Responsive Menu
Add more content here...

Tập 141 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 141

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 03/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 384, hàng thứ năm từ trái qua, khoa đề 住世度眾 “Trụ Thế Độ Sanh” (Trụ Thế Độ Chúng Sanh). Mời xem kinh văn:

  【在世教授四十二劫。時為諸天及世人民說經講道。】“Tại thế giáo thọ tứ thập nhị kiếp. Thời vị chư thiên cập thế nhân dân thuyết kinh giảng đạo” (Ở đời giáo dục truyền dạy 42 kiếp. Thường vì chư thiên cho đến nhân dân thuyết kinh giảng đạo).

Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 『在世教授四十二劫,時為諸天及世人民說經講道』“Tại thế giáo thọ tứ thập nhị kiếp, thời vị chư thiên cập thế nhân dân thuyết kinh giảng đạo” (Ở đời giáo dục truyền dạy 42 kiếp, thường vì chư thiên cho đến nhân dân thuyết kinh giảng đạo), câu kinh văn này là được trích lục trong bản Hán Dịch, hội tập [từ] trong quyển đó. Đây chính là nói rõ: từng chữ từng câu đều là do Phật thuyết, tuyệt không phải là do người đời sau ngụy tạo. Phiên bản Hội Tập này của Hạ Liên lão, biết rằng rất nhiều người phê bình, thậm chí phỉ báng, nên sau khi hội tập thành công đã giảo chánh 10 lần, để tìm ra những lỗi trong đó, tổng cộng đã dùng thời gian 10 năm, khiến mọi người không tìm ra lỗi, không tìm được chữ nào chẳng phải là văn tự của kinh gốc, như vậy [để] lấy tín nhiệm đối với người đời sau. Ở thời hiện đại rất hiếm có, lão Hòa thượng Hải Hiền làm chứng cho chúng ta, chứng minh quyển Hội Tập ấy của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, từng chữ từng câu đều là lời của Phật, là chân kinh, không phải ngụy tạo. Thứ hai chứng minh cho chúng ta, Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: cũng là từng chữ từng câu đều có căn cứ, không phải là do ngài tự ngụy tạo, ngài đã dùng 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của Tổ sư: để Chú Giải bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, trí huệ chân thật, phương tiện thiện xảo. Trong một trăm chín mươi mấy loại sách hay, ngài đã hội tập thành một bản Chú Giải này, quá khó được rồi, nếu không phải là trí huệ chân thật thì nhất định không làm được như vậy. Càng hiển thị chúng sanh thời đại chúng ta đây có phước báo, cảm ứng được Thánh Hiền trụ thế, lựa chọn kinh cho chúng ta, Chú Giải cho chúng ta, giúp chúng ta sanh khởi tin thật nguyện thiết, nghiêm túc học tập, lão thật niệm Phật, quyết định vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì đời này chúng ta chứng được thành tựu rốt ráo viên mãn, chúng ta phải quý trọng.

Pháp môn này vi diệu, Pháp môn rốt ráo, Pháp môn viên mãn, then chốt chính là: chân tín thiết nguyện. Ý niệm vãng sanh Thế giới Cực Lạc ấy vô cùng khẩn thiết, phải giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, thường xuyên cầu A Mi Đà Phật dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc. Ngài yêu cầu rất nhiều lần, tôi tin mỗi lần thấy A Mi Đà Phật, ngài đều yêu cầu. Nhưng Phật mỉm cười, mà không dẫn ngài đi. Tại sao vậy? Bởi ngài tu tốt, bảo ngài ở trên thế gian thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người học Phật thấy. Đệ tử nhà Phật tiêu chuẩn giống như ngài vậy, phải học tấm gương tốt cho người niệm Phật xem; niệm Phật giống như ngài thì chắc chắn vãng sanh, mọi người đều học ngài, thì lời của Đại sư Thiện Đạo được thực hiện rồi. Đại sư Thiện Đạo nói gì? Ngài nói Pháp môn này vạn tu vạn người đi, sẽ không bỏ sót ai. Lời này là thật, không phải giả. Vì vậy, vào lúc đó, Hàn Quốc láng giềng của chúng ta (khi đó gọi là Triều Tiên, Cao Ly), Nhật Bản, Việt Nam, nhiều du học sinh đến Trung Hoa để du học, phần lớn đều là theo ngài Thiện Đạo, theo Đại sư Trí Giả của Thiên Thai. Nên người thành tựu của Tịnh Độ tông, Thiên Thai tông ở Hàn Quốc và Nhật Bản nhiều. Tôi tin sự thành tựu này: nhất định là được ảnh hưởng bởi Đại sư Thiện Đạo, đó chính là vạn tu vạn người vãng sanh. Phải có thầy giỏi, phải có người chân thật đến học, thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, so sánh thoáng qua hai Thế giới ở trước mặt của chúng ta, tự nhiên xả Ta Bà, chọn Cực Lạc, là lẽ thường tình của người.

Chúng tôi đọc câu kinh văn này thì xúc động vô cùng, thứ nhất, ngưỡng mộ phước báo của chúng sanh lúc đó lớn. Nhìn từ đâu vậy? Từ 教授四十二劫 “Giáo thọ tứ thập nhị kiếp” (Giáo dục truyền dạy 42 kiếp). Đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên trái đất, vào 3000 năm trước, ở thế gian giảng kinh dạy học 49 năm, còn đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật ở thế gian dạy học 42 kiếp, không thể so sánh. Thọ mạng càng dài nói rõ phước báo của chúng sanh lúc ấy lớn, Phật trụ thế thời gian cũng dài, tuổi thọ của chúng sanh dài, thời gian dạy học của Phật dài, thọ mạng của chúng sanh chắc chắn vượt qua 42 kiếp. Giống như tuổi thọ của chúng sanh trong Thế giới này của chúng ta chỉ có 100 năm, khi Phật xuất hiện ở đời, người 100 tuổi rất nhiều, Phật dạy học 49 năm, cho dù 50 năm. Phật trụ thế dạy học 42 kiếp, tuổi thọ của cõi người ít nhất cũng phải gấp đôi, là tám mươi, chín mươi kiếp, thậm chí 100 kiếp, là thọ mạng dài như vậy. Thọ mạng dài, thời gian học tập dài, nếu không có huân tu lâu dài thì không thể khai ngộ. Vì vậy thọ mạng là đức đầu tiên trong phước báo, không có thọ mạng dài, dù phước báo lớn đến đâu thì quý vị cũng không cách nào hưởng. Thọ mạng là đức thứ nhất, xem tuổi thọ liền có thể nhìn thấy sự thịnh suy, họa phước, kiết hung của thời đại đó.

Phật làm gì ở thế gian? Chú Giải của Niệm lão nói, 彼佛住世宏法共四十二劫 “bỉ Phật trụ thế hoằng pháp cộng tứ thập nhị kiếp”(đức Phật ấy trụ thế hoằng pháp tổng cộng 42 kiếp), thời gian dài như vậy luôn luôn vì chư thiên và nhân dân, nhân dân là người dân của thế gian, 演說經文,講論道法與道要。道者,覺悟之路也 “diễn thuyết kinh văn, giảng luận đạo pháp dữ đạo yếu. Đạo giả, giác ngộ chi lộ dã”(diễn thuyết kinh văn, bàn luận đạo pháp và đạo yếu. Đạo: là con đường giác ngộ). Đạo là con đường, con đường này thông tới đâu? Thông đến thành Phật, con đường thành Phật. Vì vậy lão Hòa thượng Hải Hiền thường hay khuyên người, khi gặp người sẽ luôn nói một câu như thế này: “Chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, những thứ khác đều là giả”. Câu này là khẩu đầu thiền của lão Hòa thượng, gặp người, bất kể là nam nữ già trẻ, hiền ngu bất tài, chỉ một câu này. Cây này là lời thật, câu này: là ba loại chân thật trong Kinh Vô Lượng Thọ, câu này là Chân thật chi tế (từ trong Chân Tâm lưu lộ ra), là trí huệ chân thật, là lợi ích chân thật. Nên cả đời của ngài chỉ nắm lấy một câu này, một câu Phật hiệu này đã niệm 92 năm, ngài thật tin, nguyện thiết, mong sớm một ngày thoát khỏi Lục đạo luân hồi, sớm một ngày vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Ngài đạt được hai điều kiện này vào lúc nào? Chúng ta lắng tâm để xem đĩa phim về ngài, nếu quý vị xem trên mấy trăm lần, xem mấy ngàn lần, thì quý vị nhìn ra cửa đạo rồi. 20 tuổi ngài xuất gia, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu: “Nam Mô A Mi Đà Phật”, dặn ngài cứ niệm liên tục, lại nói với ngài, khi sáng tỏ rồi không nên nói lung tung, không được nói. Sáng tỏ ở đây có ý nghĩa gì? Sáng tỏ là khai ngộ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đây gọi là sáng tỏ, giác ngộ rồi. Giác ngộ là địa vị nào? Giống như khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật 30 tuổi: ở dưới cây Bồ-đề đêm nhìn sao sáng, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thành Phật thì điều gì cũng sáng tỏ rồi. Không có ai dạy ngài, vì sao có thể  sáng tỏ? Bởi vì quý vị vốn là Phật. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay, “tất cả chúng sanh vốn là Phật”. Vì thế thành Phật không hiếm lạ, thành Phật ai cũng đều có phần. Vậy làm thế nào mới có thể thành Phật? Hãy nhớ, quý vị và tôi vốn là Phật, hiện tại như thế nào? Hiện tại sáu căn trong cảnh giới sáu trần: khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước trở thành phàm phu, nếu sáu căn trong cảnh giới sáu trần mà không khởi tâm không động niệm thì gọi là Phật. Thế nên Phật không có gì lạ, Phật không phải là thần tiên, Phật là một người giác ngộ, người giác ngộ rốt ráo viên mãn, Ấn Độ cổ xưng Ngài là Phật-Đà. Vì sao Ngài có thể giác ngộ? Bởi Ngài thấy sắc nghe tiếng có thể làm được không khởi tâm không động niệm, đó là thành Phật. Vì vậy chân Phật hay giả Phật: vốn là một, không phải ngoài giả Phật có chân Phật, ngoài chân Phật có giả Phật, không phải vậy. Chân Phật giả Phật là một thể, khi giác chính là chân Phật, khi mê chính là giả Phật, giả Phật là chúng sanh Lục đạo, cùng một sự việc.

Mục tiêu cuối cùng của nền giáo dục Phật-Đà chính là cầu giác ngộ, hồi quy Tự Tánh, giúp giả Phật của chúng ta trở về được chân Phật. Chân Phật và giả Phật là một không phải hai, giả thì mê muội tạo nghiệp, chịu khổ báo trong Lục đạo luân hồi; thật thì ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, nơi đó không có khổ, nơi của chúng ta đây nói ba loại khổ, tám loại khổ, vô lượng khổ sở, còn Thế giới Cực Lạc không có, không tìm thấy một loại nào. Đến thế gian này để đầu thai, người mẹ mang thai mười tháng, mười tháng ấy ở trong bào thai, trên kinh Phật miêu tả họ, giống như trong địa ngục, khổ không tả xiết, đó là sanh khổ. Nên khi vừa ra đời, không chịu đựng được loại thống khổ đó, nên kêu to khóc lớn. Quý vị đã bao giờ nhìn thấy trẻ nhỏ sanh ra mỉm cười chưa? Không có. Tại sao vậy? Bởi điều chúng chịu đựng trong bào thai là khổ, không phải là vui, khổ mới khóc, khóc lóc thảm thiết. Vừa ra đời liền sanh ra đau khổ, đau khổ đến cả đời, sanh lão bệnh tử: đủ cho quý vị cảm nhận. Nền giáo dục của đức Phật cao minh, dạy quý vị rời khổ được vui. Lão Hòa thượng Hải Hiền không tránh được sanh khổ, giống như mọi người, về già, người khác có lão khổ, còn ngài không có lão khổ. Già thì thế nào? Thể lực suy yếu, đi lại gặp khó khăn, cần người chăm sóc. Ngài 112 tuổi, thân thể khỏe mạnh, mắt không bị hoa, tai không bị nặng, đầu óc minh mẫn, tư duy nhanh nhạy, thân tâm mạnh khỏe, không có lão khổ. Ngài cũng không có bệnh khổ, khi chết nói đi là đi rồi, không có tử khổ. Quý vị xem sanh lão bệnh tử, không tính sanh, còn lão bệnh tử thì không khổ. Tâm địa trong sạch, không nhiễm một trần, không có điều này tốt thứ kia xấu, nên ngài không có oán tắng hội khổ, không có ái biệt ly khổ, không có cầu bất đắc khổ, cơm canh đạm bạc, rất hoan hỷ. Vào ngày sinh nhật, tín đồ cúng dường một bàn thức ăn, ngài vừa nhìn, không ăn một miếng nào. Là vì sao? Bởi biểu pháp, tất cả tự nhiên thì tốt, không muốn đặc biệt tăng thêm thức ăn cho ngài, đặc biệt tăng thêm thức ăn cho ngài là không tốt, sống rất bình thường tốt biết mấy, nên một miếng ngài cũng không ăn. Bình thường là tốt, tự nhiên là tốt, không bình thường, không tự nhiên đều không phải là việc tốt. Từ sáng đến tối rất vui vẻ, rất hạnh phúc, pháp hỷ sung mãn. Những Đệ tử thân cận bên cạnh ngài nói với chúng tôi, chưa nhìn thấy lão Hòa thượng nổi giận một lần trong đời, chưa bao giờ nhìn thấy, mà thấy ngài luôn tươi cười, một niềm hoan hỷ, vô cùng từ bi; không nói xấu bất kỳ ai, cả đời không phê bình người. Ngài dùng tâm gì? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng xử việc đối người tiếp vật, 92 năm. 92 năm biểu pháp chú trọng vào chiêu cuối cùng, chiêu cuối cùng là gì? “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng”. Người Trung Hoa thường nói gia hòa vạn sự hưng, cả gia đình này hòa thuận thì chắc chắn hưng thịnh. Đoàn thể, Tăng đoàn cũng như thế, đoàn thể học Phật này không hòa, thì chắc chắn suy bại; ngài muốn một đoàn thể vui vẻ, khen ngợi lẫn nhau, thì nhất định sẽ hưng vượng. Nên ngài chờ đợi, đợi cho tới hôm nay, nhưng Tăng đoàn vẫn không hòa.

Đời này, chúng ta cầu sự hòa hợp, có thể nhẫn được mọi thứ, có thể nhượng bộ bất cứ điều gì, thật sự làm được 於人無爭,於世無求“ư nhân vô tranh, ư thế vô cầu”(không tranh với người, không cầu với đời), hài lòng đối với cuộc sống hiện tại của chúng ta, bằng lòng tiếp nhận, tuyệt không bài bác, tâm địa thanh tịnh là tốt. Hiểu rõ là trí huệ, có thể nhẫn là công phu. Phật sự là gì? Chữ “sự” trong Phật sự là sự nghiệp. Sự nghiệp của đức Phật là gì? Dạy học. Cả đời làm một người thầy giữ bổn phận, người thầy ấy có đạo đức, có trí huệ, có học vấn. Thân hành ngôn giáo đó là sự nghiệp của Phật, mục đích của sự nghiệp: là giúp tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, không cầu báo đáp, không thu học phí. Là thật, không phải giả. Đệ tử Phật tuyệt đối không cầu người cúng dường, có tâm cầu người cúng dường thì không phải là Đệ tử của đức Phật, tất cả đều quy về tự nhiên. Cầm bát khất thực, làm sao người khác biết quý vị cầm bát khất thực? Hai bên của chúng tôi đây có gậy trích trượng, dùng gậy trích trượng khi khất thực, đầu của gậy tích trượng có mấy chiếc vòng, khi khất thực, đến trước cửa nhà người ta thì rung gậy tích trượng. Gậy tích trượng vừa rung, bên trong có người nghe được, biết người xuất gia đến khất thực, tự nhiên đi ra cúng dường. Nếu rung ba lần mà không ai ra, thì nhanh chóng rời đi, trong nhà ấy hoặc không có ai, hoặc họ không muốn cúng dường quý vị, thì quý vị phải đi. Vả lại chỉ có thể khất thực bảy nhà, nếu bảy nhà đều không cho quý vị, thì quý vị thành thật trở về, sẽ không đói. Có người khác khất thực được nhiều sẽ chia cho quý vị. Khất thực trên bảy nhà thuộc về tâm tham, quy định mà Phật đặt ra cho chúng ta, không vượt quá bảy, không vượt quá bảy nhà, rung gậy tích trượng không được vượt quá ba lần, tác dụng lớn nhất là như vậy. Vào thời xưa, bởi vì người xuất gia sống trên núi, trên núi có dã thú, có trộm cướp, nhất là gặp phải người xấu, gậy tích trượng có thể làm vũ khí, dùng để phòng thân, có thể làm phòng thân, là công dụng như vậy, nhất định phải biết điều này. Không quên giáo huấn của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, quy định đã thiết lập cho chúng ta, từ đời này sang đời khác chúng ta phải tuân thủ. Mỗi ngày ra ngoài khất thực một lần, giữa ngày ăn một bữa, sau khi ăn xong thì thuyết kinh giảng đạo. Bởi vì quy định của Phật quá giữa ngày không ăn, mặt trời đang giữa ngày, nếu quá giữa ngày thì không ăn. Thời xưa không có đồng hồ, nên phải biết nhìn mặt trời, bóng cây, bóng người được chiếu sáng bởi mặt trời, đều có thể đo được rất chính xác thời gian giữa ngày. Mỗi ngày thời gian giữa ngày đều khác nhau, vậy khi nào không quá giữa ngày? Tốt nhất trước 11 giờ rưỡi, là không quá giữa ngày. Giờ ăn cơm của các đức Phật đại khái đều là vào lúc 11 giờ, khoảng 11 giờ đến 11 giờ rưỡi, là ăn cơm vào lúc đó. Buổi tối ngủ một đêm dưới cây, trải qua cuộc sống du mục, nơi cư trú không cố định, không có chỗ ở cố định, hôm nay ở đây, đêm mai ở nơi khác. Vì sao đức Phật phải làm như vậy? Đơn giản là nói quý vị thật sự cảm nhận được nỗi khổ của nhân gian, biết khổ mới muốn rời khổ, nếu không biết khổ thì họ không muốn rời khổ, thật sự biết liền muốn lìa khổ, rời khỏi Lục đạo luân hồi.

Đức Phật dạy học 49 năm, ý nghĩa thật sự, mong muốn thật sự là hi vọng quý vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Tại sao vậy? Bởi Thế giới Cực Lạc là cứu cánh vui, Lục đạo là cứu cánh khổ, quý vị có thể vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì nguyện độ hóa chúng sanh của Phật viên mãn rồi, đến Thế giới Cực Lạc là viên mãn. Nếu không đến Thế giới Cực Lạc, thì Phật từ bi, bất kể quý vị sanh vào đường nào trong Lục đạo, Ngài đều chiếu cố quý vị, Ngài cũng không quên quý vị. Người căn cơ sâu dày, bất luận trong đường nào đều có cảm ứng với Phật, đặc biệt dễ độ. Lão Hòa thượng Hải Hiền cũng từng trải qua một lần gặp chó sói, một đàn sói đó có thiện căn, quá khứ là đã học Phật, gặp phải vấn đề không thể giải quyết, nhờ lão Hòa thượng giúp đỡ. Lão Hòa thượng giúp chúng, hôm sau chúng còn đến báo ân, không biết chúng kiếm đâu ra mật ong rừng để tặng cho lão Hòa thượng. Quý vị nói chó sói ấy có thiện căn không? Lão Hòa thượng giảng khai thị cho chúng, khuyên chúng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đừng làm đường súc sanh nữa, hãy làm Phật tốt biết mấy. Súc sanh cũng có thiện căn, không những súc sanh, mà trở thành ngạ quỷ, đọa địa ngục có thiện căn hay không? Có, đó đều là nhất thời hồ đồ, nhất thời mê hoặc điên đảo, thật sự đến địa ngục, đến ngạ quỷ đến những nơi đó rồi, hối hận không kịp, luôn luôn mong cầu người siêu độ, siêu độ thì họ thật được lợi ích. Vì vậy phải dùng tâm thanh tịnh đối người tiếp vật, phải dùng tâm bình đẳng, phải thời thời khắc khắc sẵn lòng, vui vẻ giúp những chúng sanh cần giúp đỡ ấy. Họ không tiếp nhận, đó là không có duyên, vậy thì không cần nữa. Chỉ cần chịu tiếp nhận, chỉ cần bằng lòng nghe thì phải giảng cho họ nghe, bằng lòng tiếp nhận liền nghiêm túc dạy bảo họ, đây mới là thầy tốt. Phật là bậc thầy tốt nhất của thế gian. Nên Phật giảng dạy diễn thuyết kinh văn, bàn luận đạo pháp, đặc biệt là đạo yếu. Đạo yếu là gì? Điều quan trọng nhất trong đạo pháp. Điều quan trọng nhất là gì? Điều quan trọng nhất chính là: Pháp môn Niệm Phật, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, đây là đạo yếu. Do đó đạo là con đường của giác ngộ.

《俱舍論》曰:道義云何 “Câu Xá Luận viết: đạo nghĩa vân hà” (Trong Luận Câu Xá ghi: ý nghĩa của đạo là thế nào), đạo có nghĩa là gì? 謂涅槃路,乘此能往涅槃城故 “Vị Niết-Bàn lộ, thừa thử năng vãng Niết-Bàn thành cố” (Là đường Niết-Bàn, nương theo đường ấy có thể đến được thành Niết-Bàn). Đường Niết-Bàn, thành đều là tỷ dụ, đường là con đường, thành là nơi đích đến. Tôi từ trên con đường này, sẽ đi đến được nơi mục tiêu ấy. 又《華嚴大疏》 “Hựu Hoa Nghiêm Đại Sớ” (Thêm nữa trong Hoa Nghiêm Đại Sớ), tức do Đại sư Thanh Lương nói, 通至佛果,故名道 “thông chí Phật quả, cố danh đạo” (thông đến Phật quả, nên gọi là đạo). Chính là con đường này, phương pháp này có thể giúp quý vị thành Phật, nên gọi là Phật đạo. 道法者,至涅槃正道之法也。道要者,佛道之樞要也 “Đạo pháp giả, chí Niết-Bàn Chánh đạo chi pháp dã. Đạo yếu giả, Phật đạo chi xu yếu dã” (Đạo pháp, là pháp đến Chánh đạo Niết-Bàn. Đạo yếu: là điểm cốt lõi của Phật đạo). Chánh đạo dẫn đến Niết-Bàn: là tín nguyện trì danh, ba vị Thánh ở chùa Lai Phật đã biểu diễn cho chúng ta xem rồi. Đạo yếu là gì? Đó là bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, là cốt yếu của Phật đạo. Tại sao vậy? Bởi quý vị đạt được bộ Kinh này, thì nhất định quý vị có thể thoát khỏi Lục đạo, có thể vãng sanh Thế giới Cực Lạc làm Phật, đạt được mục đích rồi. Các kinh giáo khác đều rất khó, tại sao? Bởi phải đoạn phiền não mới chứng được Bồ-đề, phiền não đó đoạn không hết được. Còn niệm Phật, niệm đến Nhất tâm Bất loạn, Công phu Thành phiến cũng làm không được, còn gì để nói nữa? Pháp môn dễ nhất, vạn tu vạn người đi, vì sao hiện nay không linh? Bởi hiện nay không có gương mẫu, không thấy được người chân chánh niệm Phật. Thật sự là Chánh pháp, mà vẫn bị người hoài nghi, còn có người phê phán, nên rất không dễ xây dựng lòng tin.

Khi đức Phật còn ở đời ngày ngày giảng kinh, không có một ngày nghỉ ngơi, chúng ta phải thể hội sâu sắc, chẳng có ngày nào mà không giảng kinh. Phật ở thế gian giảng kinh không có ấn định thời gian, tùy thời tùy nơi ngồi xuống thì liền giảng kinh dạy học, nghiên cứu thảo luận, làm điều này. Không có kinh sám Phật sự, cũng không có Pháp hội giống như bây giờ, tất cả đều không có, chúng ta cần phải biết điều này. Phật đặt ra một số quy củ, quy củ cũng đều là [do] Đệ tử Phật đi theo đức Phật hàng ngày, ở bên cạnh đức Phật, có một vài hành vi không như pháp, sẽ quấy nhiễu người khác, sẽ làm tổn thương người khác, nên Phật đã chế định Giới luật. Tam Quy, Ngũ giới, Thập thiện, giới xuất gia Tỳ-kheo, tại gia xuất gia Bồ-tát đều có, phép tắc làm người, nhất định phải tuân thủ, nhân Giới được Định. Giới là gì? Điều chính yếu là khống chế ý niệm, lời nói, hành vi của chính mình, giúp quý vị có được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Thanh tịnh bình đẳng là Thiền định, giúp tâm của quý vị định xuống (đây là Vọng tâm), không bị sự ô nhiễm của hoàn cảnh bên ngoài, không bị sự quấy nhiễu của hoàn cảnh bên ngoài, bất kể là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, tâm là thanh tịnh, vậy thì tốt. Tại sao vậy? Bởi tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm nông nổi sanh phiền não, bước đầu tiên trong việc dạy học của Phật là dạy quý vị giữ quy củ.

Định, Thiền định tu ở đâu? Tu ngay trong đời sống hàng ngày, tu trong công việc, tu trong đối người tiếp vật, không phải là đối diện vách trong thiền đường, đối diện vách trong thiền đường là dạy Tiểu học, dạy lớp mẫu giáo, phải có thể dùng được trong cuộc sống. Các vị Pháp thân Bồ-tát tu hành hoàn toàn trong cuộc sống, mắt thấy sắc không khởi tâm không động niệm, chính là đại định mà mắt đạt được trong Sắc trần; tai nghe tiếng không bị sự quấy nhiễu bởi âm thanh, tuy nghe thấy nhưng tâm địa như như bất động, tai nhập định trong Thanh trần; mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, Thiền định được tu ở đó. Không bị hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu, thì trí huệ hiện tiền, nhìn rất rõ ràng, nghe rất rõ ràng, ngửi rất rõ ràng, mọi thứ đều rõ ràng, mọi thứ đều sáng tỏ, đó là thành Phật, Tam học: Giới Định Huệ là đến như vậy, không rời khỏi đời sống. Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, công việc của ngài là làm ruộng, là nông dân, xuất gia cũng trải qua cuộc sống nông dân, không có ngày nào rời khỏi công việc đồng áng, sáng sớm thức dậy đi làm việc trong ruộng vườn. Ngài còn rất chịu khó, thể lực lại tốt, khai hoang trồng trọt đã trồng hơn 100 mẩu. Cổ nhân nước ta có nói, năm mẫu đất có thể nuôi sống một gia đình bốn người, đối với một cặp vợ chồng có hai con, năm mẫu đất là đủ rồi. Cuộc sống có thể ổn định, không có ý niệm mong cầu xa hoa, cuộc sống của họ là ổn định, là an lạc, là hạnh phúc.

Vào mùa đông nông dân không có việc để làm, trời băng đất tuyết, nên mùa đông là khoảng thời gian nghỉ ngơi một năm của họ. Ba tháng ấy trôi qua thế nào? Gần đó có tự miếu am đường, đến tự miếu am đường để nghe giảng kinh. 200 năm trước, tất cả tự viện am đường đều mở cửa vào mùa đông, đều hoan nghênh mọi người đến nghe kinh, đến niệm Phật, đến tham Thiền, đến học đạo. Bởi vì bình thường công việc của quý vị rất bận, mùa xuân phải gieo hạt giống, vào mùa hè khi những thực vật này sanh trưởng thì phải nhổ cỏ, mùa thu phải thu hoạch, đều bận rộn. Còn mùa đông không có việc gì làm. Nên mùa đông là thời kỳ đọc sách tu đạo, tự viện am đường đều mở cửa, tín đồ đến đó để học tập. Không thu học phí, mà tự động cúng dường, hoàn cảnh gia đình tốt cúng dường nhiều hơn một chút, hoàn cảnh không tốt thì cúng dường ít hơn, nếu thật sự rất nghèo khổ, thì tự viện không nhận cúng dường. Vì vậy bao nhiêu học trò thanh bần: sống ba năm trong tự viện, đã thành tựu, họ đi tham gia cuộc thi quốc gia đỗ đạt rồi, đỗ Tiến sĩ (đây là học vị cao nhất), đỗ Cử nhân, đỗ Tú tài, đỗ Tú tài mới là có tư cách dạy học, mang tới sự an định hài hòa cho xã hội, là việc của người đọc sách làm. Vào mùa đông, trong chùa chiền ngoài việc giảng kinh Phật, còn có giảng Nho gia, còn có giảng Đạo gia, Chư Tử Bách Gia đều có người giảng, quý vị muốn học gì, hỏi thăm cho rõ ràng, đến đó để thảo kinh đơn. Thảo kinh đơn chính là đến đó để đăng ký, họ sẽ tiếp nhận và cho quý vị một chỗ cư trú, quý vị có thể ở trong tự viện hai, ba tháng, học tốt môn công khóa đó.

Ở Trung Hoa loại dạy học dân gian trước đây: đã làm ra đóng góp rất lớn đối với xã hội, dạy tốt cho người dân trong xã hội. Nên vào thời cổ đại các ngành các nghề, ngành nào là được người ngưỡng mộ nhất? Làm quan. Làm quan đều là người đọc sách, đều là trúng tuyển, thi đậu kỳ thi của quốc gia. Sau khi trúng tuyển, sẽ trải qua trường học của nhà nước quản lý, giống như trường Đảng hiện nay, đến đó để học tập, sau khi tốt nghiệp sẽ phân công công tác cho quý vị. Nhưng đất nước chỉ mở ngôi trường này, không mở lớp học phổ thông, lớp phổ thông đều là trường học gia đình của chính mình, gánh vác sứ mạng này. Là Gia học, cũng gọi là tư thục, của tư nhân, không phải do nhà nước mở. Thục tức là trường học, trường học của tư nhân mở. Đại gia đình đều có trường học, ngoài việc nhận con em mình ra, thì thanh thiếu niên trong khu vực đó của chúng ta, thích đọc sách, có khả năng đọc sách thì nhận tất cả. Đó là một gia tộc thịnh vượng, phụ huynh đều biết đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, chẳng những bồi dưỡng con em của chính mình, mà những con em ngoan trong làng đó: thì chúng ta cũng sẵn lòng đào tạo chúng, dùng tâm chí công vô tư để đối đãi, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương. Người ta nói nơi của chúng ta đây sanh ra nhân tài, nơi của chúng ta vẻ vang, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nếu là đại Thánh đại Hiền, đó là bồi dưỡng nhân tài cho toàn thế giới, cho cả nhân loại, thì công đức lớn! Tích công lũy đức không gì thù thắng hơn điều này.

Đào tạo nhân tài là đức số một, vào ngày nay đặc biệt quan trọng, mở trường học không khó, nhưng tìm một người thầy giỏi khó. Chúng ta phải toàn tâm toàn lực đào tạo giáo viên giỏi, phải giúp đỡ họ, phải chiếu cố họ, phải để cho họ có cơ hội dạy học, học sinh thành tựu càng nhiều càng tốt. Hiện nay dân số trên thế giới nhiều như vậy, cần giáo viên. Nếu quý vị hỏi tôi điều gì là quan trọng nhất? Giáo viên quan trọng nhất! Có giáo viên, thì có thể truyền được văn hóa của tổ tông; nếu không có giáo viên, thì sợ văn hóa bị đoạn tuyệt, văn hóa rất quan trọng. Thù thắng nhất trong văn hóa, là Phật học Đại thừa. Tại sao vậy? Bởi đó là trí huệ chân thật, lợi ích chân thật, thật có thể giúp chúng ta cải tạo vận mạng. Đời này vận mạng không tốt, điều không tốt đó là người bình thường nhìn thấy không tốt, quý vị phải hỏi xem chính họ, chính họ rất vui vẻ, họ không nói là không tốt, không tốt có thể cười được sao? Ngài Hải Hiền 92 năm chỉ một câu Phật hiệu, tâm tràn đầy hoan hỷ, nét mặt tươi cười, thế giới trong tâm của ngài chính là Thế giới Cực Lạc. Ngài nhìn thấy bản tánh của tất cả chúng sanh vốn thiện, ngài nhìn thấy tất cả chúng sanh vốn là Phật, nên hoan hỷ! Vị Phật này nhất thời mê muội đã làm việc sai lầm, tìm kiếm nghĩ cách giúp họ sửa chữa lại. Phương pháp này hoàn toàn là tự nhiên, dùng rất khéo léo, không dính dấu vết nào, thay đổi một cách vô tri vô giác. Diễn là biểu diễn, làm ra cho quý vị xem, thuyết là quý vị đến hỏi thì tôi sẽ nói cho quý vị, còn diễn không phải là cần người đến hỏi, mà làm tấm gương cho quý vị thấy. Ba vị Thánh ở chùa Lai Phật làm thật sự tốt, làm được quá tốt rồi, chúng ta phải nghiêm túc học tập.

Đạo pháp, là tín nguyện trì danh; đạo yếu, là Kinh Vô Lượng Thọ. Như trong Kệ Tán A Mi Đà Phật có một câu nói rằng, 究暢道要無障礙 “cứu sướng đạo yếu vô chướng ngại”. Cứu là rốt ráo, sướng là thông suốt, không có trở ngại, không có chướng ngại, ngày nay chúng tôi đã dùng thời gian hơn 60 năm mới phát hiện ra. Nếu nói bộ Đại Tạng Kinh này để cho cả đời quý vị có thể chọn được một bộ kinh, vậy quý vị chọn bộ nào? Năm xưa ở nước Mỹ, có người đã hỏi tôi, lúc đó tôi vẫn chưa gặp được Kinh Vô Lượng Thọ, tôi nói với vị ấy, tôi chọn A Mi Đà Kinh Yếu Giải. Yếu Giải, là trước tác của Đại sư Ngẫu Ích, được viết xong trong chín ngày, nói quá hay rồi, chúng tôi đã đọc và tin tưởng, tin sâu không nghi, đó là đạo yếu. Tôi nói [nếu] theo ý nguyện của chính tôi, thì tôi mong rằng cả đời tôi chỉ giảng một bộ Kinh này, giảng khắp trên toàn thế giới, mỗi nơi giảng một lần, giảng một lần khoảng một tháng. Sau khi gặp được bộ Kinh này, bộ Kinh này nói chi tiết, nói tỉ mỉ Thế giới Tây Phương Cực Lạc, giúp người bình thường đều có thể rõ ràng, đều hiểu rõ được, không gì hơn được bộ Kinh này và bộ Chú Giải của Hoàng Niệm lão. Hai vị Bồ-tát ấy, không phải là phàm phu, đến làm gì vậy? Đến độ chúng sanh khổ nạn của 9.000 năm thời Mạt pháp, chúng ta may mắn gặp được rồi. Đạo yếu chính là bộ Kinh này, đạo pháp là tín nguyện trì danh.

Phương pháp của tín nguyện trì danh, hôm qua, Pháp sư Tự Liễu: đã có một lời giải thích bổ sung, nói rất hay, thầy ấy chỉ nói hai câu của Bồ-tát Đại Thế Chí,  都攝六根,淨念相繼 “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm liên tục), đó là đạo yếu; thực hiện trong mười niệm, thầy ấy dùng pháp Thập Niệm của Đại sư Ấn Quang, Đại sư Ấn Quang niệm đến Nhất tâm Bất loạn là dùng phương pháp này. Đặc điểm của phương pháp đó, thứ nhất là ký số, thứ hai là phản văn, chính là nghe câu Phật hiệu của chính mình niệm, tự mình nghe Phật hiệu này, nghe Phật hiệu do chính mình niệm, từng chữ từng câu nghe rất rõ ràng, đếm rất rõ ràng. Đếm số, chính là từ một đến mười, sau đó lại từ một đến mười, đừng đếm mười một, mười hai, hai mươi mốt, hai mươi hai, như vậy không tốt, như vậy làm loạn rồi, chỉ đếm mười câu, mười câu, đây là câu thứ mấy, rõ ràng rành mạch. Một ngày quý vị niệm 10.000 câu, cũng là từ một đến mười, từ một đến mười, cách đếm như vậy, không cần dùng tràng hạt, mà đếm trong tâm. Đếm mười câu không được, thì đếm năm câu, một hai ba bốn năm, sáu bảy tám chín mười, cách đếm như vậy; khi không nhớ được nữa thì dùng ba ba bốn, một hai ba, bốn năm sáu, bảy tám chín mười. Đếm rất rõ ràng, nghe rất rõ ràng, vậy thì đúng rồi. Vả lại đặc biệt chủ trương niệm thầm, không nên niệm ra tiếng. Không nên niệm ra tiếng nhưng có tiếng không? Có, mà người khác không biết, chính mình biết. Tai của chính mình: tập trung năng lượng này hướng vào trong để nghe, nghe tiếng niệm Phật của chính mình, không nên nghe bên ngoài. Sau khi tập trung ý niệm, thì không nghe thấy âm thanh bên ngoài, tại sao vậy? Bởi quý vị không có sức chú ý vào đó. Chúng ta thường nói chú ý, chú ý có nghĩa là gì? Mắt thấy sắc, chú ý nhìn, ý là ý thức, ý thức là phân biệt, Thức thứ sáu là phân biệt, Thức thứ bảy là chấp trước, chú ý chính là tập trung vào Ý thức Thứ sáu để phân biệt, đặt thức Mạt-na vào để chấp trước. Chấp trước sanh phiền não, tham sân si mạn nghi là chấp trước. Thông qua phân biệt, tôi thích điều này, tôi chán ghét điều kia, điều tôi thích thì tôi muốn có, ưa thích muốn có chính là chấp trước, không thích thì tôi bỏ đi, đó cũng là chấp trước. Có thể không phân biệt, không chấp trước là công phu, dùng cách gì tu công phu này? Dùng phương pháp niệm Phật, tức là phải đếm số, phải nghe. Phạm vi hoạt động của tâm ý thức vô cùng lớn, tần số rất cao, thật không dễ gì khống chế, quản lý tốt câu Phật hiệu này, làm cho tập trung lại chuyên môn nghe tiếng niệm Phật hiệu của chính mình. Niệm thầm, không niệm ra tiếng, không niệm ra tiếng nhưng vẫn có âm thanh, người bên ngoài không biết, còn chính mình rất rõ ràng. Nghe rất rõ ràng, đếm rất rõ ràng, dễ được Nhất tâm Bất loạn, dễ được Niệm Phật Tam-muội, đây gọi là biết niệm Phật. Đại sư Ấn Quang dùng phương pháp này, vả lại nói với chúng ta, dùng phương pháp này niệm nhuần nhuyễn, thì không một ai không vãng sanh. Tập trung ý niệm nghe tiếng niệm Phật của chính mình, đây gọi là 反聞聞自性,性成無上道 “phản văn văn Tự Tánh, tánh thành Vô Thượng đạo” (xoay nghe lại để nghe Tự Tánh, tánh trở thành Vô Thượng đạo), là Pháp môn tu của Bồ-tátQuán Thế Âm, Niệm Phật Tam-muội. Điều này vô cùng quan trọng, thật sự giống như trong Kệ Tán A Mi Đà Phật đã nói: “Cứu sướng đạo yếu vô chướng ngại”

Hai câu kinh văn này là giới thiệu: thầy của A Mi Đà Phật tức là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, vào lúc đó, còn trụ ở thế gian giảng kinh dạy học, giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Ở chỗ này chúng ta cần thể hội được, học Phật là học gì? Đi con đường của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, thì quý vị sẽ không sai lầm. Con đường của đức Thích Ca Mâu Ni Phật: chính là giảng kinh dạy học, vui không biết mệt, buông xuống tất cả thân tâm thế giới. Vậy cuộc sống thì làm sao? Đại sư Chương Gia nói với tôi, cả đời của con thì Phật Bồ-tát sẽ an bài cho con, bản thân con không nên lo lắng. Lúc ấy hoàn toàn xem chính mình có niềm tin hay không, quý vị có tin hay không, thật sự tin tưởng, tất cả đều là do Phật an bài, không nghĩ vì chính mình nữa, tâm mới có thể chuyên trong đạo. Nếu thường xuyên lo lắng, ngày mai tôi làm sao đây, ngày mai tôi phải thế nào, thì tâm của quý vị không thể chuyên, quý vị phân tâm rồi, đạo nghiệp của quý vị rất khó thành tựu. Nên chúng ta chỉ có một ý niệm: niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ, đầu tiên không sợ chết, không có ăn, không có ở cũng không sao, tôi niệm A Mi Đà Phật cầu vãng sanh. Không có ăn, có người mang đồ tới cho chúng ta ăn; không có ở, có người mang nhà đến cho chúng ta ở, vậy thì chúng ta ở, cũng không cần cự tuyệt. Chúng ta có lựa chọn của chúng ta, tức là đơn giản, có thể ăn được no, có thể mặc được ấm, có được một căn nhà nhỏ che mưa che nắng, là đủ rồi, không mong cầu quá đáng, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là mong muốn duy nhất. Mong muốn lớn hơn nữa, là hi vọng toàn thế giới, hi vọng tất cả chúng sanh khổ nạn khắp Pháp giới hư không giới cùng sanh nước Cực Lạc, ngoài trừ điều này ra, không có ý niệm thứ hai, thì công phu dễ đắc lực.

Tiếp theo đây là nói đến A Mi Đà Phật, 聞法發心 “Văn Pháp Phát Tâm”(Nghe Pháp Phát Tâm). Mời xem kinh văn:

【有大國主名世饒王。聞佛說法。歡喜開解。尋發無上真正道意。】

“Hữu đại quốc chủ danh Thế Nhiêu Vương, văn Phật thuyết pháp, hoan hỷ khai giải, tầm phát Vô Thượng chân chánh đạo ý” (Có vị vua nước lớn tên là Thế Nhiêu Vương, nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ khai giải, liền phát tâm đạo Vô Thượng chân chánh).

Đây là thiện căn sâu dày, tuy kinh văn không dài, nhưng nói rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Dưới hội của đức Thế Gian Tự Tại Vương có một vị vua nước lớn, đức hiệu của Ngài là 世饒王“Thế Nhiêu Vương”, 世 thế là thế gian, 饒 nhiêu là phong nhiêu. Nói cách khác, quốc vương ấy thật sự là đại quốc vương, có đại trí huệ, có đại phước báo, nhân từ bác ái, thế gian ấy mưa gió điều thuận, quốc thái dân an, nhân dân hạnh phúc. Nhiêu là nhiêu ích.

Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 世饒王見《漢譯》。經曰:世饒王,聞經修道,歡喜開解。便棄王位,行作比丘 “Thế Nhiêu Vương kiến Hán Dịch. Kinh viết: Thế Nhiêu Vương, văn kinh tu đạo, hoan hỷ khai giải. Tiện khí vương vị, hành tác Tỳ-kheo” (Thế Nhiêu Vương thấy trong bản Hán Dịch. Kinh nói: Thế Nhiêu Vương, nghe kinh tu đạo, hoan hỷ khai giải.  Liền bỏ ngôi vua, để làm Tỳ-kheo). Điều này thật không dễ! Thế Nhiêu Vương ở dưới hội của Thế Gian Tự Tại Vương Phật, nghe Phật giảng kinh, nghe Phật thuyết pháp, vả lại thật làm, nghe hiểu rồi thật làm, tu đạo chính là thật làm: hoan hỷ khai giải, khai giải là giác ngộ, ở đây là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Sau khi khai ngộ như thế nào? Từ bỏ ngôi vua, để làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo là người xuất gia tu đạo theo Phật. Pháp sư Nghĩa Tịch nói, 準彼經文“chuẩn bỉ kinh văn” (chiếu theo kinh văn ấy), từ trên kinh văn thì chúng ta có được thông tin, xem thấy Thế Nhiêu Vương chính là danh hiệu của Tỳ-kheo Pháp Tạng lúc ở thế tục, ngài làm quốc vương nghe kinh giác ngộ, buông xả vương vị xuất gia tu hành, là người như vậy. Tiếp theo Niệm lão chú thích cho chúng ta, 蓋《漢譯》之文甚為明確 “cái Hán Dịch chi văn thậm vi minh xác” (bởi vì văn của bản Hán Dịch rất là rõ ràng), tuy kinh văn không dài, nhưng rất rõ ràng, rất tường tận, 作國王時,名世饒王 “tác quốc vương thời, danh Thế Nhiêu Vương” (lúc làm quốc vương, tên là Thế Nhiêu Vương), sau khi xuất gia chính là 法藏比丘 “Pháp Tạng Tỳ-kheo” (Tỳ-kheo Pháp Tạng).

Chúng ta lại xem tiếp, Niệm lão giải thích cho chúng ta, 當時有一大國王,名為世饒王,聞世間自在王佛說法,頓然心開,了解實義,故曰開解。由於開解,自然歡喜 “đương thời hữu nhất đại quốc vương, danh vi Thế Nhiêu Vương, văn Thế Gian Tự Tại Vương Phật thuyết pháp, đốn nhiên tâm khai, liễu giải thật nghĩa, cố viết khai giải. Do ư khai giải, tự nhiên hoan hỷ” (Vào thời kỳ đó, có vua một nước lớn, tên là Thế Nhiêu Vương, nghe được Thế Gian Tự Tại Vương Phật thuyết pháp, bỗng nhiên tâm khai ngộ, hiểu rõ nghĩa chân thật, nên nói là khai giải. Bởi do khai giải, nên tự nhiên hoan hỷ). Giống như kết thúc của các kinh đều nói, 聞佛所說,皆大歡喜 “văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ” (nghe lời Phật dạy, đều đại hoan hỷ), nghe hiểu rồi liền đại hoan hỷ. Cùng một đạo lý như vậy, số lần nghe kinh phải nhiều, càng nhiều càng tốt, mới có cơ hội khai giải, nếu không nhiều thì không có cơ hội ấy. Nên Cổ nhân Trung Hoa nói “đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa ấy”, tự thấy đó chính là khai giải, sự khai giải nói ở đây, tự nhiên sáng tỏ rồi. Vì sao sáng tỏ? Bởi Phật giảng kinh là từ trong Chân Tâm của Tự Tánh mà lưu lộ ra. Thế vì sao chúng ta nghe không hiểu? Bởi chúng ta dùng Vọng tâm để nghe, chân không tương ưng với vọng, nên nghe không hiểu. Nếu chúng ta dùng Chân Tâm thì nghe hiểu rồi. Chân Tâm là tâm thế nào? Tâm thanh tịnh, không có ô nhiễm. Thứ gì là ô nhiễm? Thất tình Ngũ dục, là ô nhiễm. Chúng ta dùng tâm gì? Tâm của hỷ nộ ai lạc, tâm của vọng tưởng phân biệt chấp trước, tâm này không được, tâm này sẽ không khai ngộ, nghe 100 năm cũng không có tác dụng, càng nghe càng mê muội, nghe đến cuối cùng không tin nữa. Nên Ấn Tổ thường hay dạy người: một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích, vậy chúng ta hiểu được, nếu dùng vạn phần thành kính, thì họ được vạn phần lợi ích. Quay trở lại nghĩ xem người hiện tại, bao gồm chính chúng ta, tâm của chúng ta thế nào? Tâm khí nông nổi, tâm vọng tưởng. Từ sớm đến tối vọng niệm không dừng nghỉ, vọng niệm phía trước diệt rồi, thứ phía sau sanh ra vẫn là vọng niệm, sẽ không dừng lại, việc này là phiền phức rồi.

Vì vậy bài báo cáo hôm qua đó của thầy Tự Liễu rất có giá trị, chúng ta nên phải đưa bài ấy lên Internet để lưu thông, thật sự có người xem hiểu, thật sự có người phát tâm: muốn rời khỏi luân hồi, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, điều thầy ấy cung cấp là pháp Thập Niệm của Pháp sư Ấn Quang, còn nguyên tắc chung, là lời của Bồ-tát Đại Thế Chí nói “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế”. Dùng điều gì để nhiếp sáu căn? Một câu Phật hiệu. Dùng điều gì thành tựu tịnh niệm? Vẫn là một câu Phật hiệu. Một câu Phật hiệu niệm liên tục không ngừng, niệm hết vọng niệm, niệm hết tâm phân biệt, niệm hết tâm chấp trước, thì tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm bình đẳng hiện ra. Tâm thanh tịnh là Thánh giả của Tiểu thừa chứng được, khai trí huệ nhỏ, tuy nói trí huệ nhỏ, nhưng trời người trong Lục đạo không ai có thể so sánh với các ngài; tâm bình đẳng là đại trí huệ, là Bồ-tát Đại thừa chứng được; giác chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó là cảnh giới của đức Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn dưới cây Bồ-đề, là điều mà Lục tổ Đại sư Huệ Năng biểu diễn trong phòng Phương trượng của Ngũ tổ, đó là khai giải. Năm xưa Lục tổ nói ra năm câu đó, hoàn toàn giống với Kinh Hoa Nghiêm mà khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật Đại triệt Đại ngộ dưới cây Bồ-đề đã thuyết ra. Nội dung của Kinh Hoa Nghiêm là gì? Cương lĩnh chung là năm câu đó, nói cho chúng ta biết Tự Tánh (Chân Tâm) như thế nào. Thứ nhất là thanh tịnh, không có ô nhiễm; thứ hai không sanh không diệt; thứ ba vốn tự đầy đủ, đầy đủ trí huệ, đầy đủ đức năng, đầy đủ tướng hảo. Nói cách khác, mọi thứ đều không nên hướng bên ngoài để cầu, hướng ra ngoài cầu là phàm phu, không phải là người giác ngộ. Người thật sự giác ngộ thì tất cả đều hướng vào trong để cầu, vì sao vậy? Bởi vốn tự đầy đủ, có cầu tất ứng, tâm tưởng sự thành. Hướng ra ngoài cầu chưa hẳn có thể cầu được, vì thế hướng vào trong cầu. Câu thứ tư nói với chúng ta vốn không dao động, vốn không dao động là gì? Tự Tánh vốn định, Chân Tâm vốn định, Chân Tâm chưa từng có dao động, chưa từng có lay động. Tự Tánh ở đâu? Chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, Tự Tánh là bản thể của tất cả pháp. Nên câu cuối cùng nói có thể sanh vạn pháp, vạn pháp là gì? Toàn thể vũ trụ. Cả vũ trụ, trong Phật pháp nói, khắp Pháp giới hư không giới từ đâu ra? Từ tâm tưởng sanh. Ở trên kinh, Phật không chỉ giảng một lần, mà khái niệm quan trọng này Phật thường nói, nói rất nhiều lần, giúp người không có khả năng nhớ cũng có thể thuận miệng niệm được. Vậy số lần quá nhiều, nghe rất nhiều rồi, có thể sanh, cả vũ trụ từ đâu đến? Từ tâm tưởng sanh. Kinh Hoa Nghiêm nói gì? Là nói năm việc này, với mỗi việc đều nói hết sức tỉ mỉ, phàm phu chúng ta không cách nào tưởng tượng, Phật nói ra tất cả rồi. Năm câu đó của Đại sư Huệ Năng là lược nói của Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm là nói cặn kẽ năm câu đó của Đại sư Huệ Năng, nội dung là một không phải hai. Những gì Đại sư Huệ Năng chứng được là giống với những gì mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã chứng dưới cội Bồ-đề, khai giải nói ở đây là thuộc về cảnh giới ấy. Sư phụ của lão Hòa thượng Hải Hiền nói với ngài, sáng tỏ rồi không được nói lung tung, không được nói, là ý nghĩa này. Tại sao không được nói? Bởi không có thính chúng như vậy, không có đối tượng, quý vị nói với người ta thì người ta không hiểu, người khác nói quý vị nói càn nói bậy. Nếu người có duyên, đức Thích Ca Mâu Ni Phật gặp được có duyên, [là có] không ít người thật có thể nghe hiểu được. Nên mỗi lần Phật thuyết kinh đều người có chứng quả, chứng quả Tiểu thừa đặc biệt nhiều, số lượng các vị A-la-hán nhiều.

Thính chúng thật có người khai ngộ, Thế Nhiêu Vương nghe kinh đã khai ngộ, phát tâm xuất gia. Ở đây Niệm lão nói với chúng ta, câu cuối cùng của đoạn này, văn của bản Hán Dịch rất là rõ ràng, khi làm quốc vương, tên là Thế Nhiêu Vương, sau khi xuất gia, chính là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Lúc bấy giờ có một đại quốc vương, tên là Thế Nhiêu Vương, nghe được Thế Gian Tự Tại Vương Phật thuyết pháp, bỗng nhiên tâm khai ngộ, hiểu rõ nghĩa chân thật, nên nói là khai giải. Vì khai giải, nên tự nhiên hoan hỷ, giống như câu cuối cùng của tất cả kinh đều là 聞佛所說,皆大歡喜“văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ” (nghe lời Phật dạy, đều đại hoan hỷ). 於是尋發無上真正道意“Ư thị tầm phát Vô Thượng chân chánh đạo ý” (Vì thế lập tức phát tâm đạo Vô Thượng chân chánh), tầm chính là lập tức, sau khi khai ngộ lập tức liền phát tâm, đó là tâm Vô Thượng Bồ-đề. 發者,發心也。無上真正道,梵語阿耨多羅三藐三菩提,即佛所得之道。更無能過之者,故名無上“Phát giả, phát tâm dã. Vô Thượng chân chánh đạo, Phạn ngữ A-nậu-Đa-la Tam-miệu. Tam-bồ-đề, tức Phật sở đắc chi đạo. Cánh vô năng quá chi giả, cố danh Vô Thượng” (Phát: là phát tâm. Vô Thượng chân chánh đạo, tiếng Phạn là A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tức là đạo mà đức Phật đã chứng đắc. Lại không có gì hơn được đạo này, nên gọi là Vô Thượng). Ngài phát tâm này, đó là tâm Vô Thượng Bồ-đề. 真者,真實。正者,聖智,如法相而知故。道者,無礙道也 “Chân giả, chân thật. Chánh giả, Thánh trí, như pháp tướng nhi tri cố. Đạo giả, vô ngại đạo dã” (Chân: là chân thật. Chánh: là Thánh trí, vì như pháp tướng mà biết. Đạo: là đạo vô ngại), không có chướng ngại, thông suốt rồi. 意者,能求之心。即此求菩提道之心,名意。故知發無上真正道意,即是發無上大菩提心也 “Ý giả, năng cầu chi tâm. Tức thử cầu Bồ-đề đạo chi tâm, danh ý. Cố tri phát Vô Thượng chân chánh đạo ý, tức thị phát Vô Thượng đại Bồ-đề tâm dã” (Ý: là tâm có thể cầu. Ở đây tức là tâm cầu đạo Bồ-đề, gọi là ý. Vì vậy biết phát Vô Thượng chân chánh đạo ý, chính là phát Vô Thượng đại Bồ-đề tâm). Tâm ấy là tâm thành Phật. Vì sao phải thành Phật? Bởi thành Phật mới có thể phổ độ chúng sanh mà không có chướng ngại, chúng sanh trong tất cả cõi nước chư Phật của khắp Pháp giới hư không giới, quý vị đều có trí huệ, có năng lực đi giúp họ, vả lại giúp đỡ nhưng nhất định không đòi hỏi báo đáp. Tại sao không cầu báo đáp? Bởi vì chúng sanh với chính mình là một thể, nên không có tâm cầu báo đáp, chúng sanh khổ là chính mình khổ, chúng sanh vui là chính mình vui, không có trả giá và yêu cầu báo đáp, là không có. Giống như cha mẹ đối với con, thật sự là toàn tâm toàn ý chăm sóc, tuyệt không nghĩ đến tương lai sẽ được báo đáp như thế nào, chưa từng nghĩ tới điều này, đó là thiên chân.

Chúng ta xem đoạn tiếp theo, 出家修行 “Xuất Gia Tu Hành” (Xuất Gia Tu Hành). Đoạn văn này dài, chia thành mười đoạn nhỏ, thứ nhất là 修道無踰 “Tu Đạo Vô Du”(Tu Đạo Không Ai Vượt Qua Được). Ở đây lại chia thành ba đoạn nhỏ, đoạn thứ nhất出家修道 “Xuất Gia Tu Đạo”(Xuất Gia Tu Đạo). Mời xem kinh văn:

【棄國捐王。行作沙門。號曰法藏。修菩薩道。】“Khí quốc quyên vương, hành tác Sa-môn. Hiệu viết Pháp Tạng, tu Bồ-tát đạo”(Xả nước nhường ngôi, làm vị Sa-môn. Tên là Pháp Tạng, tu Bồ-tát đạo).

Đây là Đại thừa, Ngài có thể nhường lại vương vị cho người khác. 世饒王聞法開解 “Thế Nhiêu Vương văn pháp khai giải”(Thế Nhiêu Vương nghe pháp khai giải), khai giải là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, nên Ngài phát tâm làm Phật, 隨即發無上大菩提心,捨棄國土與王位離世出家,成為沙門 “tùy tức phát Vô Thượng đại Bồ-đề tâm, xả khí quốc độ dữ vương vị ly thế xuất gia, thành vi Sa-môn”(lập tức phát tâm Vô Thượng đại Bồ-đề, xả bỏ đất nước và ngôi vua rời thế gian mà xuất gia, trở thành Sa-môn). Sa-môn là tiếng Phạn, tiếp theo giải thích cho chúng ta, 沙門原為出家人之通稱,包括外道 “Sa-môn nguyên vi xuất gia nhân chi thông xưng, bao quát ngoại đạo”(Sa-môn vốn là tên gọi chung của người xuất gia, bao gồm cả ngoại đạo). Ở Ấn Độ cổ, chỉ cần xuất gia tu hành đều xưng là Sa-môn, sau khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa trở thành tên gọi chung của người xuất gia ở Trung Hoa, 後始作為佛教僧侶之專稱 “hậu thủy tác vi Phật giáo Tăng lữ chi chuyên xưng”(sau này mới trở thành tên gọi riêng của Tăng lữ Phật giáo), gọi là Sa-môn. Ý nghĩa của Sa-môn là 勤息“cần tức”. Trong Hội Sớ có giải thích, 此人勤修善法,息諸惡故“thử nhân cần tu thiện pháp, tức chư ác cố”(vì người ấy siêng tu pháp lành, dứt các điều ác), đó gọi là Sa-môn. Thật tu, đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, người ấy là Sa-môn.  至於《四十二章經》云:辭親出家,識心達本,解無為法,名為沙門“Chí ư Tứ Thập Nhị Chương Kinh vân: từ thân xuất gia, thức Tâm đạt Bổn, giải Vô vi pháp, danh vi Sa-môn”(Còn trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: từ biệt người thân đi xuất gia, thức Tâm đạt Bổn, hiểu pháp Vô vi, gọi là Sa-môn). Ý nghĩa này sâu hơn ý nghĩa phía trước, phía trước là nhìn từ trên hình tượng, còn đây là nói từ trên công phu tu chứng, Sa-môn chân chánh, từ biệt người thân đi xuất gia, điều quan trọng là thức Tâm đạt Bổn. Thức Tâm là giác ngộ rồi, bổn là gì? Bổn là Tự Tánh, Tự Tánh chính là Chân Tâm, làm rõ ràng Chân Tâm, Vọng tâm rồi, dùng Chân Tâm, không dùng Vọng tâm nữa. Về bổn, người Trung Hoa nói Bản tánh vốn thiện, đó là đạt bổn. Vọng tâm không thiện, vì sao vậy? Chân Tâm không có ý niệm, Chân Tâm lìa niệm, cũng chính là nói không có khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là thức A-lại-da, khởi tâm động niệm là Vọng tâm, là gốc rễ của tất cả hư vọng, không khởi tâm không động niệm là gốc rễ của tất cả chân thật. Chỉ có người thức Tâm đạt Bổn, thức Tâm đạt Bổn chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, cùng một cảnh giới, quý ngài hiểu pháp Vô vi. Pháp Vô vi là chân tướng của tất cả các pháp, từ trong Vô vi biến hiện ra Hữu vi. Bách Pháp Minh Môn chia tất cả pháp thành hai loại lớn: 94 pháp đầu tiên là pháp Hữu vi, sáu pháp cuối cùng là pháp Vô vi, Vô vi so sánh với Hữu vi, thì Hữu vi là giả, Vô vi là thật. Vô vi không có tướng, nhưng không thể nói nó không; Hữu vi có tướng, nhưng không thể nói nó có, tướng là ảo tướng, Vô vi là chân tướng. Phật pháp Đại thừa là coi Vô vi làm mục tiêu cuối cùng, Tỳ-kheo Pháp Tạng, cảnh giới của ngài: có thể nghĩ mà biết. Trên kinh (trên kinh Tiểu bản) nói rất rõ ràng, thành Phật đến ngày nay mới mười kiếp. Thời gian mười kiếp trong pháp Đại thừa là rất ngắn, không dài, còn ở người thế gian chúng ta thì rất dài, chúng ta phải làm rõ ràng điều này. Đó là hai chữ “Sa-môn”, cách nói về danh từ này tương đối sâu.

『號曰法藏』“Hiệu viết Pháp Tạng” (Hiệu là Pháp Tạng), Pháp Tạng là Pháp danh của Thế Nhiêu Vương khi làm Tỳ-kheo, Thế Nhiêu Vương chính là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật khi tại gia, A Mi Đà Phật xuất gia chính là Tỳ-kheo Pháp Tạng, là Pháp danh. 《漢譯》為法寶藏;《吳譯》為曇摩迦;《唐譯》為法處;《宋譯》為作法 “Hán Dịch vi Pháp Bảo Tạng; Ngô Dịch vi Đàm Ma Ca; Đường Dịch vi Pháp Xứ; Tống Dịch vi Tác Pháp”(Bản Hán Dịch là Pháp Bảo Tạng; Bản Ngô Dịch là Đàm Ma Ca; Bản Đường Dịch là Pháp Xứ; Bản Tống Dịch là Tác Pháp), trong Luận Đại Trí Độ xưng là 法積 “Pháp Tích”(Pháp Tích), 唯《魏譯》為法藏,今經沿之。諸本不同,祗是譯者用辭之異而已 “duy Ngụy Dịch vi Pháp Tạng, kim kinh duyên chi. Chư bản bất đồng, chi thị dịch giả dụng từ chi dị nhi dĩ”(Chỉ có bản Ngụy Dịch là Pháp Tạng, Kinh này theo đó. Các bản khác nhau, chỉ là do cách dùng từ của người dịch khác nhau mà thôi). Quý vị xem danh từ Pháp Tạng này, trong năm bản dịch gốc đều dịch không giống nhau, chỉ ngài Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch là Pháp Tạng. Quyển này được lưu thông rất rộng, nên mọi người cũng đều biết, Pháp Tạng là A Mi Đà Phật, từ bỏ ngôi vua mà xuất gia, là Pháp danh khi học pháp với đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật. Ở đây nêu ra cho chúng ta, quý vị xem bản Hán Dịch, Ngô Dịch, Đường Dịch, Tống Dịch, còn có Luận Đại Trí Độ, lại thêm bản Ngụy Dịch, nhưng tên phiên dịch đều không giống nhau.

又藏者《探玄記》云 “Hựu Tạng giả Thám Huyền Ký vân”(Lại nữa về chữ Tạng thì trong Thám Huyền Ký nói), có bốn ý nghĩa: thứ nhất là 含攝“hàm nhiếp”, thứ hai là 蘊積“uẩn tích”, thứ ba là出生“xuất sanh”, thứ tư là 無盡“vô tận”. 一切法為所藏故,名法藏“Nhất thiết pháp vi sở tạng cố, danh Pháp Tạng”(Bởi chứa đựng tất cả pháp, nên gọi là Pháp Tạng), tạng có nghĩa là chứa đựng, ý nghĩa của cất giữ. 如《嘉祥疏》曰:在能蘊蓄佛法,故曰法藏。又以能開佛法藏故,名為法藏 “Như Gia Tường Sớ viết: tại năng uẩn súc Phật pháp, cố viết Pháp Tạng. Hựu dĩ năng khai Phật pháp tạng cố, danh vi Pháp Tạng ”(Như trong Gia Tường Sớ nói: nơi có thể chứa đựng Phật pháp, nên nói là Pháp Tạng. Lại vì có thể mở ra pháp tạng của Phật, nên gọi là Pháp Tạng). Từ những văn dịch này đều nói được thông, kết hợp ý nghĩa lại để giảng thì viên mãn rồi, hai chữ “Pháp Tạng” có thể viên mãn hàm nhiếp ý nghĩa được dịch ra trong tất cả bản dịch khác nhau, tất cả pháp của thế và xuất thế gian đều hàm chứa trong đó. Đây là gì? Đây là A-lại-da, A-lại-da chứa đựng tất cả pháp thế gian, khi A-lại-da chuyển thức thành trí, sự chuyển biến này, viên mãn hàm nhiếp tất cả pháp của xuất thế gian. Vọng tâm và Chân Tâm là một thể, chỉ là mê giác khác nhau, khi giác ngộ chính là Phật Bồ-tát, khi mê gọi là phàm phu. Nên Phật nhìn thấy bản lai diện mục của tất cả phàm phu, nói với chúng ta rằng, tất cả chúng sanh vốn là Phật. Phải hiểu được ý nghĩa này.

『修菩薩道』“Tu Bồ-tát đạo”(Tu Bồ-tát đạo), câu kinh văn này, đây là từ trong bản Ngô Dịch hội tập ra, 表法藏菩薩直趨一乘,不落權小 “biểu Pháp Tạng Bồ-tát trực xu Nhất thừa, bất lạc Quyền Tiểu”(biểu thị Bồ-tát Pháp Tạng thẳng đến Nhất thừa, không rơi vào Quyền Tiểu). Quý vị xem, ngài không tu bắt đầu từ Thanh văn, Duyên giác, ngài trực tiếp tu Bồ-tát đạo. Không rơi vào Quyền Tiểu, Quyền là thiện xảo phương tiện, không phải là rốt ráo viên mãn, Tiểu là Tiểu thừa. Nói cách khác, Tỳ-kheo Pháp Tạng không tu hành giống như người bình thường, từ Tiểu thừa đến Đại thừa, từ Quyền giáo đến Thật giáo, ngài không trải qua điều này, mà ngài trực tiếp tu Đại thừa. Hơn nữa là thế nào? Hướng thẳng đến Nhất thừa, cũng không phải là Đại thừa, Nhất thừa là phương pháp trực tiếp thành Phật, đây là hiển thị cho chúng ta điều gì? Niệm A Mi Đà Phật chính là đi thẳng đến Nhất thừa, không lạc vào Quyền Tiểu. Phải biết ý nghĩa này, ý nghĩa này vô cùng quan trọng.

《宋譯》曰:大乘第一,故知菩薩所修唯是一乘真如圓滿大法“Tống Dịch viết: Đại thừa đệ nhất, cố tri Bồ-tát sở tu duy thị Nhất thừa Chân Như viên mãn đại pháp” (Trong bản Tống Dịch ghi: Đại thừa bậc nhất, nên biết những gì Bồ-tát tu chỉ là đại pháp Nhất thừa Chân Như viên mãn). Điều này thật tuyệt vời! Sở tu của ngài Pháp Tạng chính là những điều chúng ta học ngày nay. Vì sao chúng ta nên học Tịnh tông? Bởi chúng ta học theo Tỳ-kheo Pháp Tạng. Tỳ-kheo Pháp Tạng chỉ có Nhất thừa. Do đây có thể biết, phía sau chúng ta sẽ đọc đến, ngài làm Thế Nhiêu Vương, công phu tu hành của Thế Nhiêu Vương trong đời quá khứ cao, đến mức độ nào? Nói thật ra nhiều kiếp lâu xa thì ngài thành Phật rồi, lần ấy đến thế gian nên dùng thân quốc vương mà được độ, liền hiện thân quốc vương mà thuyết pháp, là người như vậy, không phải người bình thường. Người bình thường làm sao có thể gọn gàng dứt khoát tu Đại thừa bậc nhất, đại pháp Nhất thừa Chân Như viên mãn? Điều này là không thể nào. Vì vậy lúc làm quốc vương ở thế gian, ngài đã thành Vô Thượng đạo, lúc ấy đến biểu pháp, khuyên người buông xuống, quý vị muốn tranh, muốn tranh quốc vương, quốc vương là đại trí huệ, đại phước báo, đại viên mãn, người thế gian cầu còn không được, ngài đã có được rồi, nhưng lại buông xả. Giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, 19 tuổi xả bỏ vương vị, xả bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, xuất gia học đạo rồi. Biểu diễn cho chúng ta xem, đó là biểu pháp, nhất định chúng ta phải có thể xem ra được, ngài không phải là người bình thường. Đây là dạy chúng ta thật sự có thể buông xuống, buông xuống dục vọng, buông xuống tài sắc danh lợi, buông xuống Ngũ dục Lục trần, buông xuống Thất tình Ngũ dục, buông xuống hết Phiền não chướng. Tiếp theo còn dạy chúng ta buông xuống Sở tri chướng, vậy mới có thể viên mãn thành Phật đạo, ở trong đây đều làm tấm gương cho chúng ta xem. Hiện nay chúng ta đều không buông xuống được tiểu danh tiểu lợi, những gì đức Mi Đà thị hiện trong nhân địa, là đại danh đại lợi đều bằng lòng buông xuống. Đất nước ấy không động loạn, không phải, mà thịnh thế, Thế Nhiêu Vương, thái bình thịnh thế, khi cường thịnh nhất, đều buông xuống hết. Ở chỗ này chúng ta cần phải suy nghĩ nhiều, phải học tập theo ngài, có thể xả đại danh đại lợi, đại phú đại quý, nếu không xả thì không thoát khỏi Lục đạo luân hồi, không thành Vô Thượng đạo, nhất định phải xả, nhất định phải buông xuống. Nên trên kinh chữ “khí” trong từ “khí quốc“ này quan trọng, buông bỏ, không cần nữa. Làm Sa-môn, Sa-môn là đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, siêng tu Giới Định Huệ, tức diệt tham sân si, điều này quan trọng. Tốt rồi, thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 141)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật