Responsive Menu
Add more content here...

Tập 148 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ 4: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 148

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian:  19/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 397, bắt đầu xem từ câu cuối cùng, 檀施調伏意 “Đàn Thí Điều Phục Ý” (Đàn Thí Điều Phục Ý), chúng ta bắt đầu xem từ đây, chỗ này là một đoạn:

檀施調伏意,戒忍及精進。如是三昧定,智慧為上最 “Đàn thí điều phục ý, Giới Nhẫn cập Tinh tấn. Như thị Tam-muội định, Trí huệ vi thượng tối” (Đàn thí điều phục ý, Giới Nhẫn và Tinh tấn. Tam-muội định như thế, Trí huệ là trên nhất). Đây là của bản Hán Dịch. 《嘉祥疏》曰:明五度為行,不能出離生死。要須智慧達解本原,方皆過出,故云最上也 “Gia Tường Sớ viết: minh ngũ độ vi hành, bất năng xuất ly sanh tử. Yếu tu Trí huệ đạt giải Bổn nguyên, phương giai quá xuất, cố vân tối thượng dã” (Trong Gia Tường Sớ ghi: biết rõ năm độ là hành, không thể ra khỏi sanh tử. Phải có Trí huệ thông đạt hiểu rõ Bổn nguyên, mới đều vượt ra, nên nói là tối thượng). Câu này nói rõ Lục độ mà Bồ-tát tu, năm độ trước trong Lục độ gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, năm hạng mục này là hành vi, không thể thoát khỏi sanh tử luân hồi, tu năm độ này là phước báo. Cuối cùng trong năm độ là Tam-muội, Tam-muội chính là Thiền định, người được Thiền định sanh trời Sắc giới, cao nhất là sanh trời Vô sắc giới, là năm độ trước. Nhất định phải khai trí huệ, chính là phải có chỗ ngộ. A-la-hán Tiểu thừa khai tiểu trí huệ, các ngài có thể ra khỏi Lục đạo luân hồi, vãng sanh đến Pháp giới Thanh văn trong Tứ thánh Pháp giới, người lợi căn sanh Pháp giới Duyên giác, chưa ra khỏi Thập pháp giới, có thể ra khỏi Lục đạo, không ra khỏi Thập pháp giới. Chúng ta phải làm rõ ràng những việc này, không làm rõ ràng, vậy những gì chúng ta học là pháp thế gian, học Phật cũng là pháp thế gian. Pháp thế gian trong Phật pháp, [là] ba đường thiện, nếu tạo tác ác nghiệp, vẫn phải đọa vào ba đường ác. Tạo ác thì dễ, cố ý hoặc vô ý, chính mình tạo tác ác nghiệp mà không biết, cho rằng vẫn đang làm thiện, trường hợp này quá nhiều rồi, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đều luôn luôn nhìn thấy. Thấy được những việc này, chúng ta có hồi quang phản chiếu hay không? Tự thấy lỗi của mình khó, nhưng thấy lỗi của người khác dễ. Nhìn thấy người khác, quan trọng nhất quay lại nghĩ xem mình có làm hay không, nếu ta có làm, thì nhanh chóng sửa đổi. Bên ngoài là một chiếc gương tu hành của chúng ta, soi được vô cùng rõ ràng, có lỗi phải sửa, có điều tốt phải liên tục không ngừng, phải tăng trưởng điều thiện, phải sửa đổi lỗi lầm, mới có thể tiến bộ. Tam-muội là Thiền định, vì vậy nói phải có trí huệ, trí huệ này còn thông đạt hiểu rõ Bổn nguyên, đạt là thông đạt, giải là hiểu rõ, Bổn nguyên là gì? Tự Tánh, Tự Tánh là Bổn nguyên của vạn pháp, bổn là gốc rễ, nguyên là cội nguồn.

Vạn sự vạn vật trong vũ trụ từ đâu đến vậy? Một số tôn giáo cho là do Thần tạo, do Thượng đế tạo, nên phải dùng tâm chân thành tâm cung kính đối với chủ tạo vật, cảm ơn họ, lấy điều này làm Bổn nguyên. Phật pháp không phải vậy, Phật pháp là lấy Minh tâm Kiến tánh làm Bổn nguyên. Đại sư Huệ Năng, về Đàn Kinh thì đồng học thông thường đều quen thuộc, cho dù quý vị đã đọc hay chưa, thì với năm câu mà Đại sư Huệ Năng nói khi khai ngộ, chắc chắn quý vị đều biết. Năm câu ấy là miêu tả, ngài kiến Tánh rồi, Tánh là như thế nào, đã nói ra cho chúng ta. Năm câu ấy chính là đạt giải Bổn nguyên, nên Hòa thượng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã truyền y bát cho ngài, ngài chính là Tổ sư đời thứ sáu của Thiền tông. Câu đầu tiên trong năm câu: “Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh”, Tự Tánh vốn tự thanh tịnh. Câu thứ hai, Tự Tánh “vốn không sanh diệt”, không sanh không diệt, đây là thật không phải giả. Câu thứ ba nói “vốn tự đầy đủ”, đầy đủ thế nào? Đầy đủ tất cả pháp, tuy đầy đủ tất cả pháp, nhưng Tự Tánh không hiện, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Câu thứ tư, “vốn không dao động”, câu này là nói hình dáng của Tự Tánh, Tự Tánh như như bất động. Hết thảy vạn pháp đều là động, không có thứ gì mà không động, nhà Vật lý học hiện nay: đã vạch trần sự bí ẩn của vũ trụ này, vật chất là động, tần số rất cao; Hiện tượng tâm lý cũng là động, hoặc chúng ta nói hiện tượng tinh thần, Tự Tánh không động. Thế thì chúng ta biết, vì sao Phật pháp phải tu định? Bởi vì Tự Tánh vốn định, Tự Tánh vốn không dao động. Chúng ta dùng tâm dao động để muốn thấy tâm không dao động, thì nhìn không được. Làm thế nào mới thấy được? Chúng ta khống chế tâm dao động làm cho tâm không động, thì Chân Tâm hiện tiền thôi. Chỉ cần Chân Tâm vừa hiện ra, thì quý vị thông đạt câu thứ ba rồi, vốn tự đầy đủ là thông đạt rồi. Vậy vốn tự đầy đủ điều gì? Vô lượng trí huệ, vô lượng tài nghệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, vô lượng này là toàn thể vũ trụ. Kinh Hoa Nghiêm nói chi tiết, còn Lục tổ nói đơn giản, nhưng nói ra tất cả rồi. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng một bộ Kinh Hoa Nghiêm, Đại sư Huệ Năng nói năm câu này, [là] không tăng không giảm, Hoa Nghiêm không nhiều hơn năm câu này một câu, năm câu này không ít hơn một câu so với Hoa Nghiêm, điều này là thật không phải giả. Năm câu này chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm vừa cô đọng chính là năm câu này. Câu cuối cùng nói rất tuyệt vời, “có thể sanh vạn pháp”. Vũ trụ từ đâu mà có? Do Tự Tánh biến hiện, Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, cả vũ trụ trong thuật ngữ của Phật pháp nói là biến Pháp giới Hư không giới, là do Tự Tánh sanh ra hiện ra, nên Tự Tánh là Bản thể của vũ trụ vạn hữu. Nhất định phải từ trí huệ, thì thấy được, mà Trí huệ không thể cầu từ bên ngoài, bên ngoài không có Trí huệ, người học Đại thừa nhất định phải biết.

Trí huệ từ đâu ra? Trí huệ là vốn có trong Tự Tánh, chính là Trí huệ là vốn có, không phải đến từ bên ngoài. Khi nào thì Trí huệ hiện? Tâm định rồi liền hiện, trong tâm có Vọng tưởng (có Khởi tâm Động niệm), có Phân biệt, có Chấp trước, thì Trí huệ không hiện nữa. Nên nhất định phải buông xả tất cả Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước, đoạn hết đi, thì Trí huệ Bát-nhã trong Tự Tánh liền hiện ra. Một khi Trí huệ hiện tiền, thì không có thứ gì mà không biết, chẳng những vượt qua Lục đạo, mà cũng vượt qua Thập pháp giới rồi. Họ đến đâu? Họ sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ trong cõi nước chư Phật, hiện cảnh giới này. Nếu chúng ta cũng có thể đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô thỉ Vô minh, thì lúc ấy không thấy Thật Báo Trang Nghiêm độ nữa, lúc đó hiện gì vậy? Là Bản lai Diện mục của Tự Tánh, Bản lai Diện mục là Thường Tịch Quang, một vùng ánh sáng, ánh sáng này không đâu không có, không lúc nào không có. Chẳng những nó có, mà còn như như bất động. Tại sao? Bởi nó không có dao động. Vì vậy chúng ta hiểu rõ rồi, chỉ cần chúng ta buông xuống tất cả Vọng tưởng (Vọng tưởng chính là Khởi tâm Động niệm), Phân biệt Chấp trước, thì Thường Tịch Quang liền hiện tiền. Thường Tịch Quang này là Bản thể của hết thảy pháp, trong kinh Đại thừa, Phật gọi đó là Pháp thân, pháp chính là thân, thân chính là pháp, Pháp thân này là khắp Pháp giới hư không giới, bên trong không có không gian, không có thời gian. Không có thời gian chính là không có bốn phương, bốn góc, trên dưới, không có, không có khoảng cách; không có thời gian là không có trước sau, không có quá khứ, hiện tại, vị lai, không có, quá khứ, hiện tại, vị lai đều đang hiện tiền, mười phương thế giới cũng là đều đang hiện tiền. Đó là cảnh giới gì? Đó là cảnh giới của Pháp thân Như Lai, đó là cảnh giới rốt ráo viên mãn. Thành Phật, chúng ta đoạn hết Tập khí Vô thỉ Vô minh, đó chính là từ Đẳng giác thăng cấp lên Diệu Giác, quay về Thường Tịch Quang rồi. Phật pháp nói rất rõ ràng, nói rất sáng tỏ, nói rất triệt để.

Tu trì của Phật pháp, nói đơn giản, là phá mê khai ngộ. Tại sao mê? Khởi tâm động niệm liền mê rồi. Phật nói rất rõ ràng với chúng ta, chúng ta mở mắt ra có thể nhìn thấy, nếu họ kiến Tánh, trên thực tế không cần đến kiến Tánh, đắc định là được rồi, xem định công của quý vị cạn hay sâu, người định công cạn ở Lục đạo, họ thấy được việc trong Lục đạo vô cùng rõ ràng, quá khứ, hiện tại, vị lai, cõi này phương khác đều nhìn thấy tất cả, là tiểu định. Còn đại định, kiến Tánh rồi, tuy kiến Tánh, như chúng ta đã học phía trước, nhưng chưa đoạn Tập khí Phiền não của Vô thỉ Vô minh. Điều này rất phiền phức, không dễ gì đoạn. Vì sao? Bởi không có cách nào đoạn, nếu có phương pháp thì quý vị khởi tâm động niệm rồi, quý vị liền bị đọa lạc, không thể khởi tâm động niệm. Vậy làm thế nào đoạn Tập khí này? Phương pháp chính là cứ mặc kệ, đừng để ý tới nó, thời gian lâu rồi thì tự nhiên đoạn thôi. Cần thời gian bao lâu? Ở trên kinh Đại thừa, Phật nói với chúng ta: ba a-tăng-kỳ kiếp, thì đoạn sạch sẽ Tập khí rồi. Cho nên Bồ-tát tu thành Minh tâm Kiến tánh vẫn cần ba a-tăng-kỳ kiếp, mới đoạn sạch Tập khí Vô minh, mới thật sự hồi quy Thường Tịch Quang, đó là Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát, chướng ngại mà Tập khí Vô thỉ Vô minh sanh ra đối với quý ngài chính là một việc này, chướng ngại quý ngài trở về Tự Tánh, quý ngài chưa thể trở về Tự Tánh, phải đợi đoạn sạch tập khí, thì quý ngài liền trở về.

Thế nên chúng ta niệm Phật, chúng ta tu hành, là tu gì vậy? Chẳng thể không biết điều này. Không biết thì thế nào? Không biết thì công phu của quý vị đương nhiên không đắc lực. Biết thì sao? Biết thì quý vị biết cách tu thế nào. Đó là Lục căn ở trong cảnh giới Lục trần mà tu, mắt thấy sắc, sau khi thấy rồi thì thế nào? Khởi tâm động niệm, sai rồi. Khởi tâm động niệm là gì? Mê rồi. Tại sao mê? Bởi sắc là giả không phải thật, quý vị coi sắc là thật, vậy thì mê rồi. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, tất cả sắc tướng mà chúng ta nhìn thấy, những gì mắt có thể nhìn thấy, tất cả đều là giả tướng được sanh ra dưới tần số cao: 1 phần 2 triệu 100 ngàn tỷ của giây, không phải là thật. Như chúng ta xem phim, xem TV, không biết đó là giả tướng, mà coi là thật. Nếu biết giả tướng thì thành Phật rồi, tại sao? Bởi thành Phật thì quý ngài không khởi tâm động niệm trên giả tướng đó, biết đó là giả thôi. Có thể tha hồ hưởng thụ, mà không khởi tâm không động niệm, đó là Pháp thân Bồ-tát. Khởi tâm động niệm có thể không phân biệt không chấp trước, đó là Bồ-tát thông thường, Tam hiền Bồ-tát của Biệt giáo, như Đại sư Thiên Thai chia ra, Biệt giáo; ngài Hiền Thủ chia trong Ngũ giáo, là Bồ-tát của Thỉ giáo, Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên, Bồ-tát của Thỉ giáo, quý ngài có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước. Bậc dưới tiếp theo, còn thêm Phân biệt, không có Chấp trước, đó chính là Tiểu thừa, A-la-hán, Bích-chi-phật, có Phân biệt không có Chấp trước. Không có Chấp trước chính là không khởi Kiến tư Phiền não, quý ngài thật sự làm rõ ràng Kiến tư Phiền não rồi, là giả. Phàm phu chúng ta thấy những thứ này, đem giả cho là thật.

Rất nhiều thứ giả, không thứ nào mà không giả, đây là Phật vì phương tiện dạy học mà khởi kiến, quy nạp chúng thành năm loại lớn. Trong loại lớn thứ nhất, năm loại Kiến hoặc. Thứ nhất là Thân kiến, thân này của chúng ta là giả, đừng quan tâm, tất cả tùy duyên. Lão Hòa thượng Hải Hiền nói, tùy duyên tự nhiên là tốt nhất, thuận theo tự nhiên, không nên khởi tâm động niệm. Thứ hai là Biên kiến, Biên kiến chính là đối lập nhau. Chúng ta sống trong thế giới đối lập nhau, có ta, đối của ta là người; Có thiện, đối của thiện là ác; Có nhiễm, đối của nhiễm là tịnh; Có Phật, đối của Phật là chúng sanh, đây đều là Biên kiến. Trong Tự Tánh có hay không? Không có, những thứ này đều là do chính chúng ta đặt ra, chứ hoàn toàn không có những thứ này. Vậy chúng ta ở nhân gian tùy duyên tất cả, được, không để trong tâm, trong tâm không có những thứ này, chung sống với người có ta, có người, có bạn, còn trong tâm thì sao? Trong tâm không có bạn có ta có người khác, không có, vậy thì đúng rồi. Đây là Tiểu thừa, không Chấp trước, có Phân biệt không có Chấp trước. Nếu có tất cả Khởi tâm Động niệm Phân biệt Chấp trước, thì gọi là Lục đạo phàm phu. Dục giới có, người công phu Thiền định sâu ở cõi Sắc giới vẫn có, nếu quý ngài không có, thì quý ngài thoát khỏi Lục đạo luân hồi đến Pháp giới Thanh văn rồi, trong Tứ thánh Pháp giới: Pháp giới Phật, Pháp giới Bồ-tát, Pháp giới Duyên giác, Pháp giới Thanh văn, quý ngài đi đến nơi đó.

84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn, tất cả đều là đi con đường này, phương pháp khác nhau, cửa đạo khác nhau, nhưng phương hướng là một, mục đích là một. Nên trên Kinh Kim Cang mới nói: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Bất kể quý vị dùng Pháp môn nào, quý vị cũng sẽ đi đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật, đây là mục tiêu của quý vị, là phương hướng của quý vị, bất kỳ một phương pháp nào cũng có thể thông đạt, đều có thể đến nơi, nên nói là bình đẳng. Chưa đến nơi thì không bình đẳng, sau khi đến nơi liền biết hoàn toàn bình đẳng. Pháp môn thông thường của Phật dạy chúng ta tu là: Giới Định Huệ, một khái niệm quan trọng nhất trong Giới Định Huệ, [là] “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, “đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách”, đây là Giới. Nếu quý vị muốn khai ngộ, nếu quý vị muốn Minh tâm Kiến tánh, thì quý vị phải đi con đường này. Bốn câu này là đối với tầng lớp tri thức mà nói, tầng lớp tri thức thích học nhiều, thì Phật dùng phương pháp này. Học rộng nghe nhiều thì loạn rồi, phải một môn, học một thứ, trong vô lượng Pháp môn học một thứ. Học một thứ thì tâm định, học nhiều thì tâm loạn; Học một thứ dễ được định, học nhiều thứ không dễ đắc định, nhất định phải biết đạo lý này.

Tu học của Phật pháp lấy gì làm chủ? Lấy Tam-muội làm chủ, Tam-muội là cốt lõi, sau khi đạt được Tam-muội mới khai ngộ. Tam-muội của Tiểu thừa chính là tâm thanh tịnh mà trên tựa đề Kinh của chúng ta nói, Tam-muội của Đại thừa là tâm bình đẳng. Quý vị xem, chúng ta đối người, đối việc, đối với điều gì cũng phải bình đẳng, bình đẳng chính là không có Phân biệt, có Phân biệt thì không bình đẳng, có Chấp trước nhất định chính là ô nhiễm, là không thanh tịnh, không có Chấp trước thì tâm thanh tịnh hiện tiền. Việc này nói thì dễ, nhưng làm rất khó, quá khó rồi, chúng tôi đã làm mấy chục năm, mà làm chưa được. Vì vậy hiện nay quay đầu rồi, quay đầu tu thế nào? Quay đầu cầu A Mi Đà Phật, quay đầu chính là Tịnh Độ. Với Tịnh Độ, quý vị không cần phải đoạn những Phiền não chướng ngại này, không cần tận lực để đoạn trừ, có phương pháp tốt nhất khiến tự nhiên không thấy nữa, điều này vi diệu, đó chính là: tín, nguyện, trì danh, quan trọng nhất là trì danh. Tín này là thật tin, không có một chút hoài nghi, quý vị mới có thể thành tựu. Nếu quý vị nghi ngờ, Thế giới Tây Phương Cực Lạc có thật không? Thì quý vị không đi được, không có phần đối với quý vị. Vì sao không được hoài nghi? Bởi quý vị phải hiểu Lý, Thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là do Tự Tánh biến hiện, rời khỏi Tự Tánh thì không một pháp nào có thể được, A Mi Đà Phật cũng là do Tự Tánh biến hiện, phải biết điều này. Tự Tánh của ta biến ra thì sao lại không có chứ? Cảnh giới hiện tiền của chúng ta là do Tự Tánh biến ra, hiện tiền quý vị cho rằng là có, vậy thì Thế giới Cực Lạc có; Nếu hiện tiền quý vị không có, vậy Thế giới Cực Lạc cũng không có, là việc như vậy. Những gì biến ra bên ngoài chúng ta không biết, có thể hoài nghi, còn những gì Tự Tánh biến ra mà quý vị cũng hoài nghi được sao? Quý vị xem hai ngày này làm Tam Thời Hệ Niệm, Hệ Niệm Pháp Sự của Thiền sư Trung Phong, trong quyển sách đó, có hai câu nói rất rõ ràng, 我心即是阿彌陀佛,阿彌陀佛即是我心。此方即是淨土,淨土即是此方 “ngã tâm tức thị A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức thị ngã tâm. Thử phương tức thị Tịnh Độ, Tịnh Độ tức thị thử phương” (Tâm ta tức là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức là tâm ta. Nơi này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là nơi này). Tại sao vậy? Bởi cùng do một Tự Tánh biến ra. Tự Tánh là giống nhau, chúng sanh giống với Phật, chúng sanh giống với thực vật, chúng sanh giống với núi sông đại địa, khoáng vật, đều là một Tự Tánh, tất cả pháp không rời Tự Tánh. Tự Tánh là viên mãn, trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn.

Tất cả chư Phật đều nói Pháp môn này: là khó tin, nhưng dễ hành, tu rất dễ, không vất vả, một câu A Mi Đà Phật, câu này tiếp nối câu kia, tuyệt đối không để cảnh giới bên ngoài vào trong tâm, ngay cả Phật pháp, trên Kinh Kim Cang nói, “pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp”. Phật pháp cũng là do Tự Tánh sanh, trong Tự Tánh vốn là đầy đủ tất cả vạn pháp, không thiếu một pháp nào. Khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ, từ trong Tự Tánh lưu xuất ra nhiều Kinh điển như thế. Chúng ta phải cầu ngộ, nếu không ngộ thì cầu sanh Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ thì trong tâm chỉ có thể có A Mi Đà Phật, chỉ có thể có Thế giới Cực Lạc, ngoài A Mi Đà Phật, ngoài Thế giới Cực Lạc, thì buông xuống tất cả, ngày ngày nghĩ A Mi Đà Phật, nghĩ Thế giới Cực Lạc, tâm tưởng sự thành. Năng lượng của niệm lực quá lớn rồi, không thể nghĩ bàn, nhà khoa học đã chứng minh cho chúng ta điều này, vãng sanh Thế giới Cực Lạc dựa vào niệm lực, niệm lực kết hợp với nguyện lực của A Mi Đà Phật, thì thành công rồi. Nguyện lực của đức A Mi Đà chuyên nhất, niệm lực của chúng ta cũng chuyên nhất, đó là đi vào quỹ đạo rồi. Phải làm rõ ràng, phải làm sáng tỏ điều này, chẳng thể không tin. Chúng ta tin tưởng, chúng ta thật làm, thì một đời này viên mãn thành tựu, giải thoát rồi. Chúng ta không thể thật làm, vẫn có do dự, vẫn mang theo nghi ngờ, thì sai rồi, đời này chúng ta đến uổng rồi, đời sau vẫn phải làm Lục đạo luân hồi, không biết phải làm đến đời nào.

Làm thế nào để thành công? Đại sư Chương Gia dạy chúng ta: nhìn thấu, buông xuống. Nhìn thấu chính là làm rõ ràng, làm tường tận đạo lý. Chúng ta thật sự quá may mắn, may mắn hơn Đại đức xưa. Cổ Đại đức sanh ra là thái bình thịnh thế, còn chúng ta sanh ra là đời loạn, nếu cổ Đại đức sanh vào thời đại ngày nay đây, chưa hẳn có thành tựu. Chúng ta sanh vào thời đại này, chúng ta đã gặp được Bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, thiện bản của Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, thời xưa không có, đây là điều chúng ta may mắn hơn Cổ nhân; Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, hiện nay xuất hiện rồi, Cổ nhân không nhìn thấy. Tại sao? Bởi Bản Hội Tập và Tập Chú này thật sự nói rõ ràng, nói sáng tỏ, nói thấu triệt về Thế giới Cực Lạc, nhổ sạch gốc hoài nghi của chúng ta, giúp chúng ta thuận buồm xuôi gió trên đường vãng sanh Thế giới Cực Lạc, Cổ nhân không có điều này. Lại thêm lão Hòa thượng Hải Hiền làm chứng minh cho chúng ta, tác chứng chuyển. Sự thật, chúng ta gặp được Tam chuyển Pháp luân của Như Lai rồi. Tuy đã gặp, nhưng người thật sự tin tưởng, thật sự tu hành vẫn không nhiều. Vậy nguyên nhân gì? Đó là Tập khí Phiền não tích lũy trong đời quá khứ từ vô lượng kiếp đến nay quá nặng. Hoàn cảnh khách quan, sức mạnh cám dỗ trong xã hội hiện nay của chúng ta đây quá lớn, không chịu nổi cám dỗ, lơ là việc tu hành. Gặp được rồi, tuy cũng tu, nhưng không thể nghiêm túc, đời này không có tu thành công, đời sau tiếp tục trở lại, chỉ có dựa vào điều này. Đời này phải đoạn ác tu thiện, thật sự làm tốt Ngũ giới Thập thiện. Tại sao? Bởi đời sau không mất thân người, còn có thể làm tiếp. Nếu đời này bỏ đi Ngũ giới Thập thiện, vậy thật phiền phức rồi. Vì sao? Bởi quý vị đến ba đường ác rồi, như thế rất đáng sợ. Nếu quý vị có trí huệ, quý vị hạ quyết tâm, trong đời này của tôi, tôi chỉ tu bốn chữ: tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, thì quý vị nhất định vãng sanh, đây là thật chứ không phải giả.

Chúng ta lại xem tiếp, 又從上引《大乘義章》可見智慧,即真心體明,自性無闇。故知正當智慧深廣如海時,其內心亦必清淨,無惡無過,離垢離染,絕諸塵勞 hựu tùng thượng dẫn Đại Thừa Nghĩa Chương khả kiến Trí huệ, tức Chân Tâm thể minh, Tự Tánh vô ám. Cố tri chánh đương Trí huệ thâm quảng như hải thời, kỳ nội tâm diệc tất thanh tịnh, vô ác vô quá, ly cấu ly nhiễm, tuyệt chư trần lao” (thêm nữa theo Đại Thừa Nghĩa Chương được trích trên có thể thấy rằng Trí huệ, chính là Chân Tâm thể minh, Tự Tánh không tối tăm. Nên biết ngay khi Trí huệ sâu rộng như biển, thì nội tâm ấy cũng nhất định thanh tịnh, không có ác không có lỗi, lìa cấu lìa nhiễm, hết các trần lao). Điều này cũng là tùy việc mà xét, nói rất hay! Trí huệ là gì? Trí huệ là Chân Tâm, thể của Chân Tâm là minh. Minh là gì? Không gì không biết, chúng ta nói vô lượng trí huệ. Tự Tánh không tối tăm, tối tăm là mặt trái của sáng tỏ, tối tăm là vô tri, Tự Tánh là tri, ám cũng chính là Vô minh mà chúng ta thường nói, ám là Vô minh, Tự Tánh vốn minh, không phải là Vô minh, Tự Tánh không động, động liền trở thành tối tăm, biến thành Vô minh rồi.

Vì vậy sáu căn của chúng ta, điều này biểu hiện ở trước nhất: mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể tiếp xúc, ý có thể nhận biết, lục căn: mắt tai mũi lưỡi thân ý, lục căn đối với cảnh giới lục trần bên ngoài: mắt đối với sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý đối với biết, là tu ở trong đó. Tu lục căn ở trong cảnh giới lục trần, nhất định phải biết lục trần là giả, không có gì là thật. Vì vậy Bồ-tát tùy duyên, Bồ-tát không phan duyên, nếu coi là thật thì phan duyên rồi, không cho là thật thì không phan duyên. Coi thật thì thế nào? Lời của chúng ta thường nói là: để điều đó trong tâm. Không để trong tâm thì tốt rồi, không coi là thật. Không nên để trong tâm, tất cả đều là giả, ngay cả thân cũng là giả, Lục căn, Lục trần, Lục thức toàn là giả thôi, không có thứ gì là thật. Chúng ta xem Bách Pháp, Luận Bách Pháp Minh Môn, 8 thức 51 tâm sở, Sắc pháp, tâm Bất tương ưng Hành pháp, đều là giả, không có thứ nào là thật. Vậy làm sao đây? Không để trong tâm thì tốt, không có việc gì cả. Nếu để trong tâm thì hỏng rồi, để trong tâm là Vọng tâm, không phải Chân Tâm, nhất định phải biết đạo lý này. Đừng để bất kỳ điều gì trong tâm, chỉ để A Mi Đà Phật trong tâm thì đúng rồi.

Lão Hòa thượng Hải Hiền xuất gia năm 20 tuổi, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu: Nam Mô A Mi Đà Phật, bảo ngài để câu này trong tâm, cứ niệm liên tục. Ngài niệm đến 112 tuổi thì vãng sanh, đã niệm 92 năm. Sư phụ thật tuyệt vời, Sư phụ là Pháp thân Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh, nếu không phải vậy thì không biết được người. Sư phụ ngài biết, căn tánh của ngài tốt, đi đường này đối với ngài thì nhất định sẽ thành tựu, nên lão Hòa thượng chỉ dạy ngài một câu như thế. Ngài liền thật làm, ngài Hải Hiền thật thà, nghe lời, thật làm, vả lại dùng tâm chân thành: để sống, làm việc, đối người tiếp vật. Đối người tiếp vật một tấm chân thành, cả đời chưa từng lừa gạt người, cả đời đối với người không có sự không cung kính, những gì Phật dạy bảo thì ngài làm được tất cả rồi, tuy ngài không học, nhưng đều làm được rồi. Thật sự là nhìn thấu buông xuống triệt để, làm điều mà người khác không thể làm, nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn. Người như vậy: nắm chặt phương pháp tín nguyện trì danh này, thông thường mà nói sẽ không quá ba năm, thì ngài được Công phu Thành phiến rồi.

Công phu Thành phiến là cảnh giới gì? Chưa đoạn Phiền não, nhưng Phật hiệu đắc lực, chính là công phu đắc lực, có thể phục phiền não xuống, dù có phiền não, thì [niệm] “A Mi Đà Phật” sẽ hóa giải, vọng niệm vừa khởi, thì A Mi Đà Phật, liền giải quyết rồi. Chỉ có một ý niệm, không có ý niệm thứ hai nối tiếp, đó là Công phu Thành phiến. Có công phu như vậy, lão nhân gia nói với chúng ta, A Mi Đà Phật sẽ đưa tin tức đến, cũng chính là A Mi Đà Phật sẽ hiện thân cho quý vị thấy. Sự hiện thân này là làm chứng minh cho quý vị: thật có A Mi Đà Phật, quý vị tận mắt nhìn thấy rồi. A Mi Đà Phật sẽ nói với quý vị, sẽ khích lệ quý vị: con niệm Phật được rất tốt, cứ tiếp tục niệm, thọ mạng của con còn bao lâu, đợi đến khi con mạng chung, thì A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn con. Quý vị xem thông báo tin tức cho quý vị, vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, quý vị có thể không tin hay sao?

Vì vậy, có rất nhiều người lợi căn, cơ hội này khó được, khi nhìn thấy A Mi Đà Phật liền thỉnh cầu A Mi Đà Phật: con không cần thọ mạng nữa, bây giờ con đi theo Ngài. Phật liền dẫn đi ngay, Phật thật dẫn họ đi rồi, là đa số. Còn thiểu số, người phát tâm Bồ-đề, người có tâm từ bi sâu nặng, thì Phật khuyên họ trụ thêm ở thế gian bao nhiêu năm, đừng vội ra đi, làm tấm gương tốt cho nhà Phật, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật cầu vãng sanh. Đó chính là tiếp nhận lời phó chúc của A Mi Đà Phật, làm biểu pháp, lưu lại ở thế gian để biểu pháp, ngài Hải Hiền chính là thuộc bậc ở lại thế gian để biểu pháp. Ngài không sợ khổ, ngài có thể nhẫn, còn người không nhẫn được, thì Phật tiếp dẫn họ đi rồi, không làm khó họ. Người không sợ khổ, chịu làm biểu pháp, thì Phật dặn họ ở thế gian biểu pháp. Họ ở thế gian biểu pháp, công phu: tín nguyện trì danh này không gián đoạn, từ Công phu Thành phiến nâng lên Sự nhất tâm Bất loạn: cần thời gian bao lâu? Cũng không qua 3 năm 5 năm thì họ đạt được rồi, người công phu siêng năng thì 3 năm chắc chắn đạt được. Đạt được Công phu Thành phiến, thì vãng sanh tự tại rồi, nhưng họ vẫn chưa muốn đi. Tại sao vậy? Bởi biểu pháp cho người thế gian. Và ở thế gian này thì tốc độ tu hành nhanh hơn nhiều, chịu đựng được khảo nghiệm, từ Sự nhất tâm nâng lên đến Lý nhất tâm cũng chỉ cần thời gian 3-5 năm. Lý nhất tâm, là cảnh giới bình đẳng với Đại triệt Đại ngộ Minh tâm Kiến tánh bên Thiền tông, cũng chính là nói họ cùng một cảnh giới với Lục tổ Đại sư Huệ Năng, lúc ấy thì không gì không biết, họ kiến Tánh rồi. Kiến Tánh thành Phật, họ ở thế gian, đó là chân Thiện tri thức, đại Thiện tri thức. Không nhất định dùng thân phận gì, ngài Hải Hiền là thị hiện xuất gia, còn có rất nhiều Cư sĩ tại gia, như lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: đều là Pháp thân Bồ-tát, không phải người phàm, các ngài ở thế giới này, giúp đức Phật tiếp dẫn chúng sanh, đang giúp A Mi Đà Phật. Ngài Hải Hiền làm chứng minh cho chúng ta, chứng minh quan trọng nhất, là chứng minh: thật có Thế giới Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật, 48 nguyện độ chúng sanh là thật chứ không phải giả, điều này thật tuyệt vời! 20 tuổi học tập Pháp môn này, tôi tin ngài được Sự nhất tâm Bất loạn vào khoảng 30 tuổi, mười năm công phu nhất định đạt được rồi, ngài được Lý nhất tâm Bất loạn nhất định không quá 40 tuổi, phía sau toàn là du hý thần thông.

Phật Bồ-tát biết: Tịnh tông trong xã hội hiện nay của chúng ta có khó khăn, mà từ nay về sau Pháp môn tu học của các tông phái khác không dễ dàng thành tựu, là thật, chỉ có Tịnh Độ dễ thành tựu. Vì vậy Phật không thể nhìn thấy mà bỏ mặc, để cho lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp, pháp ấy là cứu tai nạn lần này của chúng ta. Bởi vì Bản Hội Tập, Tập Chú này của Niệm lão, bị rất nhiều người phê bình, rất nhiều người hủy báng, thời gian rất dài, gần 20 năm, bao nhiêu người chiếu theo bản này tu hành đều thoái tâm rồi, không dám học nữa, thay đổi bản khác. A Mi Đà Phật quan tâm việc này, nên phó chúc lão Hòa thượng Hải Hiền: nhất định phải biểu pháp như vậy, giúp đồng học Tịnh tông khôi phục tín tâm.

Trong thời gian dài như vậy, không có ai đứng lên để biện luận, chỉ có Pháp sư Hoằng Lâm, đó cũng không phải là người bình thường, rất vất vả, đã dùng thời gian mười mấy năm biên soạn thành quyển sách này, “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng”, quyển sách này để biện luận thay cho chúng ta, nói rõ ràng, nói tường tận, nói thấu triệt sự việc này, giúp mọi người lấy lại niềm tin. Làm sao biết được? Vào tháng 1 năm 2013, có vài đồng học đã mang quyển sách này đến chùa Lai Phật để gặp lão Hòa thượng Hải Hiền. Lão Hòa thượng nhìn thấy họ mang theo vài quyển sách, nên hỏi họ là sách gì, thì họ nói với ngài, tên của sách này là “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng”. Sau khi lão Hòa thượng nghe xong, vô cùng vui mừng, giống như báu vật trông chờ rất lâu, bây giờ đã nhận được. Lập tức cầm quyển sách này, mặc áo tràng đắp y, yêu cầu mọi người chụp hình cho ngài. Cả đời lão Hòa thượng chưa bao giờ chủ động bảo người chụp hình cho ngài, chỉ có lần ấy. Chắc hẳn là A Mi Đà Phật dặn ngài: khi nào con nhìn thấy quyển sách này, thì con có thể vãng sanh rồi. Vui mừng, biểu pháp viên mãn rồi. Chụp hình xong thì ngày thứ ba lão Hòa thượng ra đi rồi, tự tại, không nói với bất kỳ người nào, tự tại. Vào ngày ra đi, vẫn làm việc cả ngày trong vườn rau, làm đất, tưới nước, nhổ cỏ, đã làm cả ngày, buổi tối ra đi rồi. Đều là làm cho chúng ta xem, chúng ta phải biết xem. Những gì lão Hòa thượng biểu diễn vào ngày ra đi cuối cùng ấy, đó chính là lời của thời xưa: 一日不作,一日不食 “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (Một ngày không làm, thì một ngày không ăn), nghiêm túc có trách nhiệm, thời gian vãng sanh đến rồi cũng đâu ra đó. Ra đi rất gọn gàng sạch sẽ, vô cùng hoan hỉ. Đã đi vào ngày thứ ba, có một số tín đồ lên núi để gặp lão Hòa thượng, nhìn thấy lão Hòa thượng gương mặt tươi cười, giống như đang ngủ, mỉm cười.

Biểu pháp ấy của ngài viên mãn rồi, phần còn lại chính là những người chúng ta đây phải biểu pháp. Nhất định phải chăm chỉ, nhất định thật tin, thật nguyện, niệm tốt câu Phật hiệu này, buông xuống những thứ giả bên ngoài, nhất thiết đừng để trong tâm, trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, chỉ có Thế giới Cực Lạc, vậy thì đúng rồi. Học giảng Kinh Vô Lượng Thọ, tốt, mong rằng đọc nhuần nhuyễn bộ Kinh này, mỗi ngày phải đọc, có thể đọc thuộc lòng vẫn phải đọc, tuyệt không được buông lơi, làm tấm gương cho người khác xem. Có cơ hội thì giảng, một người cũng giảng, hai người cũng giảng, trăm ngàn người cũng giảng, ưa thích giảng. Càng giảng càng sáng tỏ ý nghĩa của kinh, tín tâm tăng trưởng, nguyện tâm kiên định, làm gì có đạo lý không vãng sanh!

Vì vậy trí huệ là Chân Tâm thể minh, hiện tượng tự nhiên, Tự Tánh không có tối tăm. Ngay khi trí huệ sâu rộng như biển, thì nội tâm nhất định thanh tịnh, không có ác không có lỗi, lìa cấu lìa nhiễm, hết các trần lao. Mấy câu này chính là thanh tịnh bình đẳng giác, tựa đề kinh của Kinh Vô Lượng Thọ hiển thị ra tất cả cho chúng ta rồi. Trần là ô nhiễm, lao là Phiền não, nhất định không có ô nhiễm, nhất định không có Phiền não. 故云:內心清淨絕塵勞也。如《心經》云:行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄 “Cố vân: nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao dã. Như Tâm Kinh vân: hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa thời, chiếu kiến Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” (Nên nói rằng: nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao. Như trong Tâm Kinh ghi: khi thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu, soi thấy năm uẩn đều không, độ hết thảy khổ ách). Mọi người thường đọc Tâm Kinh, câu nói này hết sức quan trọng. Làm thế nào quý vị có thể lìa khổ được vui? Tất cả nhờ vào việc soi thấy Ngũ uẩn đều không. Ngũ uẩn là gì? Hiện tượng vật chất mà người đời ngày nay nói chính là sắc pháp trong Ngũ uẩn, hiện tượng tinh thần hoặc nói là hiện tượng tâm lý chính là thọ tưởng hành thức trong Ngũ uẩn; Nói cách khác, Ngũ uẩn bao gồm toàn bộ vũ trụ, Ngũ uẩn bao gồm tất cả pháp. Quý vị có thể thấy rõ ràng, thấy sáng tỏ tất cả pháp này, Ngũ uẩn có hiện tượng, không có tự thể. Thể, [do] nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, đó là giả, không phải thật, quý vị thấy rõ ràng, thấy sáng tỏ, không để trong tâm, liền được Tam-muội. Buông xuống sắc thọ tưởng hành thức thì được định, có thứ này trong tâm, thì tâm không thể được định, sẽ rất nhiều vọng niệm, sẽ rất nhiều tạp niệm. Tức là quý vị có thứ này, buông xuống thứ này, sau khi buông xuống thứ này, thì tạp niệm, vọng niệm không còn nữa.

Tiếp theo nói, 絕 “tuyệt”, chính là ý nghĩa của đoạn, ý nghĩa của diệt, 徹無也“triệt vô dã” (hoàn toàn không có), triệt để không có. 塵勞者,煩惱也。因貪瞋等煩惱,如塵垢蔽覆真性 “Trần lao giả, Phiền não dã. Nhân tham sân đẳng Phiền não, như trần cấu tế phú Chân Tánh” (Trần lao: là Phiền não. Bởi vì các Phiền não tham sân vân vân, như trần cấu che lấp bao phủ Chân Tánh). Tham sân si mạn nghi, đây là Tư hoặc, thêm Kiến hoặc: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ kiến, Tà kiến, hợp thành mười loại lớn, mười loại lớn này đều có thể nhiễu loạn thân tâm của chúng ta, ở đây nói 勞亂身心 “lao loạn thân tâm” (mệt nhọc rối loạn thân tâm). Lao là nói về thân, loạn là nói về tâm, tâm tư rất loạn, không thể chuyên nhất. Dùng phương pháp gì? Dùng niệm Phật để đối trị, dùng tín nguyện coi như trợ duyên, tôi thật sự tin có Thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, tôi thật sự mong muốn vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc. Tâm này phải khẩn thiết, đó chính là tâm Vô thượng Bồ-đề, thêm một câu Phật hiệu này nữa, khôi phục sự thanh tịnh của thân tâm chúng ta, khôi phục sự bình đẳng của thân tâm, có đủ điều kiện vãng sanh rồi. Vì vậy chúng ta dùng một câu Phật hiệu, trong một câu Phật hiệu có Tam học: Giới Định Huệ viên mãn, có Tam huệ: Văn Tư Tu viên mãn, là những gì Bồ-tát tu, trong một câu Phật hiệu có viên mãn tất cả danh hiệu của tất cả chư Phật Bồ-tát, đều ở bên trong. Một câu Phật hiệu chính là viên mãn của Tự Tánh, chính là toàn thể của Tự Tánh, A Mi Đà Phật là tên của Tự Tánh, nắm chắc một câu này, thì đều nắm được tất cả pháp thế gian và xuất thế gian rồi, không sót một pháp nào, công đức không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên.

Chúng ta xem văn tiếp theo, 如上智慧深廣,清淨絕塵,故超越無邊無數畜鬼地獄之門,不墮三惡道,並迅速達到菩提之究竟彼岸 “như thượng Trí huệ thâm quảng, thanh tịnh tuyệt trần, cố siêu việt vô biên vô số súc quỷ địa ngục chi môn, bất đọa tam ác đạo, tịnh tấn tốc đạt đáo Bồ-đề chi cứu cánh bỉ ngạn” (Trí huệ sâu rộng như trên, thanh tịnh hết bụi bẩn, nên vượt qua vô biên vô số cửa súc sanh ngạ quỷ địa ngục, không đọa vào ba đường ác, đồng thời nhanh chóng đạt đến bờ kia rốt ráo của Bồ-đề). Bờ kia của rốt ráo chính là Thế giới Cực Lạc, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, chính là nhanh chóng đạt đến bờ kia rốt ráo của Bồ-đề. Bồ-đề là tiếng Phạn, dịch sang ý nghĩa của nước ta là giác, giác thì không mê, giác chính là sáng suốt, giác chính là biết rõ. Bờ Bồ-đề rốt ráo chính là cứu cánh giác. Một sát-na khi chúng ta đoạn sạch sẽ Tập khí Vô thỉ Vô minh, đó gọi là cứu cánh giác, trí huệ của quý vị không khác với chư Phật Như Lai.

Trước đức Thích Ca Mâu Ni Phật không có Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật là thành Phật thế nào? Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta trong Yếu Giải, đức Thích Ca thành Phật là do niệm A Mi Đà Phật mà thành Phật, nói không sai. Sau khi thành Phật, tất cả kinh thuyết trong 49 năm [Ngài] học với ai? Thế Tôn làm thị hiện cho chúng ta, cũng chính là biểu pháp, những gì Ngài thể hiện là xuất thân vương tử, nếu Ngài không xuất gia, thì thừa kế vương vị. 19 tuổi rời khỏi gia đình, xả bỏ quyền thừa kế vương vị, từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, để xuất gia tu hành, chúng ta nói tham học. Tất cả tôn giáo, tất cả học phái ở Ấn Độ, Ngài đều đi học qua. Học hết 12 năm, Ngài không bằng lòng. Tại sao? Bởi không thể giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn đề gì? Vấn đề sanh tử luân hồi. Vì vậy đến năm 30 tuổi đó, Ngài tham học 12 năm, đều buông bỏ rồi, đến dưới cây Bồ-đề để nhập định, và đã khai ngộ trong định. Chúng ta phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ sự thị hiện này, 19 tuổi xuất gia, là buông xuống Phiền não chướng, quý vị xem có phải như vậy không? 30 tuổi buông bỏ việc cầu học, là buông xuống Sở tri chướng. Buông xuống cả hai chướng, tâm định rồi, trong tâm không có vọng niệm nữa, cũng chính là nói buông xuống tất cả Khởi tâm Động niệm Phân biệt Chấp trước, Ngài khai ngộ rồi. Sau khi khai ngộ, bắt đầu giảng kinh dạy học, đi theo con đường hoằng pháp lợi sanh của Ngài, cũng tức là trong kinh thường nói, 今現在說法 “kim hiện tại thuyết pháp” (nay thị hiện đang thuyết pháp). Đã thuyết 49 năm, 79 tuổi viên tịch, rời khỏi người thế gian chúng ta và nhập Bát-Niết-Bàn. [Đối với] những biểu pháp ấy, chúng ta đều phải xem rõ ràng, xem sáng tỏ.

Tất cả kinh của Ngài giảng, thời bấy giờ kiết tập Kinh tạng ở Ấn Độ là dùng Phạn văn để viết ra, phân lượng lớn, lưu thông đến Trung Hoa là phần ít. Tại sao? Bởi số lượng quá lớn, vả lại kinh là được viết trên lá cây bối đa la, lá cây đó rất dày, làm lỗ hai bên, dùng dây thừng buộc vào, rất vụng về. Dù ở trên biển, hay trên đất liền, trên đất liền đều là dùng lạc đà, dùng ngựa để chở các kinh đó, quý vị biết vất vả biết bao, khó khăn biết mấy! Vì vậy, những người như Đại sư Huyền Trang ở Ấn Độ lựa đi lựa lại, chọn đi chọn lại, chọn kinh quan trọng, cũng không cần những kinh thứ yếu sau nữa, chọn lựa cẩn thận để truyền sang Trung Hoa, đến Trung Hoa lại được lựa chọn rất kỹ lưỡng để phiên dịch. Cho nên rất nhiều kinh đã đến, có rất nhiều nhưng chưa phiên dịch, kinh quan trọng, và hay đều được phiên dịch rồi. Hiện nay bảo tồn phong phú nhất, là Đại Tạng Kinh chữ Hán, người Trung Hoa tôn trọng, quý trọng, bảo tồn được rất nguyên vẹn. Trong sự tưởng tượng của chúng tôi, với những gì năm xưa đức Thế Tôn đã giảng ở đời, nhiều lắm là 1/2, 1/2 còn lại không thấy nữa, chúng ta tìm không thấy, hiện nay ở Ấn Độ cũng tìm không ra.

Làm thế nào mà Ngài nói ra được những điều này? Ai dạy Ngài? Đây là nói rõ một chân tướng sự thật, Kinh điển trí huệ chân thật, như ba điều chân thật của Kinh này nói: Chân thật Chi tế, Trí huệ Chân thật, Lợi ích Chân thật, đến từ đâu vậy? Trong Tự Tánh lưu xuất ra, không do gì khác. Nếu quý vị kiến Tánh, thì quý vị không khác với đức Thích Ca Phật, một khi quý vị mở ra những kinh điển này của Phật thì quý vị hiểu tất cả, không có chướng ngại một chữ nào. Tại sao thế? Bởi Tự Tánh của Phật và Tự Tánh của chúng ta là một Tự Tánh, Tự Tánh của Phật là giác, Tự Tánh của chúng ta thì mê, khác nhau ở đây. Nếu chúng ta phá mê khai ngộ giác rồi, thì không khác gì với Ngài. Vì vậy có lẽ chúng ta đã hiểu được, giáo học của Phật pháp dạy điều gì? Dạy quý vị khai ngộ. Đây là khoa học chân chánh, khoa học là cầu chân, mà chân là vốn có trong Tự Tánh, chứ không phải từ bên ngoài, nói rõ Tự Tánh có vô lượng trí huệ. Trong đời này của chúng ta, vô lượng trí huệ có thể dùng được mấy phần? Một phần mười nghìn, một phần một trăm nghìn, một phần một trăm triệu, chỉ như vậy mà thôi, trí huệ của Tự Tánh là rốt ráo viên mãn. Hiểu rõ đạo lý này thì chúng ta biết, chúng ta có thể không cầu trí huệ hay sao? Trí huệ cầu từ đâu? Nhất định đi theo con đường của Giới Định Huệ, con đường thành Phật của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều là Tam học: Giới Định Huệ. Vì sao trì giới vậy? Bởi được định. Tại sao phải được định? Để khai trí huệ, khai trí huệ mới là mục tiêu cuối cùng của học Phật, mục tiêu cuối cùng, chúng ta chẳng thể không biết. Trí huệ là Tự Tánh vốn đầy đủ, chứ không có ở bên ngoài, Phật nói rất rõ ràng, ngoài tâm không có pháp, tâm chính là Tự Tánh, ngoài Tự Tánh không có pháp. Nên nhất định phải biết, nếu quý vị cầu Phật pháp, thì nhất định từ trong Tự Tánh mà cầu. Trong Tự Tánh cầu thế nào? Tâm định sẽ cầu được. Hiện nay tâm của chúng ta ô nhiễm, không thanh tịnh, đó chính là Lục đạo phàm phu. Vì vậy phải khôi phục tâm thanh tịnh của chúng ta, phải khôi phục tâm bình đẳng của chúng ta. Thanh tịnh, là tâm của Tiểu thừa; Bình đẳng, là tâm của Đại thừa; Giác, đó là tâm của Phật. Pháp thân Bồ-tát thì giác chứ không mê, không ai hỏi quý ngài, thì quý ngài không sanh một niệm; Nếu có người hỏi quý ngài, thì không gì không biết, không gì không thể, được đại tự tại, được đại thần thông.

Phật không độ chúng sanh không có duyên, thế nào là không có duyên? Họ không chịu đến thân cận, họ cũng không đưa ra bất kỳ vấn đề nào đối với Phật, người như vậy không có duyên với Phật. Có thể tin Phật, muốn hướng về Ngài thỉnh giáo, có thể y giáo phụng hành, những người này đều là người có duyên. Pháp vận của đức Thích Ca Phật là 12.000 năm, tính từ sau khi Ngài diệt độ, Chánh pháp 1000 năm, Tượng pháp 1000 năm, Mạt pháp 10.000 năm. Pháp không có Chánh, Tượng, Mạt, không có việc này, vậy Chánh pháp, Tượng pháp đến từ đâu? Từ trong sự khác nhau về căn tánh của chúng sanh mà đến. Cũng chính là nói rõ căn tánh chúng sanh là đời sau không bằng đời trước, Tượng pháp không bằng Chánh pháp, Mạt pháp không bằng Tượng pháp, với 10.000 năm Mạt pháp, trong 10.000 năm có mười lần 1.000 năm, 1.000 năm thứ hai không bằng 1.000 năm thứ nhất. Hiện nay chúng ta là đang ở 1.000 năm thứ hai của Mạt pháp, 1.000 năm thứ hai, năm nay là năm thứ 41, sang năm chính là năm thứ 42, bắt đầu 1.000 năm thứ hai. 1.000 năm thứ nhất phía trước, có không ít Cao tăng Đại đức xuất hiện, 1.000 năm thứ hai thì ít người hơn, về sau 1.000 năm sau cũng không bằng 1.000 năm trước. Làm sao đây? Cho nên đến cuối cùng chỉ còn lại một bộ Kinh này.

Hiện nay chúng sanh ngại rườm rà, ngại phiền phức, Đại Tạng Kinh nhiều như thế, nhìn thấy giá sách thì không muốn xem nữa. Đơn giản thì sao? Đơn giản là còn lại một bộ này. Vì vậy Phật đã nói, khi hết thời Mạt pháp, cũng tức là về sau vẫn còn 9000 năm, lúc đó Phật pháp ở thế gian này hoàn toàn biến mất rồi, chỉ còn một bộ Kinh: Kinh Vô Lượng Thọ. Lão Cư sĩ Mai Quang Hy nói với chúng ta, chắc chắn chính là Bản Hội Tập này, còn có thể lưu lại 100 năm. Sau 100 năm, Bản này cũng không còn nữa, chỉ còn lại một câu Phật hiệu: Nam Mô A Mi Đà Phật, 100 năm; Sau 100 năm tiếp nữa, Phật hiệu cũng không còn. Khi nào trên địa cầu này lại có kinh Phật xuất hiện? Chờ Phật Di Lặc đến, Phật Di Lặc ra đời, ba hội Long Hoa giảng kinh thuyết pháp cho chúng ta, thế gian này lại có Phật pháp. Khó, thật khó! Phật nói những lời này đều là lời thật, đều là lời thật, không phải lời giả, dụng ý ở đâu? Bảo chính chúng ta phải cảnh giác, cơ hội được thân người, gặp Phật pháp quá đáng quý, rất khó được, gặp được rồi nhất định phải trân quý, phải nắm chắc, một đời thành tựu. Không nên bỏ lỡ cơ duyên này, nếu bỏ lỡ một lần, chờ lần tiếp theo thì phải đợi rất nhiều kiếp, thời gian rất dài, thậm chí vô lượng kiếp, quý vị mới gặp được một lần, sao có thể không trân quý chứ?

Chúng ta xem tiếp theo Niệm lão trích dẫn từ Tam Tạng Pháp Số nói, 究竟即決定終極之義也。謂能覺了染心之源,究竟終窮,同於本覺,故名究竟覺 “cứu cánh tức quyết định chung cực chi nghĩa dã. Vị năng giác liễu nhiễm tâm chi nguyên, cứu cánh chung cùng, đồng ư Bổn giác, cố danh cứu cánh giác” (cứu cánh tức là nghĩa quyết định chung cực. Là có thể giác liễu nguồn gốc của nhiễm tâm, rốt ráo cùng tận, đồng với Bổn giác, nên gọi là cứu cánh giác). Giác liễu là gì? Giác ngộ rồi, sáng tỏ rồi. Nhiễm chính là Vọng tâm. Nguồn gốc của Vọng tâm là gì? Nguồn gốc là Chân Tâm. Giống như người chúng ta có cái bóng dưới ánh đèn, chúng ta đây là thật, cái bóng là giả, là vọng. Bóng từ đâu đến? Từ thân mình mà ra. Nên dù là nhiễm hay tịnh, đều là một việc, không phải hai việc, nhiễm tịnh không hai. Mê ngộ cũng là không hai, một thứ là làm cho hồ đồ, một thứ là làm cho sáng tỏ, người hồ đồ cho là có hai, người sáng suốt biết không phải hai. Vì thế người sáng suốt có thể tùy duyên, tùy duyên làm gì? Giúp chúng sanh giác ngộ quay đầu, không có chính mình, nếu có chính mình thì mê rồi. Quý vị xem người mê ở thế gian này nhiều không? Có ngã là mê, vô ngã là khai ngộ, quá quan trọng rồi, chẳng thể không biết. Là có thể giác liễu nguồn gốc của nhiễm tâm, rốt ráo cùng tận, đồng với Bổn giác, nên gọi là cứu cánh giác. Cứu cánh giác chính là chân vọng không hai, là một không phải hai. 是為菩薩大行圓滿,究竟至極之覺,即成佛之位也 “Thị vi Bồ-tát đại hạnh viên mãn, cứu cánh chí cực chi giác, tức thành Phật chi vị dã” (Đó là đại hạnh viên mãn của Bồ-tát, giác ngộ rốt ráo đến tột cùng, tức là quả vị thành Phật). Diệu Giác, Diệu Giác là thế nào? Diệu Giác chính là rốt ráo đến viên mãn, hạnh của Bồ-tát viên mãn rồi, hạnh là tu hành, không còn tu nữa, tu viên mãn rồi, giác viên mãn rồi, đó là thành Phật.

法藏比丘為度生死 “Pháp Tạng Tỳ-kheo vị độ sanh tử” (Tỳ-kheo Pháp Tạng vì vượt sanh tử), đây chính là thị hiện tấm gương cho chúng ta, vì vượt sanh tử, 首求智慧 “thủ cầu trí huệ” (đầu tiên cầu trí huệ), mới thật sự có thể liễu sanh tử xuất Tam giới, nếu không có trí huệ thì làm sao làm được? 以慧照故,內心清淨永絕塵勞“Dĩ huệ chiếu cố, nội tâm thanh tịnh vĩnh tuyệt trần lao” (Bởi trí huệ chiếu soi, nên nội tâm thanh tịnh vĩnh viễn hết trần lao). Trí huệ là gì? Trí huệ chiếu bên trong, trí huệ chiếu vạn pháp bên ngoài, hướng vào trong là chiếu chính mình. Vạn pháp chẳng có chẳng không, không thể nói có, cũng không thể nói không. Tại sao vậy? Bởi quý vị nói không có, nhưng nó có tướng, quý vị nói có, nhưng sanh diệt của nó quá nhanh, hoàn toàn chúng ta không thể nắm bắt. Quý vị xem một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ sanh diệt, trong mỗi một sanh diệt, quý vị có thể nắm bắt được không? Không thể được. Quý vị nói có thì sai rồi, quý vị nói không có cũng sai rồi. Nhất định phải hiểu rõ chân tướng, loại chân tướng này ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta cũng chưa rời khỏi một giây phút nào, chúng ta không thấy được tần số cao như vậy, ở trước mắt chúng ta mà không nhìn ra, ở trước mắt mà không nghe thấy, tốc độ quá nhanh rồi.

Đây là chúng ta dựa vào báo cáo của nhà khoa học hiện đại, xác minh cảnh giới Phật đã nói trong kinh điển. Nhà khoa học biết, nhưng không được thọ dụng. Tại vì sao? Bởi họ là tri thức, sự biết trong Phật pháp là trí huệ. Làm sao Phật biết được? Ngài dùng Giới Định Huệ mà biết, điều này hữu dụng, có thể giúp chính mình vượt qua Lục đạo, siêu việt mười Pháp giới, vãng sanh đến Thật Báo Trang Nghiêm độ, đến nơi đó để làm Pháp thân Bồ-tát, được thọ dụng rồi. Nhà khoa học không được thọ dụng, vì sao? Bởi họ không phải đạt được từ Giới Định Huệ, họ là từ Toán học, từ lý luận của Toán học mà có khả năng này, dùng thêm phương pháp của khoa học để chứng thực, xác nhận, dùng thiết bị quan sát đánh giá được rồi. Vì vậy họ hoàn toàn là dùng vật ngoài tâm để giúp họ tìm được điều này, tìm ra. Tìm ra rồi có khống chế được không? Không thể. Tại sao vậy? Bởi tốc độ quá nhanh, tần số một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần (chính là sanh diệt). Khả năng mắt thường của chúng ta rất có hạn, phim trước đây là hình ảnh động, một giây 24 lần sanh diệt đã đánh lừa chúng ta rồi, hiện nay một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, thì làm sao chúng ta biết được? Sự tồn tại của thân thể chúng ta, nhà cửa chúng ta ở, núi sông đất đai, tất cả đều là ảo tướng được sanh ra dưới tần số hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ này. Ảo tướng từ đâu đến? Do ý niệm của chúng ta sanh ra, thật sự tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Vì thế chúng ta biết, Thế giới Cực Lạc là tâm tưởng sanh, A Mi Đà Phật là tâm tưởng sanh, Lục đạo luân hồi là tâm tưởng sanh, địa ngục A-tỳ cũng là tâm tưởng sanh, xem tâm của quý vị tưởng điều gì, thì hiện điều ấy. Từ trên lý luận này, thì tín tâm của chúng ta đầy đủ rồi, Thế giới Cực Lạc có hay không? Có. Tại sao? Bởi tâm của ta tưởng sanh, cảnh tùy tâm chuyển. Thế giới Cực Lạc ở đâu? Ở ngay chỗ này, là thật chứ không phải giả.

Tất cả pháp: lớn mà không có ngoài, nhỏ mà không có trong, là thật, không giả chút nào, là cảnh giới của Phật chứng đắc. Trước khi Phật giáo chưa đến Trung Hoa, lão Tổ tông nước ta nói ra những lời này, những lời này là vọng niệm của các ngài hay là chân tướng sự thật? Chân tướng sự thật, làm sao lão Tổ tông chúng ta biết được? Tâm thanh tịnh hiện tiền, tuy lão Tổ tông không biết Giới Định Huệ, nhưng trên thực tế các ngài dùng tới rồi, tâm địa thanh tịnh chính là giới, tâm địa bình đẳng chính là định, thanh tịnh bình đẳng thì các ngài khai trí huệ. Vì vậy trên kinh Phật có nói Độc giác, Độc giác là không có Phật ra đời, chính quý ngài có thiện căn phước đức, không có Phật ra đời nhưng quý ngài cũng có thể khai ngộ, thật có, vả lại cũng không ít. Chúng ta sáng tỏ những đạo lý này, liễu giải chân tướng sự thật này, thì những lo lắng của chúng ta đối với sự truyền thừa văn hoá truyền thống có thể yên tâm rồi. Về sau không có thầy nữa, thời đại sau không bằng thời đại trước, có thể có cao nhân không? Có, có những vị Độc giác xuất hiện. Quý ngài không có thầy mà tự thông, đó chính là gì? Tâm của quý ngài thanh tịnh, tâm của quý ngài bình đẳng. Chỉ cần không để những thứ: tham sân si mạn nghi này, đừng để điều này trong tâm, đừng để Thân kiến, Biên kiến, thị phi nhân ngã trong tâm, sẽ khai trí huệ. Nói cách khác, người học Phật, người tu hành, nếu không buông xuống tham sân si mạn nghi, thì nhất định không thể thành tựu, những thứ này chướng đạo, không buông xuống những duyên chướng đạo này, thì làm sao quý vị có thể chứng đạo? Phải buông xuống tất cả, phải hạ thủ từ Kiến tư Phiền não trước. Đến đâu để tu? Tu Lục căn ở trong cảnh giới Lục trần thì đúng rồi, thật tu, đó chính là đạo tràng. Vì vậy người biết tu hành thì nơi nào chẳng phải là đạo tràng! Người không biết tu hành phải đi tìm đạo tràng, trong đạo tràng tràn đầy ô nhiễm, tràn ngập thị phi, tràn ngập phiền não. Thế nên người thật sự tu hành thì đào một cái hang ở trên núi, họ ở trong hang núi, dựng một túp lều bằng cỏ non, sống trong túp lều, đó là chân tu. Ở Sri Lanka chúng ta nhìn thấy không ít người tu hành sống trong hang núi, sống ở túp lều. Tại sao vậy? Bởi thật sự đã buông xuống tham sân si mạn, thật sự đã buông xuống Ngũ dục Lục trần. Hiện nay người cầm bát khất thực ít rồi, rất nhiều tín đồ ở gần đó, họ thay phiên nhau đưa cơm, người xuất gia một ngày ăn một bữa, giữa ngày ăn một bữa, nếp sống này rất hay. Người xuất gia không nhận tiền tài cúng dường, tiếp nhận, theo quy định của Phật, ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men khi bị bệnh, ngoài bốn loại này thì đều không tiếp nhận, tốt! Nên sự tôn kính của chúng tôi đối với Sri Lanka, là bên đó vẫn có thể nhìn thấy Tiểu thừa chân chánh.

Chúng ta xem kinh văn tiếp theo, Tỳ-kheo Pháp Tạng vì vượt sanh tử, đầu tiên cầu trí huệ. Bởi trí huệ chiếu soi, nên nội tâm thanh tịnh vĩnh viễn hết trần lao, 於是杜塞惡趣,速證究竟果覺,故云速到菩提究竟岸。岸者,彼岸也。生死為此岸,涅槃為彼岸。究竟岸者,究竟涅槃之位也 “ư thị đỗ tắc ác thú, tốc chứng cứu cánh quả giác, cố vân tốc đáo Bồ-đề cứu cánh ngạn. Ngạn giả, bỉ ngạn dã. Sanh tử vi thử ngạn, Niết-Bàn vi bỉ ngạn. Cứu cánh ngạn giả, cứu cánh Niết-Bàn chi vị dã” (do đó ngăn chặn lấp kín đường ác, nhanh chóng chứng được quả giác rốt ráo, cho nên nói là tốc đáo Bồ-đề cứu cánh ngạn. Ngạn: là bờ bên kia. Sanh tử là bờ bên này, Niết-Bàn là bờ bên kia. Cứu cánh ngạn là quả vị Niết-Bàn rốt ráo). Vô minh là si, tên khác của ngu si, trong Đại Thừa Nghĩa Chương nói: 痴闇之心,體無慧明,故曰無明 “Si ám chi tâm, thể vô huệ minh, cố viết Vô minh” (Tâm bị si ám, thể không có trí huệ sáng suốt, nên gọi là Vô minh). Vô minh Tham Sân chính là ba độc, Vô minh là si. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 148 )

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật