài hòa của xã hội, mang lại cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn cho chúng sanh. Chính mình nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, không có nguyện vọng thứ hai. Tại sao? Bởi vãng sanh đến Tịnh Độ mới là rốt ráo viên mãn, chúng ta phải phát tâm như vậy, phải lập chí như thế. Quần Thư Trị Yếu thì phân tâm chúng ta một chút, không sợ, chúng ta dùng một câu Phật hiệu để bù đắp lại, khi buông xuống quyển sách, A Mi Đà Phật liền hiện tiền, không có gì đáng ngại. Sớm tối phải lạy Phật, phải niệm Phật, phải kinh hành. Kinh hành tôi nói là đi tản bộ, người hiện nay nói vận động, suy cho cùng đây là một thân thể, thân thể cần phải vận động, cần hoạt động, sống thì phải động, không động thì không sống được nữa. Lạy Phật là động, kinh hành là động, chúng ta có hai loại này là đủ rồi, hai loại vận động này là đủ rồi, thời gian càng nhiều càng tốt. Vậy đời này chúng ta không có uổng phí, buông xuống triệt để danh văn lợi dưỡng, tài sắc danh thực thuỵ của thế gian. Chúng ta dựa vào ai? A Mi Đà Phật, chư Phật Như Lai. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói hành vi cử chỉ, Phật Bồ-tát biết, Thường Tịch Quang chiếu soi rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Chúng ta thật làm, Phật thật gia trì, đây là đạo lý nhất định. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, chẳng thể không biết.

Tiếp theo thứ tư là 明行足 “Minh Hạnh Túc”. Minh thì có rất nhiều cách giải thích, ở đây nêu sơ lược mấy cách. Thứ nhất, 《大論》曰:宿命、天眼、漏盡,名為三明 “Đại Luận viết: Túc mạng, Thiên nhãn, Lậu tận, danh vi Tam minh” (Đại Luận viết: Túc mạng, Thiên nhãn, Lậu tận, gọi là Tam minh). Túc mạng là biết trong đời quá khứ của chính mình, vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp: trong luân hồi, trong Lục đạo, trong Thập pháp giới, trong hành Bồ-tát đạo, rõ ràng tất cả. Đây là gì? Người chứng được quả vị rốt ráo thì quý Ngài biết. Thứ hai Thiên nhãn, quý ngài không có chướng ngại về không gian, cũng không có chướng ngại về thời gian, có thể nhìn thấy vô lượng kiếp trong quá khứ, cũng nhìn thấy vô lượng kiếp trong vị lai. Còn Lậu tận, lậu là danh từ thay cho Phiền não, Lậu tận chính là điều chúng ta thường nói, khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước đều đã buông xuống, không còn nữa. Chẳng những không còn mà ngay Tập khí cũng không còn, gọi là chân Lậu tận. Đều là Diệu Giác Như Lai chứng được, đó gọi là Tam minh, Tam minh Lục thông. Cách nói của Hội Sớ và Tịnh Ảnh Sớ giống nhau, 均謂明即三明 “quân vị Minh tức Tam minh” (đều nói rằng Minh chính là Tam minh). Minh ở đây chính là Tam minh đã nói ở trước.

Đoạn thứ hai, 但《淨影》又謂:明是證行,證法顯了,故名為明 “đãn Tịnh Ảnh hựu vị: Minh thị chứng hạnh, chứng pháp hiển liễu, cố danh vi Minh” (Nhưng Tịnh Ảnh còn nói: Minh là chứng hạnh, chứng pháp hiển liễu, nên gọi là Minh). Ý nghĩa này là nói: minh là điều mà quý vị hiện tại chứng được, Hạnh là hành vi. Quý vị ở trong tất cả pháp, pháp ở đây chính là điều mà Đại sư Huệ Năng nói何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, vạn pháp được sanh bởi Tự Tánh, không có thứ gì mà quý vị không hiểu rõ, không có chướng ngại gì. Quý vị đối với những pháp này, về Thể Tướng Tác dụng, Nhân Duyên Quả, trên Lý trên Sự, chẳng có gì mà không thông đạt, chẳng có gì mà không sáng tỏ, vậy gọi là Minh. Ý nghĩa của Minh đây là giống với phía trước nói, nhưng nói rõ ràng hơn, nói sâu sắc hơn. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 138)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật