Responsive Menu
Add more content here...

Tập 139 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Tập 139

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 30/11/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 381, hàng thứ ba, bắt đầu xem từ câu cuối cùng:

二、但《淨影》又謂:明是證行,證法顯了,故名為明。是說較深 “Nhị, đãn Tịnh Ảnh hựu vị: Minh thị chứng hạnh, chứng pháp hiển liễu, cố danh vi Minh. Thị thuyết giảo thâm” (Hai, nhưng Tịnh Ảnh lại nói: Minh là chứng hạnh, chứng pháp hiển liễu, nên gọi là Minh. Thuyết này khá sâu). Đây là loại thứ tư trong mười loại xưng hiệu của Phật, 明行足“Minh Hạnh Túc”. Niệm lão vì chúng ta mà đã sưu tập các kinh luận, để giải thích công đức của tôn hiệu này cho chúng ta. Mười loại thông hiệu của Phật đã nói ở trước, chính là danh hiệu, mười loại thông hiệu, từ Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, những danh hiệu này đều là nói rõ: đức hạnh vốn có trong Tự Tánh của chúng ta, mười hiệu này có thể đều đã bao gồm công đức viên mãn trong Tự Tánh.

Trí huệ đức năng trong Tự Tánh không có giới hạn, chân thật là không cách nào tưởng tượng, không cách nào có thể nói ra được, nếu nói được cũng là lược thuyết, để chúng ta có khái niệm. Đến khi nào hoàn toàn hiểu rõ? Đại triệt Đại ngộ liền hiểu rõ thôi. Nền giáo dục của đức Phật là giáo dục chân thật rốt ráo viên mãn, Ngài dạy gì? Chính là dạy chúng ta phải quay về Tự Tánh. Trên kinh Đại thừa thường nói, “ngoài tâm không có pháp”, “tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh”, chỉ cần quý vị có thể Minh tâm Kiến tánh, thì điều gì quý vị cũng biết, kiến tánh thì hiểu rõ thôi. Tại sao vậy? Bởi tất cả pháp là do Tự Tánh biến hiện, điều này, thì người có nghiên cứu đối với Phật pháp đều biết. Phật pháp là thuyết vô thần, nhất định cần biết điều này. Bởi vì tất cả tôn giáo: đều phải lập một đấng sáng tạo, vũ trụ từ đâu mà có? Do thần tạo, trong Phật pháp không có. Phật giáo nói vũ trụ từ đâu tới? Là do Tự Tánh biến ra. Tự Tánh ở đâu? Tự Tánh không đâu không có, không lúc nào không có. Tự Tánh là gì? Tự Tánh là Chân Tâm của chính mình, không phải của người khác.

Nên vũ trụ từ đâu tới vậy? Do chính mình tạo, do chính tự mỗi người tạo nên. Tạo thế nào? Do ý niệm tạo, quý vị có ý niệm thì quý vị đang tạo tác. Ý niệm ấy thuần tịnh thuần chánh, đó chính là bản lai diện mục của Tự Tánh. Nếu có khởi tâm động niệm, thì Tự Tánh mê rồi, mê rất cạn, không nghiêm trọng, nên cảnh giới của Tự Tánh hiện ra chính là Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc không phải là đến từ bên ngoài, mà là do ý niệm thuần tịnh thuần chánh của chúng ta biến hiện, trên kinh Đại thừa nói rất rõ ràng; nếu từ khởi tâm động niệm lại sanh khởi phân biệt, vậy thì đã mê khá nặng hơn, cảnh giới ấy là cảnh giới của A-la-hán, quý ngài có phân biệt; nếu có chấp trước nữa, vọng tưởng phân biệt chấp trước đều có tất cả, đó chính là cảnh giới của Lục đạo luân hồi. Chúng sanh trong Lục đạo đều có khởi tâm động niệm, có phân biệt, có chấp trước, loại khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước này gọi là Vọng tâm, không phải là Chân Tâm.

Về Chân Tâm, Lục Tổ Đại sư Huệ Năng nói đơn giản nhất, cũng rất sáng tỏ. Ngài đã nói năm câu, thứ nhất là “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”, nên Chân Tâm là thanh tịnh, Chân Tâm không có ô nhiễm. Bị ô nhiễm là Vọng tâm, nhất định phải biết điều này, đó không phải là Chân Tâm. Thứ hai, ngài nói câu thứ hai là “bổn bất sanh diệt”, Chân Tâm không có hiện tượng sanh diệt, mãi không có sanh diệt. Chân Tâm có ở đây không? Có. Ở đâu? Ngay tại trước mắt, mắt thường của chúng ta nhìn không thấy, tai của chúng ta nghe không ra, ý niệm của chúng ta cũng nghĩ không được, sáu căn đều không khởi tác dụng đối với Chân Tâm. Chân Tâm ở trước mặt chúng ta, chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, không có thời gian và chiều không gian. Chúng ta đã biết, nhà khoa học nói chiều không gian từ đâu đến vậy? Từ trong vọng tưởng phân biệt chấp trước mà biến hiện ra. Nếu không có vọng tưởng phân biệt chấp trước, thì chiều không gian không có nữa. Đối với đạo lý này, chúng ta phải có khả năng dần dần thể hội được, đây là vấn đề rất sâu. Mục đích cuối cùng nhất của việc tu học Phật giáo, là dạy chúng ta Minh tâm Kiến tánh, cũng chính là trở về Tự Tánh. Chúng ta từ Tự Tánh mà sanh ra, cuối cùng cũng hồi quy Tự Tánh,  trở về Tự Tánh thì gọi là thành Phật. Nhưng phải biết Tự Tánh là vốn có, nên trong kinh Đại thừa luôn nói, 一切眾生本來是佛 “nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật”, ai ai cũng vậy, chỉ là họ đã mê, họ không biết. Tuy họ không biết, nhưng họ cũng không bị mất đi, Tự Tánh của họ còn, chỉ là mê nên không giác, họ không dùng Chân Tâm, mà dùng Vọng tâm.

Học Phật, nhà Phật nói tu hành, hành là hành vi, hành vi rất nhiều, vô lượng vô biên, nhưng không ngoài ba loại lớn. Thứ nhất là ý niệm, ý niệm là hành vi của tâm, Vọng tâm, không phải là Chân Tâm mà Vọng tâm, suy nghĩ là thuộc về hành vi của tâm; ngôn ngữ là thuộc về hành vi của miệng; động tác là thuộc về hành vi của thân. Hành vi dù nhiều thế nào không ra ngoài ba loại lớn này, gọi là thân ngữ ý, ba loại lớn này đều bao gồm cả rồi. Hành vi sai lầm, không chánh, tu chỉnh trở lại gọi là tu hành, nên tu hành là sửa đổi hành vi sai lầm. Tiêu chuẩn cho đúng và sai là gì? Tiêu chuẩn là Tự Tánh, Tánh đức của Tự Tánh, tiêu chuẩn tuyệt đối, Tự Tánh thanh tịnh, Tự Tánh không có khởi tâm động niệm. Nếu là chúng ta ở ngay trong cuộc sống, mắt nhìn sắc, thấy rõ ràng, tai nghe tiếng nghe rõ ràng, không có khởi tâm động niệm, đó chính là Phật. Nên Phật ở đâu? Phật ở ngay trước mắt. Quý vị có thể thật sự làm được, thấy sắc nghe tiếng, ngửi hương nếm vị, sáu căn khởi tác dụng ở trong sáu trần, thật có thể làm được không khởi tâm, không động niệm, đó gọi là Như Lai; khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đó là Bồ-tát; khởi tâm động niệm, có phân biệt, không có chấp trước; người ấy là A-la-hán; nếu có cả ba, khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước đều có, đó chính là chúng sanh Lục đạo.

Do đây có thể biết, nhà Phật nói tu hành chứng quả, có liên quan gì tới việc nghiên cứu giáo lý hay không? Không liên quan. Không biết chữ, không hiểu giáo lý, có thành Phật được không? Được. Chỉ cần sáu căn của họ trong cảnh giới sáu trần: không khởi tâm động niệm, là họ thành Phật rồi. Thế thì chúng ta đã sáng tỏ, người vãng sanh vào năm ngoái, vị lão Hòa thượng ở chùa Lai Phật tại Nam Dương ấy, lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài không biết chữ, ngài chưa từng đi học, ngài đạt đến cảnh giới gì? Tôi xem đĩa phim về ngài, xem sách Vĩnh Tư Tập về ngài, tôi phán đoán ngài, ngài thành Phật rồi, ngài đã đến cảnh giới cao nhất. Ngài dùng phương pháp gì? Một câu A Mi Đà Phật. Quý vị phải biết, một câu A Mi Đà Phật này không thể nghĩ bàn. Một câu Phật hiệu này, do Sư phụ dạy cho ngài, dạy ngài chỉ niệm câu Phật hiệu này, cứ thế mà niệm. Ngài đã niệm 92 năm, 20 tuổi xuất gia, niệm 92 năm, 112 tuổi ngài vãng sanh. Quý vị xem vãng sanh tự tại biết bao! Biểu diễn cho chúng ta. Người thế gian không tránh khỏi sanh lão bệnh tử, ngài sanh có khổ, chúng ta đều có sanh khổ, quên sanh khổ rồi, nhưng già có khổ, bệnh có khổ, chết có khổ. Lão Hòa thượng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, không có già khổ, 112 tuổi không cần người chăm sóc, tự chăm sóc bản thân, thân thể khỏe mạnh, đầu óc minh mẫn, không mê muội chút nào. Không có bị bệnh, không có bệnh khổ, khi ra đi, thật sự đi rồi, không có tử khổ, điều này khó được, đây không phải là gạt người.

Ba người trong ngôi chùa nhỏ đó, đạt đến cảnh giới này. Mẹ ngài vãng sanh đầu tiên, năm đó mẹ ngài 86 tuổi, nhất định phải trở về quê nhà. Lão Hòa thượng khuyên, đã khuyên rất nhiều lần, không được, không trở về quê không được, nên buộc lòng phải thuận theo ý của bà, cùng bà trở về quê. Đi về quê làm gì? Gọi con gái và cháu gái tới, đó là gọi tất cả ruột thịt thân sinh tới, rồi mời họ đến. Sau khi đã đến, lão thái thái đích thân xuống bếp gói sủi cảo, gói xong sủi cảo, cả nhà đoàn viên, rất vui vẻ. Sau khi ăn xong, bà ngồi xuống trên ghế, chân xếp bằng, nói với người nhà bà, tôi đi đây, vừa nói câu này thì bà thật ra đi rồi. Mới hiểu được việc tự tại vãng sanh ấy của bà là cho con gái bà, cho cháu gái bà xem, quý vị tận mắt chứng kiến thì quý vị mới tin, nếu quý vị không trực tiếp nhìn thấy thì sẽ không tin, tự tại như vậy. Cũng chưa từng đi học, cũng không biết chữ, cả đời chưa từng đọc một bộ kinh nào, chưa bao giờ nghe một lần giảng nào, chỉ là một câu Phật hiệu, niệm đến Công phu Thành phiến, niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn.

Tôi phỏng đoán ba người ấy đều là Lý nhất tâm, cảnh giới của Lý nhất tâm chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh của Thiền tông, đến cảnh giới ấy, nên các ngài ra đi tự nhiên vậy, muốn trụ thêm vài năm cũng không trở ngại gì, nếu không muốn ở thì ra đi. Nói đi liền đi, không có tất cả chướng ngại, không có mọi đau khổ, biểu diễn cho chúng ta xem, tác chứng chuyển cho chúng ta. Niệm Phật 92 năm, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, mọi lúc, mọi nơi trong tâm không gián đoạn Phật hiệu. Trong tâm ngoài A Mi Đà Phật ra thì không có gì nữa, thật là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, niệm niệm là Phật hiệu, niệm niệm là giác ngộ.

A Mi Đà Phật là dịch âm của tiếng Phạn, có nghĩa là gì? A dịch là Vô, Mi Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, chính là Vô Lượng Giác. Vô lượng trí huệ, tất cả pháp thế và xuất thế gian đều thấu suốt, gọi là Vô Lượng Giác. Vì sao thông suốt được? Bởi vì vốn có trong Tự Tánh. Trí huệ không ở bên ngoài, bên ngoài không có trí huệ, điều học ở bên ngoài là tri thức, còn hiển hiện từ bên trong ra bên ngoài đó là trí huệ. Nên trí huệ từ định công mà lưu xuất ra, định càng sâu thì trí huệ càng lớn. Trí huệ nhỏ là từ tâm thanh tịnh lưu xuất, đề Kinh này của chúng ta hay, “thanh tịnh bình đẳng giác”, tâm thanh tịnh là A-la-hán chứng được; tâm bình đẳng là Bồ-tát chứng được; giác chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là Phật chứng được. Phật, Bồ-tát, A-la-hán là danh xưng ba học vị trong nền giáo dục của đức Phật, nhất định phải biết điều này. Phật là học vị cao nhất, giống như Tiến sĩ của trường học hiện nay, Bồ-tát là Thạc sĩ, A-la-hán là Cử nhân, là danh xưng của ba học vị, ai ai cũng lấy được, chẳng có ai mà không lấy được, vì vậy nói tất cả chúng sanh vốn là Phật.

Mục tiêu cuối cùng của giáo dục Phật-Đà là thành Phật, thành Phật là không gì không biết, không gì không thể, quý vị mới có năng lực giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh đầy khắp Pháp giới hư không giới, cõi người chúng ta có thể tiếp xúc được là một phạm vi rất nhỏ, còn những gì chúng ta nhìn không được, nghe không thấy, tiếp xúc không được không biết nhiều đến bao nhiêu, là vô lượng vô biên. Quý vị thành A-la-hán, thành Bồ-tát thì biết thôi, đến thành Phật có thể rộng độ chúng sanh, học Phật là làm điều này.

Nền giáo dục Phật-Đà, bởi vì Phật-Đà thật sự là giáo dục, Ngài không phải là tôn giáo, Ngài không phải là mê tín. Thầy của tôi là Tiên sinh Phương Đông Mỹ ở Đồng Thành, tôi theo ngài học Triết học, thầy Phương là đời thứ 16 của Phương Bao phái Đồng Thành của chúng tôi, mối quan hệ của chúng tôi là tiểu đồng hương. Tôi theo ngài học Triết học, ngài giảng cho tôi một bộ Triết Học Khái Luận, đề mục cuối cùng giảng cho tôi là “Triết Học Kinh Phật”. Năm đó tôi 26 tuổi, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên, tôi nói Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, làm sao có Triết học được? Thầy nói với tôi, con còn trẻ, con chưa hiểu. Ngài nói, “Thích Ca Mâu Ni là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, Triết Học Kinh Phật là đỉnh cao nhất của Triết học trên toàn thế giới, học Phật là sự hưởng thụ tối cao của đời người”. Giảng xong trong đề mục này, tôi đã hoàn toàn tiếp nhận rồi.

Phương pháp học Triết Học Kinh Phật thế nào? Ngài nói với tôi, 200 năm trước tự viện am đường của Trung Hoa, chính là đạo tràng của Phật giáo, người xuất gia ai ai cũng là có học vấn lớn, họ thông suốt mọi thứ, hiểu hết mọi thứ, thật sự là Thiện tri thức, vị thầy giỏi. Ngài nói hiện nay không được nữa, 200 năm qua đến nay, họ không học kinh giáo, không nghiên cứu những sách này nữa, dần dần biến chất, trở thành phụng sự cho người chết. Nên Phật giáo không phải là tôn giáo mà trở thành tôn giáo, con cũng không thể nói Phật giáo không phải là tôn giáo, phục vụ cho quỷ thần, không phải là phục vụ cho người, mà là phục vụ cho quỷ thần, sai rồi. Nếu chúng ta thật sự nghiên cứu học vấn, học vấn lớn, ở đâu? Trong kinh điển. Thầy nói với tôi, ý nghĩa cũng chính là dạy tôi: không nên đi hỏi người xuất gia những điều này, họ không biết, họ thật không biết, họ đã làm sai toàn bộ Phật giáo, chúng ta cần hiểu rõ, vì sao? Bởi không ai dạy nữa.

Thế hệ trước của chúng tôi, khi chúng tôi đang là học sinh, thế hệ trước vẫn còn vài vị thầy giỏi. Người thật sự có tu có chứng là thầy giỏi thật sự, những người chúng tôi nhìn thấy, là có tu chưa có chứng quả, cũng xem không tệ rồi, các ngài đọc kinh, các ngài nghiên cứu kinh giáo. Nhưng hiện nay có rất nhiều người, căn bản cũng không biết kinh giáo, hoàn toàn học một số nghi lễ, nghi thức, còn kinh giáo thì chỉ biết niệm, nhưng không hiểu ý nghĩa thế nào, vậy không được. Nhưng độ tuổi của chúng tôi đây vẫn gặp được mấy người, lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, người hội tập kinh; lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, chúng tôi đã gặp lúc tuổi già, ngài giảng Kinh Vô Lượng Thọ: ở trong nước; còn ở nước ngoài, tôi cũng giảng Kinh Vô Lượng Thọ, hai người chúng tôi cùng dùng một quyển, trên toàn thế giới chỉ có hai người, tìm không ra người thứ ba, nên chúng tôi vừa gặp như đã thân, vô cùng hoan hỷ.

Về sau chúng ta có thành Phật được không? Được, điều này khẳng định chắc chắn. Vì sao? Bởi học Phật pháp không cần thầy cũng có thể. Như vừa mới nói, chỉ cần quý vị buông xuống, thật sự buông xuống, thì tự nhiên thông suốt thôi, điều này thật tuyệt vời! Chính là mong quý vị buông xuống. Quý vị xem trên Kinh Hoa Nghiêm, nói về cấp bậc của Bồ-tát, cũng giống như chúng ta đi học ở trường học, Tiểu học, là lớp một, lớp hai đến lớp sáu, Trung học, trường cấp hai, trường cấp ba cũng là sáu năm, sáu lớp khác nhau, Đại học có bốn năm, Viện nghiên cứu đi lên nữa. Phật pháp từ ban đầu thứ bậc đầu tiên, đến thứ bậc cao nhất 51, đó là 51 lớp, chia thành Thập tín, từ một đến mười, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, là 50, phía trên có Đẳng giác, trên Đẳng giác nữa, phía trên thành Phật rồi, gọi là Diệu Giác, tổng cộng 52 thứ bậc. Đó chính là lớp một, lớp hai, đến lớp 52, chia từ đâu ra? Định công, sâu hay cạn của định công không như nhau. Định công của Thập tín cạn, tuy cạn, nhưng cũng rất tuyệt vời, vì sao? Bởi trong đó bao gồm A-la-hán, Bích-chi-phật, còn bao gồm Hồi hướng Bồ-tát của Biệt giáo, cao minh hơn chúng ta quá nhiều rồi.

Nên học Phật là học điều gì? Thầy Phương nói với tôi, “hưởng thụ cao nhất của đời người”, câu nói này thật khiến người khác cảm động, tôi đã bị câu nói này của ngài dẫn dụ. Là hưởng thụ cao nhất của đời người thì khó, có phải thật không? Là thật, tôi làm chứng minh, sau khi tôi tiếp xúc từ năm 26 tuổi, thời gian đã trôi qua 63 năm, là hưởng thụ tối cao của đời người. Hưởng thụ điều gì? Thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ. Sự hưởng thụ này không phải là có thân phận, có địa vị, có tài sản, không phải vậy, không liên quan đến điều này, mà tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần, tự tại biết bao, vui vẻ biết mấy! Không còn vọng niệm, không còn tạp niệm nữa, chúng tôi vẫn chưa đoạn sạch sẽ, nhưng so với người bình thường, chúng tôi không có nữa, chúng tôi vẫn còn tập khí, tập khí của Kiến tư Phiền não. Nhưng khi tập khí khởi hiện hành, chúng tôi chắc chắn khống chế được, chính là sẽ không để nó trong tâm, sẽ không phát tác ra, hỷ nộ ai lạc. Nhà Nho nói đạo của Trung Dung, nhất định sẽ không quá mức, mà vừa phải, họ liền thu lại được, không giống như người bình thường, họ không thể kiềm chế. Đây là sự hưởng thụ chân thật của đời người, đối với tất cả Sự Lý, thấy rất rõ ràng, thấy rất tường tận. 

Chúng ta có tâm nguyện muốn giúp đỡ, giống như nguyện của Phật, vì sao Phật xuất hiện ở thế gian? Bởi chỉ có một mục tiêu: để giáo hóa chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh rời khổ được vui. Phật Bồ-tát xuất hiện ở thế gian là vì sự việc này, lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta, là bày tỏ điều này. Quý vị tỉ mỉ để quan sát, cả đời lão Hòa thượng, 112 năm, lắng tâm để quan sát, quý vị xem hơn 30 lần, 50 lần, thì quý vị sẽ có chỗ ngộ, xem ra cửa đạo rồi. Trí huệ từ đâu tới? Do tâm thanh tịnh sanh ra, tâm bình đẳng sanh đại trí huệ, Đại triệt Đại ngộ là trí huệ viên mãn. Trí huệ là vốn có trong Tự Tánh, không phải từ bên ngoài. Trí huệ là sanh ra từ trong định, tại sao vậy? Bởi Tự Tánh vốn định, Đại sư Huệ Năng nói, “nào ngờ Tự Tánh, vốn không dao động”. Nên tu học của Phật pháp chú trọng Thiền định, 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn tu điều gì? Đều là tu Thiền định, định mới khai huệ. Người sơ học bắt đầu từ Giới luật, giữ quy củ. Học giới, mục đích của học giới là được định, mục đích của được định là khai trí huệ, nên khai trí huệ mới là mục đích chân thật. Phật-Đà là giáo dục, không thể nhầm lẫn.

Chúng ta quay lại nhìn xem, người Trung Hoa nói về tôn giáo, Trung Hoa giảng về hai chữ tôn giáo thế nào? Phật giáo hoàn toàn phù hợp. Ý nghĩa của tôn có ba, thứ nhất là chủ yếu, thứ hai là quan trọng, thứ ba là tôn sùng, tôn trọng, tôn kính, có ý nghĩa này; giáo cũng có ba ý nghĩa: giáo dục, giáo học, giáo hóa. Hai chữ tôn giáo này được kết hợp với nhau, là nền giáo dục chủ yếu, giáo học quan trọng, giáo hóa tôn sùng của nhân loại. Phải dùng ý nghĩa này để đối với Phật giáo, thì hoàn toàn phù hợp. Vì thế chúng ta quay trở lại để nhìn các tôn giáo khác, tôi cảm thấy các tôn giáo khác: không có viên mãn như Phật giáo. Phật giáo dùng [chữ] tôn giáo của Trung Hoa để nói, đó là 100%, còn các tôn giáo khác không phải là 100%, có khoảng 50%, 20%, 30%. Phật giáo nói rất viên mãn, chúng ta chẳng thể không biết điều này. Chúng ta học điều gì? Là học để tìm ra trí huệ trong Tự Tánh, là mong cầu hiển thị Chân Tâm, buông xuống Vọng tâm. Hiển lộ Chân Tâm, đó chính là Phật, đó chính là Bồ-tát. Trong Chân Tâm có trí huệ không có phiền não, có thanh tịnh không có ô nhiễm, có thể không học điều này sao? Có thể giải quyết tất cả vấn đề, ngay cả vấn đề sanh tử cũng có thể giải quyết.

Giống như ba người ở chùa Lai Phật: Pháp sư Hải Khánh; mẹ của ngài Hải Hiền, đại biểu Cư sĩ tại gia; bản thân ngài Hải Hiền, 112 tuổi, ba người ấy, [đối với] bốn loại khổ về sanh lão bệnh tử, các ngài chỉ có sanh khổ, các ngài không có lão khổ, các ngài không có bệnh khổ, các ngài không có tử khổ; các ngài không có cầu bất đắc khổ, tại sao vậy? Bởi các ngài buông xuống tất cả rồi, cuộc sống vô cùng đơn giản, không có gì mà không cầu được; không có oán tắng hội, khi người ta bắt nạt, sỉ nhục ngài, hủy báng ngài, đánh ngài, ngài đều có thể nhẫn chịu, bị chửi không đáp lại, chỉ mỉm cười, bị đánh không đánh trả, được đại tự tại, trong tâm mát mẻ tự tại. Đối với chân tướng của tất cả pháp thế và xuất thế gian hiểu rõ như lòng bàn tay, do chính ngài nói, chẳng có gì mà ngài không biết, ngài nói thứ gì tôi cũng biết, thứ gì cũng biết chính là Đại triệt Đại ngộ. Chỉ là Sư phụ dặn ngài, Sư phụ rất tuyệt vời, nếu Sư phụ không phải là cảnh giới ấy, thì không nói ra được lời này. Sư phụ dạy ngài niệm một câu A Mi Đà Phật này, cứ niệm liên tục, thì sáng tỏ thôi, sự sáng tỏ đó chính là khai ngộ, sau khi khai ngộ như thế nào? Không được nói, không được khua tay múa chân. Ngài ghi nhớ trong tâm, dù đã khai ngộ nhưng ngài cũng không nói.

Khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ đã nói, nói ra nhiều kinh luận như vậy, những kinh luận ấy từ đâu đến vậy? Do ai dạy Ngài? Đây là cho chúng ta tín tâm, làm ra tấm gương cho chúng ta thấy, trong trí huệ chân thật tự nhiên lưu lộ ra. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật 19 tuổi, từ bỏ quyền thừa kế vương vị, từ bỏ cuộc sống xa hoa trong cung đình, đây là buông xuống Phiền não chướng. Ngài làm một sự biểu diễn cho chúng ta, đại diện là tầng lớp tri thức, tầng lớp tri thức thích học tập, học rộng nghe nhiều, nên lúc bấy giờ, Ấn Độ là đất nước của tôn giáo, đất nước của Triết học trên thế giới, quá nhiều nhà Triết học, Ngài đều thân cận từng người một. Đã học 12 năm, nhưng buông xuống rồi, tại sao buông xuống vậy? Bởi không thể giải quyết được vấn đề của sanh lão bệnh tử. Khi buông xả, đến nhập định dưới cây (cây Tất-bát-la), khi nhập định dưới cây ấy thì khai ngộ, cây ấy về sau chúng ta gọi là cây Bồ-đề.

Sau khi vừa khai ngộ, 30 tuổi Ngài khai ngộ, sau khi khai ngộ lập tức dạy học, ở vườn Lộc Dã độ năm vị Tỳ-kheo, giảng Kinh A Hàm. 79 tuổi Ngài viên tịch, giảng kinh dạy học suốt 49 năm, nên trên kinh nói, giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm, chính là nói về việc này. Cả đời lão nhân gia chưa từng xây đạo tràng, đạo tràng ở đâu? Đạo tràng dưới cây. Cuộc sống trải qua, giữa ngày ăn một bữa, nghỉ dưới gốc cây một đêm, giống như nhóm người du mục. Cũng không ít người, hơn 1.000 người, thêm Cư sĩ tại gia nữa, có khoảng hai đến 3.000 người, đoàn thể lớn như vậy, mỗi ngày đều là đang dạy học, đều là đang học tập, đều là đang nghiên cứu thảo luận, kết quả của thảo luận hoàn toàn thực hiện trong đời sống, niềm vui ấy vô cùng. Đây là đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Những công trình kiến trúc ấy, đó là việc sau này, do người đời sau làm, khi đức Phật còn ở đời thì không có. Trong số học trò của Ngài có 16 vị đại Quốc vương, thời đại ấy của đức Phật, có lẽ là vào thời đại nhà Chu ở Trung Hoa, gần với thời nhà Chu, Ấn Độ cũng là chưa thống nhất, là bộ lạc, thủ lĩnh của bộ lạc chính là Quốc vương.

800 chư hầu ở Nam Bắc sông Trường Giang của Trung Hoa, hơn 800 quốc gia được ghi chép lại trong lịch sử, mọi người đều tôn nhà Chu làm Thiên tử, tại sao vậy? Bởi Chính trị của Chu làm được tốt nhất. Nước Chu lớn như thế nào? Chu vi 100 dặm. Còn chu vi của vua Thương Thang 70 dặm, nhà Chu lớn hơn một chút, là 100 dặm, có thể khiến nhiều chư hầu như thế tôn kính đối với ngài, đều nghe lời của ngài, nên đó không phải là thống nhất về chính trị, mà đó là thống nhất về văn hóa, thống nhất về luân lý đạo đức, đều tuân thủ theo Thiên tử nhà Chu. Đến thời Chiến Quốc thì mọi người không nghe nữa, thời đại sau nhà Chu cũng không có ai đức hạnh lớn như Văn, Vũ, Chu Công. Ông Toynbee của nước Anh rất quen thuộc đối với giai đoạn lịch sử ấy, ông nói sau thế chiến thứ hai của chúng ta, những quốc gia này trên địa cầu cũng giống như thời Xuân Thu Chiến Quốc, trước thế chiến thứ hai, trên địa cầu quốc gia có chủ quyền vẫn chưa tới 100, sau thế chiến thứ hai, lại có hơn 140 nước, ông nói đây không phải là hiện tượng tốt. Tại sao vậy? Bởi quốc gia chủ quản quá nhiều, rất dễ phát sinh chiến tranh, vì lợi ích của chính mình. Hiện nay chiến tranh, sợ rằng đến cuối cùng trở thành chiến tranh vũ khí hạt nhân, nên mỗi ngày ông đang suy nghĩ, làm thế nào có thể thống nhất giống như thời nhà Tần, đó thật sự là thống nhất về mặt hành chính. Trung Hoa, từ khi thống nhất đến ngày nay vẫn là đại thống nhất, đây là điều mà ông Toynbee vô cùng bội phục, trong suốt dòng chảy dài của toàn bộ lịch sử, duy trì được quy mô thống nhất đạt đến hơn 2.000 năm, chỉ có Trung Hoa, sau khi nhà Tần thống nhất đến ngày nay vẫn là thống nhất. Tuy người La Mã ở Châu Âu thống trị 1.000 năm, nhưng sau khi mất nước họ không thể thống nhất được nữa. Nên ông nói, ai có thể thống nhất toàn thế giới?  Người Trung Hoa, người Trung Hoa: có trí huệ thống nhất, có lý niệm thống nhất, có phương pháp thống nhất, có hiệu quả thống nhất, có kinh nghiệm thống nhất. Nói rất hay! Ông cũng nói, thế giới ngày nay thống nhất thành một quốc gia, không phải dựa vào vũ lực, nếu dùng vũ lực thì sẽ bị hủy diệt, vậy là gì? Văn hóa. Ông chia văn hóa trên toàn thế giới thành mười mấy loại, hết sức khen ngợi văn hóa Trung Hoa, là ưu tú nhất trong tất cả các nền văn hóa. Là nguyên nhân gì? Ông khen Đại thừa, điểm xuất phát của Đại thừa và văn hóa Trung Hoa là một, đều là xuất phát điểm từ Tự Tánh. Tự Tánh là nhân tánh, nên người là dạy tốt được, người xấu, người ác đều có thể dạy tốt.

Trước đây chúng ta đã làm thực nghiệm tại Thang Trì, trong ba, bốn tháng, đã dạy tốt cho người của thị trấn nhỏ ấy, thức tỉnh lương tâm, xấu hổ vì đã làm việc xấu. Thời gian ở Thang Trì tuy không ngắn, nhưng đã chứng minh hai việc: chứng minh thứ nhất, tánh người vốn thiện, không sai chút nào, tánh người vốn thiện trong Phật pháp nói, tất cả chúng sanh vốn là Phật, chứng minh điều này; chứng minh thứ hai, người là rất dễ dạy. Cách dạy thế nào? Giáo viên phải thật làm được. Bản thân giáo viên không làm được mà dạy người khác, đó là gạt người, vậy không thu được hiệu quả. Chúng ta dạy gì ở Thang Trì? Đó là dạy ba điều: Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo. Chúng ta dung hợp tất cả ba loại sách này lại, thể hiện trong Đệ Tử Quy, nhìn bề ngoài đây là một bộ Đệ Tử Quy, trên thực tế trong Đệ Tử Quy có Thập Thiện Nghiệp Đạo, có Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là của Đạo gia, Thập Thiện Nghiệp Đạo là của Phật pháp, cùng hòa hợp ba tác phẩm của Nho-Phật-Đạo, dạy thành công rồi. Ba tháng thì lương tâm của mọi người: cảm thấy hổ thẹn khi làm việc xấu, tỉ lệ phạm tội trong xã hội giảm đi rất nhiều, rất ít việc ly hôn, điều này thật sự có thể giải quyết vấn đề. Nếu chúng ta sai lầm, coi đó như một thứ của phong kiến, cần phải nói đào thải, vậy thì thật đáng tiếc. Bộ tác phẩm này của Trung Hoa, nhất định phải biết: đó là trí huệ, không phải tri thức. Tri thức thì có thể đào thải, trí huệ không phải vậy, trí huệ mãi không thay đổi.

Truyền thống Trung Hoa là trí huệ, quý vị thật bình tĩnh để suy nghĩ, Ngũ luân đã qua thời chưa? Ngũ luân là mối quan hệ: mối quan hệ giữa người với người, mối quan hệ cha con, mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ vua tôi, vua tôi, ngày nay là mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, mối quan hệ anh em, quan hệ bạn bè, điều này có thể không cần sao? Nếu tất cả không nói đến là không cần nữa, thì xã hội loạn rồi, đó chính là vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, xã hội liền loạn rồi. Dùng điều gì để chỉnh đốn? Không có cách nào, mỗi ngày bao nhiêu người đang suy nghĩ, nghĩ không ra phương pháp. Những thứ của lão Tổ tông Trung Hoa bày sẵn ở đó, thật sự có thể giải quyết vấn đề. Ngũ luân là mối quan hệ, mối quan hệ này không phải là do người nào phát minh, chẳng phải do ai sáng tạo, mà là tự nhiên, có thể nói đây là quy luật của đại tự nhiên, nên xưng là đạo.

Ngũ thường là đức, Ngũ thường là gì? Người có thể thuận theo mối quan hệ này, tận hết nghĩa vụ của chính mình, đó chính là đức, chỉ có năm chữ: Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Về Nhân, đầu tiên dạy chúng ta phải yêu thương người, chúng ta yêu chính mình, dùng tâm yêu thương chính mình để yêu thương người khác. Không chỉ yêu thương người, mà còn phải yêu thương động vật, còn phải yêu thương thực vật, còn phải yêu thương núi sông đất đai, thể hiện ra tình yêu thương, đó là người Trung Hoa, đó là người chân chánh, người nên phải là như vậy, tuyệt không thể phá hoại đại tự nhiên. Người hiện nay không yêu đại tự nhiên, người cũng không yêu thương người. Người không ngừng đang học tập, từ nhỏ đã học tập, tôi không biết về giáo dục của Trung Hoa, bởi tôi sống ở nước ngoài nhiều năm, còn người nước ngoài dạy trẻ em, lớp mẫu giáo đã dạy sự cạnh tranh.

Sau sự kiện ngày 11/9 không bao lâu, lúc đó tôi sống ở Úc Châu, Hiệu trưởng trường Đại học Queensland tìm tôi, tổ chức một buổi hội thảo tọa đàm với các Giáo sư từ Học Viện Hòa Bình của họ, mời tôi tham dự. Khi tôi đến, họ hỏi tôi, làm thế nào giải quyết xung đột? Tôi bèn nói với họ, tôi nói giải quyết xung đột như thế nào? Giống như Bác sĩ trị bệnh, đặc biệt là y học Trung Hoa, đầu tiên phải tìm ra nguồn gốc của bệnh, tùy bệnh kê thuốc, mới có thể đạt được hiệu quả. Ngày nay quý vị chỉ nhìn thấy xung đột, mà chưa nhìn thấy nguồn gốc của xung đột ở đâu. Họ hỏi tôi, ngài cho là nguồn gốc ở đâu? Tôi nói nguồn gốc ở gia đình. Điều này họ không nghĩ tới. Là xung đột gia đình sao? Đúng, ngày nay tỉ lệ ly hôn bao nhiêu, đây chẳng phải là mâu thuẫn vợ chồng sao? Mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn giữa cha con, mâu thuẫn anh em. Họ ở trong nhà từ nhỏ đã xung đột với mọi người, họ đi ra xã hội, làm sao họ có thể không xung đột với người khác chứ? Nào có đạo lý này! Cạnh tranh đi lên là đấu tranh, đấu tranh tăng lên chính là chiến tranh. Ngày nay chiến tranh là vũ khí hạt nhân sinh học hóa học, là không có thắng thua, đó là sự ngu xuẩn đến tột cùng của nhân loại, tự hủy diệt chính mình, tự sát tập thể, chẳng phải là như vậy sao?

Tôi nói [còn có] xung đột sâu hơn, còn sâu hơn cả gia đình. Họ cảm thấy rất ngạc nhiên, còn gì sâu hơn nữa? Tôi nói có, là xung đột của bản thân. Ở người Trung Hoa nói, sự xung đột giữa bản tánh và tập tánh, bản tánh là thiện, tập tánh không thiện. Họ thật không dễ hiểu điều này, cũng không dễ phiên dịch điều này, tôi liền đưa ra một ví dụ, lợi hại trước mắt, lợi ích này là muốn cho mình hay cho người khác? Mọi người đều nói tôi muốn. Tôi nói ngay lập tức xung đột sẽ khởi lên, mười mấy vị Giáo sư ấy, ai ai cũng muốn lợi ích này, lợi ích ở ngay đây, các vị không đánh nhau hay sao? Làm thế nào mới không xung đột? Nghĩ cho người khác, lợi ích ở đây, tặng lợi ích này cho người khác, thì không xung đột nữa. Có thể tặng ư? Càng tặng càng nhiều, điều này thật tuyệt vời. Của cải đến từ đâu? Bố thí tài mà được. Thông minh trí huệ đến từ đâu? Từ bố thí pháp mà có, bố thí chính là tặng cho người khác. Khỏe mạnh trường thọ từ đâu mà được? Bố thí vô úy mà được. Phật dạy cho chúng ta, quý vị dùng ba loại bố thí này, những gì quý vị nhận được là: của cải, trí huệ, trường thọ. Lúc tôi mới học Phật, Đại sư Chương Gia dạy cho tôi, tôi đã thực hành 63 năm, là thật, không giả chút nào, quả báo của ba việc này đều hiện tiền. Khi tôi xuất gia không có gì cả, đến bây giờ cũng không có gì, nhưng mà thế nào? Không thiếu thứ gì, thật sự được đại tự tại.

Thầy dạy tôi học đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật không có đạo tràng, tốt! Có đạo tràng thì bận tâm lo nghĩ, có đạo tràng thì có quần chúng, quý vị phải quản lý người, phải quản lý việc, phải quản lý tiền. Tôi thứ gì cũng không có: không quản người, không quản việc, không quản tiền, quý vị nói xem vui vẻ biết bao. Lão Phật Gia thông minh, tấm gương ấy của Ngài, tôi xem hiểu rồi, vậy mới gọi là đại tự tại! Tôi vẫn tự tại hơn Ngài, vì sao vậy? Bởi mỗi ngày Ngài giảng kinh dạy học, có hơn ngàn người nghe vây quanh; hiện nay tôi giảng kinh thường không có ai nghe, tôi chỉ nhìn vào máy truyền hình. Mà máy truyền hình phát sóng trên toàn thế giới, ở đâu cũng có thể thu để nghe được. Quý vị nói điều này rất tự tại, không cần gặp mặt với thính chúng, cũng không cần biết, có thể họ biết tôi, nhưng tôi không biết họ. Đây gọi là hưởng thụ tối cao của đời người, hưởng thụ là không có việc, vô sự, vô sự mới là hưởng thụ, có việc thật là bận rộn. Ai làm được? Mỗi người đều làm được, không giả chút nào. Tôi cảm ơn thầy, hàng ngày tôi nhớ về thầy, nếu không có thầy, thì làm sao tự tại như hôm nay!

Nói thật ra thọ mạng của tôi cũng không dài như vậy. Ba thế hệ trong gia đình tôi đều là đoản mạng, ông nội của tôi 45 tuổi qua đời, một người bác của tôi, bác của tôi lớn hơn cha tôi khoảng mười tuổi, cũng là 45 tuổi ra đi, cha tôi cũng là 45 tuổi ra đi. Lúc nhỏ người khác đoán mạng cho tôi, không qua được 45 tuổi, tôi tin tưởng. Năm đó 45 tuổi, tôi đã có một trận bệnh, nhưng một tháng thì khỏi rồi. Sau khi khỏi bệnh, lần thứ hai tôi bị bệnh là 79 tuổi, lúc đó tôi đang ở Bắc Kinh, ở trong khách sạn, ở khách sạn bốn ngày, thì đã khỏi bệnh. Tôi có cảm giác, thọ mạng đáng phải hết rồi, nhưng tuổi thọ của tôi đã dài như vậy. Kết quả là khỏi bệnh, khi khỏi bệnh tôi trở về Hồng Kông, ở hai tuần giữ gìn sức khỏe, hồi phục liền giảng kinh. Cả đời chưa từng vào bệnh viện, có đôi lúc bị cảm mạo, là bệnh nhẹ, chứ bệnh lớn không có, nói tóm lại, đều không trở ngại tôi giảng kinh dạy học. Phải tin tưởng đối với lời của Phật, vào cửa Phật pháp khó nhất là tin, là tín tâm. Thật sự có tín tâm, thật sự nghe lời, thật sự thật làm, thì rất nhiều lợi ích, rất nhiều chỗ tốt nữa!

Hiện nay ở Trung Hoa, nước ngoài, người nghiên cứu Cơ học Lượng tử rất nhiều, điều này quả thật có thể vạch trần bí ẩn của vũ trụ, trước đây vấn đề được coi là không có khả năng giải quyết, hiện nay đều có thể. Nhưng điều họ phát hiện, đều không vượt ra ngoài Phật pháp, cũng chính là đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng rất rõ ràng, giảng rất tường tận vào 3.000 năm trước. Sau khi báo cáo của họ được đưa ra, vừa thẩm tra đối chiếu với kinh Phật, không sai chút nào, họ cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Nếu quý vị thật sự hiểu được thì sẽ không cảm thấy ngạc nhiên, chân tướng sự thật mà họ tìm ra, cũng là chân tướng của vụ trụ nhân sanh mà Phật giảng cho chúng ta. Hơn nữa, Phật không dùng các thiết bị khoa học, không dùng toán học, hoàn toàn dùng Thiền định, dùng Giới Định Huệ, chân tướng được nhìn thấy bằng Giới Định Huệ, hoàn toàn tương đồng với những gì mà nhà Cơ học Lượng tử ngày nay tìm ra. Nên năm xưa thầy nói với tôi, Phật pháp là Triết học cấp cao, hiện nay tôi khẳng định rằng trong 60 năm qua, Phật giáo là khoa học cấp cao. Tôi có một cách nghĩ, sau 20 năm nữa Phật giáo không thuộc về tôn giáo, mà thuộc về khoa học, thuộc về Triết học, đều là Triết học, là đẳng cấp cao trong khoa học.

Vì vậy Minh đã nói phía trước, thông thường nói Minh, là Tam Minh: Túc mạng, Thiên nhãn, Lậu tận. Ba loại này, Túc mạng là quý vị biết đời quá khứ, biết đời quá khứ của chính mình, A-la-hán có thể biết 500 đời quá khứ của chính mình; vậy nếu quý vị thành Bồ-tát, thì cũng biết vô lượng kiếp trong quá khứ, biết bản thân cũng biết người khác, người khác làm những điều gì trong nhiều đời nhiều kiếp thì quý vị đều biết được, nên quý vị thuyết pháp khế cơ với họ, vừa nói thì họ liền tin. Còn Thiên nhãn, quan sát không có chướng ngại, có khả năng nhìn thấy các chiều không gian khác nhau. Nhà khoa học biết điều này, nhưng vẫn chưa làm được. Phật pháp làm được rồi, chứng được Sơ quả, cũng chính là nói trong trường học của Phật pháp đây, là lớp một của Tiểu học, thì Thiên nhãn, Thiên nhĩ của quý vị mạnh hơn người bình thường. Người bình thường cách bởi bức tường này thì không nhìn thấy, còn quý vị có thể nhìn thấy được, thông tin qua lại với người dù khoảng cách xa thế nào, Thiên nhãn thông rồi, không cần dùng điện thoại di động. Thiên nhãn thông, không cần dùng màn hình, mà có thể nhìn trực tiếp, ít nhất ở trên địa cầu này không có vấn đề. Đó là gì? Sơ quả. Còn Nhị quả, có thể trong hệ mặt trời không có vấn đề gì. Tam quả, có thể trong hệ Ngân Hà này không có vấn đề, đều có thể quan sát được, nên thật sự có tác dụng.

Đây chính là thần thông mà thông thường chúng ta nói tới, thần thông là bản năng, Phật pháp nói bản năng, ai ai cũng có. Trí huệ bản năng của chúng ta: không khác với đức Thích Ca Mâu Ni Phật, với A Mi Đà Phật, chỉ là quý Ngài không có chướng ngại, hiển thị ra tất cả. Còn chúng ta có chướng ngại, chướng ngại chính là phiền não, tạp niệm, tham sân si mạn, vọng tưởng phân biệt chấp trước, là chướng ngại, buông xuống tất cả những điều đó thì thông rồi. Thế nên chúng ta biết, phương pháp của lão Hòa thượng Hải Hiền dùng, đây là phương pháp vi diệu nhất, phương pháp cao minh nhất trong Phật pháp Đại thừa, chính là một câu A Mi Đà Phật. Trong tâm ngoài một câu A Mi Đà Phật, thì không có thứ gì, đạo tâm thật sự thanh tịnh, thật sự bình đẳng, thông suốt mọi thứ. Chiếu kiến, không hỏi thì quý vị không biết, hỏi thì thứ gì quý vị cũng biết, tùy hỏi tùy đáp, không cần suy nghĩ. Tôi nghĩ xem làm sao trả lời quý vị, không có, suy nghĩ đó là thuộc về tri thức, trong trí huệ không có suy nghĩ, là chiếu kiến.

Hôm nay [đến] đoạn này trong Tịnh Ảnh, trong Tịnh Ảnh Sớ có trích dẫn kinh văn, 又謂:明是證行 “hựu vị: Minh thị chứng hạnh” (Lại nói rằng: Minh là chứng hạnh), minh là hiểu rõ. Nếu quý vị chưa chứng đắc, thì làm sao quý vị hiểu rõ được? Vì vậy đó có chứng pháp hiển liễu, là ý nghĩa này, nên gọi là Minh. Phật pháp là khoa học, vì sao vậy? Bởi Phật pháp nói chứng, lấy chứng cứ ra, không có chứng cứ thì không tính, quý vị chưa chứng đắc. Phật pháp nói bốn cấp bậc, thứ nhất là tin, thứ hai là lý giải, thứ ba là quý vị thực hiện, thứ tư là chứng minh, chưa chứng được thì không tính là thật, chứng được mới là thật. Lão Hòa thượng Hải Hiền với một câu Phật hiệu này, chúng ta hỏi ngài, ngài đã nhìn thấy A Mi Đà Phật chưa? Đã thấy Thế giới Cực Lạc chưa? Nếu chưa nhìn thấy thì ngài là giả, không được tính. Ngài thật nhìn thấy rồi, đó là cảm ứng. Vào lúc nào? Niệm Phật niệm đến Công phu Thành phiến, thì A Mi Đà Phật sẽ đưa tin tức cho quý vị, giúp tín tâm, nguyện tâm của quý vị tăng trưởng, quý vị sẽ không thoái tâm. Nói cho quý vị biết tin tức, cũng giống như nói là đã ghi tên ở Thế giới Cực Lạc, đã đăng ký rồi, đợi đến lúc thọ mạng của chúng ta ở thế gian này hết rồi, thì nhất định Phật đến tiếp dẫn quý vị.

Một người niệm Phật, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, giống như trên Kinh Lăng Nghiêm đã nói, 現前當來,必定見佛 “hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (hiện tại tương lai, nhất định thấy Phật), thấy bao nhiêu lần? Ít nhất ba lần, hiện tại thấy Phật. Tương lai là đến Thế giới Cực Lạc, điều đó không cần phải nói. Chúng ta nói hiện tại, khi Công phu Thành phiến, Phật đến đưa tin tức cho quý vị, đây là lần thứ nhất; lần thứ hai, là [khi] thọ mạng của quý vị sắp hết rồi, người bình thường đều một tháng đến ba tháng trước khi lâm chung, Ngài đưa tin tức cho quý vị, để quý vị còn có một khoảng thời gian ấy sắp xếp hậu sự; lần thứ ba là Ngài đến tiếp dẫn quý vị dẫn dắt quý vị đi, ít nhất ba lần thấy Phật, quý vị cũng không nghi ngờ gì. Lão Hòa thượng Hải Hiền, Công phu Thành phiến của ngài vào lúc nào? Tôi ước tính ngài chừng khoảng 25 tuổi. 20 tuổi ngài bắt đầu niệm Phật, thông thường 3 năm đến 5 năm, nhất định được địa vị này, vậy thì Phật nói cho ngài biết rồi, ngài còn trẻ vả lại tu rất tốt. Thêm 3 năm, 5 năm công phu nữa, trước sau 30 tuổi, tôi phỏng đoán ngài được Sự nhất tâm Bất loạn, Sự nhất tâm Bất loạn tương đương với A-la-hán, sanh Phương Tiện Hữu dư độ. Ngài vẫn chưa đi, lão Hòa thượng, đây là lão Phật gia A Mi Đà Phật căn dặn ngài, sống ở nhân gian thêm vài năm, làm một tấm gương tốt cho người học Phật thấy, đặc biệt là cho người niệm Phật xem, dặn dò ngài trụ thế, khi nào đi thì nghe theo sự an bài của A Mi Đà Phật, vừa trụ thì đã trụ đến 112 tuổi.

Cuối cùng gặp được quyển sách này: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, bộ sách này xuất hiện rồi. Ngài nhìn thấy, hết sức hoan hỷ, giống như của báu mong đợi từ rất lâu, thoáng chốc đạt được rồi, hoan hỷ vô cùng, nhanh chóng mặc áo tràng đắp y, cầm sách này để chụp hình. Nguyên nhân là gì? Đó là biểu pháp cuối cùng. Sau biểu pháp ấy, quý vị xem, ba ngày sau, thì A Mi Đà Phật dẫn ngài đi rồi, rất hoan hỷ. Ngài rất rõ ràng đối với việc ra đi lúc nào, tức là lúc nào Phật đến đón ngài, không hoài nghi gì cả. Khi ngài ra đi là đi vào ban đêm, nên nói là sáng sớm, sau 12 giờ đêm, sau 12 giờ là sáng sớm ngày hôm sau, là ngài ra đi thời gian đó. Hôm ra đi ấy, ban ngày ngài vẫn làm việc cả ngày, ngài thị hiện cho chúng ta là nông phu, người làm nông, chưa từng đi học, không biết chữ, là nông dân. 112 tuổi vẫn còn làm việc trong ruộng vườn, làm đất, nhỏ cỏ, tưới nước, làm hết cả ngày. Đến lúc xế chiều, người ta còn nói với ngài, trời sắp tối rồi, có thể kết thúc công việc được rồi. Ngài nói với mọi người, sắp làm xong rồi, làm xong rồi thì tôi không làm nữa, đêm hôm đó ngài đã vãng sanh rồi. Đó chính là hiển thị lời của lão Hòa thượng Triệu Châu nói, 一日不作,一日不食 “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, thì một ngày không ăn), biểu diễn cho mọi người xem, có thể không làm, không làm vẫn là làm rất chăm chỉ một ngày, thật sự điều gọi là: 做一天和尚撞一天鐘 “Tố nhất thiên Hòa thượng tràng nhất thiên chung” (Làm Hòa thượng một ngày thì đánh chuông một ngày).

Ngài ra đi là đi vào ban đêm, đêm hôm đó cũng đặc biệt, nhưng không ai cảnh giác. Buổi tối lão Hòa thượng lạy Phật, kinh hành, niệm Phật, thông thường đều là không gõ pháp khí, không sử dụng pháp khí, chỉ thắp hương. Còn tối hôm đó ngài gõ khánh, lạy Phật, kinh hành, niệm Phật đều gõ khánh, mấy người sống trong chùa đều đã đi ngủ, ngài vẫn đang lạy. Đến khi họ thức dậy, lại xem lão Hòa thượng, lão Hòa thượng vãng sanh rồi. Điều này làm chứng minh cho chúng ta, chứng minh: thật có A Mi Đà Phật, thật có Thế giới Cực Lạc, 48 nguyện là thật không phải giả. Thật sự muốn cầu vãng sanh, một câu Phật hiệu là đủ rồi, Phật pháp không trở ngại pháp thế gian, ở thế gian bất kể làm công việc gì đều không trở ngại, trong tâm niệm A Mi Đà Phật là được rồi. Khi có việc, thì toàn tâm toàn lực để làm việc, buông xuống Phật hiệu, sau khi làm việc xong liền đề khởi Phật hiệu, là người niệm Phật thật sự, thật có thể vãng sanh. Tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần, nên ngài có trí huệ, ngài nhìn mọi thứ rõ ràng hơn người khác nhìn, đạo lý là ở đây, ngài không có ô nhiễm. Cổ nhân nói: 旁觀者清,當局者迷 “Bàng quan giả thanh, đương cục giả mê”, đương cục là gì? Họ có tư duy, họ có suy nghĩ. Người bàng quan không có, không có lợi hại được mất, nên nhìn rất rõ ràng. Học Phật, Phật dạy cho chúng ta, luôn luôn làm một người ngoài cuộc, thì quý vị rõ ràng, thời thời khắc khắc giữ gìn thanh tịnh bình đẳng giác.

Giải thích của Tịnh Ảnh Sớ thì ý nghĩa sâu hơn, chúng ta xem tiếp. 蓋《華嚴》一經唯是信解行證。若於行法顯了明證,如是方為明也 “Cái Hoa Nghiêm nhất kinh duy thị Tín Giải Hành Chứng. Nhược ư hành pháp hiểu liễu minh chứng, như thị phương vi Minh dã” (Bởi vì cả Kinh Hoa Nghiêm chỉ là Tín Giải Hành Chứng. Nếu đối với pháp hành mà hiển liễu minh chứng, như vậy mới là Minh). Câu này là lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giải thích cho chúng ta, ngài giải thích, vẫn là dùng Kinh Hoa Nghiêm để giải thích Tịnh Ảnh Sớ. Bốn chữ được giảng trong toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm, cũng tức là toàn bộ kinh văn chia thành bốn khoa lớn: giảng về Tín, giảng về Giải, giảng về Hành, giảng về Chứng, nên đó là Pháp luân viên mãn, chưa đến chứng quả thì không viên mãn. Chứng quả gì? Là chứng Pháp thân Bồ-tát, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Chứng này, phải không khởi tâm không động niệm mới có thể chứng được, nếu khởi tâm động niệm thì không được. Chúng ta tu hành, sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần bên ngoài, tất nhiên có khởi tâm động niệm, điều đó quá cao rồi, chúng ta làm không được. Phân biệt chấp trước phải càng mờ nhạt càng tốt, năm sau phai nhạt hơn năm trước, đến cuối cùng tháng sau phai nhạt hơn tháng trước, vậy thì quý vị nhất định được sanh Tịnh Độ. Phải buông xuống, biết tất cả những gì trên thế gian này đều là hư ảo, không phải là thật, trên Kinh Kim Cang nói, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, đừng coi là thật, mới có thể nhìn ra chân tướng. Nếu chúng ta có phân biệt, có chấp trước, có xen tạp danh lợi trong đó, như vậy là tạo nghiệp. Nghiệp thiện thì quả báo là ba đường thiện, nghiệp bất thiện thì quả báo là ba đường ác, rất đáng sợ, phải đề cao cảnh giác điều này.

Bồ-tát niệm niệm vì tất cả chúng sanh, không có một ý niệm vì chính mình, đó là gì? Đó là không tạo nghiệp, đó là tịnh nghiệp, hoàn toàn buông xuống chính mình, tuyệt đối không có cách nghĩ của danh văn lợi dưỡng. Ở thế gian này, làm thế nào giúp chúng sanh lìa khổ được vui? Khổ, cứu cánh khổ là Lục đạo luân hồi, vì vậy giúp chúng sanh thoát khỏi Lục đạo luân hồi, đây chính là rời cứu cánh khổ; giúp tất cả chúng sanh vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đó là được cứu cánh vui. Công đức này bình đẳng với chư Phật Như Lai, không có gì lớn hơn công đức này. Giúp được một người thì công đức thật tuyệt vời, nếu giúp mấy chục người, mấy trăm người, mấy ngàn mấy vạn người, thì công đức đó bình đẳng với Phật. Do đó có cơ hội thì nên làm.

Ngày nay xây chùa chiền, lãng phí nhiều tiền như vậy chôn xuống đất, thật không đáng. Nên phải làm gì? Xây đài truyền hình. Xây một đài truyền hình, thỉnh Pháp sư ngày ngày đến giảng kinh thuyết pháp, toàn thế giới đều nghe được. Công đức này, không có người nào trên thế giới này có thể so sánh với quý vị, không chỉ nhân gian không thể so sánh, mà thiên vương của cõi trời cũng không bằng quý vị. Tốt! Chúng ta phải nhìn thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ, ngày nay chúng ta muốn giúp đỡ thế giới này, như lời của ông Toynbee, chúng tôi rất cảm động về lời của ông Toynbee nói, những gì ông nói là lời thật. Làm sao có thể phòng ngừa đại chiến thế giới lần thứ ba trên thế giới này, cách phòng ngừa thế nào? Đó chính là thật sự bắt tay từ giáo dục. Tôi ở nước ngoài, biết không ít người lãnh đạo của đất nước, nhưng không có quen thân. Người có mối quan hệ khá sâu là ông Kevin Rudd, ông ấy chưa làm hết khóa Thủ tướng nước Úc, thì ông từ chức không làm nữa, chúng tôi ngược lại nói chuyện rất là hợp ý.

Xây dựng một đài truyền hình, mỗi tôn giáo có hai, ba kênh đài, phát sóng liên tục cả ngày 24 giờ. Bên trong, kinh điển của các tôn giáo đều có người ở chỗ đó giảng giải, đều có người ở đó hướng dẫn tu hành, điều này thật tốt. Vì vậy mở một trường Đại học tôn giáo, đào tạo thầy truyền giáo của từng tôn giáo, dùng đài truyền hình để phát các bài giảng cho toàn thế giới. Nội dung chính của giáo dục tôn giáo giảng điều gì? Đối với giáo dục rộng khắp ở thế gian không ngoài ba loại: luân lý, đạo đức, nhân quả, không ngoài ba loại này. Đi lên trên một tầng, đó chính là Khoa học và Triết học. Có một số tôn giáo thuộc về Thần học, trong Phật giáo là Triết học và Khoa học. Vì vậy Phật giáo, khi thầy của tôi dạy tôi, đã không công nhận Phật giáo là tôn giáo.

Nhưng Phật giáo hiện nay, trong xã hội, ít nhất có sáu loại hình thức khác nhau. Loại thứ nhất, nền giáo dục của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, không nhìn thấy nữa, chúng tôi đã đi con đường này nhiều năm rồi. Loại thứ hai, đã trở thành tôn giáo, kinh sám Phật sự, Pháp hội, làm điều này, đây là tôn giáo. Loại thứ ba, học thuật, dạy học trong trường Đại học. Trước kia tôi cũng đã dạy bốn năm, dạy bốn năm ở Đại học Văn Hóa, trở thành học thuật, Phật pháp học thuật. Về sau lại xuất hiện, còn có Phật giáo doanh nghiệp, giống như cửa hàng có nhiều chi nhánh, khắp nơi trên thời gian đều có chi nhánh, nhưng không giảng kinh dạy học, đều là lôi kéo tín đồ sám hối, lễ bái, làm những việc này. Một loại khác, còn có Phật giáo du lịch, chuyên môn tổ chức tham quan du lịch. Tôi cũng không phản đối. Loại cuối cùng, tà giáo, điều này là sai lầm, dùng bảng hiệu của Phật giáo để làm việc xấu, thỏa mãn ý đồ cá nhân của họ. Điều này tuy hiện tại có chút lợi ích, nhưng quả báo trong tương lai rất đáng sợ, nhất định là ba đường ác. Thế nên sáu loại hình thức khác nhau: đều gọi là Phật giáo, chúng ta phải làm cho rõ ràng, làm tường tận điều này, vậy chúng ta học thế nào.

Năm xưa thầy của tôi là Đại sư Chương Gia đã nói với tôi, đầu tiên con phải nhận thức đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đừng đi sai đường, điều này vô cùng quan trọng. Tôi học Phật 63 năm, giảng kinh dạy học 56 năm, cũng tức là tôi học 7 năm rồi xuất gia, xuất gia liền dạy học, dạy ở Viện Phật giáo, giảng kinh các nơi ở Đài Loan. Từ Đài Loan ra đến nước ngoài, trạm đầu tiên là Hồng Kông. Niệm lão trích Kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta, Kinh Hoa Nghiêm tóm lại mà nói, chính là nói bốn việc: Tín, Giải, Hành, Chứng, mỗi chữ đều có phân lượng tương đối lớn, đặc biệt là Giải, Hành, Chứng chiếm phân lượng rất lớn. Nếu như nói đối với hành pháp mà hiển liễu minh chứng, thì phải tu hành, chỉ có hành mới có thể chứng, không hành không thể chứng. Minh chứng được, đó chính là ý nghĩa của Minh trong Minh Hạnh Túc. Đây là cách nói thứ hai.

Cách nói thứ ba, là trên Kinh Niết Bàn, quyển thứ 18 của Kinh Niết Bàn, trong kinh văn nói, 明者,名得無量善果 “Minh giả, danh đắc vô lượng thiện quả” (Minh: là đắc vô lượng thiện quả), đây vẫn là trên hành chứng mà đạt được. 善果者 “Thiện quả giả” (Thiện quả), thế nào là thiện quả? 阿耨多羅三藐三菩提 “A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”, như vậy thành Phật rồi. Thiện quả ở đây không phải là chỉ điều gì khác, mà A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi người học Phật theo đuổi. Tất cả đều là nguyên văn, dịch âm của tiếng Phạn, có thể phiên dịch, vì sao không dịch? Bởi tôn trọng nên không dịch. Câu này dịch sang ý nghĩa của nước ta gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, A dịch là Vô, nậu-đa-la dịch là Thượng, Tam dịch là Chánh, miệu dịch là Đẳng, chữ ‘tam’ sau cũng là chánh, Bồ-đề dịch là Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên là có thể dịch, không dịch điều này là bởi tôn trọng. Mục tiêu cuối cùng học Phật của chúng ta, là phải khôi phục A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là công đức viên mãn trong Tự Tánh, không phải đến từ bên ngoài, cũng không phải do chúng ta tu được, mà do trong Tự Tánh vốn có, chỉ là loại bỏ chướng ngại. Gạt bỏ chướng ngại nào? Điều này phải bỏ đi chướng ngại phiền phức nhất, chính là khởi tâm động niệm. Chúng ta ngay trong cuộc sống thường ngày, mở mắt ra có thể nhìn, nhìn gì cũng nhìn rất rõ ràng, nhưng không có khởi tâm động niệm, đó chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Mọi thứ rõ ràng, mọi thứ sáng tỏ, không có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đây là cảnh giới cao nhất của Phật pháp Đại thừa, do đó tâm ở trong định.

Chúng ta đạt đến định này thì khó, dùng phương pháp gì để tu định này? 84.000 Pháp môn, tất cả đều là tu điều này, vô lượng Pháp môn cũng là tu điều này, nên trên Kinh Kim Cang nói, 法門平等,無有高下“Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, bất kỳ một Pháp môn nào cũng có thể tu đạt được, là xem căn tánh của mỗi người. Căn tánh thông thường chúng ta, nhất là trong xã hội hiện nay, Pháp môn phương tiện nhất không gì hơn niệm Phật. Lão Hòa thượng Hải Hiền, ba người của chùa Lai Phật ấy làm tấm gương cho chúng ta, mẹ của ngài và Sư đệ Hải Khánh của ngài, tất cả đều là một câu Phật hiệu. Chưa từng đọc kinh, chưa từng nghe giáo, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, ngài thật niệm thành công rồi, có thành tựu rực rỡ như vậy, nói với chúng ta là thật không phải là giả. Hơn nữa là hiện tại, không phải là quá khứ, người hiện nay chúng ta phải học tập theo ngài, ý nghĩa này sâu biết bao! Biểu pháp cuối cùng ấy viên mãn, thì ngài đi rồi.

Chúng ta vô cùng cảm ân, biểu pháp cuối cùng là gì? Là có liên quan đến chúng ta. Chứng minh thứ nhất, Bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, bản kinh mà chúng ta dùng hiện tại là thật, không phải là giả; chứng minh thứ hai, Tập giải, Chú Giải của ngài Hoàng Niệm Tổ, Chú Giải này là chính xác, không có sai lầm; chứng minh thứ ba là những người chúng ta căn cứ vào quyển này, căn cứ Chú Giải này để tu hành thì không sai, để chúng ta an tâm. Bởi vì những năm gần đây, rất nhiều người phê bình đối với quyển này và Chú Giải, khiến rất nhiều người sau khi nghe xong đều thoái tâm, đều thay đổi mà học các Pháp môn khác. Lão Hòa thượng đến biểu pháp cho chúng ta, giúp tâm của chúng ta định lại, khó được! Đối với người chúng ta hiện nay có đại ân đại đức. Ngày nay chúng ta còn có kinh để làm chỗ dựa, ngài chỉ một câu Phật hiệu, đây là thiện căn phước đức nhân duyên của chúng ta không bằng ngài, ngài có thể tin. Chúng ta phải từ trong kinh giáo, tìm ra rất nhiều chứng cứ thì mới có thể tin, còn ngài không cần, Sư phụ vừa nói ngài liền tin, tôi không làm được điều này.

Khi tôi vào lần đầu tiên, Pháp sư Sám Vân giới thiệu Tịnh Độ cho tôi, tôi chưa tiếp nhận, khi đó hình như tôi 30 tuổi, lúc 30, 31 tuổi, chưa tiếp nhận. Về sau thầy Lý cũng giới thiệu rất nhiều lần, ít nhất có năm, sáu lần, tôi cũng chưa tiếp nhận. Tôi theo ngài học Hoa Nghiêm, học Lăng Nghiêm, học Kinh Kim Cang, đây là chương trình học chủ tu dưới hội của thầy Lý. Phân lượng của Hoa Nghiêm lớn, Kinh Lăng Nghiêm tôi nhớ hình như đã giảng bảy lần, Kinh Kim Cang thì giảng tương đối nhiều lần, Kinh Pháp Hoa thì đã giảng đại ý một lần. Kinh Hoa Nghiêm thì đã giảng hai lần, hai lần cũng chưa giảng xong. Cuối cùng giảng, giảng rất chi tiết, nói tỉ mỉ Kinh Hoa Nghiêm này cho chúng ta, đạo vị ấy vô cùng. Tôi giảng đến 初住品 “Sơ trụ Phẩm” (Phẩm Sơ trụ) thì ngừng lại, khoảng 1/5 toàn bộ kinh đã dùng hơn 4.000 giờ, nên lúc đó tôi ước tính, nếu giảng hết kinh đó thì cần 20.000 giờ. Chương trình học của trường học nào có 20.000 giờ? Kinh Đại thừa thật sự là tuyệt vời. Tôi đến 85 tuổi, ngừng Hoa Nghiêm lại, chuyên giảng Kinh Vô Lượng Thọ, chỉ chuyên giảng quyển này, cũng tức là chuyên giảng Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Nội dung của Tập Chú vô cùng phong phú, ngài trích dẫn 83 loại kinh luận và 110 loại chú sớ của Tổ sư Đại đức, tương đương với việc chúng ta học một bộ này, giống như học một bộ Tạng Kinh nhỏ.

Nên vô lượng thiện quả là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, 是說最深 “thị thuyết tối thâm” (thuyết này sâu nhất), ý nghĩa này nói rất sâu. 蓋以得無上正等正覺為明也“Cái dĩ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vi Minh dã” (Bởi vì được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Minh), Minh này chỉ có một người chứng được, là Diệu Giác. Đẳng giác chưa chứng được, Đẳng giác và 51 địa vị Bồ-tát, thứ 52 mới chứng được, Pháp thân Như Lai rốt ráo viên mãn, vậy mới xưng là Minh. 今釋本經 “Kim thích bổn Kinh” (Nay giải thích Kinh này), để giải thích bộ Kinh này của chúng ta, 以《涅槃》之說為妥“dĩ Niết Bàn chi thuyết vi thỏa” (dùng thuyết của Kinh Niết Bàn là thỏa đáng), Kinh Niết Bàn chính là ở đây nói, nói ở chỗ này, đây là thỏa đáng nhất.

又行足者,《涅槃經十八》曰:行名腳足 “Hựu Hạnh Túc giả, Niết Bàn Kinh Thập Bát viết: Hạnh danh cước túc” (Lại nữa về Hạnh Túc, thì quyển 18 của Kinh Niết Bàn nói: Hạnh là cước túc), tức là đôi chân của chúng ta. 腳足者,名為戒慧 “Cước túc giả, danh vi Giới Huệ” (Cước túc: gọi là Giới Huệ), đây là Tam học: Giới Định Huệ. 乘戒慧足,得阿耨多羅三藐三菩提,是故名為明行足也“Thừa Giới Huệ túc, đắc A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thị cố danh vi Minh Hạnh Túc dã” (Nương nhờ Giới Định Huệ, được A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho nên gọi là Minh Hạnh Túc), đây chính là nói chữ “túc” này tức là Giới Định Huệ. Chúng ta tu Giới Định Huệ, chứng được Vô Thượng Bồ-đề, vậy gọi là Minh Hạnh Túc. Cách nói này nói rất sâu, thật sự chỉ là Diệu Giác mới có thể chứng được, phù hợp với giáo nghĩa, tông chỉ của Kinh này.

《淨影疏》同之 “Tịnh Ảnh Sớ đồng chi” (Tịnh Ảnh Sớ cũng giống vậy), trong Tịnh Ảnh Sớ cũng là dùng cách giải thích trong Kinh Niết Bàn. 疏曰:龍樹說,戒定慧等,名之為行 “Sớ viết: Long Thọ thuyết, Giới Định Huệ đẳng, danh chi vi Hạnh” (trong Sớ nói: ngài Long Thọ nói, Giới Định Huệ vân vân, được gọi là Hạnh), hạnh là tu hành, tiêu chuẩn của tu hành chính là Giới Định Huệ. Giới có hai loại: Chỉ và Tác, Chỉ là cấm chỉ, giống như nói không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, đây là Chỉ, không được làm; Ngoài ra còn điều gì? Còn có hành, đó là nhất định quý vị phải làm. Giới Bồ-tát phần lớn đều là Tác trì, thí như nghe kinh, nơi đó có Pháp sư giảng kinh, trong 40 dặm của giảng đường giảng kinh, vào thời xưa quý vị có thể đi được, đi tới đó để nghe kinh, nghe xong rồi trở về. Nếu quý vị không đến nghe kinh thì phạm giới rồi, vì sao vậy? Bởi Bồ-tát ủng hộ đạo tràng. Dù là tiểu Pháp sư sơ học đến giảng kinh, thì lão Cư sĩ lớn tuổi đều phải đến nghe kinh. Tại sao? Bởi làm ảnh hưởng chúng, để cho những người nghe kinh ấy thấy được, những người đó đều ngồi ở đó, đại khái giảng rất khá, giúp họ sanh khởi tín tâm, sanh khởi tâm cung kính, là làm ảnh hưởng chúng. Hiện nay giao thông thuận lợi, nói cách khác, chạy xe chắc là trong một tiếng, nên cần phải đến nghe kinh, quá một tiếng thì có thể không đến. Đây là một loại. Giới luật có hai loại lớn như vậy. Đây là nói hành pháp. 此二(明與行)“Thử nhị (Minh dữ Hạnh)” (Hai thứ (Minh và Hạnh) ấy), Không huệ, Minh và Hạnh, Không huệ, 圓具 “viên cụ” (đầy đủ viên mãn), viên là viên mãn, cụ là đầy đủ, đầy đủ viên mãn, đây là Túc. Nên chữ “túc” này là ví dụ, tỉ dụ Minh và Hạnh, trí huệ và đức hạnh đầy đủ viên mãn, đây là ý nghĩa của chữ “túc” này.

又《會疏》稍異 “Hựu Hội Sớ sảo dị” (Còn trong Hội Sớ thì hơi khác), đây đều là cổ Đại đức của Tịnh tông Nhật Bản, tức là trong Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ của các ngài nói, 行足者,謂身口意業,真正清潔。於自願力一切之行,善修滿足,故號明行足 “Hạnh Túc giả, vị thân khẩu ý nghiệp, chân chánh thanh khiết. Ư tự nguyện lực nhất thiết chi hạnh, thiện tu mãn túc, cố hiệu Minh Hạnh Túc” (Minh Hạnh Túc: nghĩa là nghiệp thân khẩu ý, thật sự thanh khiết. Nhờ nguyện lực của chính mình mà khéo tu đầy đủ tất cả hạnh, nên hiệu là Minh Hạnh Túc). Ý nghĩa này cũng hay, thân khẩu ý, Giới Định Huệ, thật sự thanh tịnh. Với nguyện của chính mình, nguyện của bản thân, tứ hoằng thệ nguyện, 眾生無邊誓願度,煩惱無盡誓願斷,法門無量誓願學,佛道無上誓願成 “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo Vô Thượng thệ nguyện thành”, với nguyện lực này, hạnh nguyện đầy đủ, trong hạnh có nguyện, trong nguyện có hạnh, khéo tu viên mãn như vậy, được xưng là Minh Hạnh Túc.

五、善逝 “Ngũ, Thiện Thệ” (Thứ năm là Thiện Thệ). Thế nào là Thiện Thệ? 善者好也。逝者去也 “Thiện giả hảo dã. Thệ giả khứ dã” (Thiện là Hảo. Thệ là Khứ), nên Thiện Thệ 又名好去 “hựu danh hảo khứ” (lại còn được gọi là Hảo Khứ). Đại Luận là Luận Đại Trí Độ, trong Luận Đại Trí Độ nói, 好去者,於種種諸深三摩提(即正定),無量諸大智慧中去 “Hảo Khứ giả, ư chủng chủng chư thâm Tam-ma-đề (tức Chánh định), vô lượng chư đại trí huệ trung khứ” (Hảo Khứ: là đạt đến tất cả Tam-ma-đề thâm sâu (tức là Chánh định), vô lượng các đại trí huệ). Tu trí huệ ấy, tu đại định ấy, hoàn toàn hướng về trí huệ. Tất cả các loại Tam-ma-đề thâm sâu, đây là Chánh định. Tất cả các loại, là nói 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, bất kể là loại Pháp môn nào, đều tu đến Chánh định. Làm thế nào được định? Chính là buông xuống. Nên tu hành coi trọng ở buông xuống, buông xuống khởi tâm động niệm, buông xuống phân biệt, buông xuống chấp trước, giúp tâm thanh tịnh của chính mình hiện tiền, thì thành tựu giới; tâm bình đẳng hiện tiền, thì thành tựu định. Sau khi thành tựu giới và định, sẽ khiến cho trí huệ hiện ra, trí huệ Bát-nhã trong Tự Tánh tự nhiên hiện tiền, trí huệ hiện tiền, hoàn toàn thông suốt sáng tỏ chân tướng của tất cả pháp.

Vì thế, đó là đức Phật, cũng là tất cả chư Phật trong mười phương ba đời dạy người phương pháp Minh tâm Kiến tánh. Sau khi phương pháp này truyền đến Trung Hoa, nhà Nho của nước chúng ta đã tiếp nhận, nhà Đạo cũng tiếp nhận rồi, đó chính là lý niệm và phương pháp của dạy học. Vì vậy thầy dạy học của nhà Nho Trung Hoa, đòi hỏi học sinh có huệ căn hay không, coi trọng điều gì? Ngộ tánh, điều này quan trọng. Ngộ tánh rất cao, tư duy nhanh nhạy, tương lai hạng người ấy có đại thành tựu. Như vậy cần hạ công phu ở Thượng căn, dưỡng thành thói quen, Cổ nhân nói là 少成若天性,習慣成自然 “thiếu thành nhược thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (từ nhỏ thành thiên tánh, thói quen thành tự nhiên), dùng phương pháp tốt nhất để trau dồi thói quen của họ, lương thiện giống như bản tánh vậy. Đạo gia cũng như thế, Nho gia chưa xả được sạch sẽ đối với danh lợi, suy cho cùng vẫn là pháp thế gian, Đạo là pháp xuất thế gian, Đạo có thể nói là hoàn toàn buông xả rồi, xả còn nhiều hơn Nho gia, nên địa vị của Đạo vẫn cao hơn Nho.

Phật là giảng rất viên mãn, thế pháp và Phật pháp hoàn toàn viên dung với nhau, thật sự tác dụng rộng lớn. Mỗi một việc đều có thể làm, những gì Ngài làm không phải vì chính mình, mà lợi ích chúng sanh, đoạn ác tu thiện, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, vì chúng sanh không phải vì chính mình. Không vì chính mình đó là xuất thế gian, pháp xuất thế, làm tất cả mọi việc để giúp người rời khổ được vui, đây là pháp thế gian, thế và xuất thế gian viên dung rồi, thế gian không trở ngại xuất thế gian, xuất thế gian cũng không trở ngại thế gian, viên dung rồi, thật tuyệt diệu, thật sự được đại tự tại. Từ sự hồi hướng của Phật pháp thì rõ ràng có thể nhìn thấy, trong hồi hướng không có vì chính mình, mà hồi hướng cho chúng sanh, hồi hướng Bồ-đề, hồi hướng Tự Tánh, tuyệt vời biết bao!

Đạt được vô lượng các đại trí huệ. 如偈說 “Như kệ thuyết” (Như kệ nói), tiếp theo kệ nói, 佛一切智為大車“Phật Nhất Thiết Trí vi đại xa” (Phật Nhất Thiết Trí là xe lớn), ví dụ giống như cỗ xe lớn, 八正道行入涅槃“Bát chánh đạo hành nhập Niết-Bàn” (hành Bát chánh đạo nhập Niết-Bàn). Cỗ xe này ở đâu? Trong Bát chánh đạo. Bát chánh đạo thông nhập vào Bát-Niết-Bàn, Bát-Niết-Bàn chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cỗ xe này là hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên đây là Hảo Khứ, đến được nơi tốt, nơi đó quá tốt rồi. Thêm nữa Hợp Tán nói: 善者,最初發心。逝者,大般涅槃。如來不捨最初發心,得大涅槃,是故如來名為善逝 “Thiện giả, tối sơ phát tâm. Thệ giả, đại Bát-Niết-Bàn. Như Lai bất xả tối sơ phát tâm, đắc đại Niết-Bàn, thị cố Như Lai danh vi Thiện Thệ” (Thiện: là phát tâm ban đầu. Thệ: là Đại-Bát-Niết Bàn. Như Lai không bỏ sự phát tâm ban đầu, mà được đại Niết-Bàn, cho nên Như Lai gọi là Thiện Thệ). Đây là Như Lai làm tấm gương cho chúng ta, sơ phát tâm liền thành Phật đạo, phát tâm thì thành Phật rồi. Hợp Tán nói điều này, Như Lai không xả sơ phát tâm, Ngài đã thành Phật, thế nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. 是均以入涅槃為善逝 “Thị quân dĩ nhập Niết-Bàn vi Thiện Thệ” (Đây đều lấy nhập Niết-Bàn là Thiện Thệ), đó chính là hồi quy Tự Tánh. Mục đích cuối cùng của dạy học trong Phật giáo là trở về Tự Tánh, hiện nay nhà Cơ học Lượng tử nói là Năng lượng Điểm không, làm thế nào có thể trở về đến Năng lượng Điểm không, như vậy viên mãn rồi, Phật pháp là thật sự đạt đến cảnh giới như vậy.

又《會疏》曰:善逝即妙往之義也。謂以無量智慧,能斷諸惑,妙出世間,能趣佛果故。是以趣佛果為善逝。與上說亦無實異。至於佛無來去,云何名好去?“Hựu Hội Sớ viết: Thiện Thệ tức diệu vãng chi nghĩa dã. Vị dĩ vô lượng trí huệ, năng đoạn chư Hoặc, diệu xuất thế gian, năng thú Phật quả cố. Thị dĩ thú Phật quả vi Thiện Thệ. Dữ thượng thuyết diệc vô thật dị. Chí ư Phật vô lai khứ, vân hà danh hảo khứ?”(Lại nữa, trong Hội Sớ nói: Thiện Thệ chính là nghĩa của diệu vãng. Tức là dùng vô lượng trí huệ, có thể đoạn các Hoặc, khéo xuất thế gian, có thể mau tới Phật quả. Do đó mau tới Phật quả là Thiện Thệ. Thật ra cũng không khác với cách nói trên. Còn với Phật không có đến đi, tại sao nói là Hảo Khứ?) Vấn đề này hỏi rất hay. Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: 佛德圓滿,更何處去,而言好去,雖無去處,非不能去。如劫盡火,雖非所燒,非不能燒,故得云去 “Phật đức viên mãn, cánh hà x khứ, nhi ngôn hảo khứ, tuy vô khứ x, phi bất năng khứ. Như kiếp tận hỏa, tuy phi sở thiêu, phi bất năng thiêu, cố đắc vân khứ”(Đức của Phật viên mãn, sao lại ở hay đi, mà nói là Hảo Khứ, tuy không có nơi đến, nhưng chẳng phải là không thể đến. Như lửa trong kiếp tận, tuy không bị thiêu, nhưng chẳng có gì mà không thiêu được, nên được gọi là Khứ). Ý nghĩa này cũng nói được rất hay, Phật thật sự ở trong cảnh giới đó, tất cả sự đối lập đều không tồn tại, đâu có đến đi? Có thể thấy được cách nói này là pháp phương tiện, là để những người chúng ta đây, chưa học thành Phật đạo, ở giữa đường đi, nhắc nhở chúng ta. Phật thật sự đến thì không từ đâu đến, đi thì cũng không đi về đâu, Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay, 當處出生,隨處滅盡 “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, đó chính là ý nghĩa thật sự của Hảo Khứ. Có chấp trước hay không? Không có, trong tâm không có dấu tích nào. Phật nói hiện tượng này gọi là pháp nhĩ như thị, còn tự nhiên hơn tự nhiên, tất cả pháp vốn như vậy. Tốt, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 139)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật