Responsive Menu
Add more content here...

Tập 144 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 144

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 08/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 390, hàng thứ tư, bắt đầu xem từ hai chữ cuối cùng, hàng thứ tư:

《會疏》曰:願力者,四宏誓願能淨佛國土,成就眾生故 “Hội Sớ viết: nguyện lực giả, tứ hoằng thệ nguyện năng tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh cố” (Hội Sớ nói: nguyện lực, là tứ hoằng thệ nguyện có thể làm thanh tịnh cõi nước Phật, nên thành tựu chúng sanh). Hôm trước chúng ta đã học đến chỗ này. Tứ hoằng thệ nguyện là 眾生無邊誓願度,煩惱無盡誓願斷,法門無量誓願學,佛道無上誓願成 “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành”. Tứ hoằng thệ nguyện: tất cả là vì chúng sanh, vì chúng sanh, muốn đạt được nguyện vọng độ chúng sanh, cần phải có đức hạnh, đoạn phiền não là đức hạnh, giáo dục đạo đức; học Pháp môn là trí huệ, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; cuối cùng phải thành tựu công đức viên mãn, đó chính là thành Phật đạo. Vậy vì sao phải thành Phật đạo? Vì độ khắp tất cả chúng sanh, nếu không chứng được Phật quả, thì năng lực còn có hạn, nên nhất định phải thành Phật. Học Phật nhất thiết phải thành Phật, bởi vì tất cả chúng sanh vốn là Phật, chính chúng ta cũng không ngoại lệ, chỉ là vô lượng kiếp đến nay đã mê mất Tự Tánh, theo duyên Vọng tâm làm chủ tể. Vọng tâm này chính là A-lại-da, A-lại-da là do mê mất Tự Tánh mà biến hiện ra, A-lại-da có vọng tưởng phân biệt chấp trước. Phải biết Tự Tánh thì không có, không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Không có tập khí phiền não, thì trí huệ, đức năng, tướng hảo vốn đầy đủ trong Tự Tánh đều có thể hiện tiền, vậy mới có thể phổ độ chúng sanh.

Chúng ta xem đoạn Chú Giải tiếp theo, 今法藏菩薩所具殊勝之願力,無能及者,是故號為大願王 “kim Pháp Tạng Bồ-tát sở cụ thù thắng chi nguyện lực, vô năng cập giả, thị cố hiệu vi Đại Nguyện Vương” (nay Bồ-tát Pháp Tạng đã có đủ nguyện lực thù thắng, không ai bằng được, nên hiệu là Đại Nguyện Vương). A Mi Đà Phật, Tỳ-kheo Pháp Tạng thành Phật chính là A Mi Đà Phật, dựa vào đâu để thành Phật? Dựa vào nguyện lực thù thắng đã có. Thầy của ngài là Thế Gian Tự Tại Vương Phật, khuyến khích ngài, dẫn dắt ngài, giúp ngài viên mãn nguyện vọng độ chúng sanh. Ngài độ chúng sanh mục tiêu cuối cùng là giúp tất cả chúng sanh, thành vô thượng đạo ở Thế giới Cực Lạc. Thật sự là phổ độ rốt ráo viên mãn, người đến Thế giới Cực Lạc không sót một ai, tất cả đều thành tựu, nên ở đây khen ngợi không ai bằng được Ngài, không ai có thể so sánh với Ngài. Nên mười phương chư Phật tôn xưng ngài là Đại Nguyện Vương.

又念慧力指念力及慧力 “Hựu Niệm Huệ lực chỉ Niệm lực cập Huệ lực” (Lại nữa Niệm Huệ lực chỉ cho Niệm lực và Huệ lực), trong Ngũ căn, Ngũ lực đều có niệm huệ, Niệm căn, Huệ căn, niệm, huệ căn đi lên trên, tăng trưởng, đó chính là Niệm lực và Huệ lực. Chúng ta xem tiếp, 信力、精進力、念力、定力、慧力,稱為五力 “Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực, xưng vi Ngũ lực” (Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực, gọi là Ngũ lực). Trong 37 phẩm trợ đạo nói rất chi tiết, năm loại lực này giúp chúng ta tiến lên. 《智度論》曰:五根增長,不為煩惱所壞,故名為力 “Trí Độ Luận viết: Ngũ căn tăng trưởng, bất vi phiền não sở hoại, cố danh vi lực” (Trong Luận Trí Độ nói: Ngũ căn tăng trưởng, thì không bị phiền não phá hoại, nên gọi là lực). Ngũ lực là Ngũ căn tăng trưởng, Ngũ căn nâng cấp lên là thành Ngũ lực. Căn này đều là trong Tự Tánh vốn có, chỉ là hiện nay chúng ta có phiền não phá hoại, phiền não chướng ngại mà thôi, tuy có nhưng không khởi tác dụng. Ngày nay chúng ta niệm gì? Ngày nay chúng ta niệm là pháp luân hồi, niệm niệm tạo ra Lục đạo luân hồi. Điều này sai rồi, không cách nào thoát khỏi phiền não, Kiến tư Phiền não đây là điều thô nặng nhất, đều không có cách thoát ra được, phía trên còn có Trần sa Phiền não, Vô minh Phiền não. Đây là chúng sanh Lục đạo vô lượng kiếp đến nay cũng đang tu hành, mà mãi không thể ra khỏi Lục đạo, nguyên nhân là ở đây, chẳng thể không biết. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu diễn cho chúng ta, bí quyết để ngài thành công là gì? Chính là Niệm Huệ lực, chuyên niệm A Mi Đà Phật. Chuyên niệm A Mi Đà Phật, thì Niệm lực viên mãn, được A Mi Đà Phật gia trì. Chuyên niệm A Mi Đà Phật, tín nguyện trì danh, đó chính là Huệ lực. Nếu không phải là trí huệ, thì ngài sanh ra sự thay đổi, ngài có thể buông xả, tu học Pháp môn khác.

84.000 Pháp môn cũng rất cuốn hút người, môn nào cũng muốn học. Học 53 tham vấn của Đồng tử Thiện Tài, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, đúng, là không sai, Đồng tử Thiện Tài chứng được quả vị như thế nào mới đi học rộng nghe nhiều, phải biết điều này. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ ràng, ngài Thiện Tài trên hội của Bồ-tát Văn Thù chứng được Căn bản trí. Căn bản trí là gì? Căn bản trí chính là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó là Căn bản trí. Sơ trụ Bồ-tát của Viên giáo, còn Biệt giáo ngài là Sơ địa Bồ-tát, quả vị như vậy. 53 tham vấn, đó chính là Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Vì sao phải học? Bởi vì muốn rộng độ chúng sanh, căn tánh của chúng sanh khác nhau, là vì độ chúng sanh mà học. Còn chính mình thì sao? Chính mình như như bất động, 53 tham vấn, không bị những Thiện tri thức đó làm ảnh hưởng, không bị họ quấy nhiễu, ngài là tu Pháp môn niệm Phật, Mười đại Nguyện vương của ngài Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc, ngài Thiện Tài là tu Pháp môn này. Tham vấn đầu tiên là Tỳ-kheo Kiết Tường Vân, tu Ban Chu Tam-muội, chuyên niệm A Mi Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ; tham vấn thứ 53 là Bồ-tát Phổ Hiền, Thập đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc, ngài thành tựu rốt ráo viên mãn.

Nên ở Thế giới Hoa Tạng, cõi nước của đức Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Thế giới Ta Bà, thầy của Tịnh Độ tông ở Thế giới Ta Bà là ai? Sớm nhất, ở trên hội Hoa Nghiêm của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vị đề xướng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là Bồ-tát Phổ Hiền. Nên Sơ tổ của Tịnh Độ tông, lão Cư sĩ Hạ Liên Cư nói với chúng ta, Sơ tổ của Pháp giới, khắp Pháp giới hư không giới người đầu tiên đề xướng là ai? Bồ-tát Đại Thế Chí, Sơ tổ của Pháp giới; ở Thế giới Ta Bà, đầu tiên đức Thế Tôn giảng Kinh Hoa Nghiêm, trên hội Hoa Nghiêm Bồ-tát Phổ Hiền tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, Thập đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc, Bồ-tát Phổ Hiền, là Sơ tổ của Thế giới Ta Bà; Sơ tổ của Trung Hoa, là Đại sư Huệ Viễn thời đại Đông Tấn. Điều này là do lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với tôi, lúc đó tôi ở nước Mỹ, ngài nói với tôi, ngài nói: Pháp sư! Thầy có thể làm Sơ tổ của nước Mỹ. Nhưng tôi không chọn nước Mỹ, mà tôi chọn Úc Châu, nếu tương lai Tịnh tông Úc Châu có thể tuyên truyền rộng rãi, thì quả thật chúng tôi đã mang Tịnh Độ tông đến ở Úc Châu.

Nên Niệm Huệ lực này quan trọng, Ngũ căn tăng trưởng, năm loại này đều có lực, không bị phiền não phá hoại. Phiền não ở đây là Kiến tư Phiền não, đoạn Kiến tư Phiền não rồi, thì thành tựu Ngũ lực, đây gọi là có lực. 又天魔外道不能沮壞,故名為力 “Hựu thiên ma ngoại đạo bất năng trở hoại, cố danh vi lực”(Thêm nữa thiên ma ngoại đạo không thể ngăn cản phá hoại, nên gọi là là lực). Thiên ma là chỉ trời thứ sáu của Dục giới, Thiên Vương Ba Tuần của trời Tha Hóa Tự Tại. Tâm lượng của ông ta không lớn, Dục giới do ông ta thống trị, cao nhất trong Dục giới chính là trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại thiên, Pháp môn mà tất cả chúng sanh tu ở trong đây có thể vượt qua Lục đạo, thì ông ta rất không vui. Quý vị không ra khỏi Lục đạo thì ông ta không quấy nhiễu quý vị, nếu quý vị muốn siêu vượt Lục đạo, thì ông ta phải quấy nhiễu quý vị, ông ta cho rằng nhân dân mà ông ta quản lý tại sao lại đi mất một người, ông ta không muốn nhìn thấy điều này. Ông ta mong rằng ông ta cai quản nhiều chúng sanh, không muốn giảm bớt. Vì vậy quý vị có năng lực vượt qua Lục đạo luân hồi, thì nhất định ông ta đến làm phiền quý vị, không để quý vị thành tựu. Đức Thế Tôn thị hiện tám tướng thành đạo, trong đó có hàng ma, hàng ma chủ yếu chính là đối với Ma Ba Tuần, Ma Ba Tuần dùng sức cám dỗ, dùng vũ lực, nhưng đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không bị ông ta chướng ngại. Ma có thể quấy nhiễu chúng ta, dù sao cũng không ngoài tài sắc danh lợi, quý vị có đột phá được không? Tài sắc danh lợi chính là thủ đoạn chướng đạo của thiên ma. Bồ-tát tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, Bồ-tát tu Thiền định Ba-la-mật, cám dỗ nhẹ một chút, thì Trì giới có thể đối phó; nếu khi Trì giới không đối phó được, thì dùng Nhẫn nhục, có thể nhẫn; Nhẫn nhục Ba-la-mật vẫn không thể thành tựu, khi không chống lại được, thì dùng Thiền định, dùng sức của định huệ, thì thiên ma rút lui thôi, họ không chống cự nổi. Vì vậy định huệ vô cùng quan trọng.

又念力者,念根增長,能破諸邪念 “Hựu Niệm lực giả, Niệm căn tăng trưởng, năng phá chư tà niệm” (Lại nữa Niệm lực: là Niệm căn tăng trưởng, có thể phá các tà niệm). Nhà khoa học hiện đại cũng đã phát hiện ra điều này, nhà khoa học trẻ thế hệ gần đây cũng đang thăm dò, đang nghiên cứu bí mật của niệm lực, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Niệm căn tăng trưởng có thể phá tất cả các tà niệm, niệm trong Phật giáo, Pháp môn Tịnh tông hoàn toàn dựa vào niệm lực, niệm lực này chuyên môn niệm danh hiệu của A Mi Đà Phật, quả thật được oai thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, niệm lâu rồi thì không còn tà niệm nữa, chúng ta nói vọng tưởng, tạp niệm đều không có nữa, đây là cảnh giới tốt.

慧力者,慧根增長,能破三界諸惑 “Huệ lực giả, Huệ căn tăng trưởng, năng phá Tam giới chư hoặc” (Huệ lực: là Huệ căn tăng trưởng, có thể phá các hoặc trong Tam giới). Trong Tam giới có Kiến tư Phiền não, Trần sa Phiền não, Vô minh Phiền não (Tam giới là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), Huệ căn tăng trưởng thành Huệ lực, ba loại phiền não này trong Tam giới đều có thể được hóa giải, tại sao vậy? Bởi chúng là từ trong vọng tưởng biến hiện ra. Vô thỉ vô minh là từ khởi tâm động niệm sanh ra, đây là Căn bản hoặc ở trong Tam giới (tức là mê hoặc), từ Vô minh sanh ra Phân biệt, từ Phân biệt sanh ra Chấp trước. Nên Phật pháp dùng Tam học: Giới Định Huệ, dùng Giới phá Kiến tư Phiền não, trì giới thanh tịnh, có thể buông xuống Thân kiến, Biên kiến, người nước ta nói là Thành kiến (chính là Kiến thủ, Giới thủ), Tà kiến, đây là năm loại Kiến hoặc; Tư hoặc cũng có năm loại, Tư hoặc chính là tâm tham trong tâm niệm của quý vị, tâm tham, tâm sân giận, tham sân si mạn nghi, đây là thuộc về Tư hoặc. Tuy Kiến hoặc bén nhạy, nhưng dễ đoạn; còn Tư hoặc không dễ đoạn, tập khí rất nặng, Cổ nhân ví như vương vấn không dứt được. Quý vị dùng trì giới, Thiền định để đoạn chúng, họ có tập khí, nên tuy họ có thể chứng được A-la-hán, A-la-hán đã đoạn Kiến tư Phiền não rồi, nhưng có tập khí của Kiến tư. Sau khi đoạn tập khí của Kiến tư, thì các ngài chứng được quả Bích-chi-phật, thăng cấp rồi. Bích-chi-phật mới thật sự đoạn sạch sẽ Kiến tư Phiền não, các ngài bắt đầu đoạn Trần sa Phiền não. Trần sa là tỉ dụ, loại phiền não này là phân biệt, không có Chấp trước, mà phân biệt, phân biệt vô lượng vô biên, dùng Trần sa để làm tỷ dụ. Phân biệt cũng là chướng ngại, chướng ngại quý vị không thể kiến tánh, nên phải đoạn thứ này. Sau cùng phải đoạn Vô minh Phiền não, Vô minh là Khởi tâm Động niệm, không khởi tâm không động niệm.

Vì vậy thật sự tu hành, đồng học học Phật nhất định phải biết điều này, tu ở đâu? Sáu căn tu trong cảnh giới sáu trần. Rời khỏi cảnh giới thì quý vị tu ở đâu? Đó không phải là chân tu. Chân tu là ở ngay trong cảnh giới, mắt thấy sắc, vào lúc đó để luyện, phải luyện công phu: không dính tướng, không chấp trước tướng của cảnh giới. Không chấp trước có ta, có cảnh giới, công phu vậy đắc lực rồi. Trên Kinh Kim Cang giảng, tu 無我相,無人相,無眾生相,無壽者相 “vô Ngã tướng, vô Nhân tướng, vô Chúng sanh tướng, vô Thọ giả tướng”, là người Tiểu thừa tu. Còn người Đại thừa tu, là phá bốn kiến, chứ không phải bốn tướng, bốn tướng là thô, còn bốn kiến vi tế, chính là không có ý niệm. Trên Kinh Kim Cang gọi là kiến, kiến tức là cách nhìn, cách nghĩ của quý vị, 無我見,無人見,無眾生見,無壽者見 “vô Ngã kiến, vô Nhân kiến, vô Chúng sanh kiến, vô Thọ giả kiến”, không có phân biệt. Phía trước là phá Chấp trước, vô Ngã tướng, vô Nhân tướng, vô Chúng sanh tướng, vô Thọ tướng là phá Chấp trước; phía sau là phá kiến, kiến là ý niệm, căn bản là không sanh ý niệm. Mắt thấy sắc thấy vô cùng rõ ràng, không có cách nhìn của tôi, cũng không có Cảnh giới tướng mà tôi nhìn thấy, biết rõ những gì có tướng đều là hư vọng, sở kiến là hư vọng, năng kiến cũng là hư vọng, năng sở đều là hư vọng, đều không tồn tại. Nên thấy sắc nghe âm thanh mà như như bất động, vô cùng rõ ràng, vô cùng rõ ràng là huệ, trí huệ vốn có trong Tự Tánh, như như bất động là đại định. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ đã nói, “hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao”. Tâm không động, không có lay động, như như bất động, là đại định, Tự Tánh vốn định. Thấy rõ ràng, nghe sáng tỏ, đó là trí huệ Bát-nhã vốn sẵn đủ trong Tự Tánh. Vì vậy các hoặc của Tam giới đều không khởi, không khởi tác dụng, đó là thành tựu công phu.

Người biết dụng công, thì mọi lúc, mọi nơi đều là đạo tràng, đều là đạo tràng tu hành. Tu hành là tu gì vậy? Như như bất động, gọi là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, là tu điều này. Khởi tâm động niệm là phàm phu, không khởi tâm không động niệm là Thánh nhân, Phật Bồ-tát. A-la-hán, Bích-chi-phật gọi là tiểu Thánh, chỉ ra khỏi Lục đạo, nhưng chưa ra khỏi Thập pháp giới, như như bất động trong Lục đạo, quý ngài làm được điều này, nhưng quý ngài vẫn còn phân biệt, không thể đột phá cửa ải này, nhất định phải không phân biệt. Chẳng những không phân biệt, mà còn không khởi tâm, không động niệm, vậy thì quý ngài vượt qua Thập pháp giới, đó là Huệ căn tăng trưởng, có thể phá tất cả mê hoặc của Tam giới. Với chúng ta để nói, hoặc này có mê hoặc, có dụ hoặc, dụ hoặc là thô, còn mê hoặc là tế. Không bị cảnh giới mê hoặc, không bị cảnh giới dụ hoặc, biết tất cả đều là giả, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả pháp Hữu vi, như mộng ảo bọt bóng), Phật dạy bảo chúng ta, 如露亦如電,應作如是觀 “như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (như sương cũng như chớp, nên hành quán như vậy), tốt! Toàn bộ tất cả tướng cảnh giới, tốc độ sanh diệt giống như tia chớp, quý vị không nắm bắt được.

Hiện nay chúng ta biết, theo như lời của Bồ-tát Di Lặc đã nói, căn thân mà chúng ta thấy được trước mắt, cảnh giới nhìn thấy, tốc độ sanh diệt của nó trong toàn vũ trụ, một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ, ở ngay trước mắt chúng ta, trước giờ chưa bao giờ gián đoạn, mà chúng ta không có chút cảm giác nào, thật sự là sơ suất lơ là. Phật nói với chúng ta, tần số cao như vậy thì Pháp thân Bồ-tát biết, Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh biết. Tuy biết, nhưng cũng chưa rõ ràng, người xưa tỉ dụ 猶如隔羅見月 “do như cách la kiến nguyệt” (giống như cách một tấm lụa mà nhìn trăng), cách một tấm lụa mà nhìn mặt trăng bên ngoài, tức là nói không rõ, không phải rất rõ ràng. Đến khi nào mới thật sự có năng lực nhìn thấy chân tướng sự thật? Trong kinh Đại thừa thường nói Bát địa trở lên, khoảng cách thành Phật rất gần. Bồ-tát có tổng cộng 52 quả vị, thứ 52 là thành Phật. Năm cấp bậc cao nhất: Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác, tổng cộng năm cấp bậc, người ở năm cấp bậc cao nhất này, quý ngài đều nhìn thấy rất rõ chân tướng sự thật.

Ngày nay, nhà khoa học cũng đã dần dần phát hiện ra, họ là dùng Toán học, và dùng thiết bị, hiện nay thiết bị tiên tiến đã quan sát được. Nhà khoa học hiện đại có thể nắm bắt được 1 phần 1 triệu tỷ giây, có thể chụp được màn ảnh này, nhìn thấy hiện tượng vật chất: là ảo tướng sanh ra từ trong ý niệm, ý niệm sanh ra thế nào? Cũng là được sanh ra dưới tần số cao như vậy, danh từ trong Phật pháp gọi là Nghiệp tướng. Nghiệp chính là động, hiện tượng dao động sóng. Hiện nay nhà khoa học đưa ra định luật về dây đàn, cũng giống như đánh đàn, khi quý vị gảy thì có âm thanh, đó là sự rung động. Đó là rung động thế nào? Rung động của vũ trụ, rung động của vũ trụ là rung động của Tự Tánh chúng ta. Tự Tánh là không động, không động là thật, rung động là giả, rung động là mê, không động là giác. Vì vậy tâm phải định, thân phải động, thân là bộ máy, nếu không động thì sanh ra sự cản trở. Tâm phải thanh tịnh, không thể có ý niệm, có ý niệm thì tâm mắc bệnh, tâm này là không bình thường. Nên là tâm phải định, thân phải động. Tu hành trong Phật pháp dùng lạy Phật, lạy Phật là thân đang động, tâm là thanh tịnh, trong tâm không được có ý niệm, không được có vọng tưởng. Người sơ học trong tâm luôn có ý niệm, hãy buông xuống ý niệm, chuyên niệm A Mi Đà Phật. Niệm A Mi Đà Phật chính là tu định, tập trung ý niệm vào một điểm, không để ý niệm phân tán, đạo lý là ở đây. Công phu sâu rồi, thời gian lâu rồi, rất tự nhiên không có vọng niệm, vậy thì thành công rồi, đó là đắc định. Định khai trí huệ, định khởi tác dụng chính là trí huệ, vì vậy nhân giới đắc định, nhân định khai huệ, trí huệ hiện tiền, không gì không biết. Trong mười hiệu có Chánh Biến Tri, chánh là chính xác, không có sai lầm, biến là rộng khắp, chẳng có gì là không biết. Do đó trong Tự Tánh có trí huệ, có đức năng, có tướng hảo, phải hướng vào trong Tự Tánh để cầu, không nên ngoài tâm cầu pháp, ngoài tâm không có pháp.

Chúng ta xem tiếp,又靈峰大師曰 “hựu Linh Phong Đại sư viết” (Lại nữa Đại sư Linh Phong nói), Linh Phong chính là Đại sư Ngẫu Ích, là Tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ tông chúng ta, ngài nói, 念根增長,成就一切出世正念功德,名念力 “Niệm căn tăng trưởng, thành tựu nhất thiết xuất thế Chánh niệm công đức, danh Niệm lực” (Niệm căn tăng trưởng, thành tựu tất cả công đức Chánh niệm xuất thế, gọi là Niệm lực). Đặc biệt là dùng trong  Pháp môn niệm Phật, Niệm lực rất rõ ràng. 慧根增長,能遮(遮就是止的意思)通別諸惑 “Huệ căn tăng trưởng, năng giá (giá tựu thị chỉ đích ý tư) Thông Biệt chư hoặc” (Huệ căn tăng trưởng, có thể giá (giá có nghĩa là ngăn dừng) Thông hoặc và Biệt hoặc), Thông hoặc là tất cả chúng sanh thảy đều có, đó là Thông hoặc. Chúng sanh Lục đạo đều có chính là Kiến tư Phiền não. Niệm căn nâng cấp lên trở thành Niệm lực, Huệ căn tăng trưởng, niệm là thuộc về định, định sanh huệ, Thông hoặc và Biệt hoặc, thông là nói Thanh văn Duyên giác, quý ngài không có Kiến tư hoặc, mà quý ngài có Trần sa hoặc, có Vô minh hoặc; Bồ-tát đã đoạn Kiến tư hoặc, cũng đoạn Trần sa hoặc rồi, nhưng chưa đoạn Vô minh hoặc, đây gọi là Biệt hoặc. Trong này ngài có nói, đều đoạn Thông hoặc và Biệt hoặc rồi, chữ “giá” này có nghĩa là đoạn, quý ngài đều đoạn rồi, 發真無漏 “phát chân Vô lậu” (phát Vô lậu chân thật), Vô lậu chân thật chính là Minh tâm Kiến tánh, đó là Huệ lực. 見思惑為通惑,三乘所同斷。塵沙惑、無明惑為別惑 “Kiến tư hoặc vi Thông hoặc, Tam thừa sở đồng đoạn. Trần sa hoặc, Vô minh hoặc vi Biệt hoặc” (Kiến tư hoặc là Thông hoặc, cả ba thừa cùng đoạn. Trần sa hoặc, Vô minh hoặc là Biệt hoặc), điều này là thuộc về hàng Bồ-tát phải đoạn. 慧光止惑 “Huệ quang chỉ Hoặc” (Ánh sáng của trí huệ dừng được Hoặc), ánh sáng của trí huệ có thể phá trừ mê hoặc, 顯發無漏真智,名為慧力。如是諸力,悉皆殊勝 “hiển phát Vô lậu chân trí, danh vi Huệ lực. Như thị chư lực, tất giai thù thắng”(hiển lộ phát khởi trí huệ chân thật Vô lậu, gọi là Huệ lực. Các lực như thế, đều là thù thắng). Đại nguyện thù thắng của Bồ-tát Pháp Tạng, là nâng cấp Ngũ căn lên đến Ngũ lực, để cho Ngũ lực cũng khởi tác dụng, đây đều là tăng thượng.

增上者,有強力勢,能使它法增長上進曰增上。今經中增上,至極殊勝。因所增上者,非是餘法,而是其心。其心者,當人之自心也 “Tăng thượng giả, hữu cường lực thế, năng sử tha pháp tăng trưởng thượng tiến viết tăng thượng. Kim Kinh trung tăng thượng, chí cực thù thắng. Nhân sở tăng thượng giả, phi thị dư pháp, nhi thị kỳ tâm. Kỳ tâm giả, đương nhân chi tự tâm dã” (Tăng thượng: là có thế lực mạnh mẽ, có thể khiến các pháp tăng trưởng tiến lên gọi là tăng thượng. Tăng thượng trong Kinh này, thù thắng đến tột cùng. Bởi vì chỗ tăng thượng, chẳng phải là pháp nào khác, mà là kỳ tâm. Kỳ tâm là tự tâm của chính chúng ta). Những lời này vô cùng quan trọng, đặc biệt hiển thị ra Phật pháp là tâm pháp. Phật pháp tu điều gì? Tu tự tâm, tăng thượng kỳ tâm, tâm ở đây là tự tâm của đương nhân, là chính mình. Trên Kinh Kim Cang nói, 應無所住,而生其心 “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Lục tổ Đại sư Huệ Năng đã khai ngộ trong câu kinh văn này. Tám chữ này miêu tả Bồ-tát (Pháp thân Đại sĩ), quý ngài đã đoạn sạch sẽ Tập khí Phiền não, nên là vô sở trụ. Bắt đầu tu từ đâu? Nhất định phải tu từ: vô ngã. Vô ngã là gì? Người thế gian coi thân là ngã, coi Ngũ uẩn: sắc thọ tưởng hành thức là ngã, sai rồi, Ngũ uẩn không phải là ngã. Chúng sanh Lục đạo đều là trụ trong Ngũ ấm, nên tâm của họ sanh ra là tự tư tự lợi, là cống cao ngã mạn, là mê hoặc điên đảo, họ sanh tâm này. Tâm này là sai rồi, hoàn toàn sai rồi, ý niệm sai rồi, hành vi sai rồi, quả báo của những cảm thọ sai lầm ấy chính là Lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi sanh ra từ trong sai lầm này, tư tưởng, hành vi của quý vị thiện thì hiện ba đường thiện; tư tưởng, hành vi là ác thì hiện ba đường ác. Nghiệp thiện cảm được ba đường thiện, nghiệp ác cảm ba đường ác, mãi không ra khỏi Lục đạo luân hồi. Nên đầu tiên phải nhìn thấu, những cách nghĩ, cách nhìn này đều sai rồi, không phải là thật.

Đức Phật dạy cho chúng ta phải buông xuống Thân kiến, nói với chúng ta thân không phải ta, thân là gì? Thân là do ta sở hữu thôi, gọi là ngã sở. Vậy ngã là ai? Người thế gian đều chấp trước có ngã, ngã là thức Mạt-na, Mạt-na là một vọng niệm, vọng niệm của chấp trước, Mạt-na chấp trước, Ý thức Thứ sáu phân biệt, coi A-lại-da là ngã. A-lại-da từ đâu mà có? Mê mất Tự Tánh thì biến hiện ra một A-lại-da. Chúng sanh Lục đạo xem A-lại-da như ngã, nên Mạt-na là đại biểu. Quý vị xem Mạt-na, bốn đại phiền não thường theo cùng, thứ nhất chính là Ngã kiến. Trên Kinh Kim Cang nói rất hay, nửa phần trước của Kinh Kim Cang phá tứ tướng, chưa có phá tứ kiến. Nửa phần trước Kinh Kim Cang là cảnh giới của Sơ quả Tiểu thừa, nửa phần sau phá tứ kiến: là vào cửa của Đại thừa, giai đoạn đầu của Đại thừa, là khác nhau. Về Đại thừa, tông Pháp Tướng nói chuyển tám thức thành bốn trí, là cảnh giới của Bồ-tát. Vô ngã kiến, không có thức Mạt-na nữa, vậy một thứ không có thì tất cả đều không, chuyển tám thức thành bốn trí, đó chính là Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh. Ngã kiến tức là Thức thứ bảy, bốn đại phiền não của Thức thứ bảy: Ngã kiến, Ngã ái, Ngã mạn, Ngã si. Ngã ái là tham, Ngã mạn là sân, tham sân si, theo ngã đó mà có, gọi là bốn đại phiền não căn bản.

Chúng ta biết, chúng ta trì giới thì trì những giới nào? Chuyên môn đối trị bốn đại phiền não này. Hãy nhìn người tu hành chân chánh, quý vị xem Bồ-tát Hải Hiền, ngài chẳng những không có Thân kiến, mà ngài không có Ngã kiến, quý vị lắng tâm để quan sát, quý vị sẽ nhìn ra được, tham sân si cũng không có nữa, hoàn toàn là trong cuộc sống hàng ngày, nên ngài có thể tùy duyên, 隨緣消舊業,不再造新殃 “tùy duyên tiêu cựu nghiệp, bất tái tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp cũ, không tạo hoạ mới nữa). Trong cuộc sống chúng ta, tiếp xúc với người vật việc bên ngoài, sanh ra điều gì? Sanh ra Ngã ái, Ngã mạn, Ngã si, đây là phiền não căn bản, từ phiền não căn bản phát mạnh ra 84.000 trần lao. Vì vậy tu hành là tu điều gì? Chẳng thể không hiểu rõ điều này, không làm rõ ràng thì cả đời làm oan uổng mà thôi, tu sửa điều này, đối người, đối việc, đối vật không có ngã. Nếu không có ngã, thì ai đang làm? Không biết. Những gì lão Hòa thượng Hải Hiền trả lời người, khi người ta hỏi ngài, là không biết. Trên thực tế thì ngài thật rõ ràng, thật thấu suốt, việc trả lời này chính là nói, không biết là từ phủ định, là giúp người giác ngộ, người thật sự có Giới Định Huệ nghe được câu này sẽ giác ngộ, sáng tỏ rồi, quý vị không biết, tôi cũng không biết. Người truy vấn điều này nghe xong cũng không biết không hiểu, tại sao không biết? Bởi vẫn còn trong mê. Nếu thật sự hiểu được, quý vị không biết, tôi cũng không biết, là khế nhập cảnh giới.

Tu hành chính là tu tâm này, phải tu ra Chân Tâm. Trong Chân Tâm không có sanh khởi một niệm, không sanh một niệm, Chân Tâm vô niệm, có niệm là A-lại-da, vô niệm là Chân Như. Nhưng vô niệm đó, không thể nói ngài không có thứ gì, điều gì ngài cũng biết. Vì sao gọi là vô niệm? Bởi ngài không có chấp trước. A-lại-da có chấp trước, Tự Tánh không có chấp trước. Không có chấp trước, nên ngài không có chướng ngại; nếu có chấp trước, thì họ có chướng ngại. Là chướng ngại gì? Họ không thể kiến tánh. Kiến tánh không có chướng ngại. Những điều này được nhìn thấy tỉ mỉ từ trên người của lão Hòa thượng Hải Hiền, rất có lợi ích đối với chúng ta, là tấm gương tốt thật sự của chúng ta. Không phải bảo quý vị không tiếp xúc, quý vị có thể tiếp xúc mọi thứ, trong việc tiếp xúc khi đang tu hành, tu không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, tu điều này. Đây là thật tu, thật sự hiệu quả, tiếp xúc vạn vật mới có thể độ chúng sanh, không tiếp xúc thì làm sao độ chúng sanh? Nhưng tiếp xúc, nếu quý vị khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, thì quý vị bị chúng sanh độ mất rồi, không phải quý vị độ họ, là họ độ quý vị, quý vị bị ảnh hưởng của họ, bị  quấy nhiễu của họ. Thật sự có thể độ, ngài có định công, như như bất động. Thứ gọi là định công, chính là nói ngài không có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, là đại định. Định này là vô cùng sinh động, không phải cứng nhắc. Ngồi xếp bằng xoay mặt vào vách nhập định, định đó khởi tác dụng gì? Không khởi tác dụng.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ngày ngày giảng kinh dạy học, Ngài ở trong định. Chính Ngài thuyết rất hay, 49 năm giảng kinh thuyết pháp, Ngài có thuyết không? Ngài phủ nhận tất cả, Ta không thuyết một chữ nào, nếu ai nói Ta thuyết pháp, thì phỉ báng Phật, họ hủy báng Ta. Có phải lời thật không? Là lời thật. 49 năm có nói một chữ không? Không nói đến một chữ nào. Tất cả pháp được nói ra, quý vị hỏi điều gì, thì Ngài tự nhiên trả lời quý vị, không thông qua suy nghĩ, đó chính là không có thông qua khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, là không có, mà rất tự nhiên từ trong Tự Tánh lưu xuất ra. Nên trên kinh Phật có câu nói rất hay, pháp, thuyết tất cả pháp này, Phật nay hoàn toàn giống với Phật xưa. Tại vì sao? Bởi cùng một Tự Tánh! Cùng một Tự Tánh [nên] không có hai loại pháp, mà là một pháp. Cảnh giới này: phải dần dần lắng tâm để thể hội, phải nghiêm túc để học tập, ý nghĩa vô cùng, pháp hỷ sung mãn. Mục tiêu của Đại thừa chính là Minh tâm Kiến tánh. Minh tâm Kiến tánh, cần phải buông xuống khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước. Ba thứ này đều khó, Phật dạy chúng ta bắt đầu từ đâu? Từ chấp trước là thô rõ ràng nhất, không chấp trước, sau đó tiến thêm một bước nữa nâng lên đến không phân biệt. Không chấp trước là A-la-hán, là Bích-chi-phật, không phân biệt là Bồ-tát, không khởi tâm, không động niệm thì thành Phật rồi, đó là Minh tâm Kiến tánh.

Ý niệm của chúng ta, vọng niệm liên tiếp nối nhau, một búng tay có 320 ức trăm ngàn niệm, đây là một búng tay; một giây có hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ, ở trước mắt chúng ta, mà chúng ta không cảm thấy được, không có một chút cảm giác. Đến khi nào mới có cảm giác? Giống như thân thể của chúng ta có bệnh, mất cảm giác rồi, nhất định phải đến Minh tâm Kiến tánh mới có cảm giác, đó là năng lực dần dần được khôi phục rồi, bên ngoài có cảm thì tự nhiên có ứng. Hiện nay chúng ta có cảm, nhưng chúng ta không cảm thấy được, không có ứng. Chúng sanh có cảm thì Phật có ứng, ứng của Phật chính là hiện thân thuyết pháp, trong Phật giáo thường nói là Thần thông, Phật sự, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng, chúng sanh có cảm là có khởi tâm động niệm, Phật ứng không có khởi tâm động niệm. Nên Phật có thể thuyết 49 năm mà không thuyết một chữ nào, Ngài có thể thuyết, tại sao vậy? Bởi Ngài không có khởi tâm động niệm. Thường thì tất cả tạo tác, đều là từ khởi tâm động niệm biến hiện ra. Ngài không có khởi tâm động niệm, có thể hiện thân, có thể thuyết pháp, giúp chúng sanh giác ngộ, thỏa mãn nguyện vọng của chúng sanh. Sau đó tướng của Ngài không thấy nữa, chúng sanh không có cảm thì Ngài biến mất, không thấy tướng, không có nữa. Hiện tướng, thuyết pháp, trụ thế, thời gian dài ngắn tất cả đều là cảm ứng.

Chân tướng bên trong này, Thật tướng các pháp, phải thật lắng tâm để thể hội, nếu chính chúng ta cũng có thể vào cảnh giới này thì tốt rồi. Có được không? Được. Hòa thượng Hải Hiền đã làm tấm gương cho chúng ta, nếu ngài không vì biểu pháp, thì sớm đã vãng sanh rồi. Chúng ta đọc Truyện Vãng Sanh, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, rồi quay lại nhìn lão Hòa thượng Hải Hiền, chúng ta có lý do để tin, khi ngài khoảng 30 tuổi, đã đầy đủ điều kiện vãng sanh, ngài có thể đến Thế giới Cực Lạc. Vậy sao ngài chưa đi? Đó là nhận được lời dặn dò của A Mi Đà Phật, Phật nhìn trúng ngài tu học rất như pháp, chỉ thị ngài thường trụ ở thế gian, làm tấm gương học Phật cho người khác xem. Đặc biệt là Pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, rất nhiều người tu Pháp môn này, Pháp môn này chắc chắn thành tựu, một đời viên mãn, phải làm tấm gương tốt cho người ta thấy, đừng để những người ấy tiếp xúc được Tịnh Độ đến cuối cùng lại thoái tâm, vậy thì sai rồi! Ngài vì sứ mạng này, tiếp nhận giáo huấn của A Mi Đà Phật, ngài gọi A Mi Đà Phật là Lão Phật Gia, Lão Phật Gia mà ngài nói chính là A Mi Đà Phật. Ở trong cảnh giới ấy, như chúng ta thường nói, có thể niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, quý vị niệm Phật trong tâm cầu Phật, thì Phật hiện tướng cho quý vị thấy. Phật ở đâu? Không đâu không có, không lúc nào không có, có cảm thì Ngài hiện thân, không có cảm thì không hiện. Chẳng những có thể hiện thân, mà có thể hiện Thế giới Cực Lạc, quý vị muốn nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, thì quý vị có thể thấy được. Khi Đại sư Huệ Viễn còn ở đời, cả đời đã thấy bốn lần, chúng tôi tin ngài sẽ không gạt người. Còn với lão Hòa thượng Hải Hiền, thì có người hỏi tôi, ngài ấy thường thấy Phật, trong đời ngài ấy thấy được bao nhiêu lần? Tôi ước đoán bảo thủ nhất, sẽ không dưới 10 lần, thời gian niệm Phật của ngài dài, đã niệm 92  năm, hay thấy Phật. Phật luôn an ủi ngài, tại vì sao? Bởi Nhẫn nhục Ba-la-mật không dễ dàng, được sự an ủi của Phật, nên Nhẫn nhục sanh tâm hoan hỷ, mà không sanh oán hận, không sanh phiền não, Phật đến an ủi ngài.

Vì vậy ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, vô sở trụ chính là trong tâm không có gì cả, là sanh tâm gì? Sanh tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh là một, phương pháp độ chúng sanh là thiên biến vạn hóa, đó là thế nào? Phương tiện thiện xảo. Giống như 32 Ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên dùng thân gì độ được liền hiện thân ấy, nên thuyết pháp gì cho họ liền thuyết pháp ấy, hoàn toàn là ứng cơ; chứ không phải Phật Bồ-tát muốn dạy họ thế nào, không phải vậy, là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Phải biết điều này. Không phải theo chính mình, không có chính mình, là vô sở trụ, hoàn toàn là thuận theo chúng sanh. Mười nguyện của ngài Phổ Hiền, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, nhất định không có chính mình, có chính mình chính là phàm phu, chẳng thể không biết điều này. Sanh tâm gì vậy? Trong sự sanh tâm, điều cơ bản, quan trọng nhất chính là tâm từ bi. Từ có thể ban vui, bi có thể bạt khổ. Mục đích giáo hóa chúng sanh của đức Phật ở thế gian chỉ có một, Phật xưa như thế, Phật nay như thế, vị lai Phật cũng như thế, sẽ không thay đổi, là mục đích gì? Giúp tất cả chúng sanh lìa khổ được vui. Lìa khổ, rời rốt ráo khổ, rốt ráo khổ là gì? Là Lục đạo luân hồi, là Thập pháp giới. Giúp chúng sanh thoát khỏi Lục đạo, thoát khỏi Thập Pháp giới, gọi là rời rốt ráo khổ. Được rốt ráo vui, rốt ráo vui là Thế giới Tây Phương Cực Lạc; nói cách khác, giúp đỡ chúng sanh, đưa họ đến Thế giới Cực Lạc để thân cận A Mi Đà Phật, vậy gọi là được rốt ráo vui. Nên ngàn kinh vạn luận đều quy hướng một nơi, đều là chỉ dẫn quý vị đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Quý vị vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chư Phật Bồ-tát độ chúng sanh này viên mãn rồi, họ thật sự được độ rồi, chúng ta chẳng thể không biết điều này.

Chúng ta độ chúng sanh đồng thời phải độ chính mình, độ chính mình không trở ngại độ chúng sanh, độ chúng sanh không trở ngại độ chính mình, chắc chắn giúp chính mình nâng cao. Mục tiêu của chính mình là hai câu này, “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Trong Pháp môn Tịnh Độ, nhi sanh kỳ tâm, [là] sanh tâm 48 nguyện của A Mi Đà Phật; thông thường mà nói, sanh tâm tứ hoằng thệ nguyện của tất cả chư Phật. Bồ-tát biểu diễn cho chúng sanh đều là biểu pháp, biểu diễn gì vậy? Phát đại nguyện, không vì chính mình, mà vì tất cả chúng sanh khổ nạn. Tại sao vậy? Bởi tất cả chúng sanh khổ nạn cùng thể với chính mình, đều là cảnh giới do mê mất Tự Tánh mà biến hiện ra. Khi gặp ác mộng, những sự sợ hãi phải chịu đựng đó đều là oan uổng. Tại sao vậy? Bởi vốn là không có, đều là do ý niệm của chính mình biến hiện ra, ý niệm không thiện, tham sân si mạn nghi, Thất tình Ngũ dục đều biến hiện ra từ đây. Những thứ này đều là giả, không có gì là thật, hơn nữa nói trắng ra, hoàn toàn là không tồn tại, quý vị cho rằng nó tồn tại, trên thực tế hoàn toàn không tồn tại. Vì sao nói nó không tồn tại? Bởi tần số quá cao, thời gian tồn tại là một phần hai triệu tỷ của giây. Một giây có hai triệu tỷ lần sanh diệt, sanh diệt nào là thật? Không có thứ nào là thật, đều là giả, những điều quý vị thấy đều là ảo tướng, cũng không thấy được một chân tướng nào.

Chúng tôi dùng phim điện ảnh để làm ví dụ, dễ có một khái niệm hơn. Phim là hình ảnh động, đặt trong máy chiếu phim, để trong một giây thì có 24 lần sanh diệt, dưới tốc độ này, chúng ta nhìn thấy ảo tướng của nó trên màn hình, giống như là thật. Rốt cuộc máy chiếu phim vẫn có dao động, nên hình ảnh trên màn hình phim đó có giật, giật lên rất nhẹ. Nếu là một tấm, 1 phần 24 giây, thì mắt thường của chúng ta nhìn không thấy, sẽ chỉ nhìn thấy một tia sáng lóe lên rồi không có nữa, 1 phần 24 giây, không có nữa. Nhìn thấy một tia sáng, trong ánh sáng có gì thì không thấy rõ ràng, không nhìn ra, đôi mắt này không có tác dụng. Về TV, TV trắng đen năm xưa, tần số của TV trắng đen cao hơn máy chiếu phim điện ảnh, một giây có 50 lần, điện ảnh là một giây 24 lần, TV là 50 lần, nên quý vị xem rất ổn định, không thấy nó giật. TV hiện nay, là TV màu, kỹ thuật số, một giây có 100 lần. Hình ảnh trong một giây sẽ giống như cuộn phim là 100 tấm, nên hoàn toàn không nhìn thấy dấu vết dao động của nó. Chỉ mới 100 tấm, 100 lần trong một giây. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, đơn vị là ngàn tỷ. Đó là gì? Hoàn cảnh hiện thực. Bồ-tát Di Lặc đã nói rõ, chúng ta sống trong ảo tướng được sanh ra bởi 2 triệu 100 ngàn tỷ lần dao động sóng sanh diệt, cả vũ trụ. Cả vũ trụ là giả, không phải thật, quý vị coi vũ trụ là thật thì sai rồi.

Sau khi hiểu rõ chân tướng, chắc chắn không có hoài nghi nữa, phải chú trọng để có một khái niệm thật rõ ràng, vậy thì toàn thể là không thể đạt được, không vô sở hữu! Tức là phải thái độ thế nào? Phải vô sở trụ, nhất định không thể đem một điều nào, người việc vật, không được để trong tâm. Nếu để trong tâm, thì tâm của quý vị bị quấy nhiễu, là sai rồi, quý vị liền mê rồi, quý vị trở thành phàm phu. Thấy rõ ràng, nghe rõ ràng, trong tâm vô cùng trong sạch, không có gì cả, thì đúng rồi, quý vị hoàn toàn dùng Chân Tâm, quý vị không khác với Phật Bồ-tát, Bồ-tát ở đây là Pháp thân Bồ-tát, không phải Bồ-tát bình thường. Nhi sanh kỳ tâm, tâm chính là hồi ứng, cảnh giới bên ngoài là cảm, thì quý vị tự nhiên có hồi ứng, hồi ứng này gọi là nhi sanh kỳ tâm. Có khởi tâm động niệm không? Không có; Có phân biệt chấp trước không? Không có. Trong đĩa CD về lão Hòa thượng Hải Hiền, quý vị tỉ mỉ để quan sát, để xem, thì quý vị nhìn ra vô trụ sanh tâm mà ngài thể hiện, tự nhiên đến như thế, viên mãn đến như vậy. Đó chính là Pháp thân Bồ-tát, chư Phật Như Lai ứng hóa trong Thập pháp giới, ứng hóa trong cảnh giới chân thật của Lục đạo, quý vị nhìn thấy rồi, quý vị biết, thì có thể học tập.

Sợ nhất, chướng ngại nghiêm trọng nhất: chính là ngã, có ngã thì phiền phức, không nhìn thấy nữa. Phải buông xuống Ngã kiến, vô ngã, vô ngã là chân ngã. Ngã là gì? Ngã là Pháp giới, Pháp giới là ngã. Khắp Pháp giới hư không giới là do Tự Tánh biến, Tự Tánh mới là chân ngã, có thể sanh, có thể hiện, là trên Kinh Hoa Nghiêm nói. Cả vũ trụ, vạn sự vạn vật khắp Pháp giới hư không giới, đều là do Tự Tánh sanh, Tự Tánh biến. Vì sao Tự Tánh có thể sanh, tại sao có thể biến? Bởi gặp được duyên, tự tự nhiên nhiên, ở đây không có lý do, gọi là pháp nhĩ như thị, pháp tự nhiên là như thế đó. Chúng ta thật làm rõ ràng, thật làm cho sáng tỏ, buông xuống tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là chư Phật Bồ-tát tái lai. Chư Phật Bồ-tát và Lục đạo phàm phu là cùng một Tự Tánh, phàm phu đang mê, Phật Bồ-tát đang giác. Giác thì không mê, đó là Phật Bồ-tát; chúng sanh là mê thì không giác, gọi là chúng sanh. Vì vậy kỳ tâm ở đây chính là tâm của chính mình. Toàn vũ trụ là một giấc mộng của chính mình, chỉ là khi nằm mộng mà không biết là mộng, biết là mộng thì giác ngộ rồi; không biết là mộng, nên mê trong đó.

Tiếp theo nói, 此二經中所標之其心,正是一心 “thử nhị Kinh trung sở tiêu chi kỳ tâm, chánh thị nhất tâm” (kỳ tâm được nêu lên trong hai Kinh này, chính là một tâm), một tâm không có hai tâm. 譬如磨鏡,垢盡明現。無明惑盡,自心朗現,故云增上其心也 “Thí như ma nh, cấu tận minh hiện. Vô minh hoặc tận, tự tâm lãng hiện, cố vân tăng thượng kỳ tâm dã”(Giống như mài gương, cáu bẩn hết thì hiện sáng rõ. Hết Vô minh hoặc, thì tâm mình hiện sáng, nên nói là tăng thượng kỳ tâm). Gương thời xưa hầu hết là làm bằng đồng, không có thủy tinh, nên thời gian lâu phải mài, mài sáng thì có thể soi thấy được. Vì vậy, phải mài sạch sẽ bụi trên gương đồng mới có thể soi, dùng gương đồng để làm ví dụ, hết Vô minh hoặc, thì tâm mình hiện sáng. Vô minh là gì? Khởi tâm động niệm. Không khởi tâm không động niệm thì không có Vô minh, tâm đó là Chân Tâm. Chân Tâm có thể soi cả vũ trụ, soi được quá khứ, soi được vị lai, thông suốt rõ ràng, không có chướng ngại. Trong pháp Đại thừa sợ nhất chính là có trụ. Chúng sanh Lục đạo: vì sao gọi họ là chúng sanh? Bởi vì họ có trụ. Có trụ sanh tâm thì tạo nghiệp, còn vô trụ sanh tâm không có nghiệp. Nếu đổi một câu thô hiển để nói, thì không thể để thứ gì trong tâm, điều gì cũng không được để trong tâm. Tịnh tông rất đặc biệt, cho phép quý vị để một thứ, chỉ có thể để một thứ, các thứ khác đều không được để, đấy chính là Nam Mô A Mi Đà Phật, điều này dễ tu. Nếu thứ gì cũng không để, thì rất khó tu, quý vị không có cách nào, quý vị sẽ luôn để mọi thứ vào trong đó. Hiện nay nói quý vị đổi một thứ, đổi những thứ linh tinh đó thành A Mi Đà Phật, niệm niệm đều là A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì không có gì cả. Niệm một câu A Mi Đà Phật này 3 năm 5 năm, hiểu rõ đạo lý này, thì không có ý niệm nào nữa, quý vị rất có thể chứng được Nhất tâm Bất loạn, Sự nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn, rất dễ chứng được, sự vi diệu của Tịnh tông là ở chỗ này.

Sư phụ của lão Hòa thượng Hải Hiền là ngài Truyền Giới, năm đó ngài Truyền Giới thế độ cho ngài, dạy ngài một câu A Mi Đà Phật, cứ vậy niệm đi. Ngài ấy thật thà, nghe lời, thật làm, 92 năm không chuyển hướng, chỉ một câu A Mi Đà Phật niệm đến cùng, ngoài điều này thì thứ gì ngài cũng không biết. Ngài lớn lên ở nông thôn, rất quen thuộc đối với việc đồng áng, xuất gia rồi, canh tác đất đai, trong chùa có mấy mẩu đất, chính ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn để trồng trọt, trồng lương thực, trồng rau, trồng cây ăn trái, lại thích trồng cây. Ngài Truyền Giới, chúng ta có lý do để tin, ngài là người đã Minh tâm Kiến tánh, không phải là người bình thường, ngài vừa nhìn ngài Hải Hiền liền biết đó là bậc pháp khí, người này tương lai sẽ có thành tựu, dạy ngài Pháp môn này, còn đặc biệt dặn ngài, tương lai khi con sáng tỏ rồi không nên nói lung tung, không nên nói. Thế nào là sáng tỏ rồi? Khai ngộ. Sau khi khai ngộ phải giả bộ hồ đồ, không được nói. Ngài ghi nhớ, ngài thật không nói. Thỉnh thoảng cũng để lộ chút tin tức, ngài nói điều gì tôi cũng biết. Điều gì cũng biết chính là khai ngộ, nếu không phải Đại triệt Đại ngộ, thì không thể nói câu này. Ngài nói câu này với mọi người, nhưng người ta nghe không hiểu. Nên cuộc đời của ngài rất bình an, không có đố kỵ, không có chướng ngại, ngài trải qua thời gian dài như vậy 100 năm. Thật sự là trước sau đều tốt đẹp, buông xuống vạn duyên, trong tâm chỉ là A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật thì không có gì nữa. Những lương thực do ngài trồng, có người đến ăn trộm của ngài, chúng ta xem có một đoạn trong đĩa phim, có người ăn trộm ngô của ngài, đã bị ngài phát hiện. Ngài bảo người đó đừng sợ, anh muốn bẻ thì anh cứ tùy ý bẻ đi, nhặt lấy những trái to mà bẻ, không phải sợ đâu, rồi tự mình bỏ đi. Đó chính là là gì? Tâm vô sở trụ, đó chính là Phật pháp. Người ăn trộm ngô không ngờ lão Hòa thượng từ bi đến như vậy, người ấy có thể không tôn trọng sao? Có thể không kính ngưỡng sao? Sau này có dám không? Không dám nữa. Sau này có thể hỏi lão Hòa thượng nếu muốn, lão Hòa thượng cho phép, thì tự quý vị đi bẻ. Không để chút gì trong tâm, không để người khác trong tâm, không để việc trong tâm, cũng không để vạn vật trong tâm, thật sự để trong tâm chính là Thế giới Cực Lạc A Mi Đà Phật, niệm niệm của ngài đều hướng về đó, [thật] đúng rồi.

Chúng ta xem đoạn tiếp theo, 『堅固不動』“kiên cố bất động” (kiên cố không dao động), 其心如金剛,能破一切,而不為一切所破,故云堅固 “kỳ tâm như kim cang, năng phá nhất thiết, nhi bất vi nhất thiết sở phá, cố vân kiên cố” (Tâm ấy như kim cang, có thể phá tất cả, nhưng không bị tất cả phá được, nên gọi là kiên cố). Lão Hòa thượng Hải Hiền kiên cố, thật sự là kiên cố không dao động, tất cả cảnh giới bên ngoài: có thuận cảnh, nghịch cảnh, tùy hỷ đối với thuận cảnh, nhẫn nhục đối với nghịch cảnh, không bị ngoại cảnh dao động. Không cho phép niệm Phật, thì niệm thầm trong tâm; không cho phép lạy, thì ngài lạy âm thầm vào ban đêm, có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. 其心如如,《金剛經》曰:如如不動。故云不動。此之不動,不是沈空滯寂,而是心心契於真如法一,念念流入如來覺海也 “Kỳ tâm như như, Kim Cang Kinh viết: như như bất động. Cố vân bất động. Thử chi bất động, bất thị trầm Không trệ Tịch, nhi thị tâm tâm khế ư Chân Như pháp nhất, niệm niệm lưu nhập Như Lai giác hải dã” (Tâm ấy như như, trong Kinh Kim Cang nói: như như bất động. Nên nói là bất động. Sự bất động ấy, không phải là trầm Không trệ Tịch, mà là tâm tâm khế hợp với Chân Như pháp nhất, niệm niệm nhập vào biển giác của Như Lai). Biển giác Như Lai chính là biển giác của chính mình, biển giác chính là Chân Như Bản Tánh, Bản Tánh rộng lớn không có bờ mé, dùng biển để làm tỷ dụ. Niệm niệm tương ưng với Tự Tánh, Tự Tánh vốn tự đầy đủ: vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, tất cả đều là vô lượng, Vô Lượng Giác chính là A Mi Đà.

『修行精進,無能踰者』“Tu hành tinh tấn, vô năng du giả” (Tu hành tinh tấn, không ai vượt được), hai câu kinh văn này. 修行者,為通用之辭 “Tu hành giả, vi thông dụng chi từ” (Tu hành: là từ thông dụng), vốn là thông dụng ở Trung Hoa. Sửa đổi hành vi, hành vi của quý vị phạm sai lầm, sửa lại thì gọi là tu hành, đây là điều phổ biến trong xã hội. 自晉後轉為佛教術語 “Tự Tấn hậu chuyển vi Phật giáo thuật ngữ” (Từ thời nhà Tấn về sau được chuyển thành thuật ngữ của Phật giáo), biến đổi thành thuật ngữ dùng riêng cho Phật giáo, người bình thường ở thế gian rất ít dùng danh từ này. 如理而行戒定慧,曰修行。即佛教中教理行果四法中之行法 “Như lý nhi hành Giới Định Huệ, viết tu hành. Tức Phật giáo trung Giáo Lý Hành Quả tứ pháp trung chi Hành pháp” (Như lý mà thực hành Giới Định Huệ, gọi là tu hành. Chính là pháp Hành trong bốn pháp: Giáo Lý Hành Quả của Phật giáo). Giáo là giáo học, là chỉ kinh điển, văn tự của kinh điển là Giáo; đạo lý hàm chứa trong văn tự, đó là Lý; bên trong có dạy cho chúng ta phương pháp tu hành, đó là Hành; dựa vào Giáo Lý Hành, phía sau có kết quả. Trong Tịnh Độ tông, vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là Quả. Hành pháp ở trong bốn pháp này, về tu hành, Hành phải nương vào Giáo, phải dựa vào Lý, phải cảm được Quả, cách tu hành như vậy thì đúng rồi.

Trên kinh Đại thừa thường nói 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, nhiều phương pháp, con đường, vô lượng vô biên, về lý chỉ có một, tất cả đều là dạy chúng ta quay về Tự Tánh. Cách trở về Tự Tánh, Tự Tánh là vốn có, nên Phật pháp là pháp bình đẳng. Nói từ trên Tự Tánh, tất cả chúng sanh vốn là Phật, với đức Thích Ca, với đức Mi Đà, với đức Tỳ Lô Giá Na đó là một không phải hai. Có thể dùng từ bi để đối xử với tất cả chúng sanh, đó là Thích Ca; có thể dùng thanh tịnh bình đẳng giác đối đãi tất cả người việc vật, đó là A Mi Đà. Vì vậy gọi là Tự Tánh Thích Ca, Tự Tánh Mi Đà, là danh xưng trong Tánh đức của chúng ta. Mong rằng khi thường xuyên niệm, niệm sáng tỏ, giác ngộ rồi, niệm ra tâm từ bi của chính mình, niệm ra bình đẳng giác của chính mình, đó chính là chứng quả. Chúng ta có, mà chính mình không biết, chính mình còn đi ra bên ngoài tìm kiếm. Phật là bậc thầy tốt, nói với chúng ta chân tướng sự thật, quý vị có viên mãn đầy đủ tất cả, đừng cầu bên ngoài. Cầu bên ngoài là nghiệp, là do chính quý vị tạo tác, thí như nói chính quý vị làm việc thiện, trong tâm của quý vị có thiện, quý vị không buông xuống việc thiện, thì cảm được quả báo của ba đường thiện; nếu quý vị làm việc ác, mà quý vị không buông xuống, thì cảm được quả báo của ba đường ác. Giáo Lý Hành Quả khắp tất cả pháp, Phật pháp nắm chắc cương lĩnh này, giúp chúng ta giác ngộ, giúp chúng ta sửa đổi sai lầm, mê hoặc điên đảo, trở về Giáo Lý Hành Quả vốn có trong Tự Tánh, đó là tu hành.

精進 “Tinh tấn”, tinh tấn là siêng năng, không thể lười biếng. Nên tinh có nghĩa là tinh thuần, 無惡雜故。進謂升進(提升),不懈怠故 “vô ác tạp cố. Tấn vị thăng tiến (đề thăng), bất giải đãi cố” (nên không có ác xen lẫn. Tấn là thăng tiến (đi lên), nên không lười biếng), có thể siêng năng không giải đãi, làm gì có đạo lý không thành tựu! Từ Ân Thượng Sanh Kinh Sớ, Từ Ân là Đại sư Khuy Cơ, người đời nhà Đường, trong Thượng Sanh Kinh Sớ, Kinh Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh, ngài nói 精謂精純,無惡雜故。進謂升進,不懈怠故“tinh vị tinh thuần, vô ác tạp cố. Tấn vị thăng tấn, bất giải đãi cố” (tinh là tinh thuần, nên không có ác xen lẫn. Tấn là thăng tiến, nên không lười biếng). 又踰者 “Hựu du giả” (Lại nữa du), du là siêu vượt, vượt qua, vượt hơn, có những ý nghĩa này. 此二句總結上文。修行總括以上種種妙行 “Thử nhị cú tổng kết thượng văn. Tu hành tổng quát dĩ thượng chủng chủng diệu hạnh” (Hai câu này tổng kết kinh văn trên. Tu hành bao gồm tất cả các loại diệu hạnh ở trên), chúng ta thường nói: 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, chính là tất cả các diệu hạnh. Tại sao vậy? Bởi mỗi Pháp môn đều có thể chứng Vô thượng đạo. Nên trên Kinh Kim Cang nói, 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp), là ý nghĩa này. Bởi vì mỗi một Pháp môn đều phải buông xuống khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, đây là nguyên tắc chung. Nếu quý vị không buông xuống, thì đó không phải là Phật pháp. Trong Phật pháp bất luận Pháp môn nào, quý vị chỉ là buông xuống mà thôi, bởi quý vị không buông xuống hoàn toàn được, nên dạy quý vị dùng một loại phương pháp, cũng giống như hiện nay chúng ta dùng A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì buông xuống tất cả, chúng ta dùng A Mi Đà Phật để dẫn đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị nhất định được vãng sanh. Các Pháp môn khác cũng là như vậy, quý vị chỉ đi được một con đường, quý vị không thể đi hai con đường. Cùng lúc học mấy Pháp môn, thì tâm của quý vị phân tán rồi, năng lực của quý vị không thể tập trung, kết quả quý vị đạt được là tri thức, quý vị không đạt được định.

Mục đích của Phật pháp là dạy quý vị đắc Định, thâm nhập một môn là Giới, chỉ có một môn thì dễ đắc Định, sau khi đắc định có thể khai trí huệ, khai trí huệ mới là mục đích chân thật. Điều chúng ta cầu không gì khác, là trí huệ, cầu khai ngộ, trí huệ Bát-nhã vốn đầy đủ trong Tự Tánh, chúng ta cầu điều này. Chúng ta nghĩ ngoài Phật pháp ra thì các tôn giáo khác có được không? Được, chỉ cần quý vị chuyên nhất, buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì tất cả đều kiến tánh. Nên trong Đại thừa giáo có câu nói, pháp nào chẳng phải là Phật pháp, là ý nghĩa này. Chỉ cần biết: buông xuống khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, thì bất kỳ pháp nào cũng là Phật pháp. Nếu không thể buông xuống vọng tưởng phân biệt chấp trước, thì Kinh Vô Lượng Thọ, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa cũng không phải là Phật pháp. Tại vì sao? Bởi quý vị không đạt được Định, quý vị không thể khai ngộ, phải hiểu rõ đạo lý này. Nên Phật mới nói, tất cả pháp đều là Phật pháp, pháp nào chẳng phải là Phật pháp, cần sáng tỏ ý nghĩa này. Phật pháp dạy quý vị nhận biết chân tướng của tất cả pháp, đừng coi là thật, tất cả những gì có tướng đều là hư vọng. Cuối cùng nói, 如是諸行悉皆精勤升進,故云修行精進。法藏比丘之德行,無人能及 “như thị chư hnh tất giai tinh cần thăng tiến, cố vân tu hành tinh tấn. Pháp Tạng Tỳ-kheo chi đức hạnh, vô nhân năng cập” (các hạnh như thế đều là tinh chuyên siêng năng thăng tiến, nên nói là tu hành tinh tấn. Đức hạnh của Tỳ-kheo Pháp Tạng, không ai bằng được ngài), không ai có thể sánh được với ngài, nên nói là “vô năng du giả”. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 144 )

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật