Responsive Menu
Add more content here...

Tập 146 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 146

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 12/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, kính mời ngồi. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 395, trang 395, hàng thứ bảy từ trái qua:

上為讚佛,下為發願 “Thượng vi tán Phật, hạ vi phát nguyện” (Trên là khen ngợi Phật, dưới là phát nguyện). Như đã nói ở trước, Tỳ-kheo Pháp Tạng khen ngợi thầy là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, chúng ta đã học xong. Phần sau này là Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện, văn này vô cùng quan trọng, chúng ta xem Tập Chú của Niệm lão. 法藏比丘於歎佛功德後 “Pháp Tạng Tỳ-kheo ư thán Phật công đức hậu” (Tỳ-kheo Pháp Tạng sau khi tán thán đối với công đức của Phật), thán là khen ngợi, sau khi khen ngợi công đức của Phật, 隨即發起廣大誓願 “tùy tức phát khởi quảng đại thệ nguyện” (tiếp theo liền phát khởi thệ nguyện rộng lớn), tiếp theo thì ngài phát nguyện, 願自作佛 “nguyện tự tác Phật” (nguyện tự mình làm Phật), tại sao vậy? Bởi muốn độ chúng sanh. Nói thật ra, nguyện này là từ trong tâm bi lưu xuất ra, nhìn thấy chúng sanh trong Lục đạo quá khổ rồi, mong muốn giúp đỡ họ, giúp họ rời khỏi Lục đạo, rời khỏi Thập pháp giới, mãi không chịu khổ nữa. Muốn thực hiện được nguyện này, thì nhất định chính mình phải thành Phật trước, cũng tức là, nếu chính mình không thể rời khỏi Lục đạo, thì quý vị không độ được chúng sanh Lục đạo; chính mình không thể vượt qua Thập pháp giới, thì với chúng sanh trong Thập pháp giới, quý vị cũng không cách nào giúp họ. Do đây có thể biết, làm Phật vốn là vì độ chúng sanh. Chính mình làm Phật, xây dựng đạo tràng, đây chính là Thế giới Tây Phương Cực Lạc, 願攝佛土 “nguyện nhiếp Phật độ” (nguyện thu nhiếp cõi Phật). Nếu không có đạo tràng ấy, thì chúng sanh không có chỗ để tu hành, không có nơi học tập. Nhất định phải xây dựng một trung tâm, để giúp chúng sanh của Thập pháp giới, của Lục đạo trong mười phương thế giới, có một nơi học tập thật tốt. Ở nơi đó, không tìm thấy chướng ngại về sự thăng cấp của chúng sanh, không giống như thế gian này của chúng ta, không ít người muốn tu hành, nhưng chướng ngại lớp lớp. Chướng ngại bên trong là sáu căn, chướng ngại bên ngoài là sáu trần, căn trần cùng trộn lẫn, họ sanh phiền não, chứ họ không sanh trí huệ. Vì vậy, ở đây tu hành quá khó. Ở Thế giới Cực Lạc thì tất cả chướng duyên thảy đều không có, làm sao có chỗ tốt như vậy? Kinh văn phía sau sẽ nói đến.

普利眾生,速成正覺 “Phổ lợi chúng sanh, tốc thành Chánh Giác” (Rộng lợi chúng sanh, mau thành Chánh Giác), lợi ích rộng khắp, bình đẳng tất cả chúng sanh đến nơi đó để tu hành. Càng tuyệt vời hơn, điều không thể nghĩ bàn là câu tiếp theo đây: nhanh thành Chánh Giác, thành Chánh Giác chính là thành Phật. Dù mười phương thế giới có hoàn cảnh cho quý vị tu hành, nhưng thời gian tu hành rất dài, có tiến có thoái. Thời gian tu hành ở Thế giới Cực Lạc không dài, rất mau thành tựu, nguyên nhân là ở đó không có thoái chuyển, chỉ có đi lên không có thoái chuyển, nên tốc độ rất nhanh. Đến kinh văn tiếp theo chúng ta đều có thể thấy được những điều này. Niệm lão nói với chúng ta, 蓋發廣大願實為至要 “cái phát quảng đại nguyện thật vi chí yếu” (bởi vì phát nguyện rộng lớn thật là cực kỳ quan trọng), học Phật chẳng thể không phát đại nguyện, đại nguyện chính là: thành Phật độ chúng sanh.

Như trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói: 如來功德,假使十方一切諸佛,經 “Như Lai công đức, giả sử thập phương nhất thiết chư Phật, kinh” (Công đức của Như Lai, giả sử tất cả chư Phật trong mười phương, trải qua), đây là trải qua, 不可說不可說佛剎極微塵數劫 “bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số kiếp” (số kiếp rất nhiều như vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật), đây là nói thời gian, thời gian này quá dài rồi, không nói ra được, thời gian cực kỳ lâu xa, 相續演說,不可窮盡 “tương tục diễn thuyết, bất khả cùng tận” (diễn nói liên tục, cũng không thể cùng tận), mười phương chư Phật Như Lai khen ngợi cho chúng ta, diễn thuyết cho chúng ta, nói không bao giờ hết. 若欲成就此功德門,應修十種廣大行願 “Nhược dục thành tựu thử công đức môn, ưng tu thập chủng quảng đại hạnh nguyện” (Nếu muốn thành tựu môn công đức này, thì phải tu mười loại hạnh nguyện rộng lớn). Bồ-tát Phổ Hiền là đại nguyện, đại nguyện Bồ-tát, Thập đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc, là trên hội Hoa Nghiêm. Thế giới Ta Bà của chúng ta, người đầu tiên dẫn dắt tất cả chúng sanh vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính là Bồ-tát Phổ Hiền. Còn ngài Đại Thế Chí là người đầu tiên trong khắp Pháp giới hư không giới khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta nói về Sơ tổ, Sơ tổ của Pháp giới là Đại Thế Chí Bồ-tát. Thế giới Ta Bà, là khu vực giáo hoá hiện tại của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, người đầu tiên khuyên bảo chúng ta vãng sanh Thế giới Cực Lạc, là Bồ-tát Phổ Hiền. Kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng cuối cùng Mười đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc, chính là ngài Phổ Hiền, nên ngài Phổ Hiền là Sơ tổ của Thế giới Ta Bà. Ở Trung Hoa, Đại sư Huệ Viễn, người thời Đông Tấn, đó là Niệm Phật đường đầu tiên được thành lập ở Trung Hoa, tập hợp 123 người đồng tu cùng đồng chí hướng. Niệm Phật đường ấy ở Lô Sơn, Niệm Phật đường Đông Lâm ở Lô Sơn – Giang Tây, tất cả 123 người đều vãng sanh, là thành tựu thù thắng mà trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa không tìm thấy trường hợp thứ hai.

Thiền tông cũng rất khá, một thời cực thịnh lúc Lục tổ Đại sư Huệ Năng, ở dưới hội của Đại sư Huệ Năng, có 43 người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là trước đây, từ đó về sau không có sự nổi lên rầm rộ như vậy nữa. Vì sao có sự rầm rộ như vậy? Bởi căn tánh trong Thiền tông khác nhau, nếu không phải là người Thượng thượng căn thì không thể khai ngộ. Nhưng Tịnh tông thì khác, Pháp môn Tịnh Độ vạn tu vạn người đi, người thành tựu của Tịnh Độ, trong lịch sử Trung Hoa nói, thật sự vô số kể, quá nhiều rồi. Đại sư Thiện Đạo thời nhà Đường khi còn ở đời, [là] một thời cực thịnh, Đại sư Thiện Đạo nói với chúng ta, 如來所以興出世,唯說彌陀本願海 “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Mi Đà bổn nguyện hải”. Lại nói với chúng ta, Pháp môn này “vạn tu vạn người đi”, thời đại đó là thật không phải giả. Từ đó về sau, cho đến bây giờ, một giáp trước đây, tức là 60 năm trước, khi chúng tôi mới học Phật, thầy thường hay nói với chúng tôi, lấy Liên Xã Đài Trung làm ví dụ, là do thầy Lý thành lập. Thầy nói người niệm Phật hiện nay, là 60 năm trước, 10.000 người niệm Phật, thật sự có thể vãng sanh cũng chỉ có ba-năm người mà thôi, không phải là vạn tu vạn người đi. Đây là nguyên nhân gì? Nguyên nhân không ở Pháp môn, mà nguyên nhân ở người tu học chúng ta: không chịu thật làm, không chịu nổi cám dỗ hiện tại về: tài sắc danh lợi, Thất tình Ngũ dục. Bên ngoài có bốn thứ: tài sắc danh lợi này, bên trong có: Thất tình Ngũ dục, một khi hai tướng này kết hợp với nhau, thì sinh ra sự chướng ngại với việc vãng sanh. Do đó nhiều người niệm Phật không vượt qua được cửa ải này.

Chúng ta nhìn thấy sự tu hành của Hòa thượng Hải Hiền ở chùa Lai Phật, thì chúng ta có lý do để tin, vạn tu vạn nhân khứ là thật không phải giả. Lão Hòa thượng chưa từng đi học, không biết chữ, 20 tuổi xuất gia, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu: “Nam Mô A Mi Đà Phật”, nói với ngài cứ niệm liên tục, sáng tỏ rồi thì không được nói lung tung, không được nói. Trong câu nói này có huyền cơ, thế nào là sáng tỏ? Chúng ta xem đĩa CD về ngài, đọc Vĩnh Tư Tập về ngài, phải chú ý những chỗ này, không thể tùy tiện mà xem qua. Sư phụ của ngài không phải là người phàm, niệm Phật chứng được Lý nhất tâm Bất loạn, cũng chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Nhìn thấy ngài Hải Hiền: ngài ấy là bậc pháp khí, tức là nhân tài tốt để tu hành thành Phật, phải dạy ngài thật tốt, ngài sẽ thành tựu. Pháp khí nhìn từ đâu? Nhìn từ bản tánh của người, quý vị xem tính tình của ngài ấy. Lão Hòa thượng Hải Hiền từ nhỏ hiếu thân tôn sư, đây là pháp thế gian, ở thế gian ngài có loại thiên chất này, thì trong pháp thế gian có đại thành tựu, không đi học, không biết chữ, cũng có đại thành tựu. Trong Phật pháp, trong Phật pháp đại thành tựu chính là: thành Phật, Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh thành Phật; Thiền tông gọi là Kiến tánh, Tịnh Độ tông gọi là Lý nhất tâm Bất loạn. Tương lai người ấy sẽ đắc đạo, sau khi đắc đạo thì điều gì quý vị cũng không được nói, quý vị thật sự sáng tỏ tất cả, biết rõ tất cả, nhưng không được nói. Lão Hòa thượng nghe lời, cả đời tuân thủ, đến khi vãng sanh cũng không nói. Nhưng chúng ta nhìn ra trong Vĩnh Tư Tập, ngài đã tiết lộ tin tức này cho chúng ta, chúng ta phải biết xem, đó chính là nói, có một lần ngài ở cùng với những Cư sĩ, đã nói một câu: “Điều gì tôi cũng biết”, mọi người không chú ý. Điều gì cũng biết, lời này là người nào nói được? Người Minh tâm Kiến tánh mới có thể nói; nếu chưa Minh tâm Kiến tánh, mà quý vị nói câu này thì là đại vọng ngữ, tội của đại vọng ngữ là đoạ địa ngục Vô Gián.

Ngài ấy thật thà, nghe lời, thật làm, đó chính là bậc pháp khí. Chỉ cần có bản tánh này, lắng tâm quan sát ngài, nếu có thể hiếu thân, có thể tôn sư trọng đạo, thì không ai mà không thành tựu, vả lại là thành tựu vô cùng rực rỡ, trong nhà Phật. Ngài nói rất hay, ngài trụ ở thế gian là để biểu pháp, nếu không biểu pháp, ngài nói rằng ngài sớm đã vãng sanh rồi, lời này là thật chứ không phải giả. Chúng tôi ước đoán ngài, niệm Phật niệm đến Công phu Thành phiến, lão Hòa thượng đã nói với chúng ta, quý vị lắng tâm để xem. Khi niệm đến Công phu Thành phiến, thì A Mi Đà Phật sẽ đưa tin tức cho quý vị, sẽ nói với quý vị: thọ mạng của quý vị còn dài bao lâu, đến khi quý vị mạng chung, Phật đến tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Hoan hỷ! Phật không nói suông, Thế giới Cực Lạc đã ghi tên rồi. Nếu họ còn thọ mạng, họ vẫn chưa muốn vãng sanh ngay, vì sao vậy? Bởi Thế giới này dễ tu hành. Giống như ngài Hải Hiền, làm tấm gương tốt cho mọi người xem, cho Đệ tử học Phật thấy: học Phật nên giống như ngài; cho người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thấy: niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ giống như ngài, quyết định được sanh. Vì vậy, ngài hướng đến A Mi Đà Phật thỉnh cầu rất nhiều lần, không phải một lần, mà rất nhiều lần. A Mi Đà Phật chưa dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc, nói với ngài: con tu rất tốt, sống ở thế gian này thêm vài năm, biểu pháp cho mọi người xem, ý nghĩa này chính là làm tấm gương tốt cho người học Phật.

Chúng ta phải biết nghe, phải nghe hiểu được; phải biết xem, xem được sáng tỏ. Quý vị thật nghe hiểu, thật xem sáng tỏ, thì một đĩa CD đó xem mãi không chán, càng xem càng muốn xem, muốn ngừng mà không được. Tôi tin rằng những người như Cư sĩ Lưu Tố Vân, đến bây giờ đã xem được hơn 300 lần. Một ngày xem ba lần, còn cô ấy một ngày xem năm-sáu lần, gấp đôi so với người bình thường, 100 ngày là năm-sáu trăm lần. Thật sự, vĩnh viễn xem không chán, càng xem càng hoan hỷ, càng xem tín tâm càng kiên cố, nguyện tâm càng kiên cố, thì chính mình nắm chắc vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Khi đọc kinh, nếu không có khế nhập đủ thì không sanh ra pháp vị, vì vậy sẽ chán ngán, họ không đọc được, còn đĩa phim dễ tiếp thu hơn việc đọc sách. Nên đĩa phim này, sách Vĩnh Tư Tập này sẽ độ vô lượng chúng sanh. Lão Hòa thượng trụ thế niệm Phật 92 năm, thành tựu vô lượng vô biên công đức, Mười đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền, với mỗi một điều thì lão Hòa thượng Hải Hiền đều làm được rồi.

Chúng ta xem văn tiếp theo. 蓋淨宗以信願行為三資糧 “Cái Tịnh tông dĩ Tín Nguyện Hạnh vi tam tư lương” (Bởi vì Tịnh tông lấy Tín Nguyện Hạnh làm ba tư lương), tu hành của Tịnh Độ tông, có ba điều kiện quan trọng: thứ nhất phải thật sự tin tưởng, thứ hai thật sự muốn đến Thế giới Cực Lạc, thứ ba là chịu niệm Phật. Từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, một ngày 24 giờ không gián đoạn câu Phật hiệu này, niệm thầm, không niệm ra tiếng, trong tâm chỉ có Phật, ngoài Phật ra không có vọng tưởng, không có tạp niệm, thì đầy đủ ba điều kiện này rồi. Người niệm Phật như vậy: tâm phải chuyên, ý phải thành, thái độ phải cung kính, niệm bao lâu thì thành công? Không nhất định, trên Kinh Mi Đà, Phật tiết lộ tin tức cho chúng ta: là bảy ngày. Bảy, phía trước có sáu, một hai ba bốn năm sáu là con số, còn bảy phía sau ấy là đại biểu viên mãn, đó là số không cố định, ngày nào công phu viên mãn, thì ngày đó coi là bảy, viên mãn rồi. Thế nào là viên mãn? Công phu cạn là Công phu Thành phiến. Công phu Thành phiến là gì? Mọi lúc, mọi nơi trong tâm có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật, trong tâm không có tạp niệm, không có vọng tưởng, đó là Công phu Thành phiến. Đó là công phu cạn nhất, tuy là cạn nhất, nhưng nhất định vãng sanh. Như đã nói phía trước, trong công phu này, thì A Mi Đà Phật sẽ đưa tin tức cho quý vị, thông tin của quý vị đã được kết nối, cũng chính là nói quý vị đã nhìn thấy A Mi Đà Phật. Về công phu sâu, có Sự nhất tâm Bất loạn, có Lý nhất tâm Bất loạn, Sự nhất tâm Bất loạn đó là Bồ-tát, Lý nhất tâm Bất loạn là thành Phật rồi.

Ba năm có thể niệm đến Công phu Thành phiến, nhiều người ba năm vãng sanh! Quý vị xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, quý vị xem Truyện Vãng Sanh, rất nhiều người ba năm thì vãng sanh. Có phải thọ mạng của họ hết rồi không? Điều này nói không thông, không thể nói cách ấy, làm gì có đúng lúc như vậy, niệm Phật ba năm thọ mạng đã hết rồi? Điều này là không hợp logic. Vậy vì sao ba năm thì ra đi rồi? Bởi họ có thọ mạng rất dài nhưng họ không cần nữa, khi A Mi Đà Phật đến gặp họ, họ nhìn thấy Phật rồi, Phật nói với họ: thọ mạng con vẫn còn bao lâu, con không cần nữa, bây giờ con đi theo Ngài. A Mi Đà Phật rất từ bi, liền dẫn quý vị đi thôi. Điều này nói rõ ba năm đạt được điều kiện vãng sanh, là rất nhiều. Lão Hòa thượng Hải Hiền, ba năm cũng đạt được trình độ này, A Mi Đà Phật đến an ủi ngài, A Mi Đà Phật khuyên ngài trụ thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người học Phật, cho người niệm Phật. Do đó ba năm ngài đạt được Thành phiến, chúng tôi tin rằng thêm 3-5 năm, thì ngài thăng cấp đến Sự nhất tâm; đạt được Sự nhất tâm, thêm 3-5 năm nữa, thì ngài đạt được Lý nhất tâm, chắc chắn đạt được thành tựu thù thắng như vậy. Ngài được Lý nhất tâm phải là vào lúc nào? Tôi ước tính phải là trước sau 40 tuổi, thì ngài chứng được rồi. Đó tức là nói, Sư phụ của ngài dặn: sáng tỏ rồi, sáng tỏ rồi không nên nói lung tung, không được nói. Vì vậy ngài không nói, người ta hỏi ngài, thì ngài nói: thiên cơ không thể tiết lộ. Ngài tiếp tục trụ ở nhân gian làm biểu pháp, cho đến tháng Giêng năm ngoái, biểu pháp viên mãn, thì ngài ra đi rồi.

Thế nào là viên mãn? Là làm chứng minh viên mãn cho đại chúng người niệm Phật chúng ta đây. Chứng minh điều gì? Thứ nhất chứng minh thật có Thế giới Cực Lạc, không phải là giả, ngài đã đến rồi; thứ hai chứng minh A Mi Đà Phật là thật có, cũng không phải giả, niệm Phật vãng sanh là chân tướng sự thật, không phải lừa gạt người. Đây là làm chứng minh cho mọi người nói chung, đặc biệt phải làm chứng cho người niệm Phật hiện tại của chúng ta, bản Kinh mà chúng ta dùng hiện nay là thật, không được hoài nghi; thứ hai chứng minh Chú Giải (Tập Chú) của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là chính xác, không có sai lầm; thứ ba là chứng minh những người chúng ta, 20 năm gần đây, bản kinh mà chúng ta chọn dùng chính là Bản Hội Tập, và Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, có sai lầm không? Không có sai lầm, là chính xác, làm chứng minh này cho chúng ta. Vì vậy, ngài cầm quyển sách “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng”, quyển sách này là do Pháp sư Hoằng Lâm sưu tập những tư liệu trong mười mấy năm qua để biên soạn ra. Quyển sách này chính là chứng minh: Bản Hội Tập là chân kinh, từng chữ từng câu là do Phật thuyết, không sửa đổi một chữ nào, không thêm ý kiến của mình vào, là chân kinh, thuần chân không vọng; Tập Chú của Niệm công là chính xác, không có sai lầm; chứng minh sau cùng, chúng ta chiếu theo Kinh này, căn cứ Chú Giải này tu hành thì không có sai lầm. Ngài vãng sanh rồi, biểu pháp cuối cùng, là ba ngày sau vãng sanh tự tại thoải mái như vậy, không bị bệnh, không có bệnh khổ; nói đi liền đi, không có tử khổ. Ai làm được? Không ai có thể so sánh với ngài.

Sư đệ của ngài vãng sanh sớm hơn ngài, cũng là tự tại, không có bệnh khổ, không có tử khổ, nói đi là đi thôi, lưu lại xá lợi toàn thân. Ngồi trong chum 6 năm 9 tháng, lão Hòa thượng Hải Hiền (Sư huynh của ngài ấy) mở chum ra, chuẩn bị hỏa táng nhập tháp cho ngài, đưa tro cốt vào tháp. Khi mở ra, toàn thân nguyên vẹn không có chút hư hại nào, ngay cả quần áo cũng không bị hư hại, đó là thân kim cang bất hoại. Hiện nay toàn thân được thiếp vàng và thờ ở chùa Lai Phật, là nhục thân Bồ-tát. Khi ngài còn sống không có ai xem trọng ngài, nhưng sau khi chết để lại thân kim cang bất hoại, khiến bao nhiêu người cảm động. Đều là xảy ra trong xã hội hiện nay đây, làm tấm gương tốt cho người học Phật chúng ta. Khi còn sống, các ngài đều là những vị tăng khổ hạnh, có thể trì giới, có thể chịu khổ, không bao giờ rời khỏi một câu A Mi Đà Phật, nên mới có thành tựu thù thắng như vậy. Vì thế tôi khuyên mọi người, nhất định phải lấy các ngài làm tấm gương, nhất định không được lơ là, nghiêm túc học tập theo các ngài, các ngài có thể thành tựu, thì mỗi người chúng ta cũng có thể thành tựu. Nếu đã thành tựu, thì nhất định sẽ ra đi được thoải mái, đó chính là biết trước ngày giờ, biết mình đi ngày nào mấy giờ mấy phút, rất rõ ràng, rất sáng tỏ, không mắc bệnh, không có bệnh khổ, không có lão khổ, không có tử khổ, đó là tự tại thoải mái. Chỉ dựa vào điểm này đã khiến người sanh khởi tâm ngưỡng mộ, trong tâm tin phục đối với Pháp môn này, không còn nghi ngờ, chúng ta nhất định phải học điều này.

Tiếp theo trích dẫn khai thị của Đại sư Linh Phong, Linh Phong chính là Đại sư Ngẫu Ích, là Tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ tông chúng ta, ngài nói  非信不足啟願,非願不足導行 “phi Tín bất túc khải nguyện, phi Nguyện bất túc đạo Hạnh” (không có Tín thì không thể phát khởi Nguyện, không có nguyện thì không thể dẫn dắt Hạnh). Tín Nguyện Hạnh có ba giai đoạn, đầu tiên phải tin, nếu không tin thì nguyện của quý vị không phát ra được. Nguyện này là gì? Nguyện sanh Tịnh Độ. Tịnh Độ quá thù thắng! Thù thắng thứ nhất chính là thọ mạng. Sanh vào mười phương Thế giới, thọ mạng đều là có hạn; còn vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thọ mạng là vô hạn, vô lượng thọ, là thật vô lượng thọ, không phải vô lượng thọ giả. Chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc chính là vô lượng thọ, vô lượng thọ này không phải là do chính chúng ta tu thành công, mà bổn nguyện oai thần của A Mi Đà Phật gia trì; nói cách khác, vô lượng thọ mạng là do A Mi Đà Phật cho chúng ta. Chúng ta ở nơi đó rất dễ tu hành, chứng được Vô Thượng Bồ-đề, đó là trở thành thật vô lượng thọ; trước khi chưa chứng được, thì được A Mi Đà Phật gia trì.

Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, tôi cho rằng thọ mạng của ngài: chắc là bảy tám mươi tuổi, không thể là hơn 100 tuổi, thọ mạng hơn 100 tuổi như vậy là được A Mi Đà Phật gia trì. A Mi Đà Phật muốn để ngài ở thế gian làm biểu pháp, đến khi nhiệm vụ của ngài viên mãn sẽ đón ngài đến Thế giới Cực Lạc, nhiệm vụ viên mãn chính là nhìn thấy quyển sách này. Ngài không biết chữ, khi tín đồ mang quyển sách này đến chùa Lai Phật, ngài hỏi mọi người là sách gì vậy, người ta nói với ngài, tên của quyển sách này là “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng”. Sau khi ngài nghe xong thì hết sức vui mừng, như được của báu, nhanh chóng mặc áo tràng đắp y, cầm sách trên tay, chủ động yêu cầu: mọi người chụp cho ngài một tấm hình. Cả đời lão Hòa thượng chưa bao giờ chủ động yêu cầu người khác chụp hình cho ngài, chụp hình xong, ba ngày sau thì ra đi rồi, biểu pháp viên mãn. Đây đều là do chính A Mi Đà Phật sắp đặt, chúng ta phải cảm ơn A Mi Đà Phật. Thế nên phải tin tưởng, không thể có chút nghi ngờ nào; phải phát nguyện, nhất định phải vãng sanh Thế giới Cực Lạc, vậy thì đúng rồi. Thật sự có tín, có nguyện, thì câu Phật hiệu này sẽ không gián đoạn.

Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với chúng ta, thường niệm câu Phật hiệu này có thể tiêu trừ tai nạn, có thể tích đức, tích phước. Chúng ta mong bản thân có phước báo, có trí huệ, trên địa cầu này rất nhiều tai nạn, người vùng này niệm Phật, thì người vùng này không có tai nạn, khuyên nhiều người niệm Phật, khuyên nhiều người học ngài Hải Hiền. Mấy ngày nay còn có người hỏi tôi, Trung Hoa có thể có tai nạn không? Tôi nói với vị ấy, Trung Hoa sẽ không có tai nạn. Vị ấy hỏi là nguyên nhân gì? Bởi nhiều người học ngài Hải Hiền rồi, nhiều người học ngài Hải Hiền, thì khu vực ấy sẽ không có tai nạn. Nhiều người thích xem đĩa CD này, xem quyển sách nhỏ này, nhiều người như vậy ở đó đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, dù có tai nạn, cũng rất nhẹ, sẽ không nghiêm trọng. Chúng ta phải có niềm tin đối với điều này, đây là chúng ta từ trên sự niệm Phật tu hành cảm ứng để nói. Còn có một điều chúng ta nhất định có thể nghĩ tới, là trên toàn thế giới, chỉ có lão Tổ tông của nước ta, ngàn vạn năm nay bao đời thế hệ đều là tích đức. Trong Kinh Dịch nói, 積善之家,必有餘慶;積不善之家,必有餘殃 “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (gia đình tích lũy điều thiện lành, nhất định sẽ có nhiều niềm vui; gia đình tích lũy điều bất thiện, nhất định có nhiều tai ương). Ở trên thế giới, lão Tổ tông của bất kỳ quốc gia dân tộc nào, không ai lương thiện như lão Tổ tông nước ta, dứt ác tu thiện, tích công lũy đức. Ngày nay chúng ta đã bỏ đi lão Tổ tông chỉ 200 năm, thời gian cũng không dài, hiện nay tìm về lão Tổ tông, chăm chỉ sám hối, hiếu thuận, thì tai nạn đều tiêu trừ rồi, chúng ta phải có tín tâm. Các quốc gia khu vực khác không có, thật sự không có, không tìm thấy trong lịch sử. Nói cách khác, nếu địa cầu thật sự xảy ra tai nạn, thì các khu vực khác [bị] nghiêm trọng, còn khu vực Trung Hoa đó tương đối nhẹ, chúng ta có thể khẳng định điều này.

Thật tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì hoàn cảnh sinh sống trong đời này đều là do A Mi Đà Phật an bài, chúng ta bớt lo bớt việc, không cần nghĩ nữa. Thích ứng trong mọi hoàn cảnh, điều gì cũng tốt, bình an sống qua đời này, tương lai vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đây là mục tiêu cuối cùng trong việc tu Tịnh Độ của chúng ta. Nên tín nguyện quan trọng hơn bất kỳ điều gì. Pháp môn này, chư Phật Như Lai đều xưng đó là nan tín chi pháp, khó tin mà có thể tin, nói rõ trong đời quá khứ chúng ta đã từng học qua Pháp môn này. Mỗi một người thật sự vãng sanh, trong Đại Kinh, Phật cũng nói: người đó đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ đã cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, nên đời này gặp được, gặp lại được Pháp môn này, sẽ được vô lượng chư Phật Như Lai gia trì quý vị. Vì vậy quý vị không hoài nghi, quý vị có thể tin, quý vị thật sự muốn sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đời này có thể viên mãn tâm nguyện của quý vị.

Tiếp theo, Pháp sư Tĩnh Am đời nhà Thanh nói, 修行急務,立願居先 “tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên” (việc cấp bách trong tu hành, thì lập nguyện đứng đầu tiên), tu Pháp môn Tịnh Độ này đầu tiên phải phát nguyện, phát nguyện: nguyện sanh Tịnh Độ. 願立則眾生可度,心發則佛道堪成 “Nguyện lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành” (Nguyện lập thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì có thể thành Phật đạo), hai câu này, ba vị Đại đức ở chùa Lai Phật đều đã làm chứng minh cho chúng ta. Các ngài phát nguyện, các ngài độ chúng sanh, sau khi vãng sanh, việc tu học cả đời của các ngài được truyền ra, ảnh hưởng bao nhiêu người? Bao nhiêu người hoài nghi đối với Tịnh tông, nhìn thấy ba vị ấy, thì dứt hết tâm nghi rồi, phát khởi tín tâm, nguyện tâm, đây chính là có thể độ chúng sanh. Một khi chính mình phát tâm, trong đời này vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, sanh đến Thế giới Cực Lạc chính là thành tựu Phật đạo. 又曰:故知欲學如來乘 “Hựu viết: cố tri dục học Như Lai thừa” (Lại nói: nên biết muốn học Như Lai thừa), Tịnh tông không phải là Bồ-tát thừa, chúng ta phải ghi nhớ điều này, Tịnh tông là pháp Nhất thừa, Nhất thừa chính là Như Lai thừa, là thành Phật, không phải thành Bồ-tát. Trong Phật pháp, đây là đại pháp rốt ráo nhất, viên mãn nhất, vả lại rất nhanh, nhất định một đời thành tựu. Bởi vì câu Nam Mô A Mi Đà Phật này, đầy đủ đức hiệu của tất cả chư Phật Như Lai, quý vị niệm câu Phật hiệu này, thì đã niệm hết tất cả chư Phật Như Lai, không sót một vị nào. Niệm một câu Phật hiệu này, tổng nhiếp vô lượng vô biên Pháp môn mà tất cả chư Phật đã thuyết, đều ở trong câu danh hiệu này, cũng không sót thứ gì. Rốt ráo viên mãn, không tìm ra Pháp môn thứ hai nữa.

Chúng ta gặp được phải biết thật may mắn, quá khó được rồi, trong đời này chúng ta đã gặp, gặp được thì nhất định không thể từ bỏ, phải nắm chặt. Chặt đến mức nào? Từng phút từng giây đều không buông bỏ. Một giây có thể niệm một câu Phật hiệu, trong một giây này không phải là Phật hiệu thì uổng phí rồi. Ba vị Đại đức ấy của chùa Lai Phật, các ngài là tranh thủ thời gian, trong từng phút từng giây đều là A Mi Đà Phật, nên các ngài có thành tựu cao như thế. Đây là chỗ chúng ta phải học, nếu quý vị học được rồi, thì tương lai chắc chắn quả báo của quý vị giống như các ngài.

Vì vậy, 欲學如來乘,必先具發菩薩願,不可緩也 “dục học Như Lai thừa, tất tiên cụ phát Bồ-tát nguyện, bất khả hoãn dã” (muốn học Như Lai thừa, trước tiên phải phát đầy đủ nguyện của Bồ-tát, không thể trì hoãn). Bồ-tát chính là độ chúng sanh, Bồ-tát có thể xả mình vì người, hoằng nguyện của Bồ-tát không gì hơn là trong từng giây không bỏ A Mi Đà Phật, quý vị niệm câu Phật hiệu này, tự hành viên mãn, hóa tha viên mãn. Nếu quý vị không tin, thì hãy xem đĩa CD về ngài Hải Hiền, quý vị xem được trên 1000 lần thì quý vị tin thôi. Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, tôi khuyên đồng học học một năm, một ngày xem ba lần, một năm tức là 1000 lần; đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa ấy, quý vị có thể xem 1000 lần, thì quý vị thấy được hết tất cả pháp mà ngài Hải Hiền đã biểu diễn, quý vị thật sự tin thôi. Nên việc này không thể chậm trễ, phải thật làm ngay từ bây giờ.

Đoạn tiếp theo đây 為願求自覺覺他之德。為覺他故,首須覺己 “vị nguyện cầu tự giác giác tha chi đức. Vị giác tha cố, thủ tu giác kỷ” (vì nguyện cầu đức của tự giác giác tha. Vì giác tha, nên đầu tiên phải giác chính mình), chính mình phải giác ngộ. 求自覺者,端為覺他 “Cầu tự giác giả, đoan vị giác tha” (Cầu tự giác: chung quy vì để giác tha), vì sao tôi phải cầu tự giác? Chỉ có một mục tiêu, một mục đích, mong rằng tôi có thể giác tha, giáo hóa chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh đều có thể giác ngộ. Nên kệ tụng tiếp theo là 發願 “Phát Nguyện”, chia thành sáu đoạn nhỏ, đoạn nhỏ thứ nhất 願聲同佛 “Nguyện Thanh Đồng Phật” (Nguyện Âm Thanh Giống Với Phật). Mời xem kinh văn:

【願我得佛清淨聲。法音普及無邊界。

宣揚戒定精進門。通達甚深微妙法。】

“Nguyện ngã đắc Phật thanh tịnh thanh

Pháp âm phổ cập vô biên giới

Tuyên dương Giới Định, Tinh tấn môn

Thông đạt thâm thậm vi diệu pháp”

(Nguyện con được Phật thanh tịnh thanh

Pháp âm rộng khắp không biên giới

Tuyên dương môn: Giới, Định, Tinh tấn

Thông đạt thâm thậm vi diệu pháp).

Hai câu đầu là ý nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng具如佛利他之行德 “cụ như Phật lợi tha chi hạnh đức” (đầy đủ hạnh đức lợi tha như Phật). Âm thanh của Phật hay, âm thanh là dùng để thuyết pháp, nên đầu tiên cầu âm thanh của chính mình giống Phật, 願得如來清淨之聲 “nguyện đắc Như Lai thanh tịnh chi thanh” (nguyện được âm thanh thanh tịnh của Như Lai). 清淨者,無惡行之過失、離煩惱之垢染 “Thanh tịnh giả, vô ác hạnh chi quá thất, ly phiền não chi cấu nhiễm” (Thanh tịnh: là không có những lỗi lầm của ác hạnh, lìa khỏi sự cấu nhiễm của phiền não), đây gọi là thanh tịnh, về lời nói, không có lời ác, không có lỗi lầm, không có phiền não. Về Phiền não, người nước ta nói Thất tình Ngũ dục, đó chính là phiền não, trong Thất tình bao gồm: hỷ nộ ai lạc ái ố dục, dục là dục vọng. Nếu có một thứ này, thì tâm không thanh tịnh, là ô nhiễm. Làm sao chúng ta rời khỏi được phiền não? Trong tâm có A Mi Đà Phật, thì không thấy phiền não nữa. Có cần dốc sức để đoạn phiền não không? Không cần, tâm có Mi Đà, thì phiền não không thấy nữa. Trong một giây chỉ có một câu A Mi Đà Phật, hoặc là Nam Mô A Mi Đà Phật, với câu Phật hiệu này: thì không thể có một phiền não nào đi vào được. Mỗi giây đều là A Mi Đà Phật, có phiền não cũng không vào được, niệm lâu rồi thì tự nhiên không thấy phiền não nữa, tâm thanh tịnh hiện tiền.

Tựa đề kinh của Kinh này nói với chúng ta ba mục tiêu của việc tu hành: thứ nhất là thanh tịnh, thứ hai là bình đẳng, thứ ba là giác. Thanh tịnh, [là] công phu niệm Phật của quý vị đắc lực rồi, trừ hết phiền não, trừ hết ô nhiễm. Về phiền não, Tiểu thừa đoạn Kiến tư Phiền não, Kiến hoặc: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ, Tà kiến. Trong số đó, Giới thủ kiến, Kiến thủ kiến chính là Thành kiến mà người nước ta nói tới, người nào đó có thành kiến rất sâu, tự cho mình là đúng, mà không biết những kiến giải ấy đều là sai lầm. Tư hoặc, là tham sân si mạn nghi, phiền não căn bản, từ vô thủy kiếp cho đến ngày nay, tập khí vô cùng sâu dày, không dễ gì đoạn. Có thể đoạn hết Kiến tư Phiền não, thì người ấy chứng quả A-la-hán, tâm thanh tịnh hiện tiền, là thanh tịnh trên đề kinh. Có tham dục, là không thanh tịnh; có oán giận, là không thanh tịnh; có ngu si, là không thanh tịnh; có ngạo mạn, là không thanh tịnh; có hoài nghi, là không thanh tịnh. Thất tình hoàn toàn là từ chính mình, từ trong phát ra ngoài; vui mừng, là hỷ; thứ hai là nộ, trái ngược với hỷ, nộ là tức giận; ai là đau buồn; ái là tham ái; dục là tài sắc danh thực thùy, Ngũ dục. Đây đều là ô nhiễm, cấu nhiễm. Lão Hòa thượng Hải Hiền đoạn thế nào? Chúng ta xem tam Thánh của chùa Lai Phật, mẹ của ngài Hải Hiền và Sư đệ Hải Khánh của ngài, ba người đều là dùng một phương pháp: Phật hiệu, chuyên niệm Phật hiệu. Lão Hòa thượng Hải Hiền thường dạy người, 天下無難事 “thiên hạ vô nan sự” (thiên hạ không có việc gì khó), thật sự không có việc gì khó, 只怕心不專 “chỉ phạ tâm bất chuyên” (chỉ sợ tâm không chuyên), câu Phật hiệu này, chỉ cần quý vị chuyên niệm, đừng có xen tạp.

Vậy nếu tôi còn phải học nhiều thứ, thì tôi làm cách nào để chuyên? Học tập kinh giáo, học tập khóa trình, thì buông xuống niệm Phật, chuyên tâm học kinh giáo; học xong, tan học rồi, gấp sách lại, liền đề khởi Phật hiệu lên, không trở ngại việc, đó là học kinh giáo. Nếu không dùng ý niệm, mà dùng sức lao động, vậy hoàn toàn không chướng ngại gì. Giống ngài Hải Hiền, ngài Hải Khánh, các ngài đều là dùng sức lao động, tu khổ hạnh, trồng trọt ngoài ruộng vườn, nhưng Phật hiệu của các ngài không gián đoạn. Quý vị nhìn thấy ngài đang làm việc, thời gian làm việc dài, không mệt sao? Quên đi rồi, ngài đang niệm Phật. Trong tâm ngài đang niệm Phật, thân thể đang làm việc, không trở ngại gì. Vì vậy chúng ta phải biết dùng, biết dùng thời gian, để không xảy ra xung đột với nhau, chính mình lại không cảm thấy mệt mỏi. Bởi vì ngài không nghĩ tới đang làm việc, công việc đã thành thói quen, giống như máy móc, cứ tự nhiên hoạt động, trong tâm Phật hiệu câu này nối tiếp câu kia, Phật hiệu không gián đoạn. Sinh hoạt, ăn mặc, ăn uống, nếu hỏi, thì ngài nói với người khác tôi đang niệm Phật. Ngài trèo cây cắt tỉa cành, cũng nói với người ta tôi đang niệm Phật. Làm việc ngoài đồng ruộng, dưới trời nắng to, ngài cũng không cảm thấy nóng, ngài đang niệm Phật. Công phu niệm Phật không gián đoạn, đây là điều mà chúng ta nên phải học.

Chúng ta xem tiếp, lìa khỏi sự cấu nhiễm của phiền não, đó gọi là thanh tịnh. Đoạn Kiến tư Phiền não rồi, thì tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh này chính là điều mà A-la-hán chứng được. Chứng được tâm thanh tịnh, vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc liền thăng cấp rồi, sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Trong Phương Tiện Hữu Dư độ cũng có ba phẩm, ba phẩm: thượng trung hạ. Trong đề kinh còn có, tiếp theo, là bình đẳng, bình đẳng là điều mà Bồ-tát chứng được, cao hơn thanh tịnh. Thế nên chúng ta biết, tâm bình đẳng vãng sanh là Thượng phẩm ở Phương Tiện Hữu Dư độ của Thế giới Cực Lạc, tâm thanh tịnh là Trung Hạ phẩm; người chưa được tâm thanh tịnh mà vãng sanh, là Phàm Thánh Đồng Cư độ. Nếu là giác, giác chính là khai ngộ rồi, Minh tâm Kiến tánh, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ của Thế giới Cực Lạc. Sư phụ của lão Hòa thượng Hải Hiền là thầy Truyền Giới nói: khi hiểu rõ rồi, hiểu rõ chính là giác, giác sanh Thật Báo độ của Thế giới Cực Lạc.

Nên vãng sanh Thế giới Cực Lạc là một đời thành Phật, là thật không phải giả. Dù là người vãng sanh ở Phàm Thánh Đồng Cư độ, trong 48 nguyện nói với chúng ta, sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đều làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. A-duy-Việt-trí nghĩa là gì? Viên mãn chứng được ba loại bất thoái, gọi là A-duy-Việt-trí; nếu nói một câu dễ hiểu, thì Minh tâm Kiến tánh mới là A-duy-Việt-trí. Thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng, chính là người trong Phàm Thánh Đồng Cư độ: cũng là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, điều này không thể nghĩ bàn. Bởi vì Thế giới Cực Lạc là Thế giới bình đẳng, có bốn cõi ba bậc chín phẩm không? Có, tuy có, nhưng là bình đẳng, điều này là khác biệt. Trong cõi nước chư Phật có, mà không bình đẳng, là có khác biệt. Thế giới Cực Lạc có, là bình đẳng, làm thế nào để bình đẳng? A Mi Đà Phật gia trì bình đẳng. Vì thế, vãng sanh thì đạt được, đạt được liền khởi tác dụng. Khởi tác dụng thế nào? Có thể phân thân đến mười phương thế giới giúp đỡ chúng sanh có duyên, hiện thân thuyết pháp cho họ, giúp họ liễu sanh tử xuất Tam giới, là có năng lực như vậy. Điều này nhanh biết bao! Có thể nói sự thành tựu của chính mình và giáo hóa chúng sanh gần như là cùng lúc, có thể làm được, đây là điều mà trong mười phương Thế giới không có, Tịnh Độ thù thắng trang nghiêm không gì bằng là ở chỗ này. Do đó, chúng ta nhất định phải giống như lời lão Hòa thượng thường nói, luôn nhắc nhở mọi người: “Chăm chỉ niệm Phật là thật”. Niệm Phật, vãng sanh chính là thành Phật, không phải là giả, những thứ khác đều là giả. Thế gian này không có gì là thật, chúng ta phải làm cho rõ ràng, làm cho sáng tỏ, đừng để bị những giả tướng này lừa gạt nữa, thật làm, tín nguyện trì danh, vãng sanh là thật. Nhớ thật tốt sáu chữ: tín nguyện, trì danh, vãng sanh.

Tiếp theo nói, 願我如佛能宣無過 “nguyện ngã như Phật năng tuyên vô quá” (nguyện con được như Phật có thể tuyên thuyết [mà] không có lỗi lầm), không có lỗi lầm, 離垢 “ly cấu” (lìa khỏi ô nhiễm), không có ô nhiễm, 之法音 “chi pháp âm” (pháp âm). Chúng ta phải nhớ kỹ điều này, phải học, trong cuộc sống hàng ngày, lời nói của chúng ta không có sai lầm, vậy lời nói của quý vị là vô lượng công đức, không có ô nhiễm. 普及無邊各各之界“Phổ cập vô biên các các chi giới” (Rộng khắp vô biên tất cả giới), chữ “giới” này, trong Đại Thừa Nghĩa Chương nói là giới biệt, biệt là phân biệt, sai biệt, phân biệt, sai biệt đây gọi là giới. 諸法性別,故名為界 “Chư pháp tánh biệt, cố danh vi giới” (Tánh của các pháp khác nhau, nên gọi là giới). Tính chất của tất cả pháp khác nhau, thí như Tam học: Giới Định Huệ, Giới có giới hạn của Giới, Định có giới hạn của Định, Huệ cũng có giới hạn của Huệ, đều có giới hạn. Chỉ có Phật là có khả năng phổ cập không biên giới, bất kỳ giới hạn nào Ngài cũng không bị trở ngại, Phật có thể làm được. Còn Bồ-tát không làm được, Bồ-tát, [nếu người] bình đẳng với các ngài, hoặc không bằng các ngài, thì các ngài có thể giáo hóa, [nếu người] bình đẳng hoặc vượt qua các ngài, thì các ngài không thể giáo hóa họ. Vì vậy phát nguyện nhất định phải thành Phật, thành Phật mới có thể rộng độ chúng sanh trong chín Pháp giới, chín Pháp giới đầu tiên là Pháp giới Bồ-tát, Bồ-tát [dù] đến Đẳng giác Bồ-tát, thì quý vị cũng có năng lực để độ các ngài, vậy thì đúng rồi. Cho nên 法音普及無邊界 “pháp  âm phổ cập vô biên giới” (pháp âm rộng khắp không biên giới), rộng độ tất cả chúng sanh trong Thập pháp giới.

俗語中,各界人士 “Tục ngữ trung, các giới nhân sĩ” (Trong tục ngữ, [nói là] các giới nhân sĩ), chữ “giới” này có ý nghĩa tương đồng như trên. 由是可知,普及無邊界即是遍於一切 “Do thị khả tri, phổ cập vô biên giới tức thị biến ư nhất thiết” (Do đó có thể biết, phổ cập vô biên giới chính là khắp hết tất cả). Đức Phật, chư Phật Như Lai, có năng lực lớn như vậy, khắp Pháp giới hư không giới, quý Ngài tuyên thuyết các pháp ở trong đó, không có chướng ngại. Quý Ngài thuyết gì? 宣揚戒定精進門 “Tuyên dương Giới Định Tinh tấn môn” (Tuyên dương môn: Giới, Định, Tinh tấn), đây là khóa trình giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh của Bồ-tát. Tiếp theo ngài còn có giải thích về điều này, 界者,以差別為義。事物彼此能持自相,差別而無混,是曰界。俗語中,各界人士,此界字亦具上義。由是可知,普及無邊界即是遍於一切 “Giới giả, dĩ sai biệt vi nghĩa. Sự vật bỉ thử năng trì tự tướng, sai biệt nhi vô hỗn, thị viết giới. Tục ngữ trung, các giới nhân sĩ, thử giới tự diệc cụ thượng nghĩa. Do thị khả tri, phổ cập vô biên giới tức thị biến ư nhất thiết” (Giới: là lấy sự sai biệt làm nghĩa. Sự vật hai bên có thể duy trì tướng của chúng, sai biệt nhưng không hỗn tạp, đó là giới. Trong tục ngữ, nói là các giới nhân sĩ, chữ giới này cũng có đủ ý nghĩa trên. Do đó có thể biết, phổ cập vô biên giới chính là khắp hết tất cả). 第三句,宣揚戒定精進門,此句是《宋譯》,在《唐譯》為演說施戒諸法門,忍辱精勤及定慧 “Đệ tam cú, tuyên dương Giới Định Tinh tấn môn, thử cú thị Tống Dịch, tại Đường Dịch vi diễn thuyết Thí Giới chư Pháp môn, Nhẫn nhục Tinh cần cập Định Huệ” (Câu thứ ba, tuyên dương Giới Định Tinh tấn môn, câu này là trong bản Tống Dịch, còn trong bản Đường Dịch là: Diễn thuyết Thí Giới các Pháp môn, Nhẫn nhục Tinh cần và Định Huệ). Văn của bản Đường Dịch chi tiết hơn, tuyên nói Lục độ. Ở đây chỉ nói Giới Định, Tinh tấn, nhưng vẫn bao gồm cả Lục độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Tinh tấn, Bát-nhã, ý nghĩa đều đầy đủ. Lục độ trong bản Đường Dịch nói tất cả: có Bố thí, có Trì giới, có Nhẫn nhục, có Tinh tấn, có Thiền định, có Bát-nhã, nói đủ cả Lục độ. 《漢譯》亦如之。今《宋譯》較略,蓋以戒定精進三度 “Hán Dịch diệc như chi. Kim Tống Dịch giảo lược, cái dĩ Giới Định Tinh tấn tam độ” (Bản Hán Dịch cũng như vậy. Bản Tống Dịch này tương đối giản lược, bởi vì dùng ba độ: Giới, Định, Tinh tấn), cũng bao gồm ba độ còn lại.

此下 “Thử hạ”(Tiếp theo), tiếp theo câu cuối cùng, 通達甚深微妙法 “thông đạt thâm thậm vi diệu pháp”(thông đạt thâm thậm vi diệu pháp), 此法即十方佛讚,持名念佛,無上甚深之法“thử pháp tức thập phương Phật tán, trì danh niệm Phật, vô thượng thậm thâm chi pháp”(pháp này tức là mười phương Phật khen ngợi: trì danh niệm Phật: [là] pháp Vô thượng rất sâu). Chúng ta phải nhớ giải thích này của Niệm lão, người thông thường không nhìn ra chỗ này, ngài thấy được rồi. 甚深微妙法 “Thậm thâm vi diệu pháp” (pháp rất sâu vi diệu)là gì? Chính là mười phương chư Phật đều khen ngợi, không có một vị Phật nào mà không khen ngợi. Khen ngợi điều gì? Khen ngợi trì danh niệm Phật, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, pháp này là pháp vô thượng rất sâu, quá khó được, là đại pháp thù thắng nhất trong tất cả Phật pháp, không phải là pháp nhỏ.

Bốn câu kệ này, 法藏比丘願法音如佛 “Pháp Tạng Tỳ-kheo nguyện pháp âm như Phật” (Tỳ-kheo Pháp Tạng nguyện pháp âm được như Phật), âm thanh của ngài thuyết pháp giống như Phật, 廣宣六度等妙行 “quảng tuyên Lục độ đẳng diệu hạnh”(rộng tuyên nói các diệu hạnh như Lục độ vân vân), đối với đại chúng thông thường thì dạy điều gì? Chính là sáu khoa mục này. Dạy quý vị Bố thí, Bố thí có nghĩa là gì? Bố thí chính là buông xuống. Chúng sanh không ai mà không mê trong tài sắc danh lợi, Phật nói với chúng ta, có đại đạo để phát tài, nhất định phải biết tiền từ đâu tới, trong mạng có, trong mạng không có đừng cầu, tại sao vậy? Bởi cầu không được. Cổ nhân biết được đạo lý này, tin vào nhân quả, 一生皆是命,半點不由人 “nhất sanh giai thị mạng, bán điểm bất do nhân”(cả đời đều là mạng, nửa chút không do người). Ngày nay người ta dốc sức để cầu, dùng mọi thủ đoạn để cầu, cầu được rồi, có trái ngược với lời người xưa nói hay không? Không. Tại sao vậy? Bởi trong mạng của họ có, nếu trong mạng của họ không có, thì cầu cũng cầu không được. Cầu được là trong mạng có, hà tất quý vị phải cầu? Không cầu thì như thế nào? Tự nhiên đến thôi, chúng ta phải biết đạo lý này.

Khi tôi mới học Phật, vẫn chưa xuất gia, thầy tôi là Đại sư Chương Gia, ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, ngài đã dạy cho tôi điều này. Ngài rất lợi hại, biết nhìn người, thấy trong mạng của tôi không có của cải, người đoán mạng nói rằng kho tiền tài trống trơn, không có tiền tài, trong đời này cuộc sống vô cùng vất vả. Hơn nữa thế nào? Đoản mạng, thọ mạng chỉ có 45 tuổi, tôi rất tin tưởng. Gặp được Phật pháp, gặp được Pháp môn Tịnh tông, tôi nhất định phải làm tốt công phu niệm Phật vào năm 45 tuổi, sau khi chết rồi, có thể đến Thế giới Cực Lạc. Thầy dạy tôi, đời trước con không có gieo nhân, nên đời này con không có quả báo. Vậy làm thế nào ạ? Nhanh chóng tu, bổ sung thêm. Bổ sung thế nào ạ? Bố thí tài. Tôi nói con không có tiền để bố thí. Ngài hỏi tôi, con có một hào không? Tôi nói có thể, một hào thì được. Một xu có được không? Một xu là miễn cưỡng. Thầy dạy tôi, con hãy bố thí từ một hào, một xu, vả lại phải có tâm bố thí, điều này rất quan trọng, tâm này là thật sự.

Một hào, một xu bố thí thế nào? Bởi vì tôi đã học Phật, thường hay đến chùa để nghe kinh, trong chùa có người in kinh, lấy một tờ giấy, viết tên và quyên góp tiền, một xu, năm hào đều được, đều phải viết, chúng tôi nhờ vào cơ hội như thế. Còn có phóng sanh, cũng có người [quyên góp] phóng sanh, người nhiệt tình, mỗi người đem những quyển sổ nhỏ đến quyên góp. Chúng tôi là học bắt đầu từ một hào, một xu, biết được sự quan trọng của bố thí. Bố thí tài được giàu có, bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô úy được sức khỏe trường thọ, đều làm cả ba. Tuy số lượng rất ít, nhưng công đức rất lớn, không hay không biết, nửa năm, một năm sau thì thu nhập tăng lên rồi. Tăng lên thì thế nào? Tăng lên có thể bố thí nhiều hơn. Cuộc sống của chính mình vẫn rất đơn giản, dưỡng thành một thói quen, tiết kiệm, cố gắng để dư ra làm chút việc tốt. Vì vậy thọ mạng của tôi đã được kéo dài, năm 45 tuổi đó tôi bị một trận bệnh, trong một tháng, một tháng thì khỏe mạnh trở lại rồi.

Sự nghiệp đời này của tôi, là do Đại sư Chương Gia dạy cho tôi, khuyên tôi xuất gia, khuyên tôi học đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài dạy tôi hãy đọc Thích Ca Phổ, Thích Ca Phương Chí, nói với tôi, con học Phật, đầu tiên con phải nhận thức đức Thích Ca Mâu Ni Phật, thì con mới không đến nỗi đi lầm đường. Điều này rất chính xác. Đọc xong hai quyển sách này, tôi biết được, cả đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật là dạy học. 19 tuổi Ngài xuất gia, Ngài là vương tử, từ bỏ vương vị, từ bỏ cuộc sống giàu sang trong cung đình, đi làm vị tăng khổ hạnh, giữa ngày ăn một bữa, nghỉ một đêm dưới cây. Thích học rộng nghe nhiều, hoàn toàn thị hiện là tầng lớp tri thức, đối chiếu điều này với chúng ta, chúng ta cũng là thích học rộng đa văn. Nhưng 30 tuổi Ngài đã quay đầu, tất cả các tôn giáo, các học phái của Ấn Độ thì Ngài đều học qua, cho rằng không thể giải quyết vấn đề, từ bỏ rồi. Ngài nhập định dưới cây Bồ-đề, khi nhập định đã khai ngộ, 30 tuổi khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì Ngài dạy học, dạy năm Tỳ-kheo trong vườn Lộc Dã, Tôn giả Kiều Trần Như chứng quả A-la-hán, Tam Bảo đầy đủ rồi.

79 tuổi Ngài viên tịch, cả đời giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm, Ngài là thân phận thế nào? Ngài là nhà giáo dục xã hội, dùng lời hiện nay của chúng ta nói điều này, là nhà giáo dục xã hội. Ngài có phải tôn giáo không? Ngài không phải là tôn giáo. Trong tôn giáo điều quan trọng nhất, phải có một vị thần sáng tạo vũ trụ, Phật giáo không có. Phật giáo gọi là Phật, Phật có nghĩa là gì? Người giác ngộ, Phật được dịch là giác ngộ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh gọi là thành Phật. Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, khi kiến Tánh, thì người khác đều gọi quý vị là đức Phật. Vì vậy, Phật, Bồ-tát, A-la-hán trong Phật giáo là ba danh xưng học vị, học vị cao nhất là đức Phật, thứ hai là Bồ-tát, thứ ba là A-la-hán, giống như danh xưng học vị: Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ trong trường Đại học, chúng ta nhất định phải biết điều này. Trong Phật pháp Đại thừa nói, tất cả chúng sanh vốn là Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đã có Phật tánh thì tự nhiên có thể thành Phật, điều này là bình đẳng, thật sự bình đẳng. Do đó chúng ta phải biết, đừng lầm điều này.

Khi đức Phật Thích Ca ở đời [có] rất nhiều học trò, trong đó có 16 học trò: là quốc vương của các nước lớn đương thời, 16 vị vua. Nhưng cả đời không có đạo tràng, buông xuống vạn duyên. Rất có đạo lý, có đạo tràng sẽ có phiền phức, nên Ngài không có đạo tràng. Tôi học đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cả đời không tạo dựng đạo tràng, người ta cúng dường tôi, thì tôi đem đi làm việt tốt, làm việc tốt thay họ. Tự tại như vậy, cả đời: không quản người, không quản việc, không quản tiền, quý vị nói xem tự tại biết bao. Một khi quản liền bị ô nhiễm rồi, thì tâm của quý vị không thanh tịnh nữa. Ngày đầu tiên tôi gặp Đại sư Chương Gia thì thầy dạy tôi: nhìn thấu, buông xuống, nhìn thấu, là hiểu rõ chân tướng sự thật, đây là nhìn thấu; buông xuống, là nhất định không bị ô nhiễm. Tu Phật là tu điều gì? Thanh tịnh bình đẳng giác, là tu điều này. Tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác thì không mê, như vậy gọi là Phật; nếu thanh tịnh bình đẳng giác chưa đạt đến viên mãn, là Bồ-tát. Vì thế tâm thanh tịnh hiện tiền là A-la-hán, tâm bình đẳng hiện tiền là Bồ-tát, giác thì không mê là thành Phật rồi.

Mục tiêu tu hành được viết trên tựa đề Kinh, quả báo của thanh tịnh bình đẳng giác là nửa câu trước, 大乘、無量壽、莊嚴 “Đại thừa, vô lượng thọ, trang nghiêm”, đây là quả báo. Quả báo ở đâu? Ở Thế giới Cực Lạc. Đại thừa là trí huệ, trí huệ viên mãn, điều gì cũng biết. Vô lượng thọ là đức hạnh, đức đầu tiên trong tất cả đức là thọ mạng, nếu không có thọ mạng thì đức ấy cũng không khởi tác dụng, vô lượng thọ là đức. Trang nghiêm là tốt đẹp, tất cả sự tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian đều tập trung ở Thế giới Cực Lạc. Những điều tốt của Thế giới mười phương, thì Thế giới Cực Lạc đều có; Thế giới mười phương có chỗ thiếu sót, còn Thế giới Cực Lạc không có, nơi đó là tập trung sự thành tựu lớn: chân, thiện, mỹ, trí huệ của tất cả chư Phật. Do tu thế nào vậy? Là A Mi Đà Phật đến cõi nước chư Phật trong mười phương để khảo sát, để quan sát, lấy ưu điểm và bỏ nhược điểm của người khác, để xây dựng Thế giới Cực Lạc. Nên Thế giới Cực Lạc trở thành nơi tốt đẹp nhất trong tất cả cõi nước chư Phật, thật sự là rốt ráo vui. Chúng ta phải buông xuống, Lục đạo luân hồi là rốt ráo khổ, chỉ có khổ không có vui, phải thấy rõ ràng; Thế giới Cực Lạc chỉ có vui không có khổ. Làm cho rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì quý vị biết chọn lựa, tôi muốn điều gì, tôi không muốn điều gì. Người việc vật của Thế giới đó đều được mười phương Phật khen ngợi, rất dễ đến, không khó chút nào, chỉ cần quý vị thật tin, thật muốn đi, Phật hiệu không gián đoạn, thì quý vị thành công rồi.

Nếu tuổi tác lớn, già rồi cũng còn kịp, nguyện thứ 18 Phật nói rất hay, khi mạng sắp hết, gặp được Thiện tri thức khuyên quý vị, quý vị liền có thể tiếp nhận, quý vị có thể sanh tâm hoan hỷ, quý vị chịu niệm, muốn sanh Thế giới Cực Lạc, mười niệm, một niệm Phật đều đến tiếp dẫn quý vị. Điều này là nói rõ, không có một ai không thể vãng sanh. Quý vị không muốn đi, vậy thì thật sự không thể vãng sanh. Quý vị có hoài nghi với điều này, hoài nghi sẽ chướng ngại quý vị vãng sanh, nhất thiết không được nghi ngờ. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta, một câu Phật hiệu niệm suốt 92 năm, ngày đêm không ngừng, tự tại vãng sanh. Ngài nói rất hay, nếu ngài không phải là biểu pháp, làm tấm gương tốt cho người, thì ngài sớm đã vãng sanh rồi. Lời này là thật, không giả chút nào, chúng ta có lý do để tin tưởng.

Tỳ-kheo Pháp Tạng nguyện pháp âm được như Phật, rộng tuyên nói Lục độ. Học Lục độ, rất nhiều lợi ích, phước báo của nhân thiên đều là do tu điều này. Kiến Tánh đó là một cách nói khác, kiến Tánh là vô lượng vô biên trí huệ, đức tướng trong Tự Tánh thảy đều hiện tiền. Nếu chưa Minh tâm Kiến tánh, thì phước báo là dựa vào chính mình tu hành, ba loại bố thí quan trọng. Không thể keo kiệt, người keo kiệt thì của cải có hạn; người tiếc pháp thì thông minh trí huệ có hạn; người keo kiệt đối với bố thí vô úy, thì thọ mạng không dài. Vì vậy, ở thế gian này, bố thí của cải được đại tài phú, bố thí pháp được đại thông minh trí huệ, bố thí vô úy được sức khỏe sống lâu. Quý vị phải thật sự hiểu rõ, thật sự chịu làm, chính mình tu chính mình đạt được, vả lại rất rõ ràng, tốc độ cảm ứng không thể nghĩ bàn, khoảng khi nào quý vị có thể nhận ra được? Là sáu tháng, có hiệu quả rất rõ ràng. Thời gian càng dài, mãi không thay đổi, như vậy tích lũy được rồi.

Trì giới, Nhẫn nhục, Trì giới có thể đạt được sự sanh tâm hoan hỷ của tất cả chúng sanh, không trì giới thì không ai hoan hỷ. Về giới chỉ cần nắm được: Ngũ giới, Thập thiện là đủ rồi. Một câu Phật hiệu này, Tam tụ Tịnh giới đều ở trong Phật hiệu, nên công đức của Phật hiệu bất khả tư nghì. Trong cuộc sống hàng ngày, xử việc đối người tiếp vật: chúng ta không trái ngược với Ngũ giới, không trái ngược với Thập thiện, quý vị đến bất cứ nơi nào cũng sẽ được người hoan nghênh. Sau Trì giới là Nhẫn nhục, nếu người có thể nhẫn, thì Nhẫn nhục là đại đức, nhẫn được mới có thể tinh tấn, không nhẫn được sẽ không có tiến bộ, quý vị ngừng lại ở đó, nhẫn được mới dũng mãnh tinh tấn, tinh tấn mới có thể đắc định, định sanh trí huệ. Điều này là Phật dạy cho tất cả Bồ-tát: từ sơ phát tâm đến Địa thượng Bồ-tát, không chỉ Phật dạy, mà Phật còn tự nỗ lực thực hiện, làm tấm gương cho mọi người xem.

Tiếp theo nói, 心作心是,明自本心,識自本性,皆當成佛度生也 “tâm tác tâm thị, minh tự Bản tâm, thức tự Bản tánh, giai đương thành Phật độ sanh dã” (tâm này làm Phật, tâm này là Phật, hiểu rõ Bản tâm của mình, biết được Bản tánh của mình, đều sẽ thành Phật độ sanh). Mở đầu bốn câu này, 求覺他之德 “cầu giác tha chi đức” (là cầu đức của giác tha), giác tha nhất định phải tự giác trước. Tâm tác là 是心作佛 “thị tâm tác Phật” (tâm này làm Phật), tâm này là Phật, Phật là gì? Phật chính là Chân Tâm của chính mình. Hiện nay những gì chúng ta dùng là Vọng tâm, Vọng tâm có ý niệm, Chân Tâm không có ý niệm. Vì vậy Định tiếp cận Chân Tâm, Thiền định rất sâu, thì Chân Tâm hiển lộ ra. Trong Chân Tâm có vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, không cầu từ bên ngoài, mà chính mình hoàn toàn đạt được. Phải tin điều này, đây là thật không phải giả. Lão Tổ tông nước ta biết, nói với chúng ta, đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách, có phải người khác giảng giải cho quý vị không? Không cần. Đọc trên 1000 lần, khai ngộ rồi, trong sách nói những gì thì đều hiểu cả rồi. Sau đó như thế nào? Giảng cho thầy nghe, thầy ấn chứng cho quý vị, không sai, quý vị là thật sự giác ngộ rồi, thật hiểu rõ rồi. Vì vậy thầy dạy học trò không phải là giảng, mà sau khi học trò ngộ rồi đi hỏi thầy, thầy ấn chứng cho quý vị, quý vị giác ngộ đến mức nào, quý vị vừa nói, thầy liền biết được. Quý vị vẫn tiếp tục cố gắng, độ sâu của sự ngộ nhập không có chỗ tận cùng, nhất môn thâm nhập, thông một kinh rồi thì thông hết tất cả kinh, đây gọi là điều gì cũng biết.

Loại phương pháp dạy học này rất phổ biến ở Trung Hoa vào 200 năm trước, Nho Phật Đạo đều dùng phương pháp này. Phương pháp khoa học của phương Tây mà hiện nay chúng ta học, đã bỏ đi các phương pháp của lão Tổ tông nước ta. Phương pháp khoa học là tri thức, không khai mở trí huệ, không dùng Giới Định Huệ. Trung Hoa cổ xưa, 2000 năm trước Phật giáo truyền đến Trung Hoa, Phật giáo mang đến Giới Định Huệ, nhà Nho tiếp nhận, nhà Đạo cũng tiếp nhận, đã lưu hành ở Trung Hoa 2000 năm, bao đời thế hệ đều có Thánh Hiền nhân xuất hiện. Bây giờ không có nữa, bởi sai phương pháp rồi, học rất vất vả nhưng không khai trí huệ, chỉ có thể học được tri thức. Tri thức là có tính giới hạn, tri thức có di chứng về sau, không giống với trí huệ. Vì vậy chúng ta học Phật phải cầu trí huệ, có trí huệ tự nhiên có tri thức, có tri thức thì không có trí huệ. Tốt rồi, thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 146 )

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật