Responsive Menu
Add more content here...

Tập 145 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 145

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian:  10/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 391, hàng thứ ba từ trái qua, khoa đề 讚佛發願 “Tán Phật Phát Nguyện” (Khen Ngợi Phật Và Phát Nguyện). Chia bốn khoa nhỏ, thứ nhất là 具儀“Cụ Nghi”(Đầy Đủ Oai Nghi), nghi tức là nói oai nghi. Mời xem kinh văn:

【往詣佛所。頂禮長跪。向佛合掌。即以伽他讚佛。發廣大願。頌曰。】“Vãng nghệ Phật sở, đảnh lễ trường quỵ, hướng Phật hiệp chưởng, tức dĩ Già-tha tán Phật, phát quảng đại nguyện. Tụng viết” (Đi đến chỗ Phật, đảnh lễ quỳ gối, chắp tay hướng Phật, liền dùng kệ tụng khen ngợi Phật và phát nguyện rộng lớn. Kệ rằng:)

Chúng ta hãy xem Chú Giải của Niệm lão, 『詣』“nghệ” là  往也,到也 “vãng dã, đáo dã” (đi, đến). 『所』“sở” là「處所」“xứ sở” (nơi chốn).『頂禮』“Đảnh lễ” ,「梵音那謨」“Phạn âm Nam Mô ” (Âm tiếng Phạn là Nam Mô), ý nghĩa của Nam Mô chính là đảnh lễ, phiên dịch sang ý nghĩa của nước ta, có nghĩa là 歸命 “quy mạng”, có nghĩa là 稽首 “khể thủ”, là 頂禮 “đảnh lễ”, hoặc trực tiếp dùng một chữ, chính là 禮 “lễ”, lễ bái. 常云:頂禮佛足。我所貴者頂也,彼所卑者足也。以我之所尊 “Thường vân: đảnh lễ Phật túc. Ngã sở quý giả đảnh dã, bỉ sở ti giả túc dã. Dĩ ngã chi sở tôn” (Thường nói: đảnh lễ dưới chân của Phật. Chỗ cao quý của chúng ta là đỉnh đầu, chỗ thấp hèn của người khác là bàn chân. Dùng thứ tôn quý của chúng ta), dùng đầu của chúng ta, 恭敬彼之所卑 “cung kính bỉ chi sở ti” (để cung kính chỗ thấp hèn của người khác). Chính là khi lễ, hiện nay ở Ski Lanka vẫn còn tập tục này, quý vị thấy người ta lạy Pháp sư, tay phải chạm vào chân của vị ấy, không phải là đỉnh đầu, mà tay chạm vào chân của vị ấy. Đây là biểu thị sự lễ kính nhất, 表禮敬之極 “biểu lễ kính chi cực” (tỏ rõ sự lễ kính đến tột bậc).

『伽他』“Già-tha”, đây là tiếng Phạn, cựu dịch là kệ, 此翻為頌 “thử phiên vi tụng” (Ở đây dịch là tụng). Kệ tụng, chúng ta cũng thường gộp lại để đọc, kệ tụng chính là “Già-tha”. Tụng là khen ngợi, là ca tụng. 採用偈頌之意有二 “Thái dụng kệ tụng chi ý hữu nhị”(Chọn dùng kệ tụng là có hai ý nghĩa), thứ nhất là kệ ít chữ hơn, 偈文少字之中,能攝多義,易解易持 “kệ văn thiểu tự chi trung, năng nhiếp đa nghĩa, dị giải dị trì”(trong lời kệ ít chữ, nhưng thu nhiếp được nhiều nghĩa, dễ hiểu dễ thọ trì), khi đọc lại rất dễ nhớ, cũng có thể dễ dàng thọ trì. Thứ hai là, 偈音美妙 “kệ âm mỹ diệu”(âm điệu của kệ hay), gieo vần, 用之讚詠 “dụng chi tán vịnh”(dùng để biểu đạt khen ngợi), dùng điều này để khen ngợi Phật Bồ-tát. 法藏比丘到佛前禮佛讚佛,並發以下廣大誓願,現在當來一切眾生,皆依此一乘願海而得度脫 “Pháp Tạng Tỳ-kheo đáo Phật tiền lễ Phật tán Phật, tịnh phát dĩ hạ quảng đại thệ nguyện, hiện tại đương lai nhất thiết chúng sanh, giai y thử Nhất thừa nguyện hải nhi đắc độ thoát”(Tỳ-kheo Pháp Tạng đến trước đức Phật, lễ Phật khen ngợi Phật, đồng thời phát ra thệ nguyện rộng lớn sau đây, tất cả chúng sanh trong hiện tại và tương lai, đều nương theo biển nguyện Nhất thừa này mà được độ thoát). Nguyện này thật sự quá hy hữu, quá khó được rồi, có thể nói là tất cả chúng sanh có duyên trong khắp Pháp giới hư không giới sau khi nghe được, nghe sáng tỏ rồi, nghe rõ ràng rồi, y giáo phụng hành, đều có thể vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, có thể nói đó là công đức đại viên mãn, tại sao vậy? Bởi chắc chắn một đời chứng đắc Phật quả rốt ráo, mà bất kỳ Pháp môn nào cũng không cách nào so sánh được.

Trong thời đại hiện nay của chúng ta đây, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với tôi, về Giáo hạ, không có nghe nói: có người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, Giáo hạ gọi là Đại khai Viên giải, không có nữa; về Tông môn, Đại triệt Đại ngộ bên Thiền tông cũng không có ai; còn Mật tông, vào thời đại này người tu hành thật sự thành tựu, lão Cư sĩ nói với tôi chỉ có sáu người. Trong Tịnh Độ người niệm Phật vãng sanh, có thể nói vô số kể, quá nhiều rồi. Ba vị Đại đức ấy ở chùa Lai Phật, trong đó bao gồm mẹ của lão Hòa thượng Hải Hiền, 86 tuổi tự tại vãng sanh, đó là gì? Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc chính là đại viên mãn, chính là đại thành tựu. Ba người vãng sanh đều là tự tại vãng sanh, nói rõ là không có bệnh khổ, không có tử khổ. Nhiều người như vậy, tôi đích thân nghe thấy, tận mắt chứng kiến: là có sáu, bảy người. Nhưng thù thắng nhất, vẫn là ba vị Đại đức ấy ở chùa Lai Phật, thật sự là chứng minh cho chúng ta: thật có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật, không phải là giả, 48 nguyện độ chúng sanh, không có điều gì là giả.             

Ở thế gian này của chúng ta, Lục đạo Thập pháp giới này quả thật giống như lời của lão Hòa thượng nói, đó đều không phải là thật, đều là giả. Kinh Kim Cang có thể làm chứng, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”(tất cả pháp Hữu vi, như mộng ảo bọt bóng), mộng ảo bọt bóng là giả, Lục đạo Thập pháp giới là pháp Hữu vi, Hữu vi tức là có sanh có diệt. Nhà khoa học nói với chúng ta, là sát-na sanh diệt. Một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, tức là 32 ức trăm ngàn lần sanh diệt, đây là một búng tay. Hiện tượng ở ngay trước mắt chúng ta, ở ngay xung quanh chúng ta, từ khi sanh ra đến khi già chết mà chúng ta cũng không phát hiện ra. Nghe Phật nói với chúng ta từ trên kinh điển, chúng ta mới rất tỉ mỉ cẩn thận để quan sát sự việc này. Chúng ta sanh ra trong thời đại này rất khó được, có một nhóm nhà Cơ học Lượng tử, đây là khoa học mũi nhọn làm chứng minh cho chúng ta, họ đã nhìn thấy trong thế giới vi mô: sự sanh diệt của Neutrino, chứng thực điều đức Thế Tôn đã nói trong kinh điển “Ngũ uẩn giai không”. Rất nhiều người đọc Tâm Kinh, Quán Tự Tại Bồ-tát dùng định huệ rất sâu của ngài, ngài đã nhìn thấy Ngũ uẩn đều không. Ngũ uẩn là: sắc thọ tưởng hành thức, chỉ điều gì? Hiện tượng vật chất nhỏ nhất, hoặc nói là hiện tượng tinh thần, tinh thần là ý niệm, tức là thọ tưởng hành thức, sắc là vật chất. Ở dưới tần số cao này, sắc thọ tưởng hành thức là một thể, không thể chia tách. Thọ tưởng hành thức là tâm pháp, tác dụng của tâm lý; sắc pháp là tác dụng của vật chất, sắc và tâm là một không phải hai, là một thể, không thể chia nhỏ. Khoa học chứng thực rồi, trên kinh Đại thừa nói không sai chút nào.

Sau khi chúng ta hiểu rõ được chân tướng, thì làm sao có thể ra khỏi giả tướng của Lục đạo này? Có thể ra khỏi, đó gọi là rời rốt ráo khổ, trong Phật pháp nói chứng quả A-la-hán. Về A-la-hán, từ tu hành đến chứng quả có tám giai đoạn, gọi là Tứ quả Tứ hướng. Hiện nay chúng ta tu học, phát tâm tu học, đây là Sơ quả hướng, chưa chứng được Sơ quả, phương hướng là chính xác. Phải làm thế nào mới chứng được Sơ quả? Phật nói với chúng ta, buông xuống năm loại Kiến hoặc được nói trong Tiểu thừa giáo. Hoặc là mê hoặc, cũng chính là nói quý vị nhìn sai rồi. Đức Phật quy nạp tất cả pháp thành năm loại lớn, thứ nhất là Thân kiến, chúng ta đều hiểu sai rồi, cho rằng thân là chính mình. Thân không phải là chính mình, thân là giả tướng, không phải chân thật. Ngày nay nhà khoa học đã lý giải, thân thể của người là do các tế bào tạo thành, các tế bào lại do Cực vi sắc tạo thành, Cực vi sắc chính là Neutrino mà khoa học nói tới. Tần số tồn tại của Neutrino quá cao, có sanh có diệt, một lần sanh diệt thời gian bao lâu? Hiện nay chúng ta có một khái niệm, một giây sanh diệt của nó là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần. Mỗi sự sanh diệt đều là độc lập, niệm trước diệt thì niệm sau sanh, ảo tướng của niệm trước và ảo tướng của niệm sau không phải là giống nhau, mỗi ảo tướng đều là độc lập, nên ở trên kinh Phật nói là tương tự tương tục, không phải là thật sự tương tục, thật sự tương tục là giống nhau, đó không phải thật sự tương tục. Vì vậy hiểu rõ chân tướng sự thật thì biết rồi, chúng ta cho rằng giả tướng này là chân thật, sai lầm rất lớn, sai lầm này gọi là mê hoặc. Khi mê, không hiểu rõ chân tướng sự thật nên sanh ra hiểu sai, lầm tưởng cho nó là thật có.

Cấu tạo của toàn vũ trụ, không ngoài vật chất và tinh thần, thọ tưởng hành thức là tinh thần, lại chính là một hiện tượng tự nhiên, ba loại lớn này tạo thành tất cả pháp của cả vũ trụ. Những điều đức Phật đã nói trong Đại thừa giáo tương ưng với khoa học, danh từ khác nhau mà thôi. Tần số dao động sóng, trong Phật pháp gọi là Nghiệp tướng, nghiệp trong sự nghiệp, Nghiệp tướng của A-lại-da; thọ tưởng hành thức, khoa học gọi là thông tin, A-lại-da gọi đó là Chuyển tướng. Chuyển, có nghĩa là gì? Chuyển biến. A-lại-da có thể biến, hiện tượng là sở biến, sở biến chính là Cảnh giới tướng, chủ yếu là vật chất. Chuyển tướng là thọ tưởng hành thức, chuyển biến thành vật chất. Nên trên kinh Đại thừa thường nói cảnh tùy tâm chuyển, hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh tinh thần đều là do từ ý niệm biến chuyển, ý niệm tốt, thì không có gì mà không tốt. Thế giới Cực Lạc thật tốt, không có chút nào là không tốt, nên gọi đó là Cực Lạc, Cực Lạc là cảnh giới viên mãn chí thiện chí chân. Điều này là thật, là không có sanh diệt, có sanh diệt không phải là thật. Thế giới Cực Lạc không có sanh diệt, đó là một Thế giới rất kỳ lạ đặc biệt, khác với Lục đạo của chúng ta, khác với Thập pháp giới ở đây của chúng ta, cũng khác với Thế giới Ta Bà [gồm] Tam thiên Đại thiên thế giới thuộc khu vực giáo hóa của đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đức Phật nhìn thấu rồi, tuy chúng ta chưa nhìn thấu, nhưng Phật đã nói với chúng ta. Chúng ta đọc kinh điển của Phật, thì biết những điều Phật nói, Phật nhất định không vọng ngữ, nhất định sẽ không lừa gạt người, lời của Phật: từng câu đều chân thật, chúng ta phải tin tưởng. Việc dạy học của Phật cũng không dừng lại ở niềm tin, Ngài giúp quý vị lý giải từ từ, cuối cùng chứng thực lời Phật đã nói, quý vị cũng tận mắt chứng kiến rồi. Phật là trực tiếp nhìn thấy, quý vị cũng đích thân nhìn thấy rồi, đó là chứng. Nên Phật pháp dạy người tin, thứ nhất quý vị phải tin tưởng, thứ hai để quý vị hiểu rõ; thứ ba quý vị phải nghiêm túc y theo phương pháp của Phật để làm, cách làm này chính là nhập định, chính là buông xuống; định lâu rồi, công phu của định sâu rồi, bỗng nhiên quý vị thấy được thôi, đó là chứng quả. Chứng minh lời Phật nói trên kinh凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”(những gì có tướng, đều là hư vọng), không cần dùng thiết bị khoa học, mà dùng định công của chính chúng ta. Trong Thiền định thì không có hiện tượng thời gian không gian nữa. Thời gian, không gian đến từ đâu? Do vọng tưởng sanh ra. Nếu không có vọng tưởng, thì quan niệm và hiện tượng về thời gian, không gian cũng không có nữa. Thời gian là: quá khứ, hiện tại, vị lai; không gian là: bốn phương, bốn góc, trên dưới, tất cả là từ vọng niệm sanh ra. Phật pháp Đại thừa, trong Luận Bách Pháp Minh Môn, xếp hai loại này vào trong Bất tương ưng Hành pháp. Bất tương ưng Hành pháp cũng chính là khái niệm trừu tượng mà ngày nay chúng ta nói, không có chân tướng sự thật, là một khái niệm sanh ra từ trong giả tướng của chính mình, không phải là thật, giả tướng còn giả hơn vật chất, tinh thần. Thế giới Cực Lạc có ẩn có hiện, sự ẩn hiện trong Đại thừa, có duyên thì nó hiện tướng, chúng ta thấy được, không có duyên thì nó không hiện, không hiện chẳng phải là không có, hiện tướng cũng không phải là thật có. Thật có, đó chính là tồn tại vĩnh hằng, đó là thật có. Thật có không giả chút nào, nhưng có ẩn có hiện, thật có không trở ngại ẩn hiện, ẩn hiện không trở ngại thật có, phải lắng tâm để thể hội điều này.

Tiếp theo, Tỳ-kheo Pháp Tạng đến trước Phật để lễ Phật khen ngợi Phật, đây là tự thể hiện: sự cung kính khen ngợi đối với thầy. Đồng thời phát thệ nguyện rộng lớn dưới đây, trong kệ tụng thể hiện hoằng nguyện của Ngài, nguyện này là độ chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh rời khổ được vui. Lục đạo là cứu cánh khổ, Thập pháp giới vẫn là khổ, tại sao vậy? Bởi chưa có Kiến tánh, nhất định phải Minh tâm Kiến tánh mới là thật sự lìa khổ được vui. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc là thật sự rời cứu cánh khổ, được cứu cánh vui, chúng ta phải biết điều này. Cơ hội đời này của chúng ta thật hiếm có, gặp được rồi, gặp được Pháp môn thù thắng như vậy, gặp được cơ duyên không thể nghĩ bàn, nhất định phải nắm bắt, trong đời này y giáo tu hành, một câu A Mi Đà Phật niệm đến cùng, buông xuống vạn duyên, thì thành công rồi. Phải thật chịu buông xuống, trên Kinh Kim Cang, Phật nói với chúng ta法尚應捨,何況非法 “pháp còn phải xả, huống chi phi pháp”. Về pháp, tất cả pháp mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thuyết trong 49 năm, buông xuống tất cả, chỉ chọn lấy Pháp môn Tịnh tông của A Mi Đà Phật. Ở trong một bộ Kinh này, xây dựng niềm tin kiên cố, từ trong tín tâm kiên cố phát ra đại hoằng thệ nguyện, tín nguyện trì danh thì có thể vãng sanh.

Tín nguyện trì danh đơn giản, chỉ một câu A Mi Đà Phật này, phải thường niệm, mọi lúc mọi nơi không nên gián đoạn. Học niệm thầm, niệm trong tâm, nghe trong tâm. Không nên niệm nhanh, A Mi Đà Phật, tốc độ như vậy là được, từng chữ niệm rất rõ ràng, nghe rất rõ ràng. Nghe thế nào? Tai phải lắng nghe âm thanh bên trong, không mở miệng niệm, niệm thầm có tiếng. Tai phải chuyên nghe Phật hiệu bên trong, nghe được rõ ràng rành mạch, niệm rõ ràng, nghe rõ ràng quan trọng hơn tất cả. Quý vị có thể nghe rõ ràng từng chữ, thì sẽ không có vọng niệm đi vào; nếu quý vị không nghe, thì có vọng tưởng, có tạp niệm, phá hoại tất cả công phu niệm Phật của quý vị. Nên nhất định phải nghe, cách nghe này chính là phương pháp tu hành của Bồ-tát Quán Thế Âm, ngài Quán Âm dùng nhĩ căn, “phản văn văn Tự Tánh”, ngài không nghe bên ngoài, mà ngài nghe bên trong. Bồ-tát Quán Âm tu Pháp môn nào mà thành tựu? Chắc chắn cũng là tu niệm A Mi Đà Phật mà thành tựu. Bồ-tát Đại Thế Chí là niệm A Mi Đà Phật mà thành tựu, Bồ-tát Quán Âm cũng không ngoại lệ. Ngày nay chúng ta kết hợp phương pháp của ngài Quán Âm, ngài Thế Chí lại thành một, đó là phản văn của Bồ-tát Quán Âm, chúng ta nghe gì? Chúng ta chỉ nghe A Mi Đà Phật, đừng nghe những điều khác, cũng tức là không nên để những điều khác trong tâm, trong tâm chỉ để A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì không nên để thứ gì trong tâm. Khi việc đến rất rõ ràng, làm việc xong rồi thì điềm nhiên như không có việc gì, tuyệt đối không để những việc ấy trong tâm, chỉ để A Mi Đà Phật trong tâm, thì quý vị ở thế gian này bất kể làm việc gì cũng không chướng ngại. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu diễn cho chúng ta, trong cuộc sống, Phật hiệu không gián đoạn, khi ăn cơm không gián đoạn, khi mặc quần áo không gián đoạn, khi làm việc không gián đoạn. Bất luận làm ngành nghề nào, Phật hiệu trong tâm không gián đoạn, công phu này rất đắc lực, 3 năm 5 năm thì Công phu Thành phiến rồi.

Tôi đã học Phật nhiều năm như thế, thể hội được chỉ cần Công phu Thành phiến, tức là nói trong tâm chỉ có Phật hiệu, ngoài Phật hiệu thì không có gì cả, đó là Thành phiến, Thành phiến thì A Mi Đà Phật và quý vị có cảm ứng, quý vị có thể nhìn thấy A Mi Đà Phật: hoặc trong định, hoặc trong mộng, quý vị có thể thấy được. A Mi Đà Phật sẽ tiết lộ thông tin cho quý vị, thì tâm của quý vị càng vững chắc. A Mi Đà Phật đến nói với quý vị, thọ mạng của quý vị vẫn còn bao nhiêu năm, đợi khi thọ mạng của quý vị hết, thì Phật đến tiếp dẫn quý vị. Phật không có vọng ngữ, Phật sẽ không quên, đến lúc đó Phật sẽ đến thông báo cho quý vị, nói với quý vị ngày nào, năm, tháng, ngày, giờ, tức chúng ta nói là mấy giờ, Ngài sẽ nói với quý vị, đó là lần thứ hai quý vị nhìn thấy Phật. Lần thứ ba, khi thời gian đến rồi, Ngài đến tiếp dẫn quý vị, quý vị nhìn thấy Phật đến tiếp dẫn, đi theo ngài thôi. Mỗi người niệm Phật, hiện tiền nhìn thấy Phật ít nhất ba lần. Đến Thế giới Cực Lạc, quý vị sẽ không rời xa A Mi Đà Phật nữa, quý vị thường xuyên ở bên cạnh Ngài, đó là tương lai thấy Phật. Tương lai đến Thế giới Cực Lạc, quý vị chủ yếu không rời khỏi A Mi Đà Phật. Điều này là thật chứ không phải giả, chúng ta có thể không đi sao? Đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc thân thể có được, là thân kim cang bất hoại, thân thể ấy vô cùng vi diệu, không cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, quý vị nói xem tốt biết bao. Ăn uống ngủ nghỉ của chúng ta đây mất biết bao thời gian, thời gian này đều là lãng phí mất. Người của Thế giới Cực Lạc không cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, thời gian của họ là toàn vẹn. Vì vậy người ở nơi đó thật sự tinh tấn. Quý vị không tinh tấn cũng không được, A Mi Đà Phật ở bên cạnh nhắc nhở quý vị. Bất kể quý vị muốn học Pháp môn nào, khi đến Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật đều sẽ dạy quý vị, có rất nhiều thời gian. Ở Thế giới Cực Lạc nhất định là một đời viên mãn, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó nguyện của đức Mi Đà phát ra, [là] biển nguyện Nhất thừa, Nhất thừa là thành Phật. Tất cả chúng sanh ở hiện tại và trong tương lai, đều nương vào biển nguyện Nhất thừa này mà được độ thoát, độ thoát an toàn ổn định, không giống như các Pháp môn khác, các Pháp môn khác không nắm chắc việc độ thoát, còn Pháp môn này nắm chắc, sự nắm chắc này hoàn toàn dựa vào A Mi Đà Phật. Chúng ta ở đây, phải tạo mối quan hệ tốt với A Mi Đà Phật, mong rằng A Mi Đà Phật trong tương lai không xa đến tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, thường xuyên có ý niệm này, luôn luôn có tâm này, đó là người niệm Phật thật sự.

Chúng ta xem kệ tụng tiếp theo, 讚佛 “Tán Phật” (Khen Ngợi Phật). Chia làm hai đoạn lớn, đoạn thứ nhất là 光相無等“Quang Tướng Vô Đẳng” (Tướng Ánh Sáng Không Ai Sánh Bằng), đoạn thứ hai là 音身普度 “Âm Thân Phổ Độ” (Âm Thanh Và Sắc Thân Rộng Độ). Mời xem kinh văn, kệ tụng vẫn là bốn câu là một bài kệ:

【如來微妙色端嚴。一切世間無有等。

光明無量照十方。日月火珠皆匿曜。】

“Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm

Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng

Quang minh vô lượng chiếu thập phương

Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu”

(Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm

Hết thảy thế gian không ai sánh

Quang minh vô lượng chiếu mười phương

Nhật nguyệt hỏa châu đều ẩn sáng).

Chú Giải của Niệm lão, 此頌 “thử tụng” (kệ tụng này), trong bản Hán Dịch thì mỗi câu gồm năm chữ, bản Ngụy Dịch (bản của ngài Khang Tăng Khải) là bốn chữ, hai bản của Đường Dịch, và Tống Dịch đều là bảy chữ, trong bản Ngô Dịch không có kệ này, thiếu kệ tụng này. 唐宋兩譯義理文字 “Đường Tống lưỡng dịch nghĩa lý văn tự” (Văn tự và nghĩa lý trong hai bản Đường Dịch và Tống Dịch) đều hay hơn, nên 今會本亦為七言 “kim Hội Bổn diệc vi thất ngôn” (Bản Hội Tập này cũng là bảy chữ), cũng tức là từ trong hai bản dịch thời Đường và Tống mà hội tập ra.

本頌首段是讚歎佛德。微者,細小也,精妙也。妙者,好也,善也,精也。乃讚美之辭 “Bổn tụng thủ đoạn thị tán thán Phật đức. Vi giả, tế tiểu dã, tinh diệu dã. Diệu giả, hảo dã, thiện dã, tinh dã. Nãi tán mỹ chi từ” (Đoạn đầu của bài tụng này là khen ngợi đức của Phật. Vi là: nhỏ nhiệm, tinh diệu. Diệu là: tốt đẹp, khéo léo, tinh túy. Đây là từ khen ngợi). 『如來微妙色端嚴』“Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm”, đoan chánh, trang nghiêm, đây là từ khen ngợi. 具不可思議、無比之義。佛之報土報身,色相不可思議,稱為妙色 “Cụ bất khả tư nghì, vô tỷ chi nghĩa. Phật chi Báo độ Báo thân, sắc tướng bất khả tư nghì, xưng vi diệu sắc” (Đầy đủ các nghĩa không thể nghĩ bàn, không gì sánh được. Báo độ, Báo thân, sắc tướng của Phật: không thể nghĩ bàn, gọi là diệu sắc). Diệu sắc vẫn chưa thể hết nghĩa, lại thêm vi diệu nữa, tinh diệu đến tột cùng. 色端嚴者,色相端正莊嚴也。《法華經序品》曰:身色如金山,端嚴甚微妙 “Sắc đoan nghiêm giả, sắc tướng đoan chánh trang nghiêm dã. Pháp Hoa Kinh Tự Phẩm viết: thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu” (Sắc đoan nghiêm: là sắc tướng đoan chánh trang nghiêm. Trong Phẩm Tựa của Kinh Pháp Hoa nói: sắc thân như núi vàng, đoan nghiêm rất vi diệu). Trong kinh Phật, đối với Phật đều xưng là kim thân, kim thân có nghĩa là gì? Thân ấy, nói thật ra cũng không phải là thật sự biểu thị màu vàng ròng mà chúng ta nhìn thấy hiện nay, dùng vàng để tượng trưng điều gì? Tượng trưng không biến đổi. Trong Ngũ kim thì bạc, đồng, sắt, thiếc đều rất dễ bị oxy hóa, chỉ có vàng, không bị oxy hóa, vàng có thể vĩnh viễn giữ nguyên không thay đổi, đây chính là điều khiến mọi người cảm thấy vàng đáng giá nhất trong Ngũ kim, nên  ý nghĩa thật sự của vàng là không biến đổi. Ở Thế giới Cực Lạc, thân của Phật không biến đổi, không biến đổi tức là Ngài không có hiện tượng của sự sanh diệt, Ngài không có hiện tượng của sự thay đổi. Sự thay đổi này chính là sanh lão bệnh tử, người thế gian chúng ta đây có những thay đổi này, Thế giới Cực Lạc là vô lượng thọ, thân vô lượng thọ mãi không thay đổi. Đây là ý nghĩa bề ngoài của vàng, điều này nói rằng thể của Ngài luôn không biến đổi. Còn tướng thì sao? Tiếp theo nói, đoan trang, trang nghiêm, vi diệu đến tột cùng rồi, rất đẹp, đẹp đến mức quý vị không cách nào tưởng tượng, quý vị cũng không dùng ngôn ngữ văn tự để có thể miêu tả được, đành phải dùng một câu đoan nghiêm vi diệu, là ý nghĩa như vậy.

Sắc tướng đoan chánh trang nghiêm, khen ngợi A Mi Đà Phật. Quý vị phải biết, chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thân tướng hoàn toàn giống với A Mi Đà Phật. Thân của A Mi Đà Phật: đoan nghiêm vi diệu đến tột cùng, nếu chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc thì thân tướng đạt được, có thể nói, trong thân tướng của tất cả chúng sanh ở khắp Pháp giới Hư không giới: không có thân tướng nào trang nghiêm vi diệu giống như Ngài. Tại vì sao? Đến 48 nguyện phía sau thì chúng ta hiểu rõ thôi. Thế giới Cực Lạc từ đâu đến vậy? Không phải là do Phật tưởng tượng ra, cũng không phải có người giúp A Mi Đà Phật lên kế hoạch, mà là đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật chỉ dạy Tỳ-kheo Pháp Tạng: đến trong cõi nước chư Phật mười phương để khảo sát, để tham quan, để lựa chọn, hễ là điều không thiện thì không cần, hễ là điều tốt đẹp thì tiếp nhận tất cả, trở về xây dựng Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nên Thế giới Cực Lạc có thể nói là, bất luận là Chánh báo, Y báo, đó là tập hợp những điều tinh hoa của chân thiện mỹ huệ trong tất cả cõi nước chư Phật, nên tất cả cõi Phật không thể sánh bằng, Thế giới Cực Lạc là đến như vậy. Chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc là quyết định không sai, tinh hoa của tất cả cõi nước chư Phật đều tập trung ở Thế giới Cực Lạc, quý vị muốn đi đâu? Đương nhiên đây là sự lựa chọn đầu tiên của một người thông minh.

Chúng ta xem tiếp,『匿』“nặc” là 藏也,隱也,亡也“tàng dã, ẩn dã, vong dã” (giấu kín, ẩn đi, mất đi).『曜』“diệu” là 明也,照也。首四句義為:如來微妙難思之色相,端正莊嚴;一切世間所有諸物,無有能與等(等是等同)比 “minh dã, chiếu dã. Thủ tứ cú nghĩa vi: Như Lai vi diệu nan tư chi sắc tướng, đoan chánh trang nghiêm; nhất thiết thế gian sở hữu chư vật, vô hữu năng dữ đẳng (đẳng thị đẳng đồng) tỷ (là sáng, là chiếu sáng. Ý nghĩa của bốn câu đầu là: sắc tướng của Như Lai vi diệu khó nghĩ bàn, đoan chánh trang nghiêm; tất cả các vật trong thế gian, không có vật nào có thể sánh bằng (đẳng là tương đồng)). Không bằng được, không sánh được, là khen ngợi Thế giới Cực Lạc. 亦即讚佛偈中,十方所有我盡見,一切無有如佛者 “Diệc tức tán Phật kệ trung, thập phương sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả” (Cũng tức là trong kệ khen ngợi Phật: con thấy hết thảy khắp mười phương, tất cả không ai như đức Phật), đây cũng là ý nghĩa ấy. Chứng được Phật quả rốt ráo, lúc ấy Phật Phật đạo đồng, là hiển thị vi diệu trang nghiêm viên mãn của Tự Tánh. Đẳng giác Bồ-tát cũng không bằng, tại vì sao? Bởi Đẳng giác Bồ-tát vẫn còn chưa buông xuống một phẩm Sanh tướng Vô minh, nếu quý ngài buông xuống phẩm Vô minh đó thì hòa vào Thường Tịch Quang. Trong Thường Tịch Quang ẩn hiện tự tại, gặp được Pháp thân Bồ-tát, giống như Địa thượng Bồ-tát được nói trong kinh Đại thừa, thì Phật hiện Báo thân để giúp các ngài. 3000 năm trước đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên địa cầu này của chúng ta là Ứng thân, Ứng hóa thân, ở cùng với Lục đạo phàm phu chúng ta. Ngài không thể hiện Báo thân, nếu hiện Báo thân thì chúng ta không nhìn thấy Ngài, bởi Báo thân quá cao quá lớn. Do đó nên dùng thân gì để độ, thì Ngài liền hiện thân ấy, tất cả là hiện bởi Pháp thân, Pháp thân này là Bản thể của vũ trụ. Vũ trụ từ đâu tới vậy? Do Pháp thân hiển hiện ra.

Phật có thể hiện ra, còn chúng ta không hiện ra được, vì sao không hiện ra được? Bởi chúng ta có chướng ngại. Điều gì chướng ngại? Khởi tâm động niệm là chướng ngại, phân biệt là chướng ngại, chấp trước là chướng ngại, chúng ta có tất cả ba loại chướng ngại lớn này. Có đầy đủ ba loại chướng ngại lớn, chính là Lục đạo phàm phu. Chúng ta có thể cắt đứt một loại trong ba loại, đầu tiên đoạn hết Kiến tư Phiền não, thì chứng quả A-la-hán, thoát khỏi Lục đạo luân hồi; tiến thêm một bước, đoạn hết Trần sa Phiền não, đoạn hết Vô minh Phiền não, thì không còn Thập pháp giới nữa. Điều này trong tông Pháp Tướng gọi là chuyển tám thức thành bốn trí, tám thức là Năng biến, có thể biến Thập pháp giới, có thể biến Lục đạo luân hồi, chuyển tám thức thành bốn trí, thì chẳng những không còn Lục đạo nữa, mà Thập pháp giới cũng không còn nữa, hiện ở trước mặt gọi là Nhất chân Pháp giới, chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ của chư Phật Như Lai. Thật, đây là chân thật, Thập pháp giới được nói phía trước là giả không phải thật. Nên lão Hòa thượng Hải Hiền thường hay nói với người khác: chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, còn những thứ khác đều là giả. Đây là lời thật, không nói sai chút nào, giả thì chúng ta phải buông xuống. Hiện nay thân thể, thân thể giả cũng ở đây, đang mượn giả tu chân. Tu chân thế nào? Tất cả pháp đều không nên để trong tâm, đó là tu chân. Tại sao? Bởi trong Chân Tâm không có một vật, không có một pháp có thể được, đó là thật, vẫn còn một pháp thì là giả.

Thế giới Cực Lạc là Nhất chân Pháp giới, ngày nay chúng ta chỉ cho phép: A Mi Đà Phật để trong tâm, buông xuống tất cả ngoại trừ A Mi Đà Phật, thì chúng ta hoàn toàn thông với Tịnh Độ rồi. Việc này phải tự mình làm, bởi ai cũng không thay thế được, Phật Bồ-tát dù từ bi đi nữa, cũng không cách nào thay cho chúng ta được. Đó gọi là muốn mở nút thì phải tìm người thắt nút, tập khí phiền não này là do chính chúng ta tạo, không phải do người khác tạo ra cho chúng ta, là bởi một niệm mê của chúng ta mà thôi, mê lâu rồi, càng mê càng hồ đồ, nên biến thành như thế này, hiện nay chúng ta phải phá mê khai ngộ, biết đấy là giả, đừng để trong tâm nữa; A Mi Đà Phật là thật, chúng ta thật sự để trong tâm, như vậy thì trong đời này, chúng ta có thể tu thành Tịnh nghiệp rất nhanh, thông liên lạc với A Mi Đà Phật. Trong vô lượng Pháp môn, chúng ta gặp được Pháp môn số một thù thắng không gì bằng rồi, quá may mắn rồi! Gặp các Pháp môn khác là trồng thiện căn, không chắc đời này có thể thành tựu; còn gặp Pháp môn này, thì ai ai cũng có thể thành tựu. Phải tin lời của Đại sư Thiện Đạo, 萬修萬人去 “vạn tu vạn người đi”. Người tu Tịnh Độ không thể vãng sanh, bởi họ không thật tu, họ làm giả, họ còn có tham muốn đối với thế gian này. Tham danh văn lợi dưỡng không thể vãng sanh, tham độ chúng sanh cũng không thể vãng sanh, nhất định phải đoạn hết tâm tham mới có thể vãng sanh. Tham sân si mạn nghi, là năm cội gốc của địa ngục, khi trí huệ khai mở rồi thì không hoài nghi nữa. Năm chữ này, là năm chướng ngại lớn, phải trừ sạch triệt để, công phu là ở đây. Dùng phương pháp gì? Tín, nguyện, trì danh, là dùng phương pháp này.

Chúng ta xem trang sau của Chú Giải, 佛放無量之光明,普照十方國土,其中日、月、火、珠四者之光焰,悉皆隱蔽不現 “Phật phóng vô lượng chi quang minh, phổ chiếu thập phương Quốc độ, kỳ trung nhật, nguyệt, hỏa, châu tứ giả chi quang diễm, tất giai ẩn tế bất hiện” (đức Phật phóng vô lượng quang minh, chiếu khắp các cõi nước trong mười phương, trong đó ánh sáng rực rỡ của bốn thứ: mặt trời, mặt trăng, lửa, châu ngọc, đều là ẩn đi không hiện),火燭,兼指一切火光 “hỏa chúc, kiêm chỉ nhất thiết hỏa quang, ” (lửa đuốc, đồng thời chỉ tất cả ánh lửa). 『珠』“Châu”, 摩尼也,又作末尼,具足為震跢末尼 “ma-ni dã, hựu tác mạt-ni, cụ túc vi chấn-đá-mạt-ni” (là ma-ni, cũng gọi là mạt-ni, đầy đủ là chấn-đá-mạt-ni), đây là dịch âm tiếng Phạn, được phiên dịch thành 珠、寶 “châu, bảo”, 離垢、如意 “ly cấu, như ý” có những ý nghĩa này, 合之可意譯為如意寶珠。有大光明,超諸世品 “hiệp chi khả ý dịch vi như ý bảo châu. Hữu đại quang minh, siêu chư thế phẩm” (gộp lại có thể dịch ý là như ý bảo châu. Có ánh sáng lớn, vượt qua các vật phẩm ở thế gian), vượt qua tất cả trân bảo của thế gian. Hội Sớ nói: 天下至明,無大於日月。萬品光耀,無過於摩尼“Thiên hạ chí minh, vô đại ư nhật nguyệt. Vạn phẩm quang diệu, vô quá ư ma-ni” (Vật sáng nhất trong thiên hạ, không gì hơn được mặt trời mặt trăng. Thứ sáng nhất trong vạn vật, không gì hơn được ma-ni), nếu làm sự so sánh giữa ma-ni với Phật quang, thì tất cả ma-ni đều ẩn đi, trong Phật quang chúng cũng [như] không có, ánh sáng đều mất đi; không phải là mất đi, mà không nhìn thấy nữa, giống như dưới ánh mặt trời, khi chúng ta thắp đèn, ánh sáng không hiện ra, đây chính là ý nghĩa của chữ ẩn tế.

Xem bài kệ tiếp theo, 音身普度“Âm Thân Phổ Độ” (Âm Thanh Và Sắc Thân Rộng Độ).

【世尊能演一音聲。有情各各隨類解。

又能現一妙色身。普使眾生隨類見。】

“Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh

Hữu tình các các tùy loại giải,

Hựu năng hiện nhất diệu sắc thân,

Phổ sử chúng sanh tùy loại kiến.”

(Thế Tôn dùng diễn một âm thanh

Các chúng Hữu tình tùy loại hiểu

Lại hiện ra một diệu sắc thân

Rộng khiến chúng sanh tùy loại thấy.)

Bốn câu tiếp theo đây, 均是《唐譯》原文。讚歎世間自在王佛圓明具德,事事無礙,不可思議之妙用 “quân thị Đường Dịch nguyên văn. Tán thán Thế Gian Tự Tại Vương Phật viên minh cụ đức, Sự sự Vô ngại, bất khả tư nghì chi diệu dụng” (đều là nguyên văn trong bản Đường Dịch. Khen ngợi Thế Gian Tự Tại Vương Phật viên minh cụ đức, Sự sự Vô ngại, diệu dụng không thể nghĩ bàn). Ở đây là kệ tán thán, đều là sự khen ngợi của Tỳ-kheo Pháp Tạng đối với thầy của mình là Thế Gian Tự Tại Vương Phật. 其義為 “Kỳ nghĩa vi” (Ý nghĩa đó là), loại tác dụng không thể nghĩ bàn này, 世尊演說妙法,能於一音聲之中,普使九法界、六趣、四生種種異類眾生,各各隨其品類根性,而能聞能解佛之所說。世人言語,常因方言問題、知識水平問題而不能解。世尊則妙用無窮,普使一切眾生隨類得解 “Thế Tôn diễn thuyết diệu pháp, năng ư nhất âm thanh chi trung, phổ sử cửu Pháp giới, Lục thú, Tứ sanh chủng chủng dị loại chúng sanh, các các tùy kỳ phẩm loại căn tánh, nhi năng văn năng giải Phật chi sở thuyết. Thế nhân ngôn ngữ, thường nhân phương ngôn vấn đề, tri thức thủy bình vấn đề nhi bất năng giải. Thế Tôn tắc diệu dụng vô cùng, phổ sử nhất thiết chúng sanh tùy loại đắc giải” (đức Thế Tôn diễn thuyết diệu pháp, trong một âm thanh có thể: rộng khiến tất cả chúng sanh các loài khác nhau trong chín Pháp giới, sáu đường, Tứ sanh, mỗi mỗi tùy theo căn tánh phẩm loại ấy, mà nghe được hiểu được lời Phật nói. Ngôn ngữ của người thế gian, thường do trở ngại về tiếng địa phương, trở ngại về trình độ tri thức nên không hiểu được. Còn đức Thế Tôn thì diệu dụng vô cùng, rộng khiến cho tất cả chúng sanh tùy loài đều hiểu được). Sự việc không thể nghĩ bàn hơn, 乃於任一音聲,圓具如是無邊不可思議妙用。正顯超情離見之華嚴事事無礙境界 “nãi ư nhiệm nhất âm thanh, viên cụ như thị vô biên bất khả tư nghì diệu dụng. Chánh hiển siêu tình ly kiến chi Hoa Nghiêm Sự sự Vô ngại cảnh giới” (đó là với bất kỳ âm thanh nào, cũng viên mãn đầy đủ vô biên diệu dụng không thể nghĩ bàn như thế. Thật sự hiển thị cảnh giới Sự sự Vô ngại siêu tình ly kiến của Kinh Hoa Nghiêm). Phàm phu chúng ta không làm được điều này, ngay cả trời người, Nhị thừa, Quyền giáo Bồ-tát đều không có năng lực này. Có đủ năng lực này, là Pháp thân Bồ-tát. Tại vì sao? Bởi Pháp thân Bồ-tát đã buông xuống chướng ngại rồi.

Phàm phu trong Lục đạo đầy rẫy phiền não, nên đức dụng của Tự Tánh này không hiện ra. Hàng Nhị thừa là Thanh văn, Duyên giác, tuy đoạn Kiến tư Phiền não rồi, nhưng chưa đoạn Trần sa, Vô minh, nên quý ngài vẫn còn chướng ngại, không tự tại giống như Phật được. Tam thừa Bồ-tát là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng của Biệt giáo, quý ngài ở trên Nhị thừa, đã đoạn Kiến tư, Trần sa, nhưng chưa phá Vô minh, chưa kiến Tánh, nên quý ngài cũng không có năng lực này. Đến Pháp thân Bồ-tát, thì buông xuống khởi tâm động niệm rồi. Tu hành trên thực tế, chúng ta phải biết, tu hành chính là buông xuống chướng ngại, thì Bản Tánh hiện ra thôi. Bỏ vọng đi, thì thật hiện tiền, thật chính là Tự Tánh, Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh thành Phật, trong Lục tức Phật, gọi là Phần chứng Tức Phật, quý ngài là thật chứ không phải giả. Ba loại phía trước là giả, còn Phần chứng Tức Phật là thật, sau Phần chứng chính là Viên mãn Phật. Nên vãng sanh trong Nhất chân Pháp giới, trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, ở đó, như đã nói trong Kinh Hoa Nghiêm, 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ, 41 cấp bậc, Thập trụ Bồ-tát, Thập hạnh Bồ-tát, Thập hồi hướng Bồ-tát, Thập địa Bồ-tát, là 40 bậc, và Đẳng giác Bồ-tát, là 41 bậc, quý ngài chứng được Pháp thân, nhưng những gì quý ngài hiện ra đều là Báo thân, đều giống như thân tướng của A Mi Đà Phật. Vì vậy A Mi Đà Phật hiện thân, bởi vì trong Thường Tịch Quang không có thân, Thường Tịch Quang là một mảng ánh sáng, Tự Tánh viên mãn, quý ngài gặp được duyên thì quý ngài hiện tướng, hiện Báo thân, gặp được Lục đạo phàm phu chúng ta thì hiện Ứng thân, hiện Hóa thân. Quý ngài từ đâu đến? Quý ngài không có đến đi, Thường Tịch Quang chẳng lúc nào không có, chẳng nơi nào không có. Chúng sanh chúng ta là một thể với Phật, Pháp thân của Ngài hiện tiền, được thọ dụng; còn Pháp thân của chúng ta tồn tại, cũng đang hiện tiền, nhưng không được thọ dụng, không biết. Nên Phật hiện thân cho chúng ta là thật, không có đến đi, nhất định phải biết điều này. Trên Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”. Ở đây tôi nghĩ Phật, thì Phật hiện thân ở đây, chứ Phật không phải từ Thế giới Tây Phương Cực Lạc đến đây để hiện thân, không phải vậy. Thế giới Cực Lạc lớn cỡ nào? Lớn giống như hư không Pháp giới, lớn như Thường Tịch Quang, quá tuyệt vời!

Chúng ta mang nghiệp vãng sanh, 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn không có đới nghiệp, phải biết điều này, đới nghiệp vãng sanh chỉ có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chỉ có A Mi Đà Phật. Không có cõi nước của một vị Phật nào là có thể đới nghiệp vãng sanh, mà đều phải đoạn phiền não chứng Bồ-đề. Chư Phật đều có bốn độ, giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Nơi mà ngày nay chúng ta sống là Phàm Thánh Đồng Cư độ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta tu không tệ, vãng sanh đến Thế giới của các đức Phật khác, thì sanh đến đâu? Phàm Thánh Đồng Cư độ, [cũng] không khác nơi này lắm, Phàm Thánh Đồng Cư độ chính là Lục đạo luân hồi. Có Lục đạo luân hồi, có rất nhiều rất nhiều cõi nước Phật trong Thập pháp giới, quý vị xem Kinh Hoa Nghiêm đã biết rồi. Có Thế giới Phật chỉ có Thật Báo Trang Nghiêm độ, không có Đồng Cư độ cũng không có Phương Tiện độ, có hay không? Có, không chỉ một mình A Mi Đà Phật, mà có gần giống như Thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng có không ít. Nhưng cõi nước của các vị Phật ấy sánh với Thế giới Cực Lạc thì không bằng được, Thế giới Cực Lạc đặc biệt thù thắng, trang nghiêm vô cùng, chúng ta chẳng thể không biết điều này.

 Chúng ta xem Chú Giải tiếp theo, cảnh giới Sự sự Vô ngại của Hoa Nghiêm. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của Kinh Hoa Nghiêm nói: 一切如來語清淨,一言具眾音聲海,隨諸眾生意樂音,一一流佛辯才海 “Nhất thiết Như Lai ngữ thanh tịnh, nhất ngôn cụ chúng âm thanh hải, tùy chư chúng sanh ý nhạo âm, nhất nhất lưu Phật biện tài hải” (Tất cả Như Lai lời thanh tịnh, một lời đầy đủ biển âm thanh, theo âm ưa thích của chúng sanh, mỗi âm truyền biển biện tài Phật). Bài kệ này thật sự cùng một tông chỉ với  văn『世尊能演一音聲,有情各各隨類解』“Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh, hữu tình các các tùy loại giải” (Thế Tôn dùng diễn một âm thanh, các chúng Hữu tình tùy loại hiểu) trong Kinh này. 一聲中有無量聲,無量聲中之一一聲,皆有無邊妙用,能隨眾生之意樂,一一流出無邊之慧辯,使眾生得聞,得解,得度(這個得度就是悟入)。此即是十玄門中之主伴圓明具德門 “Nhất thanh trung hữu vô lượng thanh, vô lượng thanh trung chi nhất nhất thanh, giai hữu vô biên diệu dụng, năng tùy chúng sanh chi ý nhạo, nhất nhất lưu xuất vô biên chi huệ biện, sử chúng sanh đắc văn, đắc giải, đắc độ (giá cá đắc độ tựu thị ngộ nhập). Thử tức thị Thập Huyền Môn trung chi Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức môn”(Trong một âm thanh có vô lượng âm thanh, và mỗi một âm thanh trong vô lượng âm thanh, đều có vô biên diệu dụng, có thể tùy theo âm thanh ưa thích của chúng sanh, mỗi âm thanh truyền vô biên huệ biện tài, khiến cho chúng sanh được nghe, được hiểu, được độ (được độ ở đây chính là ngộ nhập). Đây chính là môn Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức trong Thập Huyền Môn). Đây là sự hiện ra viên mãn của Tánh đức, đây là đối với sự nghe của phàm phu chúng ta, đây là cảnh giới không cách nào tưởng tượng được.

Sau đó chúng ta nhất định phải nhớ, đã là Tánh đức, vậy thì tất cả chúng sanh vốn dĩ mỗi mỗi đầy đủ, chúng ta đều có, nhưng là bởi vì khởi vọng tưởng phân biệt chấp trước, mà đã chướng ngại Tánh đức: không thể hiển hiện, nguyên nhân là ở đây. Có mất hay không? Không có mất đi, chỉ là có chướng ngại, bỏ đi chướng ngại thì khôi phục thôi, bản năng liền được khôi phục. Phương pháp mà Phật dạy cho chúng ta khôi phục, đó là: Giới Định Huệ. Ba loại diệu pháp này. Giới là gì? Giới là phương pháp, quý vị tuân thủ phương pháp này, thì quý vị có thể đắc định, sau khi đắc định thì trí huệ được khai mở, liền hiện ra rồi. Những Thần thông năng lực của Phật Bồ-tát có, thì tất cả chúng ta đều có, kiến Tánh là khôi phục rồi. Kiến Tánh là việc lớn, tâm thanh tịnh trên đề kinh của chúng ta là giới thành tựu, tâm bình đẳng là định thành tựu, giác là trí huệ hiện tiền rồi, chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó chính là giác. Sau khi giác rồi thì không gì không biết, lão Hòa thượng Hải Hiền nói: “Điều gì tôi cũng biết”, đó là giác. Vì vậy mục đích của trì giới là được định, nếu không được định, thì giới này là trì uổng công rồi, quý vị trì sai rồi. Mục đích của trì giới là được định, mục đích của được định là khai huệ. Nên trì giới là phương pháp, Thiền định cũng là phương pháp, mục đích thật sự là khai trí huệ, không gì không biết, không gì không thể, đó là Tánh đức, mỗi người đều có đầy đủ trong Tự Tánh.

 Phật là dùng một âm thanh, nhưng thật ra cũng không có âm thanh nào, âm thanh ấy là gì? Ứng, chúng sanh có cảm, Phật có ứng. Tất cả chúng sanh có cảm với Phật, Phật có thể ứng với tất cả chúng sanh cùng một lúc, vì họ mà hiện thân. Thân được hiện ra, thì mỗi người nhìn thấy là khác nhau, tại sao khác vậy? Bởi chúng sanh có vọng tưởng phân biệt chấp trước, vọng tưởng phân biệt chấp trước có thể thay đổi Tướng phần được biến hiện của Tự Tánh. Quý vị xem Tướng phần được hiện bởi Tự Tánh, là Thật Báo độ của Thế giới Cực Lạc, A-lại-da biến Thật Báo độ thành Thập pháp giới, biến thành Lục đạo luân hồi. A-lại-da là gì? Vọng tưởng, phân biệt. Vọng tưởng phân biệt ở mỗi người là khác nhau, nên những gì mỗi người nhìn và cảm nhận cũng khác nhau. Đây chính là nguyên lý Phật dùng một âm thanh mà thuyết pháp, chúng sanh tùy loại mà hiểu được, nếu quý vị hỏi đạo lý nào, thì giảng cho quý vị nghe đạo lý ấy. Do đây có thể biết, Phật có thuyết pháp không? Phật không thuyết pháp. Quý vị cảm ứng Phật thuyết pháp, quý vị cảm thấy Phật thuyết pháp, là cảnh giới biến hiện ra trong thức A-lại-da của chính quý vị. Những điều Phật hiện ra là từ Chân Tâm lưu lộ, Vọng tâm của chúng sanh đang tiếp nhận, nên những gì mà A-la-hán tiếp xúc được là A-la-hán, Bích-chi-phật tiếp xúc được là Bích-chi-phật, trời người nhìn thấy được là trời người, những gì nhân gian chúng ta nhìn thấy là cõi người, giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhưng thật ra là gì? Thật ra Ngài không phải là gì cả, Ngài chỉ là hiện thân. Thân tướng được hiện ra, nghiệp lực của chúng sanh đang biến hiện, thay đổi Ngài mà thôi, nếu không thay đổi thì quý vị không thể thân cận. Phật hiện ra là Báo thân, Báo thân quá cao quá lớn rồi, giống như một ngọn núi lớn, còn người chúng ta quá nhỏ, khi đi vào trong núi thì không thấy nữa, quả thật như thế.

Âm thanh của Phật cũng giống như sóng âm hiện nay, những gì quý vị thu nghe được là ngôn ngữ của quý vị, quý vị có thể hiểu được, còn điều người khác nghe, quý vị [là] các dân tộc khác nhau có ngôn ngữ khác nhau, thì họ nghe thấy đều là ngôn ngữ của chính họ. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển, trong Hội nghị quốc tế, có phiên dịch ra nhiều loại ngôn ngữ, dùng thiết bị để thực hiện. Kỹ thuật phát triển có thể không cần sức người, phiên dịch ra các loại ngôn ngữ khác nhau, quý vị cầm lấy tai nghe mà quý vị cần, thì quý vị nghe được ngôn ngữ của chính quý vị. Người ta phải nhờ vào máy móc, còn Tự Tánh thì không cần, hoàn toàn tự động điều chỉnh cho thích hợp. Vả lại sau khi Kiến tánh, thì ngôn ngữ nào cũng đều thông suốt, không có trở ngại gì cả. Vì vậy Phật thuyết pháp, chúng sanh được nghe, được hiểu, có thể nghe hiểu được, lý giải, được độ, có thể khai ngộ, có thể khế nhập cảnh giới của Phật. Đây là Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức Môn trong Thập Huyền Môn của Hoa Nghiêm. 一法圓滿一切法之功德 “Nhất pháp viên mãn nhất thiết pháp chi công đức” (Một pháp viên mãn công đức của tất cả pháp), nên gọi là 圓明具德 “viên minh cụ đức”, viên là viên mãn, minh là trí huệ, cụ là đầy đủ, đức dụng. Trong một âm thanh sanh ra vô lượng âm thanh, một chữ một câu 圓說一切法 “viên thuyết nhất thiết pháp” (nói viên mãn tất cả pháp), tất cả chúng sanh có duyên vô lượng vô biên đều nghe được, đều nghe hiểu được, đều nghe sáng tỏ rồi, đều có thể giác ngộ, đây chính là viên minh cụ đức. 可見本經實與《華嚴》一味 “Khả kiến bổn Kinh thật dữ Hoa Nghiêm nhất vị” (Có thể thấy Kinh này thật sự cùng một vị với Hoa Nghiêm).

Ở trên đã nói, 如來之語密 “Như Lai chi ngữ mật” (ngữ mật của Như Lai), chữ “mật” này không phải là thần bí, mà là quá sâu rồi, thâm mật, nên đó không phải là bí mật. 『又能現一妙色身,普使眾生隨類見』“Hựu năng hiện nhất diệu sắc thân, phổ sử chúng sanh tùy loại kiến”(Lại hiện ra một diệu sắc thân, rộng khiến chúng sanh tùy loại thấy). Phật hiện thân, chúng sanh đều thấy được, mỗi chúng sanh thấy được khác nhau. Vào những năm 1970, tôi giảng kinh ở Hồng Kông, hình như là lần thứ hai hay lần thứ ba, chắc là khoảng từ năm 1978 đến 1979, Pháp sư Thánh Nhất kể với tôi một việc, khi ngài đến Đại Lục, thời điểm đó chưa mở cửa, đến núi Phổ Đà để triều bái Bồ-tát Quán Thế Âm. Các ngài có hai người, hai vị Pháp sư ở Hồng Kông, có một vị Pháp sư ở núi Phổ Đà đi cùng với hai ngài, ba người cùng đến động Phạm Âm, nghe nói rằng trong động ấy thì Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ hiện hình cho quý vị thấy. Ba người các ngài lạy ở ngoài động, đã lạy nửa giờ, thì Bồ-tát Quán Âm hiện tiền rồi, trong tâm mỗi người đều rất hoan hỷ. Sau khi rời khỏi, ba người liền hỏi nhau, ngài Quán Âm mà thầy nhìn thấy như thế nào? Kết quả là ba người nhìn thấy khác nhau. Pháp sư Thánh Nhất trông thấy là đội mạo Tỳ Lư, giống mũ của Bồ-tát Địa Tạng đội, hoàn toàn là sắc vàng, ngồi ở nơi đó, ngài Thánh Nhất nhìn thấy vậy. Một Pháp sư khác nhìn thấy là Bạch Y Quán Âm, trên tay cầm bình, cành dương liễu, Bạch Y Quán Âm. Còn một vị Pháp sư khác, là vị Pháp sư trên Đại Lục, nhìn thấy là tướng xuất gia Tỳ-kheo, người xuất gia. Ba người ấy thấy cùng một lúc, cùng một nơi, nhưng mỗi người thấy được khác nhau, là普使眾生隨類見 “phổ sử chúng sanh tùy loại kiến” (rộng khiến chúng sanh tùy loại thấy).

Hai câu này 顯世尊之身密 “hiển Thế Tôn chi thân mật”(hiển thị thân mật của đức Thế Tôn), phía trước là ngữ mật, còn đây là thân mật, 能現一微妙之色身,普使種種眾生,各各隨其品類 “năng hiện nhất vi diệu chi sắc thân, phổ sử chủng chủng chúng sanh, các các tùy kỳ phẩm loại”(có thể hiện một sắc thân vi diệu, rộng khiến tất cả chúng sanh, mỗi mỗi tùy theo phẩm loại), chính là ý niệm khác nhau, 而得見佛 “nhi đắc kiến Phật”(mà được thấy Phật) cũng khác nhau. Xét ra thân Phật có thể chia thành năm loại: thứ nhất là 法身“Pháp thân”; thứ hai là 報身“Báo thân”; thứ ba là 應身“Ứng thân”; thứ tư là 化身“Hóa thân”; thứ năm là 等流身“Đẳng lưu thân”. Tiếp theo giải thích cho chúng ta, 法身,即自性身,名為毘盧遮那 “Pháp thân, tức Tự Tánh thân, danh vi Tỳ Lô Giá Na” (Pháp thân: chính là Tự Tánh thân, gọi là Tỳ Lô Giá Na). Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, phiên dịch sang ý nghĩa của nước ta là 遍一切處 “biến nhất thiết xứ”, trên thực tế chính là quang. Nên trong Tịnh Độ gọi là Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang tức là Pháp thân, trong quang không có gì cả, một vật cũng không có. Nhưng không thể nói nó không có, tại sao vậy? Bởi Pháp thân có thể hiện ra hiện tượng, có thể hiện tất cả tướng, có thể hiện ra cả vũ trụ. Tuy hiện ra toàn vũ trụ, nhưng không thể nói nó có, là do ẩn hiện mà thôi, có duyên liền hiện, không có duyên thì ẩn đi, không thấy nữa. Tỳ Lô Giá Na được dịch là biến nhất thiết xứ, cũng dịch là biến nhất thiết thời. 乃中道理體 “Nãi Trung đạo Lý thể” (đó là Lý thể của Trung đạo), trong Triết học gọi là Bản thể, Bản thể thuộc về Trung đạo, bởi vì nó không có tương đối. 離一切相及諸戲論“Ly nhất thiết tướng cập chư hý luận” (Lìa tất cả tướng và các hý luận), Lý thể của Trung đạo không có tướng, không có ba loại hiện tượng: hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên: thảy đều không có, chính là một mảng quang minh.

Đẳng giác Bồ-tát ở Thật Báo độ, chưa đoạn sạch sẽ một phẩm tập khí Sanh tướng Vô minh cuối cùng, quý ngài hoàn toàn giống với trí huệ đức năng của Pháp thân Phật, nhưng quý ngài không vào được Thường Tịch Quang. Không có điều gì khác với Pháp thân Như Lai, không khác về trí huệ, tướng hảo, đức năng, thần thông, biến hóa, chỉ là không thể trở về Thường Tịch Quang. Khi đã đoạn sạch sẽ một phẩm Vô minh, đoạn sạch sẽ tập khí Vô thỉ Vô minh rồi, thì quý ngài quay về Thường Tịch Quang. Trở về Thường Tịch Quang, thì đạo tràng mà quý ngài tu hành (chính là Thật Báo độ) không thấy nữa, không có Thật Báo độ nữa. Vì vậy chúng ta biết Thật Báo độ là gì? Thật Báo độ là do tập khí Vô thỉ Vô minh biến hiện ra. Pháp thân Bồ-tát thật có tập khí, Pháp thân Như Lai hiện Báo thân trong Thật Báo độ không có tập khí, chúng ta phải có một khái niệm về chân tướng sự thật này. Do đó quý ngài 具無邊真淨功德,乃唯佛與佛之境界“cụ vô biên chân tịnh công đức, nãi duy Phật dữ Phật chi cảnh giới” (đầy đủ vô biên công đức thanh tịnh chân thật, bởi vậy chỉ có cảnh giới của Phật với Phật), nếu không thành Phật, thì dù là Pháp thân Bồ-tát cũng không vào được cảnh giới này, đây là cảnh giới của Phật, một mảng quang minh. Giống như mười mấy ngọn đèn trong gian phòng của chúng ta được bật lên, ánh sáng chiếu vào nhau, trong ánh sáng của tôi có quý vị, trong ánh sáng của quý vị có tôi, hòa thành một thể rồi, gọi là Thường Tịch Quang, đây là Tự Tánh.

Thứ hai là Báo thân, 報身,如來名盧舍那 “Báo thân, Như Lai danh Lô Xá Na” (Báo thân, Như Lai gọi là Lô Xá Na), ý nghĩa của Lô Xá Na, phiên dịch sang nước ta là 光明遍照 “quang minh biến chiếu”(quang minh biến chiếu), 能使初地以上之菩薩感見之“năng sử Sơ địa dĩ thượng chi Bồ-tát cảm kiến chi” (có thể khiến cho Bồ-tát Sơ địa trở lên cảm ứng thấy được thân này), cảm ứng có thể nhìn thấy, chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ, Địa thượng Bồ-tát trong Thật Báo độ cũng thấy được. Thứ ba là, 應身,如釋迦文,指八相成道之佛。地前菩薩、二乘、凡夫得感見之“Ứng thân, như Thích Ca Văn, chỉ Bát tướng thành đạo chi Phật. Địa Tiền Bồ-tát, Nhị thừa, phàm phu đắc cảm kiến chi” (Ứng thân, như đức Thích Ca Văn, chỉ cho Phật của tám tướng thành đạo. Bậc Địa tiền Bồ-tát, hàng Nhị thừa, phàm phu đều được cảm ứng thấy thân này). Thứ tư là, 化身,一時化現之佛為化身 “Hóa thân, nhất thời hóa hiện chi Phật vi Hóa thân” (Hóa thân, Phật của hóa hiện một lúc là Hóa thân). Với Hóa thân Phật: thì rất nhiều người nhìn thấy, phải có tâm chân thành cung kính, có duyên với Phật, tâm địa thanh tịnh, không có tạp niệm vọng tưởng. Thế gian này của chúng ta là Phàm Thánh Đồng Cư độ, ở Ngũ Đài sơn, quả thật có không ít người đã từng thấy Bồ-tát Văn Thù, ở Nga Mi sơn, cũng có người nhìn thấy Bồ-tát Phổ Hiền, thấy Quán Âm Bồ-tát ở Phổ Đà, ở núi Kê Túc Vân Nam, có người nhìn thấy Tôn giả Đại Ca Diếp, đều là Hóa thân. Trên núi Kê Túc, trên núi rất nhiều đường nhỏ, đôi khi lạc đường, lúc đang lo lắng, thì gặp được một người, một vị lão nhân, đến nói với quý vị làm thế nào để đi ra ngoài. Khi nhìn lại, thì không thấy vị lão nhân ấy nữa, đó là Tôn giả Ca Diếp. Điều mỗi người nhìn thấy không như nhau, tùy loại hóa thân. Thứ năm là, 等流身,密教所立四身之一。佛身示現為與人天鬼畜等類同形之身 “Đẳng lưu thân, Mật giáo sở lập tứ thân chi nhất. Phật thân thị hiện vi dữ nhân thiên quỷ súc đẳng loại đồng hình chi thân” (Đẳng lưu thân, là một trong bốn thân mà Mật giáo lập ra. Là thân do thân Phật thị hiện cùng một hình dáng với các loài trời người ngạ quỷ, súc sanh vân vân). Nên Phật Bồ-tát: hiện thân gì thì chúng ta không biết, nhưng hiện thân nhất định là chúng sanh có cảm, thì Phật Bồ-tát có ứng; không có cảm thì quý Ngài không có ứng. Đôi khi quý Ngài không phải là thân người, mà thân cõi trời, hoặc là thân ngạ quỷ, hoặc là thân súc sanh, không nhất thiết là thân nào, quý vị đều có thể thấy được.

Khi tôi còn trẻ, mới học Phật, lão Cư sĩ Chu Kính Trụ, ngài là hàng ông nội của chúng tôi, khi đó chúng tôi hơn 20 tuổi, lão Cư sĩ 70 tuổi, ở trước mặt ngài chúng tôi là hàng con cháu, chúng tôi thường đến thăm ngài, nghe ngài kể chuyện. Những câu chuyện của ngài đều là do đích thân ngài trải qua trong cuộc đời, không phải là sáng tác, không phải là nhìn thấy ở đâu, mà kể cho chúng tôi câu chuyện về Lục đạo luân hồi. Là tín đồ Phật giáo kiền thành, ngài ấy là học khoa học, chúng tôi đã thỉnh giáo ngài, làm thế nào mà ngài tin Phật? Ngài kể đoạn chuyện xưa này cho chúng tôi nghe. Trong thời kháng chiến, ngài sống ở Tứ Xuyên, ở Thành Đô, lúc bấy giờ ngài là Cục trưởng Thuế vụ của hai tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải, ngài học ngành Tài chính, địa vị rất cao. Vào buổi tối chơi mạt chược với bạn bè, đánh đến rất khuya mới tan cuộc, khoảng một-hai giờ sáng. Lúc đó không có xe về, đều là đi bộ, đại khái phải đi một tiếng mới có thể về đến nhà. Lúc ở giữa đường, chợt nhìn thấy phía trước có người, là một người nữ, cũng không có để ý, cô ấy cứ đi phía trước, còn ngài ở phía sau. Đi được gần nửa tiếng, ngài đột nhiên nghĩ tới, sao một người nữ lại đi ra ngoài một mình vào lúc đêm khuya như thế này? Vừa nghĩ đến ý niệm này, thì lông tóc ngài dựng đứng, nhìn thấy người phía trước đó có thân trên mà không có thân dưới, mới biết đã gặp phải ma rồi. Cũng bất chấp khó khăn, cũng không cách nào trốn, rất may là trong chốc lát không thấy người đó nữa, ngài đi về tới rồi. Ngài nói rằng ngài tin Phật bắt đầu từ đó, để ngài tận mắt chứng kiến. Ngài nói với tôi, người đó chắc là do Bồ-tát Quán Thế Âm biến hóa, biến thành thân quỷ để ngài trông thấy, chứng minh thật có quỷ, thật có quỷ thần. Trước đây ngài đã nghe rất nhiều những câu chuyện này, nhưng chưa trực tiếp nhìn thấy, nghe rồi cũng không quá tin tưởng, đều coi như thần thoại, truyền thuyết, không cho là có thật. Từ sau lần đó thì ngài cực kỳ tin thật rồi, ngài biết điều này không phải là giả, câu chuyện trong truyền thuyết không phải là hư cấu, mà thật có, thiên hạ rộng lớn, nên không thiếu điều kỳ lạ.

Trong cuộc kháng chiến, khi đó tôi mới mười mấy tuổi, cũng gặp phải hai lần. Một lần tại Hành Sơn ở Hồ Nam, đó là hồ ly tinh, con cáo. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà của người dân, gia đình ấy bị thất bại, trong quá khứ là một gia đình rất lớn, hai dãy nhà cấp bốn, có nhà lầu, không ai đi lên lầu đó trong mười mấy năm, có một bầy cáo ở trên lầu. Thông thường người lớn đều nói rằng, con cáo này vẫn chưa thật sự biến được thành hình người, có hình dáng của người. Nó cũng thường đi xuống, đi lại trong sân, là nam không phải nữ, mặc áo dài màu xanh. Rất nhiều người nhìn thấy, nhưng không ai thấy được bộ mặt của nó, đều là từ phía bên và phía sau, tôi cũng đã từng thấy một lần. Nghe người lớn nói, hồ ly cần 500 năm mới hoàn toàn tu thành hình người, tới lui với người. Việc này có lẽ vẫn chưa đủ thời gian, dù đã thành hình người rồi, nhưng khuôn mặt không rõ ràng. Vì vậy tôi cũng là từ sau lần đó, [mới] tin vào sự việc này, tôi cảm thấy những gì viết trong Liêu Trai, Tử Bất Ngữ, Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký không phải là hư cấu, đều là việc thật thực sự.

Còn có một lần, sau kháng chiến thắng lợi, tôi từng được nghỉ học, trở về sống hơn một tháng. Nghe bố mẹ tôi kể, chúng tôi có một người bà con xa, là họ hàng, tôi gọi người ấy là em họ, khi đó trong gia đình họ là làm ruộng, có một thuyền gạo được chuyển đến Nam Kinh để bán. Là thuyền mành, thuyền buồm, từ quê hương chúng tôi đến Nam Kinh phải đi khoảng bốn-năm ngày. Hiện nay giao thông dễ dàng, đi tàu chỉ cần hơn hai giờ, chưa tới ba giờ. Lúc đó ít nhất phải ba ngày, nếu không xuôi gió thì phải năm-sáu ngày. Sau khi đến Nam Kinh, gạo của họ là dùng túi vải bố để đựng, trong một chiếc thuyền, những túi vải bố cũng là từng bao từng bao như vậy, nhưng gạo bên trong hoàn toàn không còn nữa, hoàn toàn trống không. Chính mình vừa nghĩ, thì nghe nói khi lên thuyền, có người kể rằng, nhìn thấy có một con trông giống như con chồn; từ ván cầu chui vào trong thuyền, kết quả là mọi người tìm kiếm, tìm khắp rồi, nhưng không nhìn thấy, cho là hoa mắt, thế nên thuyền [vẫn] ra đi. Bây giờ hiểu được rồi, có lẽ người ta nhìn thấy con chồn là thật chứ không phải giả, không biết nó làm trò gì, mà dọn hết gạo đi rồi. Ở lại Nam Kinh hơn một tuần thì trở về, sau khi trở về, gạo đó vẫn ở trong kho gạo. Nó dùng cách gì để chuyển trở lại một thuyền gạo về kho gạo? Đại khái là đắc tội với nó, đùa cợt, nên nó đến trêu đùa, không có tổn thất lớn gì. Đây là thật chứ không phải giả, việc này có nhân chứng, có vật chứng.

Nên Đẳng lưu thân, Phật hiện Đẳng lưu thân, hiện thân súc sanh, hiện thân ngạ quỷ, còn có thể hiện ra núi sông đất đai, cây cối hoa cỏ, có thể khiến chúng sanh tiếp xúc được, giống như duyên phận này của chúng ta, chính là giúp quý vị tin tưởng, biết việc này thật có. Sau khi người thật sự tu hành gặp được, giúp quý vị khai ngộ. Điều này trong lịch sử Phật giáo đều có rất nhiều ghi chép, có rất nhiều người tu hành gặp được những việc này thì khai ngộ, nghe được âm thanh thì khai ngộ, nhìn thấy hình tướng thì khai ngộ, đó đều là do Phật Bồ-tát ứng hóa.

今經則佛於一身,現無量種種之身,可使種種眾生各各得見。同表圓明具德,不可思議境界 “Kim Kinh tắc Phật ư nhất thân, hiện vô lượng chủng chủng chi thân, khả sử chủng chủng chúng sanh các các đắc kiến. Đồng biểu Viên Minh Cụ Đức, bất khả tư nghì cảnh giới”(Kinh này thì Phật với một thân, hiện ra vô lượng các loại thân, có thể khiến tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều được thấy. Đồng thời biểu thị [Huyền Môn] Viên Minh Cụ Đức, cảnh giới không thể nghĩ bàn). Được rồi, thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 145)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật