Responsive Menu
Add more content here...

Tập 150 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ 4: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 150

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 22/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 400, đếm ngược đến hàng thứ hai:

六波羅蜜,即六度,是證涅槃之正因 “Lục Ba-la-mật, tức Lục độ, thị chứng Niết-Bàn chi chánh nhân” (Sáu Ba-la-mật, tức là Lục độ, là chánh nhân của chứng Niết-Bàn). Sáu Ba-la-mật hoàn toàn là buông xuống. Năm xưa Đại sư Chương Gia nói với tôi, học Phật hạ thủ từ đâu? Phật pháp nước ta là Đại thừa giáo, lão nhân gia nói với tôi, bắt đầu từ nhìn thấu buông xuống. Nhìn thấu giúp buông xuống, buông xuống giúp nhìn thấu, năm độ đầu trong Lục độ là buông xuống, cuối cùng Bát-nhã độ là nhìn thấu. Nhìn thấu trước hay buông xuống trước? Căn tánh của mỗi người khác nhau, nhân duyên khác nhau, không có nhất định. Đương nhiên là đại đa số mọi người hạ thủ từ buông xuống trước, nên sự sắp xếp của sáu Ba-la-mật, năm độ đầu đặt ở phía trước, buông xuống, năm độ đều là buông xuống. Bố thí, phần dưới có điều này, buông xuống xan tham, Trì giới buông xuống phá giới, Nhẫn nhục buông xuống sân giận, Tinh tấn là buông xuống lười biếng, Thiền định là buông xuống tán loạn, cuối cùng Bát-nhã là Trí huệ, buông xuống ngu si, đây là nhìn thấu. Chỗ này, lời nhắc nhở này của Niệm lão rất hay. Sáu môn công khóa mà Bồ-tát tu học, từ sơ phát tâm đến địa vị Như Lai, chính là nhìn thấu giúp buông xuống, buông xuống giúp nhìn thấu, hai phương pháp này hỗ trợ lẫn nhau. Học Phật nếu buông không xuống thì không thể thành tựu, cho nên Niệm lão nói với chúng ta ở đây, sáu môn công khóa này là chánh nhân của chứng Niết-Bàn.

Tu học Đại thừa, bất luận là tông phái nào, bất luận là Pháp môn nào, đây là sáu môn công khóa mà đức Phật dạy Bồ-tát tu học, kinh điển Đại Tiểu thừa đều nói. Đại thừa, hầu như không có trong một bộ kinh nào không nói Lục Ba-la-mật. Bố thí đối trị xan tham, sáu môn công khóa này tu đến lúc nào viên mãn? Xan là keo kiệt, tham là tham lam, khi nào chúng ta không còn khái niệm của keo kiệt, không còn dục vọng của tham lam, thì bố thí Ba-la-mật viên mãn. Sáu loại mà Lục độ đối trị đó, tất cả đều là ô nhiễm, ô nhiễm Chân tâm của chính chúng ta, trên Kinh này chính là thanh tịnh bình đẳng, có xan tham thì không thanh tịnh, tâm là dao động thì không bình đẳng. Tu học của Phật pháp, là cầu điều gì, là tu điều gì, mong đạt được điều gì? Chính mình nhất định phải rất rõ ràng về điều này. Nói chung, dùng thuật ngữ của kinh Phật, mục đích tu học của Phật pháp chính là: thành Phật. Thành Phật là ý nghĩa gì? Thành tựu trí huệ viên mãn, đức hạnh viên mãn, tướng hảo rốt ráo, đây là mục tiêu cuối cùng trong việc tu học của Đại thừa Bồ-tát. Dùng phương pháp gì? Trên kinh Đại thừa nói 84.000 Pháp môn, trong Tứ hoằng Thệ nguyện nói vô lượng Pháp môn. Vô lượng Pháp môn quy nạp lại không ngoài sáu loại lớn này, sáu loại lớn này triển khai ra chính là 84.000 Pháp môn, 84.000 Pháp môn quy nạp lại chính là sáu loại, sáu loại lớn này. Nên cảnh giới hàm chứa trong mỗi một độ là không có giới hạn, vô lượng vô biên.

Chúng sanh đối với tất cả pháp đều tham luyến, đều mong cầu, phân biệt chấp trước, như vậy biến vốn là Phật thành chúng sanh Lục đạo, trong mắt của Phật thấy chúng sanh thật đáng thương. Mỗi một chúng sanh: vốn dĩ giống với tất cả chư Phật, không khác với A Mi Đà Phật, vì sao ngày nay trở thành như thế này? Đầu tiên chính là mê rồi, mê là ngu si, vô lượng trí huệ vốn có trong Tự Tánh, sau sự mê này, Trí huệ trở thành Phiền não, trở thành vô lượng Phiền não. Hiện nay Phật dạy chúng ta, phải buông xuống điều này, trước hết đem dục vọng của quý vị, dục vọng hưởng thụ đối với vật chất, dục vọng hưởng thụ trên tinh thần: thảy đều buông xuống. Có người nói đây là hưởng thụ của đời người, buông xuống rồi, thì làm người còn có ý nghĩa gì nữa? Phàm phu chỉ biết một mà không biết hai. Sự vui vẻ mà phàm phu đã biết, chúng ta dùng một danh từ phổ biến để giải thích, đều là một chút kích thích, họ không hưởng thụ được niềm vui chân thật. Hình như hiện nay thế gian này, rất nhiều người trẻ tuổi hút thuốc phiện, quý vị hỏi họ vì sao hút thuốc phiện? Bởi khoái lạc. Ma túy, dùng moóc-phin, là loại vui này. Niềm vui này, giá phải trả là mạng sống, là cực kỳ đau khổ, vui ở chỗ nào?

Trong Phật pháp có niềm vui hay không? Có. Ngay cả pháp thế gian, hễ là ai thuận theo Tánh đức thì có niềm vui. Câu đầu tiên trong Luận Ngữ nói, 學而時習之,不亦說乎 “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học mà thường rèn luyện điều đã học, chẳng phải vui lắm sao), duyệt đây chính là hỷ duyệt, chính là vui vẻ. Niềm vui này từ đâu đến? Học, sau khi học rồi thực hiện, tập chính là thực hiện, thực hiện trong cuộc sống, thực hiện trong công việc, thực hiện trong xử việc đối người tiếp vật, vui vẻ! Chính mình vui vẻ, người khác cũng vui vẻ, chẳng phải vui lắm sao. Duyệt là vui vẻ, loại vui vẻ này không phải là sự kích thích của bên ngoài, mà từ trong nội tâm sanh ra. Chúng ta hoàn toàn nhìn thấy từ trên thân của lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Pháp sư thích bố thí, ngài hoàn toàn dùng sức lao động của chính mình để trồng trọt, thích làm việc tay chân, từ sáng đến tối, không có mệt mỏi, không có chán ngán, mà làm rất vui vẻ, càng làm càng vui. Diện tích đất đai do ngài trồng trọt rất lớn, một mình làm, núi hoang mà cả đời ngài khai thác có 14 nơi, tổng diện tích hơn 100 mẫu. Thời xưa một gia đình nhỏ, năm mẫu đất có thể nuôi sống cả nhà. Ngôi chùa nhỏ của lão Hòa thượng, cũng là một gia đình nhỏ, hoàn toàn dựa vào việc trồng trọt của ngài. Dưới thôn quê đó không có hương hỏa, không có cúng dường, dựa vào điều gì để sống? Dựa vào việc trồng trọt của lão Hòa thượng Hải Hiền. Ngài khai khẩn núi hoang, trồng lương thực, trồng rau, trồng cây ăn trái, còn trồng cây cối, thành tích rất khả quan. Khi thu hoạch, ngoài những gì bản thân cần dùng, thì dư ra rất nhiều. Lão nhân gia sống hết sức tiết kiệm, một hạt gạo cũng không thể lãng phí. Lương thực, rau, trái cây dư ra, ngài không đem đến thị trường để bán, nếu bán thì giá rất cao, nhưng không bán, mà ngài đem đi cứu tế, xung quanh, mấy huyện thành xung quanh, có gặp phải tai nạn, có gặp phải thiếu thốn, thì ngài bố thí, ngài đi làm công việc cứu tế. Cả đời, chúng ta biết 20 tuổi ngài xuất gia, 112 tuổi vãng sanh, 92 năm làm vui không biết mệt. Người dân trong địa phương đều gọi là ngài là Đại thiện nhân, thích bố thí, thích cùng hưởng với mọi người, không phải hưởng riêng mình, mà cùng hưởng, có thể xả mình vì người, đây thuộc về Bố thí tài.

Còn có Bố thí pháp. Cả đời lão Hòa thượng, ngài chưa từng đi học, không biết chữ, suốt đời chưa từng đọc một bộ kinh, cũng chưa từng nghe ai giảng một bộ kinh. Sau khi xuất gia, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu A Mi Đà Phật, dặn ngài cứ niệm liên tục. Ngài thật thà, nghe lời, thật làm, ngài đã niệm một câu Phật hiệu này 92 năm, tự tại vãng sanh. Công phu niệm Phật đến trình độ nào? Tự nhiên là rốt ráo viên mãn. Rốt ráo viên mãn này thật không dễ, rốt ráo viên mãn chính là Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh Thành Phật, ngài thật đạt được rồi. Chúng ta xem từ trong đĩa CD, hiện nay chúng ta đã làm một tập sách nói, tổng cộng chín tiếng, nếu các vị có thời gian thì nên xem nhiều, coi như Kinh Vô Lượng Thọ để đọc. Mỗi một chương tiết đều làm cảm động người, đều là tấm gương tốt nhất, giáo huấn hay nhất, đọc lâu rồi, thì tự nhiên hiểu rõ đối với Tịnh Độ thôi. Sau khi hiểu rõ thì nghi hoặc được đoạn trừ, đoạn nghi sanh tín, quý vị có tín tâm kiên định, có nguyện lực kiên cố đối với Tịnh tông, quý vị nhất định được sanh Tịnh Độ.

Lão Hòa thượng là được chính A Mi Đà Phật dặn bảo, A Mi Đà Phật phái ngài ở thế gian này biểu pháp. Ngài tu rất tốt, tu rất như pháp, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Đọc sách ngàn lần, tuy ngài không đọc ngàn lần, chưa từng đi học, nhưng ngài niệm câu Phật hiệu này, một ngày phải niệm mấy vạn câu, 92 năm không ngưng nghỉ. Trong tâm không có vọng tưởng, không có tạp niệm, chỉ có Phật hiệu, nên ngài niệm đến Nhất tâm Bất loạn. Cao nhất của Nhất tâm Bất loạn là Lý nhất tâm, là cùng một cảnh giới với Minh tâm Kiến tánh, Kiến tánh Thành Phật của Thiền tông, lão Hòa thượng chứng được rồi, thật sự không thể nghĩ bàn; Nói cách khác, dùng lời của Thiền tông để nói, ngài khai ngộ rồi, Đại triệt Đại ngộ. Do đó Trí huệ Bát-nhã trong Tự Tánh hiện tiền, ngài không có điều gì mà không biết, thỉnh thoảng cũng đã để lộ một-hai câu với người khác, ngài nói điều gì tôi cũng biết, nhưng là không nói. Nên Phật khen ngợi ngài tu rất tốt, có thể làm tấm gương cho đồng học học Phật, tất nhiên thêm nữa là điển hình tốt nhất cho Pháp môn niệm Phật cầu sanh Thế giới Cực Lạc. Chúng ta ở thời đại này, học tập theo ngài nhất định sẽ không sai lầm, nhất định sẽ có thành tựu giống như ngài vậy.

Nếu chưa đủ tín tâm, thì xem nhiều đĩa CD này, phim rút gọn đại khái là một tiếng, một ngày có thể xem ba lần, nếu giống như sách nói mà chúng ta biên soạn hiện nay đây, thì khoảng chín tiếng, một ngày xem một lần, đây chính là đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách. Mỗi ngày một lần chín giờ đồng hồ, một năm tức là hơn 300 lần, mỗi ngày niệm Phật 10.000 tiếng, chuyên tu Tịnh Độ, quý vị cắm gốc một năm, không biết lúc nào đó sẽ tự thấy nghĩa của sách, tự thấy là khai ngộ. Sau khi khai ngộ, quý vị giống như lão Pháp sư, điều gì cũng biết. Đây chính là Bố thí pháp, Bố thí vô úy. Quý vị tu ở đâu, người khác không biết, quý vị là người khai ngộ, là đại Thiện tri thức của nhà Phật, chỗ của quý vị ở, được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ, khu vực đó sẽ ít tai nạn. Ngạn ngữ nước ta nói: Một người có phước, có liên quan đến cả khu vực đó, khu vực đó không gặp nạn. Hiện nay ở khu vực, ít người làm thiện, nhiều người làm ác, người làm thiện có hạn, người làm ác vô cùng, người thật tu hành còn hữu dụng không? Hữu dụng, mặc dù họ không thể tiêu trừ nghiệp chướng của đại chúng, nhưng chắc chắn họ có thể giảm nhẹ tai nạn mà đại chúng phải chịu, khẳng định có thể làm được. Lời nói việc làm cử chỉ của họ đều là đang giáo hóa, bên trong có tài thí, có pháp thí, có vô úy bố thí, bố thí viên mãn, nhưng phàm phu không biết. Đối với Phật pháp, đặc biệt là pháp Đại thừa, hơi có một chút thâm nhập, tự nhiên liền có thể thấy được, nhưng nhất thời không nhìn ra, nếu quý vị dụng tâm để xem, số lần xem nhiều thì nhìn ra thôi. Nhìn ra thì quý vị có thể học được, quý vị học được rồi, lợi ích vô lượng vô biên, dần dần không còn tâm keo kiệt nữa, phai nhạt tâm tham ái rồi, thì trí huệ được khai mở. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm ô nhiễm sanh phiền não, trí huệ là đến như vậy, chẳng thể không biết. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, còn Phiền não là gây ra vấn đề.

Thứ hai, Trì giới. Lão Hòa thượng Hải Hiền chưa từng học Giới luật, đại khái chỉ là vào lúc thọ giới, xuất gia, người xuất gia đều phải thọ giới, Giới đàn khi đó, có thầy giảng giải Giới luật. Tam Quy Ngũ giới, Thập giới của Sa-di, giới của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, là giới xuất gia, đi lên có Phạm Võng Bồ-tát giới, Du Già Bồ-tát giới, Anh Lạc Bồ-tát giới, những Giới luật này đều rất phổ biến ở Trung Hoa, ngài nhất định đã học qua những giới bổn này. Tuy không biết chữ, nhưng ngài nghe hiểu được, Giới luật căn bản chính là Ngũ giới Thập thiện, Ngũ giới Thập thiện đều bao gồm tất cả Giới luật ở trong đó, lão Hòa thượng làm được rồi. Không sát sanh, Không dâm dục, Không trộm cướp, Không lưỡng thiệt, Không vọng ngữ, cả đời lão Hòa thượng chưa bao giờ vọng ngữ, đó là trì giới thanh tịnh. Trì giới được tâm thanh tịnh, bố thí, trì giới được tâm thanh tịnh.

Về Nhẫn nhục, công phu Nhẫn nhục của lão Hòa thượng: khiến người bội phục, khiến người tôn kính, suốt đời chưa từng nổi giận, đến đâu để tìm người như vậy? Trong nhà Phật cũng không nhiều. Cả đời chưa từng hủy báng bất kỳ người nào, chưa từng phê bình bất kỳ ai, từ chỗ này thì quý vị biết công phu Nhẫn nhục của ngài; Không có ý niệm của sân giận, Nhẫn nhục Ba-la-mật viên mãn. Từ sáng đến tối, quý vị nhìn thấy ngài đều là hoan hoan hỉ hỉ, nét mặt tươi cười, giống như Bồ-tát Di Lặc. Dù là người xuất gia, hay người tại gia, nam nữ già trẻ đều tôn kính đối với ngài, đều thích thân gần ngài, vì sao vậy? Bởi từ trường của ngài tốt! Người thật sự có tu hành, từ trường khác nhau. Khi tôi mới học Phật, cảm nhận được từ trường, là đạo tràng nhỏ của Đại sư Chương Gia, từ trường rất tốt. Đến đó không nói một câu, đó là một loại hưởng thụ, giúp tâm của quý vị có thể định xuống ở nơi phạm vi cư trú của ngài, có thể không khởi vọng tưởng, không khởi tạp niệm. Phải tu điều này, đặc biệt là đối với người hủy báng quý vị, đối với người lăng nhục quý vị, đối với người hãm hại quý vị mà không có tâm oán hận, quý vị nhìn thấy họ thì sao? Nhìn thấy họ vẫn tôn kính họ, nhất định không có báo thù, tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, chúng ta phải nghiêm túc học. Đồng học học Phật có lẽ đều đã đọc Kinh Kim Cang, trong Kinh Kim Cang có một công án, Tiên nhân Nhẫn Nhục, gặp vua Ca Lợi và bị cắt đứt thân thể. Trong Kinh Niết Bàn giới thiệu chi tiết câu chuyện này, văn tự của Kinh Kim Cang không dài, chỉ là nói sơ qua. Tiên nhân Nhẫn Nhục bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, cũng chính là xử tử lăng trì mà người Trung Hoa thường nói, là dùng dao: cắt thịt của Tiên nhân ra từng miếng, là khiến Tiên nhân chết như vậy, không phải chém đầu, không phải một dao mất mạng, đây thật sự là vô cùng nhục nhã. Tiên nhân Nhẫn Nhục có thể chịu đựng, cuối cùng khi chết nói với vua Ca Lợi, tương lai tôi thành Phật, người đầu tiên độ là ngài. Tiên nhân Nhẫn Nhục chính là đời trước của Thích Ca Mâu Ni Phật, lúc tu Bồ-tát đạo, lúc tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, gặp phải sự việc đó. Khi đức Thế Tôn thành Phật, người đầu tiên được độ, người đầu tiên chứng quả A-la-hán, là Tôn giả Kiều Trần Như, đời trước của ngài Kiều Trần Như chính là vua Ca Lợi. Phật nói lời giữ lời, không vọng ngữ. Không có oán hận, không có báo thù, ngược lại cảm ơn, cảm ơn điều gì? Cảm ơn ngài giúp tôi tiêu nghiệp chướng. Ý niệm này là chánh niệm, chẳng những không trách tội những người đó đã hãm hại mình, mà bản thân còn cảm ơn họ. Chúng ta ở sáu đường, vô lượng kiếp đến ngày nay, không biết tạo bao nhiêu tội nghiệp, làm sao tiêu được hết nghiệp chướng? Nhẫn nhục là tiêu nghiệp chướng của oán hận, nhẫn được thì tiêu trừ rồi, chỉ có Bồ-tát mới có thể làm được, người thông thường làm không nổi. Người bình thường không phục, phải báo thù, ý niệm báo thù này sanh khởi thật đáng sợ, vì sao vậy? Bởi đời đời kiếp kiếp không xong không dứt, vả lại lần sau mãnh liệt hơn lần trước, kết quả rất đáng sợ, tạo tội nghiệp cực trọng, cuối cùng đọa vào địa ngục, hại người hại mình. Đối với người hại chính chúng ta, đều không được oán hận, có oán hận, thì sau này trở thành oan oan tương báo đời đời kiếp kiếp, vô cùng đáng thương, cực kỳ thê thảm. Vì vậy thật sự giác ngộ, chịu đựng được coi như xong, thì nợ này liền hết rồi, sau này sẽ không tiếp tục xảy ra việc đó nữa, đây là người có trí huệ, có đức hạnh, có thể nhẫn, điều gì cũng có thể nhẫn.

精進治懈怠 “Tinh tấn trị giải đãi” (Tinh tấn đối trị lười biếng), tinh là một môn, không tạp. Đồng học học Phật chúng ta mọi người đều mong tinh tấn, người thật tinh tấn không nhiều, người xen tạp tinh tấn cũng không ít. Học Pháp môn, một Pháp môn vẫn còn chê ít, phải học thêm vài Pháp môn nữa, đặc biệt không biết học nhiều thì xen tạp rồi, dù có tiến bộ, nhưng không được gọi là tinh tấn, nhất định phải biết đạo lý này. Dũng mãnh tinh tấn, ngài Hải Hiền làm cho chúng ta thấy rồi, hiểu thị ở đâu? Hiển thị ở một câu Phật hiệu này không rời miệng. Ngài là kim cang trì, quý vị xem nếu ngài không có việc gì, ngài đứng ở đó, ngồi ở đó, thì miệng đang động, không có âm thanh. Quý vị hỏi ngài, thưa lão Hòa thượng, thưa lão Hòa thượng con thấy miệng của ngài đang động liên tục. Ngài nói tôi đang niệm Phật. Miệng không động, không phát ra âm thanh, trong tâm đang niệm Phật, ngài niệm Phật không gián đoạn. Thật sự niệm mệt rồi, thì ngài nghỉ một lúc, rất tự tại; Nghỉ khỏe rồi, thì tiếp tục niệm Phật hiệu ngay lập tức, không chia ngày đêm. Đó gọi là chân tinh tấn, đối trị lười biếng. Phàm phu thật sự thời gian lười biếng nhiều, còn thời gian tinh tấn ít, nên đạo nghiệp không dễ thành tựu.

Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, mới có thể được Thiền định. Thiền định là gì? Chính là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng nói trên tựa đề Kinh, đây là Thiền định. Còn giác phía sau Thiền định đó, giác chính là khai ngộ, chính là Bát-nhã Ba-la-mật. Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, chính là “giác” đó. Giác là thành Phật, đắc Thiền định là Bồ-tát; Có thể nhẫn nhục, tinh tấn, đó là Thanh văn, Duyên giác, Quyền giáo Bồ-tát; Bố thí, Trì giới, đây là nhập môn. Bộ Kinh này nói điều gì, trên tựa đề Kinh đã hiển bày tất cả rồi, tu nhân là “thanh tịnh bình đẳng giác”, quả báo đạt được là “Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm”. Đại thừa là trí huệ, không gì không biết; Vô lượng thọ là phước đức, phước đức viên mãn vô lượng. Trong phước đức quan trọng bậc nhất: chính là thọ, trường thọ, trường thọ là phước báo, dù quý vị có trí huệ đức năng, nếu không có thọ mạng thì xong rồi, nhất định phải có thọ mạng. Bồ-tát tu Lục Ba-la-mật, được phước báo rốt ráo viên mãn, vô lượng thọ ở trong đó. Trang nghiêm chính là tốt đẹp, người thế gian chúng ta nói vừa lòng đẹp ý, không có thứ gì quý vị không đầy đủ, đây là giàu sang đến tột bậc. Trong tựa đề Kinh này của chúng ta hiển thị rồi, đây là trí huệ, đức năng, phước báo của chư Phật Như Lai. Hiển thị ở nơi đâu? Ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị có thể tu thanh tịnh bình đẳng giác, thì quý vị có thể chứng Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm, quý vị có thể chứng được. Nên trí huệ là đối trị ngu si. Trí huệ chưa khai mở chính là bởi vì ngu si, ngu si từ đâu đến? Từ hoài nghi mà đến. Vì thế chúng ta phải tìm, nghiêm trọng nhất ở đây là tham sân si. Tham từ đâu ra? Đến từ trong dục vọng. Trong dục vọng nghiêm trọng nhất là tình chấp, rất khó đoạn. Sân giận từ đâu ra? Sân giận từ ngạo mạn mà ra, từ đố kỵ, ngạo mạn. Ngu si từ đâu ra? Từ hoài nghi mà ra. Phải biết điều này, tham sân si là Phiền não căn bản, Lục Ba-la-mật có thể đoạn trừ.

常行六度,是即煩惱無邊誓願斷 “Thường hành Lục độ, thị tức Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn” (Thường hành Lục độ, đó chính là Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn). Lão Pháp sư Hải Hiền 92 năm làm ra tấm gương tốt cho chúng ta, ngài là thật sự đang tu Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, thật sự đang tu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Tâm lượng của lão Hòa thượng lớn, tất cả người dù có quen biết hay không, chỉ cần gặp được rồi, người đó có khổ nạn, ngài nhất định giúp họ, không có bất kỳ điều kiện nào. Thậm chí trong đời sống hàng ngày, gặp được một số cầm thú, quý vị thấy lão nhân gia phóng sanh, bình thường nhìn thấy mèo con, chó con, ngài đều cho chúng ăn, động vật nhỏ như muỗi, kiến, nhất định không có làm hại. Xem sự từ bi của lão nhân gia, đối với tất cả chúng sanh đều yêu thương che chở như vậy, huống là đối với người! Nên lão Hòa thượng thật sự 自覺覺他,以己之覺,普覺眾生;以己之行,導引眾生;以己之德,迴向眾生,是即眾生無邊誓願度 “Tự giác giác tha, dĩ kỷ chi giác, phổ giác chúng sanh; Dĩ kỷ chi hạnh, đạo dẫn chúng sanh; Dĩ kỷ chi đức, hồi hướng chúng sanh, tức thị chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” (Tự giác giác tha, lấy giác của mình, rộng giác chúng sanh; Lấy hạnh của mình, dẫn dắt chúng sanh; Lấy đức của mình, hồi hướng chúng sanh, đó chính là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ), mỗi ngày lão Hòa thượng làm, từng chữ từng câu đều làm được rồi. Ngài không đọc kinh, ngài cũng không giảng kinh, nhưng ngài hoàn toàn làm ra được trong cuộc sống, làm ra tấm gương cho quý vị thấy. 故下云:未度有情令得度,已度之者使成佛 “Cố hạ vân: vị độ Hữu tình linh đắc độ, dĩ độ chi giả sử thành Phật” (Nên tiếp theo nói: Hữu tình chưa độ khiến được độ, chúng sanh đã độ khiến thành Phật). Đây là tâm bi của lão Hòa thượng, nguyện vọng của lão Hòa thượng. Tất cả chúng sanh Hữu tình còn chưa được độ, thì giúp họ được độ; Những [chúng sanh] đã được độ, chính là đã vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì giúp họ thành Phật, 拯濟負荷,悉登彼岸 “chẩn tế phụ hạ, tất đăng bỉ ngạn” (gánh vác nhiệm vụ cứu vớt, đều lên bờ kia). 此之四句 “Thử chi tứ cú” (Bốn câu này), thật sự 攝四弘誓願 “nhiếp Tứ hoằng Thệ nguyện” (nhiếp Tứ hoằng Thệ nguyện), Tứ hoằng Thệ nguyện là: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Tỳ-kheo Pháp Tạng (chính là tiền thân của A Mi Đà Phật) khi chưa thành Phật, ngài thời thời khắc khắc, trong mỗi mỗi niệm, thực hiện tứ hoằng thệ nguyện, nên ngài tu viên mãn Bồ-tát đạo, thành Phật rồi, ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc thị hiện thành Phật. Thế giới Tây Phương Cực Lạc thành tựu thế nào, lắng tâm để đọc quyển sách Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ này, thì quý vị biết, liền hiểu rõ rồi. Triệt để làm sáng tỏ, thì tín tâm của quý vị liền sanh khởi, quý vị phát nguyện cầu sanh, một đời viên mãn thành tựu.

Chúng ta xem đoạn thứ năm dưới đây, 堅求正覺 “Kiên Cầu Chánh Giác” (Kiên Dũng Cầu Chánh Giác). Chúng ta cần ghi nhớ câu này, chúng ta cũng phải kiên quyết cầu Chánh Giác, Chánh Giác chính là thành Phật. Không nên đợi đến đời sau kiếp sau, mà ngay trong đời này, chúng ta nhất định phải cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc thành Phật. Kinh văn chỉ có hai câu:

【假令供養恆沙聖。

不如堅勇求正覺。】

“Giả linh cúng dường Hằng sa Thánh

Bất như kiên dũng cầu Chánh Giác”

(Giả sử cúng dường Hằng sa Thánh

Không bằng kiên dũng cầu Chánh Giác).

Trong Chú Giải nói rất hay, 『假令供養恆沙聖』“giả linh cúng dường Hằng sa Thánh” (giả sử cúng dường Hằng sa Thánh), đây là tu phước, đó chính là giả sử: để chúng ta có duyên phận này, có năng lực này, cúng dường Hằng hà sa số Thánh nhân (A-la-hán trở lên chính là Thánh nhân, tu phước, tu đại phước báo), thì thế nào? Không bằng có nguyện tâm kiên định, dũng mãnh tinh tấn cầu vãng sanh thành Phật, không sánh bằng. Tiếp theo giải thích cho chúng ta, 恆沙者,指印度恆河之沙。因恆河沙多 “Hằng sa giả, chỉ Ấn Độ Hằng hà chi sa. Nhân Hằng hà sa đa” (Hằng sa: là chỉ cho cát của sông Hằng ở Ấn Độ. Bởi vì cát của sông Hằng nhiều), vả lại cát rất mịn. Ở những khu vực trong nước của chúng ta, và các khu vực khác đều không thấy được, vì sao vậy? Bởi cát của sông Hằng vô cùng mịn, giống như bột mì, số lượng nhiều, đếm không hết, dùng điều này để ví dụ số lượng. Nên Phật giảng kinh ở lưu vực sông Hằng thời gian rất dài, khi giảng đến số lượng nhiều, thì Phật dùng cát của sông Hằng để làm tỷ dụ. Ý nghĩa của văn này là 假令供養如恆河沙數無量諸佛,不如求正覺,堅勇而不怯 “giả linh cúng dường như Hằng hà sa số vô lượng chư Phật, bất như cầu Chánh Giác, kiên dũng nhi bất khiếp” (giả sử cúng dường vô lượng chư Phật số như cát sông Hằng, không bằng cầu Chánh Giác, kiên dũng mà không sợ hãi). Trên đây là nguyên văn của bản Hán Dịch trong năm bản dịch gốc. Nhất định chúng ta phải ghi nhớ kỹ sự thật này, ý nghĩa chính là không cầu phước báo của trời người, mà phải cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc làm Phật, vậy thì đúng rồi. Phước báo nhân thiên rất ngắn tạm, người thế gian có thể sống trên 100 tuổi thì không nhiều người, quý vị thấy được có mấy người 100 tuổi? Dù cho sống trên 100 tuổi, trong cảm nhận của chính tôi cũng chỉ là một búng tay, một sát-na mà thôi, thời gian trôi rất nhanh, càng gần cuối đời, sẽ cảm thấy thời gian càng ngày càng nhanh. Trẻ nhỏ không biết, ngày tết vui vẻ, thật không dễ để mong đợi qua một năm, dường như thời gian rất dài rất dài. Đây đều là điều chính chúng ta đã trải qua. Trước mười tuổi cảm thấy thời gian rất dài, thời gian một năm dường như rất dài; Sau khi qua 60 tuổi, cảm thấy thời gian rất ngắn, sao giống như chưa tới vài ngày thì lại bước sang năm mới rồi. Phải biết rõ chân tướng sự thật này, thế gian dù sống 200 tuổi, 300 tuổi, cũng là một búng tay, nên nhất định không ham muốn phước báo của nhân thiên.

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật làm tấm gương cho chúng ta, Ngài sanh ra trong gia đình quý tộc, Ngài là vương tử, nếu Ngài không xuất gia, thì kế thừa ngôi vua. Nhưng 19 tuổi, Ngài đã giác ngộ rồi, nghĩ đến đời người không cách nào tránh khỏi sanh lão bệnh tử, chưa ai giải quyết được việc này, nên 19 tuổi Ngài xuất gia, đi ra ngoài du học, tham học. Tất cả tôn giáo, tất cả học phái của Ấn Độ, Ngài đều tiếp xúc qua, đều đi học qua, như thế nào? Không thể giải quyết vấn đề này, có không ít tôn giáo: có thể giúp quý vị sanh đến cõi trời, cõi trời chỉ là thọ mạng dài một chút, nhưng chẳng thể không có sanh tử. Vì vậy Ngài đã học 12 năm, không có được đáp áp đối với vấn đề mình muốn giải quyết, nên buông bỏ rồi. Năm 30 tuổi đó, buông bỏ việc tham học, đến nhập định dưới cây Bồ-đề. Trong quá trình tham học, Ngài đã học Tứ thiền Bát định, Thiền định sâu nhất là Tứ không định, Ngài thâm nhập thêm từ trên nền tảng này, đột phá định đó. Thâm nhập vào sâu hơn, đem Khởi tâm Động niệm, cũng chính là Vô thỉ Vô minh phá đi, lúc ấy Minh tâm Kiến tánh, hoát nhiên đại ngộ, cũng tức là đức năng trong Tự Tánh hiện ra rồi, [là] bản năng. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ nói, “nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh; Nào ngờ Tự Tánh, vốn không sanh diệt; Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ”. Vốn tự đầy đủ điều gì? Đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo. Điều này đã giải quyết được vấn đề Lục đạo luân hồi, cũng giải quyết được vấn đề của Thập pháp giới, thậm chí cũng giải quyết được vấn đề của Nhất chân Pháp giới, đó gọi là thành Phật. Điều ấy tất nhiên phải cao minh hơn việc cúng dường Hằng hà sa số vô lượng chư Phật, vì sao vậy? Bởi cúng Phật chỉ tu phước báo, trí huệ thì không dễ, trí huệ phải buông xuống, khó! Nên Phật khuyên người tu hành, phải buông xuống phước báo nhân thiên, cũng buông xuống Tam minh Lục thông của Tứ thánh Pháp giới, thì quý vị mới có thể vượt qua Thập pháp giới. Vượt qua Thập pháp giới, chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ của chư Phật Như Lai, tất cả đều là do Tự Tánh biến hiện. Câu nói cuối cùng đó của Đại sư Huệ Năng, “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”. Nói rõ cõi nước của tất cả chư Phật trong khắp Pháp giới Hư không giới, đều là do Tự Tánh biến hiện. Tự Tánh là năng sanh năng hiện, sự trang nghiêm của vô lượng vô biên cõi Phật là sở sanh sở hiện. Làm rõ ràng điều này gọi là nhìn thấu, không lưu luyến gì cả, không để trong tâm thứ gì cả, gọi là buông xuống, buông xuống thì thành Phật. Nên nhìn thấu giúp quý vị buông xuống hoàn toàn, buông xuống hoàn toàn giúp quý vị nhìn thấu hoàn toàn, như vậy đều được viên mãn.

Tiếp theo nói, 今此經文,正與《華嚴普賢行願品》一味。《行願品》曰:善男子:諸供養中,法供養最 “kim thử kinh văn, chánh dữ Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm nhất vị. Hạnh Nguyện Phẩm viết: Thiện nam tử: chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối” (kinh văn chỗ này, chính là một [đạo] vị với Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của Kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Hạnh Nguyện chép: Này Thiện nam tử! Trong tất cả sự cúng dường, thì pháp cúng dường hơn hết). Cúng dường là tu phước, trong tất cả toàn bộ cúng dường, tu pháp cúng dường phước báo lớn nhất, tại sao vậy? Bởi bên trong có chứa trí huệ. Pháp cúng dường là hơn hết, 所謂如說修行供養、利益眾生供養、攝受眾生供養、代眾生苦供養、勤修善根供養、不捨菩薩業供養、不離菩提心供養 “sở vị như thuyết tu hành cúng dường, lợi ích chúng sanh cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh cúng dường, đại chúng sanh khổ cúng dường, cần tu thiện căn cúng dường, bất xả Bồ-tát nghiệp cúng dường, bất ly Bồ-đề tâm cúng dường” (đó là tu hành như lời dạy để cúng dường, làm lợi ích chúng sanh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thay cho chúng sanh để cúng dường, siêng năng tu tập thiện căn để cúng dường, không bỏ sự nghiệp của Bồ-tát để cúng dường, không rời tâm Bồ-đề để cúng dường). Điều này thật tuyệt vời, là của Bồ-tát tu, Bồ-tát nào vậy? Bồ-tát Phổ Hiền, thượng thủ trong chúng Bồ-tát trên Kinh Hoa Nghiêm, cũng chính là ngài đã dẫn đầu 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ của Thế giới Hoa Tạng, 41 địa vị ấy là 41 cấp bậc, tức là toàn thể Bồ-tát, số người không cách nào tính được, quá nhiều rồi. 41 cấp bậc ấy là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, đây là 40, cộng thêm Đẳng giác, Bồ-tát Phổ Hiền dẫn mọi người đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, để tham học A Mi Đà Phật, tiếp nhận khai thị của A Mi Đà Phật, hướng A Mi Đà Phật học tập. Hoa Nghiêm là kinh bậc nhất trong tất cả kinh mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thuyết trong 49 năm, đến cuối cùng, mười Đại nguyện vương của ngài Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc, chúng ta từ chỗ này hiểu rõ rồi, sự thù thắng của Tịnh Độ không gì sánh bằng. Pháp môn này trùm khắp ba căn, thâu trọn tất cả cao thấp, thậm chí tạo tác tội Ngũ nghịch Thập ác, lúc mạng sắp hết, hơi thở của quý vị vẫn chưa dứt, chỉ cần quý vị có thể tin, phát nguyện cầu sanh, thì một niệm, mười niệm đều được vãng sanh, có thể làm chứng minh cho chúng ta, nhất định không phải là giả.

Mấy loại cúng dường này được nói trong kinh văn, chúng ta nói sơ lược qua, thứ nhất, 如說修行供養 “như thuyết tu hành cúng dường” (tu hành như lời dạy để cúng dường), ở trên kinh Phật nói thế nào, chúng ta nghe rõ ràng, nghe hiểu rồi, thì phải như lời Phật dạy mà tu hành, đây chính là cúng dường đối với đức Thích Ca Phật, cúng dường đối với tất cả chư Phật Như Lai, cúng dường đối với A Mi Đà Phật. Phật dạy chúng ta làm thế nào? Phật dạy bảo chúng ta 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “Hiếu dưỡng Phụ mẫu, Phụng sự Sư trưởng, Từ tâm Bất sát, Tu Thập Thiện Nghiệp” (Hiếu dưỡng Cha mẹ, Phụng sự Sư trưởng, Từ tâm Không giết, Tu Thập Thiện Nghiệp), chúng ta có tu hành như lời dạy hay không? Chỗ của chúng tôi đây không phải là Đạo tràng, chỉ là mười mấy đồng học niệm Phật, nhìn thấy vùng này đang khai phát, đang xây tòa nhà, chúng tôi thấy được ngọn núi nhỏ này: là một nơi lý tưởng để đọc sách, niệm Phật, mỗi người mua một căn nhà, ở đây có mười mấy căn nhà, chúng tôi chăm sóc lẫn nhau. Mỗi một căn nhà đều có chủ, nên đây không phải là Đạo tràng. Chúng tôi ở đây học tập Kinh Vô Lượng Thọ, y giáo phụng hành. Năm xưa các đồng học ở Hồng Kông, đó là sau khi trở về, tôi đến Hồng Kông, gặp lớp đồng học ấy, họ đã tổ chức một Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông, tìm tôi để giảng kinh. Vào lúc đó, chúng tôi là thuê địa điểm, mỗi tháng đến giảng 5 ngày, dường như đã giảng liên tục mấy năm. Về sau các đồng tu thành lập Hiệp hội này, đã mua một Đạo tràng, ở Tiêm Sa Chủy, nơi đó thật sự là náo nhiệt, giảng kinh thì được, nhưng không thích hợp để tu hành. Nên có một số đồng học phát hiện nơi ở Đại Phố này, vườn hoa trên đỉnh núi, vừa mới phát hiện, giá cả không cao, [nên] bán nhà trong nội thành, đến đây có thể mua hai-ba căn. Nên chúng tôi sống cùng nhau, chăm sóc lẫn nhau, không giống với đạo tràng thông thường, có tự viện, có giảng đường, ở đây chúng tôi không có, chỉ có một dàn quay phim, chúng tôi giảng kinh dùng mạng Internet truyền bá ra ngoài, không có tổ chức như Đạo tràng thông thường. Đông chí năm nay, mới trôi qua ngày hôm qua, Hiệp hội Giáo Dục Phật Đà kết nối với các đồng học ở đây đã tổ chức một hoạt động lớn, thuê địa điểm, tổ chức Pháp hội Tế Tổ lần thứ nhất, Pháp hội Tế Tổ vào ngày Đông chí, đề xướng hiếu đạo. Hôm qua viên mãn rồi, tổng cộng bốn ngày, làm được rất thành công. Theo nghi lễ xưa, dù số người có năm-sáu ngàn người, nhưng đạo tràng vô cùng trang nghiêm, ngay cả tiếng ho của người nào đó cũng không có, nên nhiều đồng tu tham gia đã rất cảm động.

Vì sao không xây Đạo tràng? Chính chúng ta phải có biết rõ về mình, nói chung người xây Đạo tràng phải có phước báo lớn, tôi không có phước báo, nếu không có phước báo mà xây Đạo tràng thì sẽ rất mệt. Vả lại tôi phát nguyện, khi Đại sư Chương Gia dạy tôi học đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật không có Đạo tràng. Khi Phật ở đời, thật sự có quốc vương đại thần lễ thỉnh đức Phật đi giảng kinh thuyết pháp, Phật cũng tùy duyên, như Tinh xá Trúc Lâm, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, đều là tài sản của hoàng gia. Phật giảng kinh ở đó có một khoảng thời gian như vậy, sau khi giảng xong thì rời đi, trả lại chỗ đó cho chủ nhân, phương pháp này tốt, vĩnh viễn không bận tâm. Có Đạo tràng thì sẽ lo lắng, quý vị phải quản người, quản việc, còn phải quản tiền. Phật không cần Đạo tràng, chính là không quản người, không quản việc, cũng không quản tiền. Đệ tử thường theo của đức Thế Tôn: [là] 1255 người, đều là tự động tự phát, Phật không có chiêu sinh, mà họ tự đến, ngưỡng mộ, bội phục, cung kính đối với đức Phật, sẵn lòng theo Ngài học tập. Buổi tối Phật nghỉ dưới gốc cây, một bữa ăn giữa ngày, mọi người đều noi theo, như vậy trở thành Tăng đoàn. Tăng đoàn không có chỗ ở cố định, là phương thức du mục, rất ít ở một nơi vài ngày, rất ít. Bởi vì Phật dạy người nghỉ đêm dưới gốc cây, nơi này chỉ có thể ở một đêm, ngày mai đi nơi khác. Tại sao vậy? Bởi giúp quý vị không sanh ra lưu luyến đối với nơi này, giúp quý vị buông xuống. Nếu quý vị thích nơi này thì phiền phức rồi, thích nơi này, thì sau khi chết không thể rời khỏi, vẫn đầu thai ra ở đây. Đầu thai vào đường nào? Đường súc sanh nhiều nhất. Phật hiểu rõ, Phật thấu suốt, mong những học trò đi theo Ngài đó: đều có thể chứng quả, đều có thể thoát khỏi Lục đạo luân hồi.

Ngàn kinh vạn luận: cuối cùng đều quay về Tịnh Độ, dụng ý này vô cùng sâu sắc, cả đời của Phật đã giảng không ít kinh, cuối cùng không có kinh nào mà không nói về Tịnh Độ. Quý vị xem Hoa Nghiêm đến sau cùng, Thập đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc; Trên hội Lăng Nghiêm, 25 viên thông, cuối cùng ngài Quán Âm, Thế Chí, cũng là khuyên mọi người vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đây là ví dụ rõ ràng nhất. Đó chính là Pháp môn này, thật sự trùm khắp ba căn, thâu trọn cả lợi và độn, dù cho tạo tác Ngũ nghịch Thập ác, mà lâm chung sám hối, phát nguyện cầu sanh, một niệm, mười niệm đều có thể vãng sanh, đây là ai cũng có phần. Nhưng mười phương chư Phật, đều nói Pháp môn này dễ tu, không sai, nhưng rất khó để người tin tưởng, đây là pháp khó tin nhưng dễ tu. Nếu chúng ta mong thành tựu, thì chỉ cần chúng ta không có chút hoài nghi về Pháp môn này, hoàn toàn tiếp nhận, tôi đều tin từng chữ từng câu của Phật thuyết, Phật không gạt người, nhất định thực hiện lời của Phật. Những người đó không thể thực hiện, đại khái đều là có hoài nghi, muốn thử nghiệm, xem liệu lời của Phật có linh hay không. Có loại tâm này, tâm địa không chân thành, thì thường thường không linh. Nếu Chân tâm thật tin, thì linh. Từ lão Hòa thượng Hải Hiền, lúc 18 tuổi bị ung nhọt lớn trên đùi, đoạn câu chuyện đó chứng minh rồi, rất linh nghiệm! Biểu pháp cả đời này của lão Hòa thượng, đã giải thích cho chúng ta rất nhiều vấn đề nghi nan, quý vị lắng tâm để xem sẽ hiểu rõ thôi. Dễ dàng biết bao, chỉ cần bốn chữ này, như thuyết tu hành, thì linh rồi, vấn đề được giải quyết rồi. Cúng dường Phật như thế nào? Tu hành như lời dạy, là chân cúng dường. Phật không cần gì cả, chính là mong quý vị thành Phật, Ngài dạy chúng ta như thế nào, thì chúng ta tu như thế ấy. Lão Hòa thượng Hải Hiền chỉ dựa vào bốn câu này, “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, “đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa đó”, là bốn câu này, ngài một đời thành tựu rồi. Chúng ta đọc sách ngàn lần, ngài không đọc sách, mà ngài niệm A Mi Đà Phật, một câu Phật hiệu không rời miệng, niệm hết tất cả vọng tưởng tạp niệm trong tâm, ngài thành tựu rồi.

Câu tiếp theo, 利益眾生供養 “lợi ích chúng sanh cúng dường” (làm lợi ích chúng sanh để cúng dường), khởi tâm động niệm không cầu lợi ích chính mình, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều là lợi ích chúng sanh, đây chính là cúng dường Phật. Vậy chúng ta làm lợi ích chúng sanh thế nào? Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm tấm gương, cả đời niệm niệm không quên, làm một tấm gương tốt cho chúng sanh thấy, giúp chúng sanh sinh khởi tín tâm, sanh khởi nguyện tâm, cầu sanh Thế giới Cực Lạc giống như ngài vậy. Lời nói việc làm cử chỉ một đời của ngài đều là khuyên người niệm Phật tu Tịnh Độ, đây là chân thật cúng dường đối với đức Thế Tôn, đối với chư Phật, đối với đức Mi Đà. Chúng ta học giảng kinh, cả đời chỉ giảng một bộ kinh có được không? Được. Tổ sư có tấm gương, suốt đời giảng Kinh A Mi Đà đã giảng mấy trăm lần, chính mình thành tựu rồi, cũng giúp người khác thành tựu, tốt! Cả đời chỉ giảng một bộ kinh, giảng mấy trăm lần, quý vị nghĩ xem quý ngài có khai ngộ không? Chắc chắn khai ngộ rồi. Quý ngài đắc Tam-muội, được Niệm Phật Tam-muội, nhất định là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, cũng chính là Lý nhất tâm Bất loạn, quý ngài có thể chứng được trong một đời. Cả đời chỉ giảng bộ Kinh này, tại sao vậy? Bởi bộ Kinh này nói rất rõ ràng, nói rất tường tận, nói rất thấu triệt đối với Thế giới Tây Phương Cực Lạc, giảng được khiến quý vị chẳng thể không tin, giảng được khiến quý vị chẳng thể không muốn cầu vãng sanh. Lợi ích của việc giảng kinh lớn, công đức của giảng kinh thật sự không thể nghĩ bàn.

攝受眾生供養 “Nhiếp thọ chúng sanh cúng dường” (Nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường), phải làm thế nào? Phải thật sự làm ra tấm gương tốt, để chúng sanh nhìn thấy bị cảm động, bằng lòng học với quý vị. Chính quý vị có thể nói được thì phải làm được, có thể nhiếp thọ chúng sanh; Nếu quý vị nói được mà không làm được, thì chúng sanh hoài nghi đối với quý vị, vậy chỉ trồng một chút thiện căn, đời này không thể vãng sanh. Nhất định chính quý vị phải làm được, quý vị xem khi sắp ra đi, vẫn làm ra tấm gương cho người thấy. Chúng ta tỉ mỉ quan sát, người ở thế gian, ai có thể tránh khỏi sanh lão bệnh tử? Người niệm Phật có thể tránh được, phải để họ nhìn thấy. Lão Hòa thượng 112 tuổi, già rồi, già thì như thế nào? Không có khổ. Khi chúng sanh già rồi thì có khổ, cần người chăm sóc, còn ngài không cần, ngày ngày vẫn làm việc, không mệt không chán, đầu óc minh mẫn, giống như người trẻ tuổi, không có Lão khổ. Không có bệnh khổ, thân thể khỏe mạnh, không bị bệnh, không có Bệnh khổ, già mà không suy. Lúc ra đi, nói đi là đi rồi, không có Tử khổ. Ngài buông xuống vạn duyên, không có Cầu bất Đắc khổ. Ngài hòa hợp đối với mọi người, quý vị đánh ngài, mắng ngài, bắt nạt ngài, hủy báng ngài, sỉ nhục ngài, ngài đều không để trong tâm, không có một chút tâm oán hận, ngài không có Oán tắng Hội khổ. Cả nhà của lão Hòa thượng, năm anh chị em của ngài, tuổi thọ không dài như ngài vậy, tất cả đều đã qua đời, mẹ của ngài ra đi khi 86 tuổi, nên lúc tuổi già ngài không có sự quấy nhiễu của tình thân. Mẹ ngài lúc tuổi già, bởi vì anh chị em đều không còn nữa, không ai chăm sóc, ngài đón mẹ đến Đạo tràng, đã sống 27 năm trong chùa, ngài đã làm được hiếu dưỡng phụ mẫu rồi. Khi mẹ ngài ra đi cũng là không có bệnh khổ, không bị bệnh, quý vị xem đĩa CD ấy, lúc bà ấy ra đi rất thoải mái, đích thân xuống bếp làm sủi cảo. Hôm đó người trong nhà đầy đủ, một cô con gái của bà còn có một cháu gái, đều gọi về. Sau khi cơm nước xong xuôi, nói với mọi người tôi đi đây, là thật đi rồi, không có Bệnh khổ. Vì vậy tám nỗi khổ làm cho khổ sở, đó là Phật thường nói việc của nhân gian, ai cũng không thể tránh được, lão Hòa thượng Hải Hiền và mẹ của ngài đều không có tám loại khổ, lìa khổ được vui là thật chứ không phải giả, không phải đời sau, mà hiện tại đã đạt được, huống hồ đến Thế giới Cực Lạc!

Thật sự nắm chắc, tôi thường nói ngài đã gặp A Mi Đà Phật, trong cuộc đời này, nhất định sẽ không ít hơn mười lần, nói cách khác, ngài thường gặp A Mi Đà Phật, chứng được Lý nhất tâm Bất loạn, muốn thấy Phật, thì Phật liền hiện thân. Tại sao vậy? Bởi A Mi Đà Phật ở đâu? A Mi Đà Phật chẳng đâu không có, chẳng lúc nào không có, niệm đến Lý nhất tâm, muốn thấy thì sẽ thấy được thôi, quý vị thấy được Thế giới Cực Lạc, quý vị thấy được A Mi Đà Phật, quý vị có thể đối thoại với A Mi Đà Phật. Lão Hòa thượng Hiền công đã nói, chính ngài nói, ngài nhiều lần, như vậy chẳng phải một lần, nhiều lần yêu cầu A Mi Đà Phật dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc, ngài nói A Mi Đà Phật không dẫn ngài đi, nói với ngài, con tu rất tốt, tu được rất khá, hi vọng con ở thế gian này thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật. Đây là bảo ngài biểu pháp. Nên ngài sống [với] thọ mạng dài như vậy, chúng tôi cảm thấy đó là do A Mi Đà Phật cho ngài, còn thọ mạng của chính ngài cũng chỉ là bảy-tám mươi tuổi, không thể vượt quá 100 tuổi, đó là gì? Để biểu pháp. Cuối cùng chúng ta cũng làm rõ ràng rồi, biểu pháp gì? Biểu pháp cuối cùng chính là hiển dương sách này “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng”, chính là biểu pháp này. Sau khi ngài cầm quyển sách này, vô cùng vui mừng, ngài vui việc gì? A Mi Đà Phật đến đón ngài vãng sanh rồi. Chắc là A Mi Đà Phật đã nói rõ với ngài, nếu con gặp được bộ sách này, thì A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn con. Nên ngài vui mừng, vô cùng vui vẻ, cầm quyển sách này, chủ động yêu cầu người khác chụp hình cho ngài, tấm ảnh được treo bên kia, là tấm ảnh đó. Chụp tấm hình đó, ba ngày sau thì ngài đi rồi, đi rất tiêu sái tự tại, mọi người đều nhìn thấy điều này. Trong quyển sách này nói điều gì? Do Pháp sư Hoằng Lâm biên soạn, bỏ ra thời gian mười mấy năm, nói rõ Bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư là thật không phải giả, nên phải tin tưởng; Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là Chánh tri Chánh kiến, cũng là thật, không phải giả; Những năm nay chúng ta y theo Bản Hội Tập này, nương theo Chú Giải của Niệm lão để tu hành, đây là chính xác, không có sai lầm. Quyển sách “Tăng Khen Tăng” đó làm chứng minh này cho chúng ta, còn có người hoài nghi, không dám tin, khi lão Hòa thượng làm chứng minh, thì tâm địa của mọi người vững chắc rồi, không còn hoài nghi nữa. A Mi Đà Phật biết, bảo ngài đến làm biểu pháp, làm chứng minh, đó là nhiếp thọ chúng sanh.

 代眾生苦 “Đại chúng sanh khổ” (Về chịu khổ thay cho chúng sanh), cả đời lão Hòa thượng Hải Hiền tu khổ hạnh, khi ăn cơm, một hạt cơm cũng quý trọng, một hạt cơm rơi xuống đất, thì nhặt lên để ăn. Sáng sớm mỗi ngày rửa mặt là một gáo nước, không phải chậu rửa mặt, có chậu rửa mặt, một gáo nước trong chậu rửa mặt, không dám lãng phí. Quần áo bị rách, vá đi vá lại. Chẳng phải không có khả năng, những lương thực do ngài trồng đó nếu đem đi bán, thì có thể bán được rất nhiều tiền. Nhưng ngài không làm việc này, lương thực phải cứu tế người nghèo khổ, còn chính mình bằng lòng sống cuộc sống vất vả. Mười phương cúng dường ngài đều đem đi in kinh, phóng sanh, không dùng tiền đó để cải thiện một chút cuộc sống của chính mình, không có. Tất cả thị hiện này, đều là dạy chúng ta tu phước thế nào, tích đức thế nào, không được có chút lãng phí, đây đều là chịu khổ thay cho chúng sanh.

勤修善根供養 “Cần tu thiện căn cúng dường” (Siêng năng tu tập thiện căn để cúng dường), thế nào là thiện căn? Ở trên kinh Phật nói, không tham, không sân, không si là ba thiện căn, đây là pháp thế gian. Ngược lại, tham sân si là ba chất độc; Không tham, không sân, không si, ba căn lành, tất cả toàn bộ điều thiện của thế gian từ gốc rễ này sanh ra, chăm chỉ nuôi dưỡng gốc rễ này. Trong văn hoá truyền thống nước ta, gốc rễ của chúng ta là gì? Hiếu, kính. Tôi thường nói hiếu là rễ của văn hoá truyền thống, kính là gốc của văn hoá truyền thống, giống như một cái cây, một cây như vầy, bên dưới cây là rễ, chỗ này gọi là gốc, gốc mới có cành, mới có nhánh, đây là gốc. Hiếu lấy cha mẹ làm đại biểu, kính là lấy thầy làm đại biểu, nước ta mấy ngàn năm nay hiếu thân tôn sư, dân tộc này thật tuyệt vời, dân tộc này quá vĩ đại rồi, toàn thế giới  không tìm được quốc gia thứ hai. Chúng ta làm người nước ta thật không dễ, đầu thai đến nước ta làm người nước ta, đó là thiện căn phước đức lớn biết bao, quý vị mới có duyên phận này. Nhưng gần đây, đặc biệt là 100 năm gần đây, chúng ta đã đánh mất văn hoá truyền thống nước ta, đi học tập phương Tây, mất mát nghiêm trọng. Tại sao vậy? Chúng ta lắng nghe người bình thường (người nước ta) nói chuyện, nói văn hoá truyền thống nước ta với họ, vô cùng bỡ ngỡ, thế nào là văn hoá truyền thống nước ta? Nếu quý vị nói hiếu thân, vì sao phải hiếu thân? Thế nào gọi là hiếu? Hoàn toàn không thể lý giải. Người nước ngoài tự do biết bao, coi trọng nhân quyền, trẻ em cũng có nhân quyền, chẳng thể không tốt với chúng, không được đánh đập chửi mắng. Đồng bào nước ta ở nước ngoài, nếu dạy bảo con họ, nếu đánh chửi, mà hàng xóm bên cạnh nhìn thấy thì sẽ gọi điện cho cục cảnh sát, cảnh sát đến hỏi, vì sao quý vị bắt nạt trẻ em? Quý vị không xứng làm cha mẹ, phiền phức liền tới rồi. Đây là văn hóa khác nhau. Từ xưa đến nay, chỉ có văn hóa nước ta đây, là thuận theo Tánh đức, từ trong Tự Tánh lưu xuất ra những điều tốt đẹp! Những thứ của nước ngoài là từ A-lại-da lưu xuất ra, A-lại-da là Vọng tâm. Tự Tánh là Chân tâm, các điển tịch ấy của nước ta, được lưu xuất từ trong Chân tâm của cổ Thánh tiên hiền, thật quý báu! Ngoại quốc là do Vọng tâm lưu xuất, những gì lưu xuất là khoa học kỹ thuật, thứ này có lợi cũng có hại. Văn hóa nước ta có lợi không có hại. Hiện nay có người nói văn hóa sẽ có xung đột, văn hóa ngoại quốc có xung đột, trong văn hóa nước ta không tìm thấy xung đột, cần giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ về điều này. Nên ông Toynbee, Russell, đều là nhà Triết học lớn của nước Anh, họ vô cùng khen ngợi đối với văn hóa nước ta, cho rằng văn hoá truyền thống nước ta có thể cứu toàn thế giới. Lời của người nước ngoài, không phải lời của người nước ta. Người nước ta nói không ra, người nước ta đã quên hết những thứ của mình rồi, chúng ta chẳng thể không biết điều này. Nên chúng ta phải siêng năng tu thiện căn để cúng dường.

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi. 不捨菩薩業供養 “Bất xả Bồ-tát nghiệp cúng dường” (Không xả sự nghiệp của Bồ-tát để cúng dường), chúng tôi sẽ nói ở buổi tiếp theo.

(Hết tập 150)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật