Responsive Menu
Add more content here...

Tập 147 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ 4: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 147

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 14/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 397, trang 397, bắt đầu xem từ hàng thứ ba, khoa đề 慧超彼岸 “Huệ Siêu Bỉ Ngạn” (Trí Huệ Vượt Qua Bờ Kia). Mời xem kinh văn:

【智慧廣大深如海。

內心清淨絕塵勞。

超過無邊惡趣門。

速到菩提究竟岸。

無明貪瞋皆永無。

惑盡過亡三昧力。】

“Trí huệ quảng đại thâm như hải

Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao

Siêu quá vô biên ác thú môn

Tốc đáo Bồ-đề cứu cánh ngạn

Vô minh Tham Sân giai vĩnh vô

Hoặc tận quá vong Tam-muội lực”

(Trí huệ rộng lớn sâu như biển

Nội tâm thanh tịnh hết trần lao

Vượt qua vô biên cửa ác thú

Mau đến bờ Bồ-đề cứu cánh

Vô minh, Tham, Sân đều mãi không

Hoặc hết, lỗi không, sức Tam-muội).

Kinh văn có sáu câu, mời xem Chú Giải của Niệm lão. 此下六句 “Thử hạ lục cú” (Sáu câu tiếp theo), chính là vừa mới đọc, 求自覺之德 “cầu tự giác chi đức” (cầu đức của tự giác). Bốn câu kệ phía trước cầu pháp âm tuyên lưu, còn sáu câu này là cầu trí huệ như biển, mãi cho đến bờ bên kia rốt ráo. Ý nghĩa này rất sâu, đây là thật sự phát tâm đại Bồ-đề. Có cầu được không? Câu trả lời là chắc chắn được. Tại sao? Bởi Tự Tánh vốn tự đầy đủ, không phải đến từ bên ngoài. Trên Kinh Hoa Nghiêm, thông tin mà Thế Tôn tiết lộ cho chúng ta quá tốt rồi, đức Phật nói với tất cả chúng sanh chúng ta, phạm vi này bao gồm rất rộng. Về chúng sanh, hiện tượng sanh ra bởi các duyên hòa hợp gọi là chúng sanh, động vật là do các duyên hòa hợp, thực vật cũng là do các duyên hòa hợp, khoáng vật cũng là do các duyên hòa hợp, không có loại hiện tượng nào mà không phải là do chúng duyên hòa hợp, nên gọi là chúng sanh. Tất cả chúng sanh bao gồm cả vũ trụ, tất cả vạn pháp, giống như lời ngài Lục tổ nói, giác ngộ, hiểu rõ rồi, hiểu rõ điều gì? “Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”, chính là hiểu rõ sự việc này. Sự việc này nói rõ vạn pháp là một thể, trí huệ là một thể vốn tự đầy đủ, đức năng cũng là vốn sẵn từ đầy đủ, tướng hảo cũng lại như vậy, không có thứ gì mà không phải vốn tự đầy đủ, nên không cần cầu bên ngoài, mà cầu bên trong. Tự Tánh vốn tự đầy đủ trí huệ, sâu như biển. Rộng lớn như biển, sâu như biển, rộng lớn không có giới hạn, sâu không có đáy, đó là Tự Tánh. Vì thế học Phật, quan trọng nhất là Minh tâm Kiến tánh, thì công đức viên mãn rồi, thật viên mãn rồi, pháp xuất thế gian viên mãn, pháp thế gian cũng viên mãn, thật sự là chẳng gì không biết, chẳng gì không thể. Trong tôn giáo dùng hai câu này để khen ngợi Thượng đế, ca ngợi Thần, hai câu này trong Phật pháp là khen ngợi Tự Tánh, Tự Tánh xưa nay đầy đủ. Cho nên tất cả chúng sanh chỉ cần giác ngộ, chỉ cần quay đầu, chỉ cần Kiến tánh, thì tất cả đều viên mãn. Phật trở về Tự Tánh rồi; Bồ-tát, Thanh văn, còn đang ở giữa đường, vẫn chưa về đến nơi; phàm phu đối với chân tướng sự thật này thì mờ mịt không biết gì, mê trong Lục đạo. Chư Phật cảm thán, chúng sanh Lục đạo mê hoặc điên đảo, không biết giác ngộ, ngày nào giác ngộ, ngày nào quay đầu, thì họ rời khỏi Lục đạo, không biết quay đầu, vậy thì biển khổ vô biên. Quay đầu là bờ, mỗi người phải quay đầu, chẳng thể không quay đầu, nếu không quay đầu thì sai hoàn toàn rồi, một khi quay đầu chính là bờ kia rốt ráo.

Tiếp theo giải thích cho chúng ta, 『智慧』“Trí huệ” được nói trong kinh chính là Bát-nhã. Trong Luận Đại Trí Độ nói, tiếng Phạn là Bát-nhã, 秦言智慧 “Tần ngôn Trí huệ” (thời Tần gọi là Trí huệ). Kinh Kim Cang là do Đại sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, khi đó Đại sư La Thập ở Trung Hoa, nơi ngài cư trú là nước Tần, Diêu Tần, cũng gọi là Hậu Tần, Tiền Tần là Phù Kiên, nên gọi là Tần ngôn, chính là lời của Trung Hoa, lời của Trung Hoa là Trí huệ. 一切諸智慧中最為第一,無上無比無等,更無勝者 “Nhất thiết chư trí huệ trung tối vi đệ nhất, vô thượng vô tỷ vô đẳng, cánh vô thắng giả” (Đứng đầu bậc nhất trong tất cả các trí huệ, vô thượng vô tỉ vô đẳng, hoàn toàn không có gì hơn được). Vì vậy hàm nghĩa của danh từ “Trí huệ” này ở nước ta gần với Bát-nhã trong tiếng Phạn, nhưng không có ý nghĩa sâu và rộng như chữ Bát-nhã của tiếng Phạn, cho nên sau khi dùng Trí huệ để dịch ra thì lại thêm chú thích. Trí huệ này là trí huệ rốt ráo viên mãn, không phải là trí huệ thông thường. Vì thế nói trong tất cả trí huệ, Trí huệ này là đứng đầu, là vô thượng, là vô tỉ, là vô đẳng, không có bất kỳ loại trí huệ nào ngang bằng với Trí huệ này, không có gì vượt qua, thêm một đoạn chú thích như vậy.

又《往生論註》曰:般若者,達如之慧名 “Hựu Vãng Sanh Luận Chú viết: Bát-nhã giả, đạt Như chi huệ danh” (Thêm nữa trong Vãng Sanh Luận Chú nói: Bát-nhã, là tên gọi trí huệ của thông đạt Chân Như). Ý nghĩa này tương đối sâu. Đạt là thông đạt, như là Chân Như, Chân Như chính là Tự Tánh. Ý nghĩa của Trí huệ này, chính là Minh tâm Kiến tánh mới có thể gọi là Bát-nhã hiện tiền; Nếu không có Minh tâm Kiến tánh, thì chưa có Bát-nhã. Phát tâm đại Bồ-đề gần với Bát-nhã, tâm đại Bồ-đề là cầu Trí huệ đại Bát-nhã. Nên nói rằng tìm thấy đường đi, nhưng quý vị vẫn chưa thấy đạo, người như vậy gọi là Tam thừa Bồ-tát, bao gồm: Thanh văn, Duyên giác, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là của Biệt giáo, quý ngài hướng về Chân Như, là con đường Chân Như này, nhưng vẫn chưa đến được, đến được gọi là Pháp thân Đại sĩ, thông thường là thành Phật rồi. 又《大乘義章》曰:真心體明,自性無闇,目之為慧 “Hựu Đại Thừa Nghĩa Chương viết: Chân Tâm thể minh, Tự Tánh vô ám, mục chi vi huệ” (Thêm nữa trong Đại Thừa Nghĩa Chương nói: thể của Chân Tâm sáng suốt, Tự Tánh không tối tăm, gọi đó là huệ). Tức là trong Đại Thừa Nghĩa Chương nói. Niệm lão tập hợp tất cả các cách nói trong kinh luận vào cùng một chỗ, để chúng ta đều xem thấy. Nên khi chúng ta mở quyển kinh, phải dùng tâm cảm ơn, tâm chân thành, tâm cung kính, vậy mới có thể xem hiểu được, mới có thể lãnh hội được một số ý nghĩa. Tâm càng chân thật, xem được càng tỏ tường, càng sáng tỏ, càng thâm nhập. Vì vậy kinh văn này, từng chữ từng câu đều có vô lượng nghĩa, chúng ta hiểu rồi, chúng ta tin rồi, cũng khẳng định đó thật sự là vô lượng nghĩa.

Tiếp theo giải thích thêm ý nghĩa của Bát-nhã, đây là danh nghĩa, 其義為:真心本體明現,自性朗然,明顯無暗,稱之為慧 “kỳ nghĩa vi: Chân Tâm Bổn thể minh hiện, Tự Tánh lãng nhiên, minh hiển vô ám, xưng chi vi Huệ” (Nghĩa ấy là: Chân Tâm Bản thể sáng tỏ như thế, Tự Tánh hiển hiện sáng tỏ, không tối tăm, gọi đó là Huệ). Phàm phu không có Trí huệ này, chẳng những nhân gian chúng ta không tìm thấy, mà trên trời cũng tìm không ra, trong 28 tầng trời cũng không có; đi tìm tiếp mười Pháp giới, trong mười Pháp giới cũng không có. Trong Thập pháp giới có Tam hiền Bồ-tát, tức là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng của Biệt giáo, quý ngài là đi con đường của Bát-nhã này, nhưng chưa thấy được Bát-nhã. Đường đi không sai, nhưng khoảng cách còn rất xa, ít nhất đi được một nửa, quý ngài mới có thể nhìn thấy một chút, Tam thừa Bồ-tát còn chưa đi được một nửa. Đi được một nửa là ai? Sơ địa Bồ-tát, Sơ địa của Biệt giáo, Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh thành Phật, có thể nói quý ngài đạt được một nửa. Đi về phía trước tiến lên từng bước, nhận thức đối với Bát-nhã, tầng sau rộng lớn hơn tầng trước, sâu rộng không có giới hạn, mãi đến Diệu Giác mới chứng được rốt ráo viên mãn; Đẳng giác còn thiếu một chút nữa, Diệu Giác mới thật sự viên mãn. Chân Tâm Bản thể, bốn chữ này là nói rõ chúng ta đều có, tất cả chúng sanh: ai ai cũng có, chúng ta có, tất cả mọi người có, súc sanh có, cây cối hoa cỏ có, núi sông đại địa có, mỗi hạt Vi trần đều có. Hiện nay chúng ta có một chút khái niệm, khái niệm không phải do chứng được, mà do nghe nói, ở trên kinh Phật nói với chúng ta, nhà Cơ học Lượng tử làm chứng minh cho chúng ta. Chúng ta có Chân Tâm, chúng ta có Bản thể, Chân Tâm Bản thể là một vùng ánh sáng, Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang chính là Chân Tâm Bản thể, ánh sáng chiếu khắp, chiếu hư không Pháp giới, chiếu tất cả vạn pháp. Tất cả vạn pháp là một thể, thể chính là quang minh chiếu khắp, đây là thể.

「自性朗然,明顯無暗,稱之為慧 “Tự Tánh lãng nhiên, minh hiển vô ám, xưng chi vi huệ” (Tự Tánh sáng tỏ như thế, chiếu sáng không có tối tăm, gọi đó là huệ). Thường Tịch Quang là vĩnh hằng, trong Thường Tịch Quang không có sanh diệt, chỉ có sáng, không có tối tăm. Tối tăm là từ đâu tới? Là từ mê mà đến, một niệm không giác, là mê rồi, khi mê mới sanh ra A-lại-da. Trong A-lại-da có sáng và tối, vì sao thế? Bởi một niệm bất giác, không giác liền sanh ra Vô minh, Vô minh là tối, biến vốn sáng suốt thành Vô minh. Sự biến đổi này không phải thật sự biến đổi, chúng ta có thể nói, A-lại-da là nương vào Tự Tánh, nương vào vốn sáng suốt mà  sanh khởi bất minh, tức vô minh, nó là một thể với Tự Tánh, Tánh thể của nó chính là Tự Tánh, chỉ là trong nó có một vọng niệm. Vọng này là gì? Động, khoa học gọi đó là hiện tượng dao động sóng, như dây của đàn cầm, định luật dây đàn. Cách nói này rất gần kề. Quả thật một niệm bất giác, nếu một niệm bất giác mà không biết quay đầu, vậy thì trở thành niệm niệm bất giác. Niệm niệm bất giác này chính là A-lại-da, từ A-lại-da biến hiện ra Mạt-na, Ý thức, năm thức trước, từ trong thức biến hiện ra hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất này chính là Lục trần, sáu căn, sáu trần, còn sáu thức không có hiện tượng vật chất. Những hiện tượng này, theo ý niệm diễn biến thành tất cả vạn pháp, đây là hiện tượng của toàn vũ trụ, chúng ta mê trong đó, không biết tất cả đó đều là giả. Phật đối với chúng ta mà nói, Ngài quá vĩ đại rồi, Ngài có đại ân đại đức đối với chúng ta, là gì vậy? Ngài giúp chúng ta trở về được chân tướng sự thật. Nhìn thấy chân tướng sự thật chính là Kiến đạo, chính là Đại triệt Đại ngộ, trong Thiền tông nói Minh tâm Kiến tánh, là cảnh giới ấy, thật sự nhìn thấy rồi. Làm sao thấy được? Phá mê rồi; nói cách khác, hiện tượng ý niệm dao động sóng đó không có nữa, không động nữa, thì trở về Tự Tánh vốn giác. Tự Tánh bổn giác là không động, Đại sư Huệ Năng nói rất hay, “ngờ đâu Tự Tánh, vốn không dao động”, đây là Chân Tâm của chúng ta. Khởi tâm động niệm liền động rồi, khởi tâm động niệm chẳng những là động, mà đã là cơn sóng lớn.

Công phu tu hành, câu cuối cùng trong sáu câu này nói, 惑 “Hoặc” là mê hoặc, hết mê hoặc rồi; 過 “quá” chính là tất cả Chủng tử tiềm tàng trong A-lại-da từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, tiềm tàng những Chủng tử: thiện, ác, vô ký, những Chủng tử ấy chính là quá. Những lỗi lầm này, chúng ta nói là nghiệp chướng, 亡 “vong” chính là tiêu trừ sạch sẽ, tiêu trừ sạch sẽ nghiệp chướng. Làm thế nào tiêu được? Sức mạnh của Tam-muội. 三昧 “Tam-muội” chính là Thiền định. Không khởi tâm không động niệm, là Thiền định của Như Lai; Đoạn hết Phân biệt, không phân biệt, là Thiền định của Bồ-tát, Tam-muội; Không chấp trước, là Thiền định của A-la-hán, đây là thấp nhất, không chấp trước đối với tất cả pháp, buông xuống rồi. Không chỉ phải buông xuống pháp thế gian, mà Phật pháp cũng phải buông xuống, cần biết đạo lý này. Tại sao vậy? Bởi trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh thì lấy đâu ra Phật pháp! Trên kinh Đại thừa ví dụ rất hay, thế gian là bệnh, bởi vì có bệnh mới có thuốc, nếu không có bệnh, thì thứ gì là thuốc? Thuốc cũng không còn. Không có bệnh mà còn chấp trước có thuốc, vậy quý vị chẳng thể không bệnh. Khỏi bệnh rồi, thì không cần thuốc nữa, không có thuốc nữa. Vì vậy đó là do nhân duyên mà lập nên, nhân duyên này chính là bởi vì có bệnh, nên mới có thuốc, thuốc để trị bệnh. Khi khỏi bệnh, nếu không ngừng thuốc thì trở thành bệnh; Khỏi bệnh rồi, sẽ không cần thuốc, vậy mới là bình phục, là sức khỏe hồi phục rồi. Phật pháp là thuốc, Phật pháp từ đâu đến vậy? Bởi vì pháp thế gian có bệnh, xuất hiện những bệnh trạng này, Phật dùng các phương pháp này để chữa bệnh. Trị hết bệnh rồi, không cần tới thuốc, nếu cần thì sai rồi. Vì vậy nói với quý vị, “pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp”. Khỏi bệnh rồi, thuốc cũng không cần nữa, đương nhiên là bệnh sẽ không phát sinh, đây mới là khỏe mạnh thật sự.

Phải buông xuống pháp thế gian, cũng phải buông xuống Phật pháp. Chúng ta đang ở giữa đường, vẫn chưa tới đích. A-la-hán là trạm thứ nhất, Bồ-tát là trạm thứ hai, Phật là đích đến, hiện nay chúng ta ngay cả đích đầu tiên cũng chưa đến được, vì vậy cần Phật pháp, phải bỏ thế gian pháp. Cần Phật pháp, Phật pháp nhiều, 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, Phật nói với chúng ta chỉ có thể chọn một. Rất nhiều con đường, nhưng quý vị chỉ có thể đi một con đường, quý vị không thể đi hai con đường, dù cho hai con đường cùng một phương hướng, cùng một mục tiêu, nhưng vẫn là hiểm đạo, con đường nguy hiểm, không bằng chọn một con đường, một con đường là ổn định vững chắc, nhất định quý vị sẽ đi được. Đến đích sớm hay muộn, là do quý vị dụng công phu siêng năng hay biếng lười, dũng mãnh tinh tấn thì tốc độ nhanh; Lười biếng trì hoãn, thì tốc độ của quý vị chậm. Vì vậy Phật pháp đề xướng: nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, một con đường đi đến cùng có thể đắc Tam-muội, công phu Tam-muội sâu rồi tự nhiên khai trí huệ.

Chúng ta xem văn tiếp theo, 今經於自覺願中,首言智慧者(一開口就「智慧廣大深如海」),以智慧最上故。又佛法大海,智為能度故 “kim Kinh ư tự giác nguyện trung, thủ ngôn trí huệ giả (nhất khai khẩu tựu ‘trí huệ quảng đại thâm như hải’), dĩ trí huệ tối thượng cố. Hựu Phật pháp đại hải, trí vi năng độ cố” (Kinh này trong phần nguyện về tự giác, đầu tiên nói đến trí huệ (vừa mở đầu là “trí huệ rộng lớn sâu như biển”), bởi vì trí huệ là tối thượng. Lại nữa bởi biển lớn Phật pháp, [với] trí huệ là có thể độ thoát). Dùng biển lớn để tỷ dụ cho Phật pháp, phương pháp để thật sự giác ngộ trong Phật pháp cần trí huệ. 如《漢譯》曰:檀施 “Như Hán Dịch viết: Đàn thí” (Như trong bản Hán Dịch nói: Đàn thí), đàn là đàn-na, là tiếng Phạn, dịch sang ý nghĩa của nước ta chính là Bố thí. Đàn là tiếng Phạn, thí là lời của nước ta, danh từ “Đàn thí” này là tiếng Phạn và tiếng Hoa hợp lại dịch, tác dụng đó là 調伏意 “điều phục ý”. Ý là ý niệm, ý niệm gì? Tham, bệnh nặng nghiêm trọng số một trong phiền não chính là tham dục. Thế giới ngày nay hỗn loạn, nguyên nhân ở đâu? Chính là sự bành trướng của tham dục đạt đến Điểm tới hạn, cũng tức là đạt đến giới hạn, đạt đến giới hạn sẽ bùng nổ, đó chính là tai nạn hiện tiền. Dùng cách gì có thể giải quyết? Bố thí, bố thí giải quyết được vấn đề. Chúng ta hãy xem sự đóng góp của nước ta đối với địa cầu ngày nay, chúng ta không bàn về văn hóa, mà chúng ta nói về Đàn thí này, người lãnh đạo trong khóa này, đối với rất nhiều quốc gia nhỏ trên toàn thế giới, giúp họ xây dựng. Chủ tịch đề xướng về con đường tơ lụa trên đất liền, và con đường tơ lụa trên biển, đây là thông suốt đến Châu Âu, biên giới bên Châu Âu đó là nước Anh, quần đảo Anh, chúng ta trải bản đồ ra có thể nhìn thấy, biên giới phía Tây. Hai lục địa Châu Âu và Châu Á này liền cùng một chỗ, đường giao thông cao tốc này, đi qua rất nhiều quốc gia, nước ta giúp họ xây dựng sân bay, xây dựng bến cảng, xây dựng đường sắt cao tốc, đường cao tốc, đây đều là Đàn thí, giúp nhiều quốc gia đều có thể đạt được lợi ích thật sự, giúp họ giàu có lên. Là một cảng trên biển, Sri Lanka là điểm trung tâm rất quan trọng, điểm trung tâm của tuyến đường trên biển, chúng ta đã nhìn thấy ở đó, nước ta cho họ vay để xây dựng bến cảng, sân bay, đường sắt, đường cao tốc hiện đại hóa. Thế nên bố thí thật sự rất quan trọng. Tiếp theo, 戒忍及精進 “Giới Nhẫn cập Tinh tấn” (Giới, Nhẫn và Tinh tấn), Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, những điều này Phật giáo Đại thừa có, trong văn hoá truyền thống nước ta có. Thế nào là Giới? Giới là giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, giáo dục về Thánh hiền. Đặc biệt là Đại thừa và Nho học của nước ta giảng về Nhẫn nhục, giảng về Tinh tấn, Phật pháp giảng về Thiền định, giảng về Trí huệ. 如是三昧定,智慧為上最 “Như thị Tam-muội định, Trí huệ vi thượng tối” (Tam-muội định như thế, Trí huệ là trên nhất). Sáu điều này, sáu môn công khóa của Bồ-tát tu học, cao nhất là Trí huệ. Trí huệ từ đâu tới? Đến từ Tam-muội, Tam-muội chính là Thiền định. Tam-muội là tiếng Phạn, dịch sang ý nghĩa của nước ta là Thiền định. Trí huệ là tối thượng, Trí huệ nhất định từ Thiền định mà tới, Thiền định nhất định từ Trì giới Nhẫn nhục mà đến, có Giới Nhẫn Tinh tấn thì có thể Thiền định hiện tiền, Thiền định hiện ra khởi tác dụng chính là Trí huệ hiện tiền.

《嘉祥疏》曰:明五度為行 “Gia Tường Sớ viết: minh ngũ độ vi hành” (Trong Gia Tường Sớ nói: biết năm độ là hành), năm độ đầu tiên trong Lục độ là hành, là hành vi, 不能出離生死 “bất năng xuất ly sanh tử” (không thể ra khỏi sanh tử), năm độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định này, không cách nào giúp quý vị thoát khỏi Lục đạo luân hồi. Tu tốt năm độ trước, là quả báo nhân thiên. Được Định, Định chưa có khai huệ, Định này ở đâu? Trời Tứ thiền, trời Tứ không, họ vãng sanh đến đó. Cần phải có huệ mới xuất ly được, vì sao vậy? Bởi có Trí huệ thì chịu buông xuống. Những người ấy ở cõi Tứ thiền Bát định, họ không chịu buông xuống Thiền định, thọ dụng trong Thiền định, chính là hưởng thụ, vui sướng! Thiền duyệt, duyệt ở đây là vui sướng, nếu họ không buông xuống, thì họ không thể thoát khỏi Lục đạo luân hồi. Thoát ly Lục đạo luân hồi, phải buông xả sạch sẽ những điều này, đây chính là Bát-nhã Ba-la-mật. Tại vì sao? Bởi trên Kinh Kim Cang nói rất hay, “tất cả pháp Hữu vi, như mộng ảo bọt bóng”. Lục đạo là pháp Hữu vi, Tứ thánh Pháp giới cũng là pháp Hữu vi, quý vị không thể buông xuống Lục đạo thì quý vị đi ra không được, buông xuống liền đi ra ngoài rồi, đi đến đâu? Đến Tứ thánh Pháp giới. Tứ Pháp giới trong mười Pháp giới, trên trời: có Thanh văn, có Duyên giác, có Bồ-tát, có Phật, bên trên còn có bốn tầng, vậy gộp lại gọi là Thập pháp giới. Nhất định phải đoạn hết Kiến tư Phiền não, chính là buông xuống toàn bộ rồi. Nói tóm lại, trên kinh Phật quy nạp thành mười loại lớn, năm loại đầu gọi là Kiến hoặc, tức là kiến giải sai lầm của quý vị, nhìn sai rồi; Năm loại lớn sau, là tư tưởng của quý vị, quý vị nghĩ sai rồi, không phải là thật. Thân kiến trong Kiến hoặc, chấp trước thân là chính mình; Về Biên kiến, Biên kiến là đối lập, ngày nay nói là đối nhau, có dài nhất định có ngắn, dài ngắn là đối lập, lớn nhỏ là đối lập, thiện ác là đối lập, chân vọng là đối lập, quý vị sanh ra trong môi trường này, điều này là sai lầm. Vũ trụ là một pháp, một pháp thì không có đối lập, có đối lập là hai pháp. Vì vậy phải giác ngộ, sau khi thật sự giác ngộ, họ không đối lập với tất cả người vật việc nữa.

Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta, cả đời ngài đối người, đối việc, đối vật không có đối lập, là bình đẳng, gì cũng tốt, không có điều nào mà không tốt. Tại sao thế? Bởi buông xuống Biên kiến, buông xuống Thành kiến, hết thảy không có ý của chính mình, không có quan điểm của chính mình, không có cách nghĩ, cách nhìn của chính mình, đều không có, nên ngài có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, đối người đối việc đối vật, bất kể thiện duyên hay ác duyên, thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều đại hoan hỷ. Nếu quý vị hỏi ngài tại sao? Bởi vì đều là giả mà, không có thứ gì là thật. Nắm được thật rồi, thì tuỳ hỷ thứ giả, tự tại biết bao! Thật là gì? A Mi Đà Phật, ngài chỉ nắm điều này, vô cùng đơn giản, rất dễ dàng. Thật sự nắm được là hiện tượng gì? Niệm niệm liên tục, A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật, ý niệm này niệm niệm tương tục, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, không bị mất câu Phật hiệu này, công phu niệm Phật này thành tựu rồi. Lúc đó gọi là Công phu Thành phiến, suốt ngày chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra, thì không có tạp niệm, không có vọng tưởng, tốt! Công phu đến trình độ này, cũng chưa đoạn Phiền não, chỉ là công phu đắc lực, khống chế được Phiền não, đè xuống mà thôi. Nếu đã đoạn Phiền não, thì địa vị đó cao rồi, đó chính là Sự nhất tâm Bất loạn, đã đoạn Kiến tư Phiền não. Đoạn rồi liền chứng quả A-la-hán, khi đoạn rồi thì sáu loại thần thông đều hiện tiền: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Thần túc, Lậu tận, được thọ dụng rồi. Đi lên tiếp, là Lý nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn không có mười Pháp giới nữa, chẳng những ra khỏi Lục đạo, mà còn ra khỏi Thập pháp giới. Pháp môn Tịnh Độ quả thật có thể giúp chúng ta ngay trong một đời viên mãn vượt qua ba cửa ải, đạt đến cảnh giới cao nhất, một lần là hoàn thành. Pháp môn này thù thắng không gì bằng, bất khả tư nghì, nhất định phải thành tựu, nếu không thành tựu thì quý vị uổng phí rồi.

Tu hành tu ở đâu? Tu trong đời sống, mặc áo ăn cơm, đặc biệt là tu trên nhân sự, thuận cảnh, nghịch cảnh. Thuận cảnh học không sanh sự tham luyến, vì sao vậy? Bởi có ý niệm khởi lên, lập tức quán chiếu đến “những gì có tướng đều là hư vọng”, “tất cả pháp Hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng”, là thật. Hoặc là dùng đối thoại giữa Bồ-tát Di Lặc và đức Thế Tôn để giúp chúng ta giải quyết vấn đề, tất cả hiện tượng, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, 一彈指三十二億百千念,念念成形,形皆有識 “nhất đàn chỉ tam thập nhị ức bá thiên niệm, niệm niệm thành hình, hình giai hữu thức” (một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành hình, hình đều có thức). Nói rất rõ ràng, đây nói điều gì? Tất cả hiện tượng, Đại sư Huệ Năng nói, “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”. Những hiện tượng sanh ra bởi vạn pháp, là giả tướng, không có thứ nào là thật tướng, ngay cả Pháp giới chư Phật cũng bao gồm trong đó, đều không phải thật. Cảnh giới trong Thật Báo độ: tuy không có sanh diệt, nhưng có ẩn hiện, có duyên thì hiện, không có duyên thì không hiện, không còn nữa, là sự việc như vậy. Cho nên cũng không thể coi là thật, coi thật thì sai rồi. Hiện tượng thật sự là gì? Là Thường Tịch Quang, chính là một mảng ánh sáng, trong ánh sáng không có gì cả. Thật sự như màn hình của chúng ta, chúng ta chưa mở màn hình, khi bật màn hình lên, không bấm kênh, thì một khối ánh sáng này chính là Thường Tịch Quang, một khi chúng ta bấm kênh, chính là Thập pháp giới. Thập pháp giới là sanh diệt, có sanh có diệt; Thường Tịch Quang là một vùng ánh sáng, trong ánh sáng thứ gì cũng không có, nên không nhìn thấy hiện tượng sanh diệt. Nó có ẩn hiện, khi có duyên thì quý vị thấy một vùng ánh sáng, lúc không có duyên thì không thấy được ánh sáng. Ai thấy được Thường Tịch Quang? Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh nhìn thấy được. Nhìn thấy nhưng thế nào? Không vào được. Tại sao không vào được? Bởi tuy đã đoạn Vô thỉ Vô minh, nhưng chưa đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô thỉ Vô minh. Vì vậy, Tập khí của Vô thỉ Vô minh, duy nhất chỉ là chướng ngại quý vị không thể khế nhập Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang ở trước mặt của quý vị, mà quý vị không vào được. Nhất định phải đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô thỉ Vô minh, thì tự nhiên hoà vào Thường Tịch Quang, không có Nhất chân Pháp giới nữa. Do đó Nhất chân Pháp giới không có hiện tượng sanh diệt, mà có ẩn hiện.

Không có thứ gì là thật. Khi thành Phật rồi, quý vị hỏi người khác, bạn đã thành Phật chưa? Nếu người ấy nói “tôi thành Phật rồi”, là giả, không phải thật, tại vì sao? Bởi người ấy còn dính tướng. Thật sự thành Phật rồi, thì không chấp tướng thành Phật, nếu chấp tướng thì vẫn là Bồ-tát. Càng đi lên, Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước càng phai nhạt, càng đi xuống thì càng dày đặc. Chấp trước kiên cố, không chịu buông lỏng chút nào, đó là gì? Cảnh giới địa ngục. Ở nhân gian chúng ta có thể nhìn thấy. Quý vị bình tĩnh, chính mình hồi quang phản chiếu, hãy xem mình là ở đường nào, từ trên chấp trước có thể nhìn thấy. Chấp trước nghiêm trọng, chết cũng không chịu buông xuống, là đường địa ngục, nhẹ hơn địa ngục một chút là đường ngạ quỷ, nhẹ hơn chút nữa là đường súc sanh, còn nhẹ chút nữa mới có thể đến cõi người. Sự độc hại của Chấp trước quá sâu rồi, phải buông xuống, bởi đó là giả, không có gì là thật. Ai cũng biết có sanh có tử, cũng đều biết sanh không đem đến chết không mang theo, nếu quý vị thật sự hiểu rõ, thì quý vị sẽ không chấp trước, quý vị tự nhiên biết buông xuống. Buông xuống liền được tự tại, đời sống ngay trong đời này trải qua rất hạnh phúc, vô cùng đầy đủ, vô cùng viên mãn trong đời người, vui như thế, sao không làm! Đối với tất cả người việc vật trên thế gian này đều là duyên phận, có duyên có thể lợi ích chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, đây là việc tốt, thì làm nhiều; Nếu không có duyên phận thì không nên phan duyên, đừng đi tìm việc để làm. Cổ nhân có một câu nói rất hay, 多事不如少事,少事不如無事 “đa sự bất như thiểu sự, thiểu sự bất như vô sự” (nhiều việc không bằng ít việc, ít việc chẳng bằng không có việc gì). Thần tiên, Bồ-tát trụ ở trong hang núi, nếu không có duyên phận thì quý ngài tuyệt đối không tiếp xúc, loại hưởng thụ đó của quý ngài là Thiền định, hưởng thụ trong định, thiền duyệt vi thực, trong đó có niềm vui, có hưởng thụ. Hưởng thụ của sự xao động là hưởng thụ của chúng sanh Lục đạo, đời sống Thiền định là sự hưởng thụ của người tu hành, tốt hơn rất nhiều so với việc hưởng thụ của xao động đó, không cách nào hình dung, quý vị không buông xuống được sự xao động, thì quý vị không cách nào hưởng thụ sự vui thú này.

Bồ-tát từ bi cứu khổ cứu nạn, tất cả hành vi, việc làm thân khẩu ý của quý ngài, đều không để trong tâm. Trong tâm là gì? Là Giới Định Huệ, trong Giới Định Huệ có niềm vui, gọi là pháp hỷ sung mãn. Giới là gì? Tâm thanh tịnh; Định là gì? Tâm bình đẳng; Huệ là gì? Giác thì không mê, chính là 清淨平等覺 “thanh tịnh bình Đẳng giác” trên đề Kinh của chúng ta. Quý ngài hưởng thụ điều gì? Nửa đoạn trước trên tựa đề Kinh nói, 大乘 “Đại thừa”, Đại thừa là Trí huệ, không gì không biết, không gì không thể, pháp hỷ sung mãn; 無量壽 “Vô Lượng Thọ” là phước báo, phước báo viên mãn. Phước báo số một trong các phước báo là thọ mạng, nếu không có thọ mạng, thì dù có phước báo đi nữa cũng không cách nào hưởng, quý vị không cách nào hưởng thụ. Nên thọ mạng là đức đầu tiên trong phước báo, quý vị có thọ mạng thì quý vị mới có thể hưởng thụ. Trí huệ, phước đức. Tiếp theo là 莊嚴 “trang nghiêm”, trang nghiêm là tự tại, được đại tự tại, thù thắng trang nghiêm không gì bằng. Trong đề Kinh nửa đoạn trước là quả, nửa đoạn sau là nhân, nếu quý vị muốn đạt được quả báo: Trí huệ, Thiền định, phước báo này, vậy thì quý vị cần phải tu: thanh tịnh bình Đẳng giác. Dùng phương pháp nào? Đơn giản nhất, dễ dàng nhất, người người đều có thể tu, ai ai cũng có thể thành tựu, chính là: tín, nguyện, niệm Phật, quý vị liền có thể đạt được. Ba chữ: Tín Nguyện Hạnh này cũng không đơn giản, phải thật tin, người thật tin không nhiều. Thân thể không tốt nhanh chóng đi tìm bác sĩ, tin bác sĩ có thể trị khỏi bệnh của tôi, còn Phật thì không thể. Như vậy là không tin đối với Phật, nếu thật sự tin, thì còn có thể tìm người khác sao? Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm biểu diễn cho chúng ta, quý vị xem đã hiểu ra biểu pháp chưa? Quý vị xem năm 18 tuổi trên thân ngài sanh bệnh nhọt, làn da không có chỗ nào là tốt, hiện nay cũng vẫn còn, già rồi vẫn còn vết sẹo, thuốc gì cũng không chữa khỏi được, mẹ của ngài đi tìm bác sĩ, tìm thuốc cho ngài, nhưng chữa không khỏi. Cuối cùng ngài đã giác ngộ, ngài nói thuốc tốt không thể chữa khỏi bệnh oan nghiệp. Làm sao đây? Trong Tâm Kinh nói rất hay, Quán Âm Bồ-tát cứu khổ cứu nạn, 度一切苦厄 “độ nhất thiết khổ ách” (độ tất cả khổ ách), hiện nay tôi có khổ ách (có nạn), chuyên niệm Quán Âm Bồ-tát, niệm một-hai tháng, thì hoàn toàn khỏi bệnh rồi.

Sự biểu diễn này tạo niềm tin cho chúng ta, chúng ta thật tin Phật thì không nên tin vào những loại thuốc ấy, được hay không? Ngày nay nhà Cơ học Lượng tử làm chứng minh cho chúng ta, chính là dùng ý niệm, dĩ tâm khống vật, thân thể của chúng ta là vật chất, ý niệm của chúng ta chính là tâm, ý niệm có thể khống chế vật chất. Sanh bệnh là bởi ý niệm không tốt, khiến cho các tế bào của thân thể chúng ta mang mầm bệnh, làm sao đây? Thay đổi ý niệm, dùng ý niệm tốt nhất. Tiến sĩ Hew Len ở Mỹ nói rõ cho chúng ta, tế bào ung thư nghiêm trọng nhất, Nhất thiên Tác pháp, đây là tên do tôi đặt cho phương pháp đó, cách làm mỗi ngày nửa giờ, một tháng đã xảy ra thay đổi. Một ngày nửa giờ, nửa giờ đó buông xuống vạn duyên, không có vọng tưởng, không có tạp niệm, tập trung tinh thần. Trong 30 phút ấy, là ông ấy quán tưởng bệnh nhân và chính mình thành một thể, bệnh của bệnh nhân chính là bệnh của mình, đối với các tế bào mang mầm độc này, tập trung ý niệm, chính là một ý niệm, bốn câu khẩu quyết, “Thật xin lỗi”, bạn là một phần của thân thể tôi, một thể, tôi xin lỗi bạn, [tôi] không cẩn thận làm cho bạn mang theo mầm độc, thật xin lỗi, “xin tha thứ, cảm ơn bạn, tôi yêu bạn”, là bốn câu này. Chỉ niệm bốn câu này, 12 chữ, niệm bốn câu, niệm nửa giờ, mỗi ngày làm nửa giờ, trong một tháng, các tế bào mang mầm độc thảy đều khôi phục bình thường, đi khám lại thì bệnh không có nữa. Trong bao nhiêu bệnh viện đã tuyên bố từ bỏ, nói rằng bệnh này của họ không cách nào chữa khỏi, từ bỏ rồi, khi tìm ông ấy, ông ấy đều có thể giúp người ta giải quyết, cứu sống, đến bệnh viện kiểm tra lại, không còn các tế bào mầm độc nữa, thân thể hoàn toàn hồi phục khoẻ mạnh. Vả lại người chữa bệnh và bệnh nhân không cần gặp nhau, bệnh nhân ở nước Mỹ, còn ông ấy ở Hồng Kông cũng có thể chữa bệnh cho họ, không cần gặp mặt. Ông ấy chỉ cần bốn thứ: thứ nhất là họ tên, tên của bệnh nhân ấy; Ngày tháng năm sinh; Hiện tại sống ở đâu, địa chỉ hiện tại; Bệnh án, là cần bốn thứ này, đơn giản như vậy. Khi ông ấy đến chỗ tôi để thăm quan, đầu tiên tôi bèn hỏi ông ấy, ngài chữa bệnh dựa vào nguyên lý nào? Ông ấy nói với tôi: tâm thanh tịnh. Tâm của chính mình phải thanh tịnh, tâm của chính mình không thanh tịnh thì không được. Làm thế nào thanh tịnh? Là buông xuống, tất cả ý niệm không thiện đều buông xuống, sau đó ý niệm thiện cũng buông xuống; nói cách khác, chính là tâm thanh tịnh mà trên Kinh Vô Lượng Thọ của chúng ta nói, ông ấy dùng điều này. Tâm thanh tịnh là điều thứ nhất trong trong việc tu Tịnh Độ của chúng ta, đầu tiên, thành tựu bước đầu, tâm bình đẳng là thành tựu bậc trung, giác là thành tựu bậc cao. Quý vị xem, chỉ cần dùng tâm thanh tịnh của Tiểu thừa, thì có thể cứu được tất cả bệnh tật tai nạn trên thế gian, là được. Chúng ta phải có tín tâm, không có niềm tin thì không được. Chữa bệnh thì đầu tiên chữa cho chính mình, quán bệnh nhân thành một thể của chính mình, cứu chính mình, chính mình được độ rồi, người khác cũng được cứu, là một công đôi việc.

Bí mật của niệm lực, sức mạnh của niệm lực, rộng lớn không có giới hạn, đây là khoa học mới nổi, hai-ba mươi năm gần đây đã phát hiện ra, người trẻ tuổi hiện nay nghiên cứu điều này rất nhiều. Chúng ta có lý do tin tưởng, 10 năm, nhiều nhất là 20 năm, quan niệm của khoa học mới nổi này bắt đầu thay thế những quan niệm trong quá khứ đó. Quan niệm của quá khứ là do vật lý làm trung tâm, còn quan niệm mới này không dùng vật lý, mà là tâm lý, dùng tâm lý làm trung tâm của việc nghiên cứu. Nghiên cứu một chủ đề: dĩ tâm khống vật, chính là dùng ý niệm của chúng ta để khống chế tất cả hiện tượng vật chất, nhỏ từ cá nhân, sinh lý của cá nhân, lớn đến vũ trụ, bởi vì những tinh hệ tinh cầu trong cả vũ trụ này đều là hiện tượng vật chất, ý niệm có thể điều khiển những hiện tượng vật chất ấy. Hoàn toàn dùng tâm lý, đây là sự phát hiện trọng đại của khoa học, có thể thay đổi hoàn toàn tư tưởng, cuộc sống của nhân loại chúng ta. Trước đây đều là lấy vật chất làm trung tâm, bây giờ vừa thay đổi là lấy ý niệm làm trung tâm. Chính mình hoàn toàn có thể khống chế bản thân, có thể khống chế vũ trụ do chính mình biến hiện ra. Đại sư Huệ Năng nói: “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”. Năng sanh vạn pháp chính là sáng tạo vũ trụ, tiến thêm một bước thì người ta có thể điều khiển vũ trụ, đó là ai? Phật Bồ-tát. Trên kinh Đại thừa nói, Pháp thân Bồ-tát có thể để tinh cầu trong lòng bàn tay, làm giống như đồ chơi để chơi đùa, còn chúng sanh trong tinh cầu không có cảm giác. Điều này trong kinh Phật không phải là tỷ dụ, mà thông qua các báo cáo nghiên cứu của nhà khoa học, tương lai nhà khoa học sẽ công nhận đây là chân tướng sự thật. Vì vậy, Phật Bồ-tát là nhà khoa học vĩ đại nhất trên thế giới, thần thông diệu dụng của quý Ngài là không thể nghĩ bàn.

Thần thông diệu dụng hoàn toàn tương ưng với Tánh đức, khoẻ mạnh nhất; Nếu lấy dục vọng, vọng tưởng làm nguyên tắc chỉ đạo, thì vũ trụ này đại loạn, như vậy trở thành tai họa to lớn, tai họa này chính là vụ nổ lớn của vũ trụ. Vụ nổ lớn của vũ trụ thật có, đó cũng chỉ là quan niệm sai lầm của một nhóm nhỏ người, tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, không có luân lý đạo đức, không tin nhân quả. Sự bùng nổ đó là một tinh hệ, là một cụm sao, cũng có thể là mấy tinh hệ, nhưng điều này ở trong thái không, thái không quá lớn, nhìn không ra được, là vấn đề trong phần thái không. Trong Phật pháp chúng ta có thể nhận ra được nguyên nhân của vụ nổ lớn này, hình ảnh, tình huống của vụ nổ lớn, có thể lãnh hội được một chút, đó chính là tất cả pháp do tâm tưởng sanh, tất cả pháp tùy theo tâm tưởng đang thay đổi. Mỗi ý niệm của chúng ta, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành hình, hình đều có thức. Câu này là nói vật chất cơ bản, vật chất nhỏ nhất sanh ra thế nào. Toàn bộ vũ trụ đều là một hợp tướng của những vật chất nhỏ này, trên Kinh Kim Cang nói là Nhất hợp tướng. Điều cơ bản (vật chất) là một, trong điều này thì tinh thần và vật chất không thể chia tách, là tinh thần thống trị vật chất. Tinh thần là gì? Thọ tưởng hành thức, vật chất là sắc, sắc thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức là năng sanh, sắc là sở sanh.

Chúng ta hiểu rõ rồi, [hãy] khống chế ý niệm của chính mình, ý niệm tương ưng với Tự Tánh thì phát ra năng lượng tích cực, là tốt. Trong điển tịch của nước ta chính là Ngũ luân. Quý vị xem “phụ tử hữu thân”, thương yêu, đó là năng lượng tích cực, đó là vốn có từ trong Tự Tánh. Ánh sáng rực rỡ của Tự Tánh không phải do người nào sáng tạo, không phải do ai phát minh, mà là Tự Tánh vốn có. “Quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt”, biệt là nhiệm vụ khác nhau. Vào thời Thượng cổ, nhân loại lấy mẫu hệ làm trung tâm. Đó là gì? Đó là hiện tượng tự nhiên, đó là lưu lộ của Tánh đức. Hiện nay chúng ta tỉ mỉ quan sát, trong động vật vẫn là xã hội của mẫu hệ, động vật nhỏ biết mẹ của chúng, nhưng không biết cha của chúng. Chí tôn của người rốt cuộc là nam hay nữ, quý vị phải làm cho rõ ràng, người nữ là chủ nhân, người nam là khách. Nên Trung Hoa từ xưa đến nay, dạy con gái nghiêm khắc hơn dạy con trai, dạy con gái cũng chú trọng hơn dạy con trai. Tại sao vậy? Bởi có Hiền nữ thì sẽ có Hiền nhân xuất hiện, là Thánh nữ sẽ có Thánh tử xuất hiện, không những người trong gia đình đây của quý vị hạnh phúc, mà người của cả nước hạnh phúc, người trong thiên hạ đều được phước báo. Người hiện nay đấu tranh nam nữ bình đẳng, quả thật là hồ đồ, không hiểu rõ chân tướng sự thật. Tạo công to lập nghiệp lớn không cần phải chính mình, mà bảo con của chính mình đi hoàn thành, vậy tốt biết bao. Tào Tháo không làm Hoàng đế, ý nghĩa là gì? Nhường cho con trai của ông làm Hoàng đế. Chẳng thể không đọc sách Thánh hiền, đọc sách Thánh hiền phải khai ngộ, sau khi khai ngộ thì quý vị mới có thể hiểu rõ những đạo lý này, quý vị mới có thể làm tường tận.

Trí huệ là tối thượng. Câu nói này trong Gia Tường Sớ, năm độ là hành, là hành vi, 不能出離生死 “bất năng xuất ly sanh tử” (không thể xuất ly sanh tử), chính là không thể ra khỏi luân hồi, 要須智慧達解本原 “yếu tu Trí huệ đạt giải Bổn nguyên” (cần phải [có] Trí huệ thông đạt hiểu rõ Bổn nguyên), đạt là thông đạt, giải là hiểu rõ, Bổn nguyên chính là Tự Tánh, thật sự làm cho rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, 方皆過出 “phương giai quá xuất” (mới đều vượt ra), quá là vượt qua, xuất là xuất ly, vĩnh viễn thoát thoát khỏi Lục đạo sanh tử luân hồi, 故云最上 “cố vân tối thượng” (nên nói là tối thượng), Trí huệ là tối thượng, thật sự nhìn thấu rồi. Lục Ba-la-mật của Bồ-tát, năm độ trước là buông xuống, độ sau cùng là nhìn thấu. 又從上引《大乘義章》可見智慧,即真心體明,自性無闇 “Hựu tùng thượng dẫn Đại Thừa Nghĩa Chương khả kiến Trí huệ, tức Chân Tâm thể minh, Tự Tánh vô ám” (Lại theo Đại Thừa Nghĩa Chương được trích bên trên có thể thấy rằng Trí huệ, tức là thể của Chân Tâm là sáng suốt, Tự Tánh không có tối tăm). Quý vị phải dùng Chân Tâm, thể của Chân Tâm, minh chính là giác ngộ. Tự Tánh không có tối tăm, Tự Tánh là phóng quang, Tự Tánh là không gì không biết. Nói về Tự Tánh, Đại sư Huệ Năng nói năm câu, năm câu ấy là viên mãn rồi. Thứ nhất là “thanh tịnh”, thứ hai là “vốn không sanh diệt”, thứ ba là “vốn tự đầy đủ”, chính là Tự Tánh xưa nay đầy đủ, không phải do đến từ bên ngoài, tất cả đều là vốn có, vô lượng trí huệ, vô lượng tài nghệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, là thật vô lượng, không phải giả vô lượng. Vả lại mỗi người đều bình đẳng, tất cả chúng sanh chẳng ai không có, người người đều có, nên không cần phải hâm mộ, cũng không cần đố kỵ chướng ngại, mỗi người đều có, là bình đẳng. “Vốn không dao động”, điểm này rất quan trọng, nếu quý vị muốn tìm Chân Tâm trở lại, thì quý vị phải không dao động. Lắc lư, lắc là dao động nhỏ, còn “động” này là dao động lớn. Học tập ở đâu? Khi sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, đó là tu hành. Chúng ta mắt thấy sắc, thấy được vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, không có khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm chính là dao động. Vì vậy thật sự tu định thì tu ở đâu? Là tu ở trong cảnh giới sáu căn tiếp xúc với sáu trần, mắt thấy sắc, thấy rất rõ ràng, tai nghe tiếng, nghe rất rõ ràng, không có khởi tâm động niệm; Người khác không hỏi thì không biết, nhưng một khi người khác hỏi, thì điều gì cũng biết. Do đó Phật giảng kinh, kinh từ đâu đến? Là Tự Tánh vốn có, tự nhiên lưu xuất ra, Phật không thông qua tưởng tượng, không thông qua tư duy, cũng không nói Ta phải xem qua, rồi trở lại giảng cho quý vị, không có, trong Tự Tánh không thiếu gì cả. Tác dụng cuối cùng là “có thể sanh vạn pháp”, có thể sanh vạn pháp chính là biến hiện ra cả vũ trụ. Vũ trụ này từ đâu tới? Do Tự Tánh biến hiện. Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, vạn pháp là được sanh được hiện, không phải do thần tạo. Từ chỗ này biết được, Phật giáo là thuyết vô thần, không thừa nhận tất cả vạn pháp là do thần tạo, là từ đâu ra? Tự Tánh năng sanh. Tự Tánh của ai? Tự Tánh của chính mình.

Với mỗi một người, thế giới của mỗi người không như nhau. Chúng ta ở cùng với nhiều người như vậy, có Biệt nghiệp, có Cộng nghiệp, Cộng nghiệp là giống nhau, Biệt nghiệp là mỗi người khác khau. Mỗi người ở thế gian này, thông minh tài trí khác nhau, thời vận cả đời khác nhau, giàu sang nghèo hèn khác nhau, thọ mạng dài ngắn khác nhau, là Biệt nghiệp. Biệt nghiệp, Cộng nghiệp đều là do chính mình sanh ra, người học Bồ-tát đạo buông xuống Biệt nghiệp, mà tu Cộng nghiệp. Biệt nghiệp là vì chính mình, Cộng nghiệp là vì chúng sanh, nên phải như Phật Bồ-tát, khởi tâm động niệm đều vì tất cả chúng sanh mà lo nghĩ. Tất cả chúng sanh không thành Phật đều khổ, chính là nói họ chưa làm rõ ràng, chưa làm sáng tỏ, nên họ mới mê hoặc điên đảo. Mê hoặc chỉ có cạn sâu khác nhau, nói chung đều có khổ. Nên Phật phải phát tâm độ ai? Trên độ Đẳng giác Bồ-tát, độ Thập địa Bồ-tát, dưới độ chúng sanh địa ngục, độ tất cả. Chỉ cần có duyên, chính là có cơ hội, trong cơ hội quan trọng nhất là họ chịu học, họ nghe lời, vậy thì phải giúp họ, không giúp thì có lỗi đối với họ. Nếu họ không tin, họ không chịu nghe lời của quý vị, thì duyên này chưa chín muồi, không cần phải đi tìm họ, tìm họ trái lại trở thành chướng ngại, họ sẽ khởi phản cảm. Vì vậy phương pháp độ chúng sanh rất linh hoạt, họ là căn tánh thế nào, trình độ thế nào, ưa thích phương diện nào, thì hằng thuận chúng sanh, họ thích nghe, họ thích thấy, thích học tập, vậy thì tốt. Do đó Phật là [có] vô lượng Pháp môn, không chỉ 84.000, mà vô lượng Pháp môn để đáp ứng căn tánh của vô lượng chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh đều có thể được độ. Đây là điều chúng ta nên học tập, không nên miễn cưỡng.

Chí đồng đạo hợp có thể cùng với nhau, xây dựng một Tăng đoàn nhỏ. Đoàn thể này, đoàn thể nhỏ, chính là tấm gương cho các loại đoàn thể nhỏ trong xã hội. Tại vì sao? Bởi trong đoàn thể nhỏ này coi trọng Lục hòa, từ trong Lục hòa có thể thấy được luân lý, đạo đức, nhân quả, giáo dục Thánh hiền ở bên trong, đều có thể nhìn thấy ở trong đó, đều có thể học được từ trong đoàn thể nhỏ này, đoàn thể nhỏ này đối với xã hội, đối với quốc gia, đối với nhân loại là làm ra cống hiến lớn nhất, đây gọi là hành Bồ-tát đạo. Tại sao phải làm như vậy? Bởi vì đồng thể đại bi, vô duyên đại từ. Quý vị làm như thế vì mưu cầu điều gì? Không mưu cầu gì cả, không có việc gì, mà hoàn toàn tương ưng với Tánh đức. Vì vậy, Tăng đoàn Đại thừa của Phật giáo đều từ Tự Tánh lưu lộ, không có chút nào vì chính mình. Thành Phật cũng là vì phổ độ chúng sanh, không phải vì chính mình. Lấy cảm nhận bản thân để nói, chúng ta nói theo mặt trái, đối với người hiểu lầm chúng ta, đối với người hủy báng chúng ta, người chướng ngại chúng ta, người hãm hại chúng ta, chúng ta biết rằng họ và chúng ta là một thể. Tại sao họ phải làm như thế? Bởi họ mê mất Tự Tánh, mê mất Thật tướng các pháp, hoàn toàn là tự tư tự lợi cho chính mình, nên tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp mà họ không biết, chúng ta ở bên cạnh, nhìn thấy rõ ràng. Những gì chúng ta bày tỏ, điều này nhà Phật nói là biểu pháp, hoàn toàn tương ưng với Tánh đức, viên mãn tương ưng. Những gì những người ấy đã tạo, đã làm, là hoàn toàn trái ngược với Tự Tánh, quả báo đều ở tam đồ địa ngục. Thọ mạng nhân gian rất ngắn, sau khi chết rồi làm sao đây? Thật đáng thương! Vì vậy, chúng ta nhìn thấy người thật sự đáng thương, họ đọa vào đường ác, chúng ta vẫn phải đến đường ác để cứu họ, tại sao thế? Bởi có duyên với ta. Người thích ta là có duyên, người oán hận ta cũng là có duyên, chỉ cần là có duyên, thì chúng ta phải độ họ. Cũng chính là có quan hệ với chúng ta, dù mối quan hệ này là thiện hay ác, chúng ta đều dùng tâm bình đẳng đối đãi họ, bởi vì nói thật ra, họ cũng đang giúp đỡ ta.

Chúng tôi vừa nói, tu hành ở đâu? Sáu căn ngay trong cảnh giới sáu trần mà tu, thuận cảnh, thiện duyên thì tu không tham; Nghịch ảnh, ác duyên thì tu không sân giận, hòa hợp với tất cả chúng sanh nhất định không có ác ngôn ác hạnh, nhất thiết không có ganh ghét chướng ngại, tất cả thành tựu dâng hiến cho chúng sanh, chính mình không kể công. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật làm ra điển hình tốt nhất, cả đời chăm chỉ dạy học, ngay cả đạo tràng cũng không có. Ngài có khả năng xây đạo tràng không? Có, quá dễ dàng. Vì sao Ngài không xây? Đến bây giờ chúng tôi mới hoát nhiên đại ngộ, vì sao vậy? Bởi đạo tràng nguy nga tráng lệ, thì bao nhiêu người muốn giành lấy, họ xuất gia không phải là xuất gia chân chánh, họ là vì danh văn lợi dưỡng mà xuất gia. Nên đức Thích Ca Mâu Ni Phật nhìn ra rồi, không xây đạo tràng, thì những học trò ấy không có gì để tranh. Nhưng có duyên phận thì Phật cũng tiếp nhận, quý vị xem như vườn Cấp Cô Độc với cây của Kỳ Đà, tinh xá Trúc Lâm, đều là biệt thự, lâm viên của hoàng gia, thỉnh Ngài đến giảng kinh dạy học, Ngài cũng rất hoan hỷ. Có khi Ngài sống ở đó 1 năm 2 năm, 3 năm 5 năm, rồi địa phương khác mời, thì đến nơi khác, trả lại cho chủ nhân. Đó là mượn dùng, tốt! Mượn dùng, tài sản có chủ, thì mọi người không tranh nữa. Nếu là của Phật, đồ chúng của Phật nhiều như vậy, nếu sau khi Phật viên tịch, thì mọi người sẽ tranh giành, cách tranh đoạt này khiến hoàn toàn bị phá hết rồi. Còn có vì tranh chấp tài sản nhà chùa mà đi kiện tụng, lên tòa án, vậy thành điều gì? Đây là phá vỡ sạch sẽ hình tượng của Phật giáo rồi. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng cả đời, những học trò như vậy [mà] xuất hiện, trong vài ngày đã hủy bỏ toàn bộ hình tượng của Phật. Phật nhìn thấy rất rõ ràng, nhìn thấy rất thấu suốt, nên làm được rất triệt để, cả đời không có đạo tràng, suốt đời trải qua cuộc sống lưu lạc, ngủ một đêm dưới cây, giữa ngày ăn một bữa, mỗi ngày giảng kinh, vui vẻ vô cùng. Đó là trí huệ chân thật, phước đức chân thật, chúng ta phải xem hiểu được, phải thể hội được sâu sắc. Việc làm cả đời của đức Phật rất đáng để chúng ta học tập, đáng để chúng ta nói theo.

Phật giáo truyền đến Trung Hoa, lúc đó đạo tràng là do quốc gia xây dựng, Đế vương xây dựng đạo tràng, quý vị thấy 敕建 “sắc kiến” (sắc lệnh xây dựng) trên tấm biển, đó là do nhà nước xây dựng, nên gọi là đạo tràng thập phương. Chỉ cần là người xuất gia, người xuất gia đã thật sự thọ giới, đều có thể đến tự viện am đường để quải đơn, ở nơi đó tu hành, đại chúng tiếp nhận họ, giúp họ ở đó giảng kinh dạy học. Ví dụ này đã có ở Trung Hoa trong hơn 2000 năm, phần lớn đều làm được rất tốt. Phật giáo trở thành tôn giáo, thời gian này cũng không dài, có lẽ đó là thời gian hơn 200 năm, tôi nghĩ chưa đến 300 năm. Thời đại Càn Long, thời đại Gia Khánh vẫn là giáo dục, rất nhiều Cao tăng Cư sĩ dạy học, để lại trước tác vô cùng phong phú. Sau thời Gia Khánh, Đạo Quang, Hàm Phong, Đồng Trị, Thái hậu Từ Hy nắm chính quyền, dần dần trở thành tôn giáo, lấy việc làm kinh sám pháp hội làm chủ, phai nhạt việc dạy học nghiên cứu, khiến nền giáo dục của đức Phật trở thành tôn giáo, điều này thật đáng tiếc. Sau khi Mãn Thanh mất nước, xã hội động loạn, quân phiệt chia cắt, tiếp theo là chiến tranh Trung-Nhật, Phật giáo suy tàn, suy đến hiện nay như thế này.

Ba người ấy ở chùa Lai Phật, làm ra tấm gương thật sự học Phật trong thời đại này cho chúng ta, chúng ta phải đặc biệt coi trọng. Tại vì sao? Bởi Phật pháp là linh hoạt, bất kỳ thời đại nào, chỉ cần quý vị không trái ngược với nguyên lý nguyên tắc của Phật nói, phương tiện khéo léo để quý vị tu hành, thì ai ai cũng có thể thành tựu. Trong đó môn dễ thành tựu nhất, chính là niệm Phật cầu sanh Thế giới Cực Lạc. Ba vị Đại đức ấy chứng minh cho chúng ta: Thế giới Cực Lạc thật có, không phải là giả, tín nguyện trì danh thật sự có thể vãng sanh, đại nguyện của A Mi Đà Phật phát ra chân thật không dối. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã gặp A Mi Đà Phật nhiều lần, trong đĩa phim, chúng tôi xem những gì chính ngài nói. Nhiều lần nhìn thấy A Mi Đà Phật, thỉnh cầu A Mi Đà Phật dẫn ngài vãng sanh, Phật nói với ngài: con tu rất tốt, hi vọng con trụ thêm vài năm ở thế gian này, làm tấm gương tốt cho người học Phật, cho người niệm Phật. Hiền công có thể sống đến 112 tuổi, một câu Phật hiệu đã niệm 92 năm không chuyển hướng, ngài trải qua Công phu Thành phiến, Sự nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn, cuối cùng vâng lệnh biểu pháp, đến tháng giêng năm ngoái biểu pháp công đức viên mãn, Phật dẫn ngài đi rồi. Việc tu hành cả đời của vị lão nhân ấy mới được truyền ra, chúng ta mới biết, vô lượng vô biên công đức, tăng thêm tín tâm của chúng ta, kiên định nguyện tâm cầu sanh Tịnh Độ của chúng ta, chúng ta chỉ cần niệm tốt câu Phật hiệu này, giống như ngài vậy, mọi lúc, mọi nơi tuyệt không mất đi, thì chúng ta thành công rồi. Ngài có thể vãng sanh, thì mọi người chúng ta đều có thể vãng sanh, biết sự việc này là chân thật chẳng dối.

Chúng ta xem trong Chú Giải nói, còn trong Đại Thừa Nghĩa Chương được trích ở trên có thể thấy rằng Trí huệ, chính là thể của Chân Tâm là sáng suốt, Tự Tánh không có tối tăm. 故知正當智慧深廣如海時,其內心亦必清淨,無惡無過 “Cố tri chánh đương trí huệ thâm quảng như hải thời, kỳ nội tâm diệc tất thanh tịnh, vô ác vô quá” (Nên biết rằng ngay khi trí huệ sâu rộng như biển, [thì] nội tâm ấy cũng nhất định thanh tịnh, không có ác không có lỗi lầm), đây chính là không khởi tâm không động niệm, 離垢離染,絕諸塵勞。故云:內心清淨絕塵勞也 “ly cấu ly nhiễm, tuyệt chư trần lao. Cố vân: nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao dã” (lìa cấu lìa nhiễm, dứt hết các trần lao. Nên nói: nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao). Như trong Tâm Kinh đã nói, 行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄 “hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa thời, chiếu kiến Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” (khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu, soi thấy Năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách). Loại phương pháp tu hành này đều ở trong cuộc sống hàng ngày, mặc áo ăn cơm, đối người tiếp vật, bất luận làm ngành nghề nào, kết giao với tất cả người việc và vật, dù là thiện duyên, ác duyên, duyên là hoàn cảnh người và việc, đối với người tốt, đối với người ác, ngoài đối với người ra, còn đối với vật, đối với việc, đối với tất cả vạn vật, đó chính là đạo tràng tu hành của chúng ta. Tu thế nào? Cao nhất, Bồ-tát tu không khởi tâm không động niệm. Thấy được rõ ràng, nghe được rõ ràng, đây là trí huệ, trí huệ Bát-nhã vốn đầy đủ trong Tự Tánh. Tuy thấy rõ ràng, nghe rõ ràng rồi, nhưng không có khởi tâm động niệm, đó là Chân Tâm khởi dụng. Chân Tâm khởi dụng chính là Phật và Pháp thân Bồ-tát; Còn dưới bậc Pháp thân Bồ-tát thì không làm được, các ngài sẽ khởi tâm động niệm. Vì vậy có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đó là Bồ-tát. Tuy Bồ-tát có Khởi tâm Động niệm, nhưng chắc chắn không có Phân biệt Chấp trước, sẽ không phân biệt điều này tốt điều kia không tốt, không có ý niệm này, tất cả pháp bình đẳng, là Bồ-tát. Bậc tiếp theo là A-la-hán, A-la-hán có Phân biệt, nhưng quý ngài không chấp trước. Lục đạo phàm phu: thấy sắc nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị đều có tất cả: có Phân biệt, có Chấp trước, có Khởi tâm, có Động niệm, có tất cả điều này thì gọi là phàm phu. Nếu không có tất cả thì thành Phật, đó là Pháp thân Bồ-tát, trong Đại thừa giáo là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đó chính là sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần phải học, học không động tâm, thật sự tu hành là cách tu hành như vậy. Những năm đầu, Đại sư Chương Gia dạy tôi “nhìn được thấu, buông được xuống”. Nhìn thấu, là hiểu rõ, không hiểu rõ thì quý vị sẽ không buông xuống, hiểu rõ rồi thì quý vị buông xuống. Hiểu rõ điều gì? Chiếu kiến Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm là độ tất cả khổ ách rồi, là thật, chứ không phải giả. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 147)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật