Responsive Menu
Add more content here...

Tập 154 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ NĂM: CHÍ TÂM TINH TẤN

Tập 154

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 29 tháng 12 năm 2014.

Dịch giả: Cự Lang.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Ban biên dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người cùng quy y Tam Bảo với tôi: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, Lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt-ma, Ly dục trung tôn; quy y Tăng-già, Chư chúng trung tôn. (3 lần)

          Mời hãy xem《大經科註》 Đại Kinh Khoa Chú, trang 406, hàng thứ ba, phẩm đề:

    【至心精進第五】“Chí Tâm Tinh Tấn đệ ngũ” (Phẩm thứ năm: Chí Tâm Tinh Tấn).

          Chúng ta xem giới thiệu tựa đề phẩm của Niệm lão. 本品續前 “Bản phẩm tục tiền”, phẩm này là kế tiếp phẩm thứ tư: 法藏因地 “Pháp Tạng nhân địa” đã nói ở trước.

          法藏菩薩發大願曰:我已發無上正覺之心 “Pháp Tạng Bồ-tát phát đại nguyện viết: ngã dĩ phát Vô thượng Chánh giác chi tâm” (Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện lớn rằng: Con đã phát tâm Vô thượng Chánh giác), câu nói này rất quan trọng, ngài đã phát rồi, phát tâm gì vậy? Phát tâm thành tựu Vô thượng Chánh giác; cũng chính là nói ngài phát nguyện mong thành Phật, mong thành tựu Phật quả rốt ráo viên mãn. Phát tâm là quan trọng, chư vị mới có thể đạt được, nếu không phát tâm thì chư vị sẽ không thể chứng đắc, cho nên phát tâm là quan trọng hơn bất cứ điều gì. Chứng đắc rốt ráo viên mãn, đó gọi là Vô thượng. A-la-hán chứng đắc tiểu quả, các ngài thoát ly lục đạo luân hồi nhưng chưa ra khỏi mười pháp giới, Bồ-tát thì phát tâm thù thắng hơn A-la-hán, A-la-hán có thể xả bỏ phước báo của thiên thượng và nhân gian, các ngài không cần nữa, vậy thì mới có thể siêu việt lục đạo luân hồi. Nếu không buông xuống đối với phước báo của nhân thiên trong thế gian này, thì chúng ta biết người đó không ra khỏi lục đạo luân hồi. Phước báo thiên thượng nhân gian có thể đạt được hay không? Có thể, y giáo tu hành có thể đạt được, điều đó là thật chứ chẳng giả, nhưng không rốt ráo. Tại sao? Phước báo của thiên thượng nhân gian: sẽ có một ngày hưởng tận, hưởng hết rồi sẽ ra sao? Thì không có nữa. Những chủng tử bất thiện trong A-lại-da: sẽ khởi hiện hành, tức là phiền não sẽ khởi hiện hành, phiền não khởi hiện hành, quả báo sẽ là tam đồ. Cũng tức là nói, chư vị xem xem, phước báo nhân thiên hưởng tận rồi, sẽ đi đến ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh để thọ ác báo, những ý niệm bất thiện trong A-lại-da. Ác báo thọ tận rồi mới có thể đạt được thân người, có được thân người này thật không dễ dàng, phước báo hưởng hết rồi, tội báo cũng thọ hết rồi, quý vị mới có thể được thân người, không làm sao thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Cho nên luân hồi rất khó siêu việt, nhất định phải hiểu được chân tướng sự thật này.

          Phật dạy chúng ta, khuyên chúng ta phải phát đại tâm, đại tâm rời cứu cánh khổ, chính là lìa khỏi lục đạo luân hồi, không chỉ là lìa khỏi lục đạo luân hồi, mà còn phải lìa khỏi mười pháp giới, không rời khỏi mười pháp giới thì không viên mãn. Chứng đắc quả A-la-hán, vĩnh viễn sẽ không đoạ vào luân hồi nữa, nhưng chưa ra khỏi mười pháp giới. Muốn ra khỏi mười pháp giới cần điều kiện gì? Cần phải phá Vô minh, nói cách khác, mười pháp giới đến từ đâu? Từ Vô minh 無明biến hiện ra. Lục đạo đến từ đâu? Lục đạo là do Kiến tư phiền não 見思煩惱 biến hiện ra. Kiến phiền não có năm loại: 身見、邊見、見取、戒取、邪見 Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ, Tà kiến, là năm đại loại này; Tư hoặc tức là tư tưởng sai lầm, 貪瞋痴慢疑tham sân si mạn nghi, năm loại này: phải đoạn cho sạch sẽ, vậy thì mới thoát khỏi luân hồi. Mười loại này nếu không dọn sạch sẽ thì không ra khỏi, không ra khỏi luân hồi thì rất đáng sợ, người học Phật chân chính không thể không biết. Trong kinh Đại–Tiểu thừa Phật đều nói rất thấu suốt, rất minh bạch, lìa khổ thì phải rời cứu cánh khổ, tức là phải lìa khỏi lục đạo luân hồi, phải lìa khỏi mười pháp giới. Được vui thì phải được cứu cánh vui, cứu cánh vui vĩnh viễn sẽ không chịu khổ nữa, cứu cánh vui ở chỗ nào? Ở thế giới Cực Lạc, ở Thật Báo Trang Nghiêm độ 實報莊嚴土của chư Phật Như Lai. Vì sao? Ở trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, nói theo cách của chúng ta, có ba hiện tượng: là hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên. Ba loại này hoàn toàn được tịnh hoá, ba loại này như cách chúng ta nói hiện nay: là tính chất hoàn toàn giống nhau.

          Chúng ta hiện giờ nói ba loại này, thể của chúng là được biến hiện từ A-lại-da, A-lại-da là pháp sanh diệt, chính là có sanh có diệt. Cho nên hiện tượng vật chất của chúng ta có sanh diệt, hiện tượng tinh thần có sanh diệt, hiện tượng tự nhiên cũng có sanh diệt; Nhất chân pháp giới一真法界 không có sanh diệt, Nhất chân pháp giới là đoạn vô minh rồi. Cũng tức là nói, Tứ thánh pháp giới vẫn là do A-lại-da biến hiện, Nhất chân pháp giới là Pháp tánh độ 法性土, chuyển tám thức thành bốn trí, thì chứng đắc Nhất chân pháp giới. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là thuộc về Nhất chân pháp giới, là một khu vực thù thắng hơn hết: ở trong Nhất chân pháp giới. Vì sao lại thù thắng? Trong Kinh này sẽ nói rất chi tiết cho chúng ta. Đó chính là Nhất chân đặc thù trong Nhất chân, không khác gì với sát độ của chư Phật, lý tương đồng, lý đều là chuyển thức thành trí, nhưng sự thì khác biệt rất lớn. Đó là thế giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, chỗ căn cứ A Di Đà Phật chính là câu nói ở chỗ này, con đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, câu nói này rất quan trọng. Người thế gian chúng ta thường nói, người nếu không lập chí, thì cả đời, một việc cũng không thành. Học Phật cũng như vậy, học Phật gọi là phát tâm, phát tâm chính là lập chí như cách nói của người Trung Hoa, cả đời người kia có phương hướng, có mục tiêu, họ nhất định có thể đạt được, trong Phật gia nói họ có thể chứng đắc, phải phát thành tựu Vô thượng Bồ-đề, có tâm này.

          Những câu ở phần sau đây khá đặc biệt, ở thế giới Cực Lạc có sự khác biệt về sự, có thể thấy những điều trong Đại thừa giáo đã nói, tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh, không sai một mảy may. Chư Phật Như Lai phát tâm Vô thượng Chánh giác, không có mấy câu nói, thì không thể phát nguyện này. 我成佛時,國土佛號,悉聞十方,一切有情乃至下等蟲類,生我國者,悉作菩薩,無有餘乘 “Ngã thành Phật thời, quốc độ Phật hiệu, tất văn thập phương, nhất thiết hữu tình nãi chí hạ đẳng trùng loại, sanh ngã quốc giả, tất tác Bồ-tát, vô hữu dư thừa” (Khi con thành Phật, quốc độ và Phật hiệu vang khắp mười phương đều biết, tất cả hữu tình cho đến loài trùng hạ đẳng, sinh vào quốc độ của con đều trở thành Bồ-tát, không có thừa khác), không có nguyện này. Nguyện này rất đặc biệt, A Di Đà Phật phát rồi, chúng ta phải học tập theo Ngài. Nói cách khác, chúng ta cũng phát nguyện này, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng hạnh với A Di Đà Phật, vậy mới có thể thật sự vãng sanh thế giới Cực Lạc. Chúng ta xem xem mấy câu này. Ngã thành Phật thời, chữ “ngã” đây là Bồ-tát Pháp Tạng tự xưng, ngài muốn viên mãn ước nguyện thành Phật của ngài, thứ nhất là quốc độ, quốc độ mà ngài cư trú chính là thế giới Cực Lạc. Quốc độ của Thích Ca Mâu Ni Phật ở đây được gọi là thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà rộng bao nhiêu? Không phải Địa cầu này, địa cầu quá nhỏ. Một đơn vị thế giới, tiểu thế giới, một đơn vị thế giới có bao lớn? Phật đã nói với chúng ta trong kinh, trung tâm của đơn vị thế giới là núi Tu Di, mặt trời mặt trăng tuần hoàn xoay quanh núi Tu Di, xoay chuyển quanh đó.

          Hiện tại khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta biết được một phần về thiên văn, nhưng một phần này không lớn. Nói theo ý nghĩa này, thì mặt trời lẫn mặt trăng của chúng ta: xoay chuyển quanh núi Tu Di, đó là gì? Ngân hà, trung tâm của hệ ngân hà: chính là núi Tu Di mà Phật đã nói, đó là một tỷ dụ. Mặt trời mặt trăng quả thật là quay vòng xung quanh rìa ngân hà, đây là một đơn vị thế giới, đơn vị thế giới là hệ ngân hà, chứ không phải địa cầu, địa cầu là một hành tinh nằm trong hệ ngân hà mà thôi. Tam thiên Đại thiên thế giới rộng lớn bao nhiêu? Phật nói một ngàn đơn vị thế giới: gọi là một Tiểu thiên thế giới; một ngàn Tiểu thiên thế giới: gọi là một Trung thiên thế giới; một ngàn Trung thiên thế giới: gọi là một Đại thiên thế giới, một Đại thiên thế giới này: chính là một khu vực giáo hoá của Phật, là phạm vi mà Ngài giáo học, 1000 nhân 1000 rồi nhân 1000 nữa là một tỷ, một tỷ hệ ngân hà là giáo khu của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Thiên văn học của chúng ta hiện nay vẫn chưa tìm thấy một tỷ hệ ngân hà, cũng tức là nói, môn Thiên văn của chúng ta: vẫn chưa xét cùng tận giáo khu của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói với chúng ta: trong không gian vũ trụ, có vô lượng vô biên vô số sát độ của chư Phật, nói cách khác, trong mỗi sát độ đều có Phật đang giáo hoá. Phật vô lượng vô biên, quốc độ Phật vô lượng vô biên, đây là chân tướng sự thật.

          Thế giới Cực Lạc rất đặc thù, thế giới Cực Lạc là Pháp tánh độ, đó không phải là Pháp tướng độ 法相土. Lục đạo và mười pháp giới trong sát độ: của tất cả chư Phật đều là Pháp tướng độ, do A-lại-da biến ra, về thể không khác gì Pháp tánh, nhưng là A-lại-da làm nó biến chất, biến thành Pháp tướng. Pháp tướng Duy Thức tông chuyên môn nghiên cứu đề tài này, Pháp tướng là pháp sanh diệt, Pháp tánh thì không sanh không diệt. Vì vậy thế giới Cực Lạc: có Phàm Thánh Đồng Cư độ 凡聖同居土, chỉ có hai đường là trời và người, không có A-tu-la, không có ba đường ác, Đồng Cư độ chỉ có hai đường; Phương Tiện độ có ba bậc chín phẩm; Thật Báo độ cũng có ba bậc chín phẩm, toàn là Pháp tánh độ. Cho nên trong thế giới Cực Lạc, tìm không thấy có hiện tượng sanh diệt, các hiện tượng trong đó, bất luận là chánh báo, hay y báo: đều là vĩnh hằng bất biến, cho nên xưng là Vô Lượng Thọ. Cây cối hoa cỏ không bị héo úa, vĩnh viễn trường tồn, bất sanh bất diệt. Người vô lượng thọ, cây cối hoa cỏ vô lượng thọ, núi sông đất đai vô lượng thọ, vĩnh hằng bất biến, cảnh giới này chúng ta không thể tưởng tượng nổi, chỉ có sanh đến thế giới Cực Lạc mới nhìn thấy được. Sanh đến thế giới Cực Lạc bao giờ thấy được? Hoa nở thấy Phật thì nhìn thấy, cho dù là Hạ Hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư độ, thì hoa nở kiến Phật cũng thấy được.       

          Những lý sự này: chúng ta phải nắm rõ ràng và minh bạch, không nên hoài nghi, không hoài nghi thì mới có thể vãng sanh, có một chút mảy may hoài nghi thì không thể vãng sanh, điều này quan trọng hơn gì hết. Cho nên Đại sư Ngẫu Ích nói rất đơn giản, rất minh bạch, có ba điều kiện để vãng sanh thế giới Cực Lạc, là 信、願、持名tín, nguyện, trì danh, trì danh chính là niệm Phật, niệm câu Phật hiệu này, có đủ hết thảy ba điều kiện này thì quý vị nhất định được vãng sanh. Ba điều này phải chân thật, chân thật tin tưởng có thế giới Cực Lạc, không có một chút nghi ngờ. Thế gian này có hai loại người, một loại là thiện căn thâm hậu, quý vị nói gì họ cũng tin tưởng, họ thật sự không hoài nghi, loại người này dễ độ; một loại người khác họ có hoài nghi, họ không thể tin tưởng hoàn toàn. Cho nên người có đủ thiện căn thì dễ độ, vừa nghe thì ngàn ngộ, họ niệm câu Phật hiệu này đến cùng, niệm đến khi tâm thanh tịnh xuất hiện, thì họ giác ngộ, sáng tỏ rồi; niệm đến khi tâm bình đẳng xuất hiện, thì họ đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, thật sự không còn gì hoài nghi. Tánh tướng, lý sự, nhân quả khắp pháp giới hư không giới: đã sáng tỏ toàn bộ, Phật tri Phật kiến: hoàn toàn tương đồng với chứng đắc của chư Phật Như Lai, do đó họ sẽ không dao động, họ chắc chắn thành tựu. Còn nghi ngờ thì phiền phức, người có tâm hoài nghi đã trồng thiện căn, thì đời sau kiếp sau được thân người, lại được gặp pháp môn này, thiện căn tăng trưởng. Cho nên tuyệt đối không nên xem nhẹ: người niệm Phật vãng sanh, họ có thể vãng sanh ngay trong đời này, được chúng ta nhìn thấy, chính như trong kinh đã nói, trong đời quá khứ họ đã cúng dường vô lượng chư Phật. Họ nghe rồi, được oai thần của vô lượng chư Phật gia trì, có thể tin, có thể tiếp thu, hoan hỷ tiếp thu, phát nguyện thật và y giáo phụng hành, không phải là ngẫu nhiên. Người bình thường hễ nghe rồi cũng hiểu rõ, cũng muốn phát tâm, cũng niệm Phật hay lắm, nhưng công phu không đắc lực, vọng tưởng tạp niệm vẫn thường hay khởi lên, không đoạn được. Nguyên nhân là gì? Từ vô lượng kiếp nay, chúng ta tu pháp môn này công lực vẫn chưa đến mức, đến mức rồi sẽ không bị phiền não quấy nhiễu.

          Chúng ta hiện giờ vẫn bị phiền não quấy nhiễu như xưa, phải làm sao? Có một phương pháp, dũng mãnh tinh tấn, những gì còn thiếu sót chúng ta bổ túc hoàn toàn trong đời này. Đó là gì? Là liều mạng niệm, nhất định phải niệm A Di Đà Phật, đưa ta đi vãng sanh, thật liều lĩnh tốc độ nhanh, đó là chân tinh tấn, đó là chí tâm tinh tấn, đúng với tựa đề của phẩm, được. Chúng ta hãy xem ví dụ, ví dụ của cổ nhân, ngài Oánh Kha triều Tống là một tấm gương tốt, đó là Tỳ-kheo xuất gia phá giới. Ngài có những mặt tốt, tin nhân quả, tự mình phản tỉnh, tạo tác nhiều tội nghiệp, thì đời sau nhất định đoạ địa ngục, ngài biết. Nghĩ đến nỗi khổ địa ngục thì ngài sợ hãi, thỉnh giáo với các vị đồng học, làm sao có thể giúp tôi không đoạ địa ngục? Có vị đồng học đưa cho ngài một cuốn往生傳》 Vãng Sanh Truyện, ngài đọc qua, những người đó đi đến thế giới Cực Lạc rồi, vĩnh viễn không đọa địa ngục. Ngài xem quyển sách Vãng Sanh Truyện đó xong, vô cùng hâm mộ, hạ quyết tâm sẽ đóng cửa phòng, để liều mình niệm Phật, bất kể ngày đêm, không ngủ không nghỉ, niệm suốt ba ngày ba đêm, bởi tâm chân thành cảm được, ngài thật sự niệm khiến A Di Đà Phật đến. A Di Đà Phật nói với ngài rằng: con còn có mười năm dương thọ, tu hành cho tốt, mười năm sau, khi con hết thọ mạng Ta sẽ đến tiếp dẫn con. Không ngờ khi đó ngài Oánh Kha: bỗng nhiên thông minh, ngài thỉnh cầu A Di Đà Phật rằng: con không cần mười năm thọ mạng, bây giờ con muốn đi theo Ngài, tâm địa chân thành khẩn thiết, không phải là hư vọng. Phật bèn đáp ứng lời ngài, hẹn ngài ba ngày nữa, ba ngày sau sẽ đến tiếp dẫn con. Vãng sanh thế giới Cực Lạc phải tu tích công đức lớn, đó là Tỳ-kheo phá giới, thì công đức ở đâu ra? Tội nghiệp cả một thân. Phật nói ngài ở lại ba ngày, ba ngày đó làm thế nào? Tu phước, để ngài báo tin này cho đại chúng trong chùa, đó là biểu pháp. Ba ngày sau thấy ngài vãng sanh như thế, mọi người có đầy đủ tín tâm với pháp môn niệm Phật này, thế là độ biết bao nhiêu người, một cá nhân ngài biểu diễn thì bao nhiêu người được độ. Câu chuyện này được ghi chép vào trong淨土聖賢錄》Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện, chúng ta cách thời của ngài hơn 1000 năm, hiện tại nhìn thấy sự tích của ngài đều chịu ảnh hưởng của ngài, được ngài cảm động, đó chính là sự tích công luỹ đức của ngài. Ba ngày sau, thật sự vãng sanh. Khi ngài nói người ta chẳng tin, có người bán tín bán nghi, dẫu sao ba ngày thời gian rất ngắn, xem ông ba ngày có vãng sanh hay không, ngài cũng không sanh bệnh. Ba ngày sau, ngài thật sự vãng sanh, yêu cầu đại chúng niệm Phật tiễn ngài đi, niệm đến thời gian một khắc thì ngài nói với mọi người A Di Đà Phật đến rồi, người khác không nhìn thấy nhưng ngài nhìn thấy, từ giã mọi người ra đi. Ra đi tự tại biết bao, ung dung biết bao, đúng với thời gian Phật nói với ngài, đúng giờ, không sai một phút một giây nào.

          Hiện tiền chúng ta có đã tấm gương mẫu mực, bà Lưu Tố Thanh là chị của Lưu Tố Vân, bà vãng sanh năm 2012, bà đã thành tấm gương: phát nguyện vãng sanh ngay khi còn sống cho mọi người nhìn thấy. Đây là điều mà Lưu Tố Vân: đã cảm thán khi đứng trước mặt bà, đáng tiếc là không có ai làm chứng minh vãng sanh, cho mọi người nhìn thấy. Chị gái của bà thân thể không khoẻ, cũng lắm bệnh tật, đột nhiên nghe được câu này, để chị phát tâm, thật phát tâm làm một tấm gương vãng sanh. 8 ngày trước khi vãng sanh, Lưu Tố Vân nghe được một tín hiệu, nghe được một dãy chữ số, bà ghi nhớ lấy. Dãy chữ số đó là 2-0-1-2-1-1-2-1-1-2, đây chính là dãy chữ số mà bà ghi nhớ, đưa cho chị bà xem. Chị bà cầm trên tay thì cười một tiếng, gật gật đầu không nói gì rồi đưa lại. 2-0-1-2 là năm, 1-1 là tháng, tháng 11, 2-1 là ngày 21, 1-2 là 12 giờ, đây chính là thời gian bà ấy vãng sanh, trước tám ngày nghe được, khi bà vãng sanh thì quả thật một phút một giây cũng không sai. Lưu Tố Vân kể với tôi rằng, chị bà còn có mười năm dương thọ, mười năm dương thọ không cần nữa, làm một tấm gương cho mọi người, đích thật có thể vãng sanh, bà phát nguyện thực hiện biểu pháp này. Thời gian là do Phật nói với bà, nói với Lưu Tố Vân, không nhìn thấy hình tượng Phật, chỉ nghe âm thanh của Phật. Trong thời điểm lúc bà vãng sanh, 12 giờ ngày 21, buổi sáng khi cùng nói chuyện với một số bằng hữu, có nói có cười, khi thời gian đến, bà tuyên bố với mọi người: Phật đến tiếp dẫn tôi, tôi đi đây. Phật đến tiếp dẫn, chư vị không nhìn thấy, bà nói tôi có thể nhìn thấy, chư vị có thể nhìn thấy động tác của tôi, tôi trèo lên hoa sen thế nào, khi đó tôi không nói gì nữa, quý vị nhìn thấy động tác của tôi, trèo lên hoa sen ra đi, quả nhiên không sai, không lệch một phút một giây nào.

          Thời gian gần đây, một năm trước, lão Hoà thượng Hải Hiền chùa Lai Phật vãng sanh, tôi tin rằng đức A Di Đà Phật nói với ngài, hẹn ngài mấy giờ, mấy phút, mấy giây: đều rất rõ ràng, khi đến giờ thì ra đi, hoan hoan hỷ hỷ. Quý vị thấy ngài thì biết, một tháng trước đã rõ, bạn bè tốt, chỗ trước đây ngài từng ở đều đi thăm, đó là gì? Là từ giã mọi người, cáo biệt với mọi người. Nói rất rõ ràng, sau này tôi sẽ không còn trở lại, tôi đi về thế giới Cực Lạc. Quý vị lại xem mẫu thân của ngài, Cư sĩ tại gia, bà không đi tuyên bố với mọi người, kiên trì phải  về nhà. Về nhà để làm gì? Độ cho con gái của bà, để con gái và cháu gái mình: nhìn thấy bà niệm Phật vãng sanh tự tại thế nào, nói đi là đi, tin tưởng rồi. Con gái và cháu gái có duyên sâu với bà, dường như con gái bà sau này dắt đứa cháu trai xuất gia, bởi đích thân nhìn thấy, không giả chút nào. Phát tâm này quan trọng biết bao, phải phát Chân Tâm, thế gian này quá khổ, không đáng để lưu luyến. Đi đến thế gian này, có duyên giúp đỡ chúng sanh, không có duyên thì không cần phan duyên, phan duyên là sai rồi. Nếu chúng ta phan duyên, thì phải phan duyên với A Di Đà Phật, duyên với vãng sanh thế giới Cực Lạc. Những duyên khác thì nhất định không được phan, vì lỡ phan vào thì sau đó sẽ là vô lượng kiếp, làm sao ra khỏi? Điều quan hệ lợi hại này: chính mình phải hiểu rất rõ ràng, rất minh bạch. Đều buông xuống hết danh văn lợi dưỡng, giữ gìn tâm địa thanh tịnh bình đẳng, thanh tịnh không có ô nhiễm, bình đẳng không bị lung lay, bình đẳng chính là tam-muội, chính là Thiền định. Trong大集經》 Kinh Đại Tập đã nói rất hay, một câu Phật hiệu này là Vô thượng thâm diệu thiền, là念佛三昧 Niệm Phật Tam-muội, phải toàn tâm toàn ý dựa vào A Di Đà Phật, ta không có ý niệm nào khác, chính là phải đến thế giới Cực Lạc.

          Khi ngài Pháp Tạng phát nguyện kèm thêm có quốc độ, quốc độ là gì? Là đạo tràng thành tựu chúng sanh mười phương vãng sanh: tu hành thành Phật, phương pháp sử dụng chính là: nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ, bản này của chúng ta: phẩm 24, phẩm 25, nói rất rõ ràng, trong 三輩往生 “tam bối vãng sanh”, 往生正因 “vãng sanh chánh nhân”, nói rằng, bất luận bậc Thượng–Trung–Hạ, đều là một câu nói, phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Tại sao lại có ba bậc chín phẩm? Phát tâm lớn nhỏ khác nhau. Tâm lượng nhỏ vì cá nhân. Ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thành Phật, không vì điều gì khác, vì hỗ trợ A Di Đà Phật: độ thoát chúng sanh tội khổ lục đạo: trong các cõi nước của chư Phật Như Lai mười phương thế giới, là vì điều này, không vì chính mình. Điều này là đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng hạnh với A Di Đà Phật, không có điều gì không được như nguyện. Độ những chúng sanh nào? Chúng ta xem kinh văn này, quay đầu nhìn lại lão Hoà thượng Hải Hiền thì quý vị sẽ nhìn ra. 一切有情乃至下等蟲類“Nhất thiết hữu tình nãi chí hạ đẳng trùng loại”(Tất cả hữu tình cho đến các loại động vật hạ đẳng), muỗi mòng kiến bọ, lão Hoà thượng đều ái hộ, đều cẩn thận dè chừng sợ làm tổn thương chúng. Lão Hoà thượng mỗi ngày đều sinh hoạt ở trong ruộng đất, trong đất đó có sâu bọ nhỏ, chúng có biết tránh né không? Biết. Lão Hoà thượng không nói chúng cũng biết, là cảm ứng! Những động vật nhỏ này chung sống tốt đẹp với người.

          Mười mấy hai chục năm nay chúng tôi ở hải ngoại, tôi nhớ chắc khoảng 15 năm trước, có một lần ở Malaysia, Cư sĩ Lý Kim Hữu có một mảnh đất trên núi Cổ Tấn, ông mở một nông trường tại đó, xây một căn nhà ở nơi đó, còn làm một sân golf, quy mô rất lớn. Dẫn tôi đi xem vườn rau, ông nói với tôi, khi ấy vườn rau đã là năm thứ sáu, vườn rau này không dùng thuốc trừ sâu, không có phân hoá học, hoàn toàn là hữu cơ. Năm đầu tiên, vườn rau của ông, rau bị côn trùng ăn 90%, còn để lại một ít, ông kiên trì không sát sanh, không tổn hại chúng, bảo vệ chúng hết mức. Đến năm thứ hai, đại khái bị ăn khoảng gần một nửa, chừa lại một nửa. Năm thứ ba sâu ăn một phần ba, chừa cho ông hai phần ba. Khi tôi đến thăm là năm thứ sáu, ông nói năm nay thầy đi xem, côn trùng chỉ ăn có một phần mười, chừa lại chín phần mười.

          Tôi trồng rau tại Úc Châu, sân nhà rất lớn, đó là một vườn rau rất lớn, chúng tôi làm hoạt động: có thể cung cấp cho 1000 người trong một tuần, vườn rau đó. Chúng tôi bắt đầu ước định với côn trùng và chim nhỏ, chúng tôi viết một tấm biển cắm ở bên đó, vạch sẵn đường ranh, phần nào thì cúng dường cho quý vị, quý vị cứ sang bên đó mà ăn, còn đây thuộc về chúng tôi, quý vị hãy chừa lại cho chúng tôi, chúng nghe lời, thật sự nghe lời. Chúng tôi làm mười mấy năm ở đó, những nông dân ở gần đó nhìn thấy vô cùng kỳ lạ, chúng tôi bèn dạy họ, đều có hiệu quả. Chúng tôi trồng rất nhiều cây ăn quả, cũng như vậy, trên cây treo tấm biển, có mấy cây chuyên để cung cấp cho chim nhỏ, không treo biển thì chúng sẽ không chừa lại cho chúng ta đâu, có hiệu quả. Chúng tôi ở Thang Trì, lập Trung tâm Văn hoá truyền thống tại Thang Trì, ở đó chúng tôi có một vườn rau rất lớn, có khoảng 30 mẫu đất, dùng phương pháp này hữu hiệu. Có nhiều Phật hữu: noi theo phương pháp của chúng tôi cũng có hiệu quả. Thật sự trùng loại hạ đẳng: là chúng sanh hữu tình, chúng tôi mở Phật hiệu, bật giảng kinh tại vườn rau, chúng có thể nghe kinh, chúng có thể niệm Phật. Do vậy những thứ chúng tôi trồng trọt làm nông đều rất tốt, chất lượng vô cùng ngon, cũng rất dễ nhìn, đưa ra thị trường rất nhiều thứ, có thể lấy một phần đem ra thị trường để bán, rất được hoan nghênh. Trong thành phố nhỏ Toowoomba này, đạo tràng chúng tôi có mở một tiệm nhỏ ở gần đó, chính là để bán các loại rau củ này. Điều đó nói rõ: chúng ta với tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình, vô tình là do nhục nhãn không nhìn thấy, đều có thể chung sống hoà thuận, phải đối đãi chân thành, chúng ta thật tâm thì có thể cảm động chúng.

          Tất cả những chúng sanh này, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “sanh cõi nước con, đều làm Bồ-tát”. Thế giới Cực Lạc quả thật là như 法華經Kinh Pháp Hoa đã nói: 唯有一乘法,無二亦無三 “Duy hữu Nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam”(chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai cũng không ba), nhị là Đại thừa và Tiểu thừa, tam là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Thế giới của chúng ta, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp cho chúng ta, có Nhị thừa, có Tam thừa, lại có 五乘Ngũ thừa, Năm thừa là nhân, thiên, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, gọi là Ngũ thừa. Thế giới Cực Lạc thì không có, chỉ Nhất thừa, toàn Bồ-tát, hết thảy đều là Bồ-tát, vãng sanh Hạ hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng là Bồ-tát, “không có thừa khác”. Nói cách khác, chỉ cần vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thì không một ai không thành Phật. Nhất thừa tu học thành tựu rồi là thành Phật. 並願所發之一乘願海 “Tịnh nguyện sở phát chi Nhất thừa nguyện hải” (và nguyện theo biển nguyện Nhất thừa đã phát ra), Nhất thừa chính là Phật thừa, đến thế giới Cực Lạc là ta đi làm Phật, 超踰無數佛國 “siêu du vô số Phật quốc” (vượt qua vô số cõi Phật), tất cả sát độ chư Phật đều không sánh bằng thế giới Cực Lạc.

          Thế giới Cực Lạc tu như thế nào? Phần sau, 世間自在王如來 “Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai”, đây là thầy của ngài, 應其所請 “ưng kỳ sở thỉnh” (đáp ứng lời ngài thỉnh), ngài Pháp Tạng thỉnh cầu với thầy, thầy đồng ý, 為現二百一十億佛剎 “vi hiện nhị bá nhất thập ức Phật sát” (hiện cho [thấy] 210 ức cõi Phật). 21, gấp mười lần tức là 210, đơn vị là ức, đây không phải là con số, nếu là con số thì sẽ không nhiều, 210 ức không nhiều, đây là biểu pháp của Mật tông. Phải biết rằng trong bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, có Hiển có Mật, có Thiền có Tịnh, tất cả các pháp: được đức Thế Tôn thuyết giảng suốt 49 năm tại thế, hết thảy đều thấm đượm trong bộ Kinh này. Do vậy 21 này là biểu pháp Mật tông, biểu cho điều gì? Viên mãn, 21 đại biểu viên mãn, 210 biểu thị cho đại viên mãn, cứu cánh viên mãn. Cũng chính là nói trong đại vũ trụ này, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, một điều cũng không sót. Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai dùng thần lực của Ngài biến hiện tất cả: ở trước mặt Bồ-tát Pháp Tạng, để cho ngài nhìn thấy tất cả. 法藏皆悉睹見 “Pháp Tạng giai tất đổ kiến” (Ngài Pháp Tạng đều nhìn thấy hết), ngài nhìn thấy. Thấy được rồi, 乃於五劫 “nãi ư ngũ kiếp” (mà với năm kiếp), năm kiếp là thời gian, không có nói tiểu kiếp hay trung kiếp, thì đó là đại kiếp, đó là thời gian rất dài. Thời gian suốt ngũ kiếp để精勤修習 “tinh cần tu tập”(tinh tấn siêng năng tu tập), nói theo cách hiện nay của chúng ta, đi vào cõi nước của chư Phật để khảo sát, chính mình cho rằng những gì hài lòng thì chọn lấy, chính mình thấy những điều không thích thì xả bỏ, cho nên thế giới Cực Lạc được thành tựu như thế nào? Suốt thời gian năm kiếp, Bồ-tát Pháp Tạng đã trải khắp: tất cả sát độ chư Phật của hư không pháp giới, một cõi cũng không sót, đều đi tham quan khảo sát, chọn sở trường của người, bỏ sở đoản của người, mỗi một ưu điểm trong thế giới thì ngài đều thu nhận, có những điều khuyết điểm thì ngài không cần, dùng điều đó để kiến tạo thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là: tập hợp tất cả sự đại thành tựu điều chân thiện mỹ huệ: trong cõi nước của tất cả chư Phật, cho nên cõi nước của tất cả chư Phật không thể sánh bằng được, đạo lý ở chỗ này. Không phải là do Tự Tại Vương Phật dạy ngài, cũng không phải tự ngài nghĩ ra, không phải, mà đi khảo sát, tạo thành như vậy, vô cùng hợp với logic. Thế giới ấy tạo thành công đến ngày nay, mới chưa quá mười kiếp, thời gian không dài, thọ mạng của ngài là vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp, chúng ta ở kiếp thứ mười, thì đã đi đến thế giới Cực Lạc rồi, tương lai ở thế giới Cực Lạc, quý vị hãy nghĩ xem, địa vị đều rất cao, chúng ta đi bây giờ là thành đại chúng vãng sanh ở kiếp thứ mười. Nhất định phải tranh thủ, không thể rớt lại phía sau. Cho nên phần sau nói 結得勝願 “kết đắc thắng nguyện”(kết thành nguyện thù thắng), thù thắng, đại nguyện thù thắng không gì sánh bằng, thắng nguyện này là chỉ 48 nguyện, chúng ta sẽ học đến phẩm thứ sáu ở phần sau, đại nguyện thù thắng. 所攝佛國超過彼二百一十億佛剎 “Sở nhiếp Phật quốc siêu quá bỉ nhị bá nhất thập ức Phật sát”(Cõi nước Phật được nhiếp thủ vượt hơn 210 ức cõi Phật đó), thật sự là vượt qua, vượt hơn vô lượng vô biên vô tận cõi nước của chư Phật, 210 ức đại biểu cho vô lượng vô biên vô số vô tận, đều siêu việt toàn bộ.

    是故本品名為至心精進。至心者,如經文中所示至誠無上之種種心行 “Thị cố bổn phẩm danh vi Chí Tâm Tinh Tấn. Chí tâm giả, như kinh văn trung sở thị chí thành vô thượng chi chủng chủng tâm hạnh” (Bởi vậy tên phẩm này gọi là Chí Tâm Tinh Tấn. Chí tâm thì như trong kinh văn đã dạy: là mọi loại tâm hạnh chí thành vô thượng). Đặc biệt giải thích hai chữ “chí tâm”, làm thật, dụng tâm thật. Vì sao? Bởi tất cả chúng sanh mười phương thế giới, có đạo tràng tu học lý tưởng, đạo tràng này kiến lập không phải để hưởng thụ cho riêng mình, mà là thành tựu cho tất cả các vị Bồ-tát vãng sanh, giúp họ một đời: mau chóng chứng đắc Phật quả cứu cánh, là ý nghĩa này, chúng ta phải hiểu được. Như trong kinh văn đã dạy, chí thành vô thượng, chúng ta phải nhớ bốn chữ này, chúng ta phải học chí thành. Thành, thành đến cực điểm, chân thành đến tột cùng, đó gọi là chí thành. Các loại tâm hạnh; tâm, khởi tâm động niệm không vì mình, đó là thành; vì mình thì trong đó có tâm riêng tư, sẽ phá mất chữ thành. Không những chí thành mà còn phải vô thượng, nghĩ vô cùng chu đáo, làm hết sức viên mãn, chính là tận tâm tận lực giúp đỡ chúng sanh. Chúng ta hiện tại tận tâm tận lực làm gì? Chí thành vô thượng dùng ở đâu? Dùng ở tín, thật sự tin công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Một câu danh hiệu này thống nhiếp: tất cả danh hiệu chư Phật khắp hư không pháp giới, danh hiệu của chư Phật là đức hiệu của Tự Tánh, danh hiệu của Bồ-tát là danh hiệu của tu đức, tánh tu không hai. Vì vậy, danh hiệu của tất cả Bồ-tát, danh hiệu của tất cả chư Phật: đều nằm trong một câu danh hiệu A Di Đà Phật, quý vị niệm một câu danh hiệu này là đã niệm toàn bộ, quý vị phải sáng tỏ đạo lý này, đây gọi là danh hiệu thù thắng, phải tranh thủ thời gian. Do vậy tôi khuyên mọi người học theo lão Hoà thượng Hải Hiền, lão Hoà thượng đi đứng nằm ngồi, bất luận làm gì cũng không bao giờ bỏ mất Phật hiệu, đó chính là tâm hạnh chí thành vô thượng. Sinh hoạt, công tác, đãi người tiếp vật, Phật hiệu không gián đoạn, không niệm trong miệng thì niệm trong tâm. Trước đây tôi có gặp một người là 章嘉大師Đại sư Chương Gia, tôi theo ngài ba năm, thật sự, mọi lúc mọi nơi, ngài đều trì chú không bao giờ bỏ mất. Khi vãng sanh, hoả táng được mười ngàn viên xá-lợi, trước nay chưa bao giờ thấy, đại khái có hai ngàn viên: to như đậu tương đậu xanh vậy, còn những viên lớn như hạt gạo, rất nhiều. Xá-lợi, hoa xá-lợi nhiều đến vậy, điều đó làm chứng minh cho đại chúng. Đích thực là nhất tâm trì chú, ngài làm được chí thành vô thượng, đây là điều mà chúng ta phải nên học tập theo.

    又有進者 “Hựu hữu tiến giả”(Lại tiến thêm nữa), đây là nói thêm, 法藏於親睹無邊佛剎後,便一其心 “Pháp Tạng ư thân đổ vô biên Phật sát hậu, tiện nhất kỳ tâm”(ngài Pháp Tạng nhờ sau khi tận mắt thấy vô biên cõi Phật, liền nhất tâm ấy), nhất tức là chí thành, chí thành tức là nhất tâm, không có hai niệm, 選擇所欲 “tuyển trạch sở dục” (tuyển chọn những điều mình muốn), ở trong tất cả cõi nước chư Phật, chọn ra những điều ngài muốn.  文中一心 “Văn trung nhất tâm”( chữ nhất tâm trong văn này), [trong câu] tiện nhất kỳ tâm, nhất tâm này là顯至心也 “chánh hiển chí tâm dã”(Chính là biểu lộ chí tâm), đây có nghĩa là chí tâm. 精進者,精勤求索 “Tinh tấn giả, tinh cần cầu sách”(Tinh tấn là tinh cần cầu sách), tinh là không tạp, thuần chứ chẳng tạp; cần là không giải đãi. Ở trong tất cả cõi nước chư Phật mà cầu tinh, cầu sự tinh hoa, cầu tướng hảo trang nghiêm của cõi nước, sau khi cầu được thì cung kính, cẩn thận, giữ gìn, không để mất, giữ gìn trong lòng mình. Chúng ta hiện tại nghe báo cáo của các nhà khoa học, biết rằng tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh, nên chúng ta nghĩ rằng: tâm tưởng của A Di Đà Phật tốt biết bao, tâm tưởng của Ngài: là chân thiện mỹ huệ trong cõi nước của tất cả chư Phật, ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, đã thành tựu thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc do vậy mà đến. 修習功德,滿足五劫,成就莊嚴佛土清淨之行也 “Tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp, thành tựu trang nghiêm Phật độ thanh tịnh chi hạnh dã” (Tu tập công đức, đầy đủ năm kiếp, thành tựu hạnh trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh). Vẻ đẹp của thế giới Cực Lạc, hoàn toàn là do tâm nguyện của A Di Đà Phật: về thế giới Cực Lạc mà thành tựu, không thể dựa vào chính mình suy tưởng, tưởng đều là vọng tưởng. Tất cả sự thù thắng trang nghiêm không gì sánh bằng: của cõi nước chư Phật ở mười phương, đều ứng hiện trong sự chí tâm của Bồ-tát Pháp Tạng, cho nên mới có thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc, chúng ta chẳng thể không cảm ơn A Di Đà Phật, không có A Di Đà Phật thì không có thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc có thể nói là do chí tâm của A Di Đà Phật mà biến hiện, thế giới Cực Lạc là sở hiện, tâm nguyện của đức Di Đà là năng hiện, năng và sở là một chẳng phải hai. Từ chỗ này chúng ta kiến lập chân tín thiết nguyện, chúng ta tin thật, không hoài nghi, chúng ta khẩn thiết nguyện vọng là cầu sanh Tịnh độ, hy vọng một đời mau chóng thành tựu ở thế giới Cực Lạc, sau đó hỗ trợ A Di Đà Phật: phổ độ chúng sanh hữu tình mười phương.

          Đoạn cuối cùng là法藏請法 “Pháp Tạng thỉnh pháp”(ngài Pháp Tạng thỉnh pháp), trong đó chia làm ba đoạn nhỏ, đoạn nhỏ thứ nhất là總明 Tổng minh (Nói chung). Chúng ta xem kinh văn:

法藏比丘說此偈已。而白佛言。我今為菩薩道。已發無上正覺之心。取願作佛。悉令如佛。】

“Pháp Tạng Tỳ-kheo thuyết thử kệ dĩ, nhi bạch Phật ngôn: Ngã kim vi Bồ-tát đạo. Dĩ phát Vô thượng Chánh giác chi tâm, thủ nguyện tác Phật, tất linh như Phật.” (Tỳ-kheo Pháp Tạng nói bài kệ này rồi, bèn bạch Phật rằng: Nay con hành đạo Bồ-tát. Đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, lấy nguyện làm Phật, đều khiến như Phật).

          Theo chú giải của Niệm lão, 右段承上啟下 “hữu đoạn thừa thượng khải hạ”(Đoạn vừa rồi tiếp nối thưa bạch ở trên).  Trong phẩm trước đã dùng kệ tụng biểu đạt nguyện, nguyện vọng của A Di Đà Phật, văn ở đây sử dụng trường hàng để thưa bạch, trường hàng là thể văn xuôi, 『已發無上正覺之心』“dĩ phát Vô thượng Chánh giác chi tâm”(đã phát tâm vô thượng Chánh giác). Chú giải của Niệm lão nói, 蓋入道要門,發心為首;修行急務,立願居先 “cái nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ; tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên” (Cửa quan trọng để vào đạo, thì phát tâm là đứng đầu; việc cấp bách của tu hành, thì lập nguyện là trước tiên). Bốn câu này là cổ Đại đức nói, vô cùng quan trọng, chúng ta học Phật công phu có đắc lực hay không, đều nói hết trong 16 chữ này. Đường lối quan trọng nhất để vào đạo chính là phát tâm, phải phát Chân Tâm. Phát tâm làm gì? Phát tâm làm Phật. Quý vị nhìn phát tâm chỗ này của ngài, 『取願作佛,悉令如佛』“thủ nguyện tác Phật, tất linh như Phật”(lấy nguyện làm Phật, đều khiến như Phật). Chúng ta chỉ có một nguyện vọng là đi làm Phật, làm Phật như thế nào? Giống hệt với đức A Di Đà Phật, phải phát tâm này, đồng tâm đồng nguyện với A Di Đà Phật. Việc cấp bách của tu hành, tu là tu sửa, hành là hành vi. Hành vi vô lượng vô biên, khởi tâm động niệm là hành vi của ý, ba nghiệp thân–khẩu–ý, hành vi ý nghiệp; nói năng là hành vi của khẩu; tạo tác là hành vi của thân, hành vi vô lượng vô biên, không rời khỏi ba đại loại này, cho nên Phật dùng thân–ngữ–ý bao quát hết. Nếu ba loại hành vi này sai lầm, thì phải tu sửa lại, đó gọi là tu hành. Sai lầm là gì? Phàm phu lục đạo sai hoàn toàn. Chúng ta không phải là có tiêu chuẩn tu hành có thiện, có ác hay sao? Thiện và ác đều sai. Tại sao? Quý vị tu thiện nghiệp, cảm được quả báo là ba đường thiện; quý vị tạo ác nghiệp thì sẽ cảm được ba đường ác, ba đường ác và ba đường thiện đều là lục đạo, không ra khỏi. Nhất định phải hiểu được: ba đường ác tiêu ác nghiệp, ba đường thiện tiêu thiện nghiệp, đều là tiêu nghiệp, có nhân có quả, đều là sai lầm. Phải làm sao? Phải có trí huệ, tu thiện không đắm tướng của tu thiện, tạo ác không đắm tướng của tạo ác, đó gọi là chân tu hành. Cũng tức là nói, Bồ-tát thị hiện tại nhân gian, ngài có ba nghiệp có vẻ giống như người chúng ta, nhưng kỳ thực không phải vậy, ngài không có tạo nghiệp.

          Như Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, có người nói Ngài chịu khổ cả đời, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, nhưng Ngài nói, cả đời này Ngài không hề nói một câu pháp nào, ai mà nói Phật thuyết pháp là huỷ báng Phật. Sao Ngài lại phủ nhận tất cả pháp đã thuyết suốt 49 năm? Chúng ta học Phật thời gian đã lâu, từ từ sẽ thể hội được ý nghĩa này, Ngài có phải là thực sự không thuyết pháp? Thật sự không thuyết. Pháp đó đến từ đâu? Trong cảm ứng, tự nhiên tuôn ra. Quý vị xem phàm phu chúng ta ăn nói, họ khởi tâm động niệm hễ suy tưởng, tôi nói gì cho quý vị, thì đó là có nói; Phật không nói, Phật không có tưởng. Chúng ta là dùng Ý thức thứ sáu tư duy, Thức thứ bảy chấp trước, A-lại-da hàm chứa chủng tử, vậy thì biến thành pháp hữu vi. Phật giảng kinh thuyết pháp, mọi loại thị hiện đều là pháp vô vi. Pháp vô vi là gì? Không có khởi tâm động niệm, cho nên Ngài không nói, Ngài cũng không tạo tác. Mắt thấy bên ngoài nhìn được rõ ràng, tai nghe âm thanh nghe được rõ ràng, đó là gì? Đó là tánh đức. Đó là trí huệ Bát-nhã: ở trong Tự Tánh khởi tác dụng, không có khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là A-lại-da khởi tác dụng, đó là tạo nghiệp rồi. Ngài nhìn không có khởi tâm động niệm, nghe không có khởi tâm động niệm, nói không có khởi tâm động niệm, mọi tạo tác cũng không có khởi tâm động niệm, không có khởi tâm động niệm thì không có vô minh, khởi tâm động niệm là vô minh phiền não.

          Chúng ta có biết khởi tâm động niệm hay không? Không biết, nó quá vi tế, thô niệm thì chúng ta biết, nhưng tế niệm thì chúng ta không biết. Cho nên đức Phật hỏi Bồ-tát Di-lặc, hỏi rất khéo léo, Phật hỏi ngài Di Lặc, 心有所念 “tâm hữu sở niệm”, trong tâm phàm phu khởi ý niệm, 幾念幾相識耶 “kỉ niệm kỉ tướng thức da?”, đây là nguyên văn trong kinh, phàm phu khởi một niệm thì có bao nhiêu niệm, có bao nhiêu tướng, có bao nhiêu thức? Cho nên một câu này đã hỏi ba vấn đề. Bao nhiêu ý niệm, các tế niệm thì cấu thành một ý niệm thô, phàm phu nhận biết được, nhưng tế niệm không nhận biết được. Trong tế niệm này có bao nhiêu tướng là hiện tượng vật chất, niệm là hiện tượng tâm lý, thức là hiện tượng tâm lý, cũng chính là Ngũ uẩn mà chúng ta thường nghe nói trong kinh, Ngũ uẩn sắc–thọ–tưởng–hành–thức色受想行識. Vấn đề trong câu nói này của đức Phật, chính là ý niệm có bởi tâm, ý niệm này có bao nhiêu sắc pháp? Chúng ta nói có bao nhiêu sắc pháp (hiện tượng vật chất), có bao nhiêu hiện tượng tâm lý, chính là ý niệm (tế niệm) khởi lên. Bồ-tát Di Lặc trả lời là一彈指 “nhất đàn chỉ” (một khảy ngón tay), thời gian rất ngắn, có三十二億百千念 “tam thập nhị ức bá thiên niệm” (32 ức trăm ngàn niệm). 32 ức, trăm ngàn là mười vạn, 32 ức nhân mười vạn là 320 ngàn tỉ, một khảy ngón tay có 320 ngàn tỉ tế niệm, là ý niệm vi tế. 念念成形 “Niệm niệm thành hình”, hình tức là hiện tượng vật chất, tức là sắc, mỗi một ý niệm đều có sắc, đều có hiện tượng vật chất, 形皆有識 “hình giai hữu thức”(hình đều có thức), mỗi một hình hết thảy đều có thọ–tưởng–hành–thức. Vậy mới biết Ngũ uẩn là nói điều gì, chúng ta mới có khái niệm về thô thiển, chúng ta thấy không được khái niệm này. Hiện tại hình ở trong đó, niệm niệm thành hình được các nhà khoa học tìm thấy, các nhà khoa học Lượng tử hiện nay, đã giải được câu đố về hiện tượng vật chất. Vật chất là gì? Căn bản thì không có vật chất tồn tại, vật chất là ảo tướng do sóng ý niệm sinh ra. Vì nó quá nhanh, tốc độ quá nhanh, nên chúng ta nghĩ đó là thật, mà không biết rằng đó hoàn toàn là giả, cơ bản là không tồn tại. Quý vị thật sự hiểu rõ ràng, thì quý vị mới chịu buông xuống, buông xuống điều gì? Đối với những điều trong hiện tượng vật chất, sẽ không khởi tâm động niệm, đó là buông xuống, không khởi tâm, không động niệm là buông xuống hoàn toàn.

          Ba giai vị ở trong nhà Phật. Phật, thế nào là Phật? Sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, không khởi tâm không động niệm chính là Phật, Ngài không tạo tác. Với Phật, người khác thỉnh giáo với Ngài, Ngài bèn thuận miệng trả lời, tuyệt đối không suy xét, tuyệt đối không có suy tưởng, hễ tưởng là rơi vào Ý thức, rơi vào Mạt-na, không có tưởng, không có ý, không có niệm. Từ trong niệm sinh ra ý, từ ý sinh ra tưởng, tưởng là Ý thức thứ sáu, ý là Thức thứ bảy, làn sóng đó là A-lại-da thức. Do vậy từ A-lại-da biến hiện ý, ý biến hiện Thức thứ sáu, Thức thứ sáu lại liên kết khởi tác dụng: cùng với năm thức đầu. Tốc độ quá nhanh, một khảy ngón tay là sóng dao động bao nhiêu lần? 320 ngàn tỉ lần. Hiện nay chúng ta dùng giây làm đơn vị, một giây khảy được bảy lần, lại nhân bảy, là 320 ngàn tỉ nhân bảy lần, hơn 2 triệu 100 ngàn tỉ, với một giây, đã có hơn 2 triệu 100 ngàn tỉ lần sanh diệt: đang ở trước mặt, bao gồm cơ thể của chúng ta, tất cả cảnh giới bên ngoài đều là ảo tướng sinh ra trong tần suất này. Phật làm sao biết được? Phật đã nói, không những Ngài biết, mà ngoài Phật ra, còn có bốn loại người cũng biết. Bốn loại nào? Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Phật là Diệu giác. Trong華嚴經 Kinh Hoa Nghiêm nói có 51 giai cấp Bồ-tát, chính là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, là 50 bậc, lại thêm Đẳng giác và Diệu giác, Bát địa trở lên nhìn thấy, định công sâu như thế. 52 cấp bậc này chính là 52 thứ lớp: công phu thiền định cạn sâu. Đi lên trên cùng nhất, từ Bát địa đến phần trên cùng, cũng chính là bốn loại trên cùng: trong 51 giai cấp, Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, các ngài đều nhìn thấy. Thất địa trở xuống biết có sự việc này, nhưng không thật sự nhìn thấy.

          Trong Thiền định không có thời gian và không gian, vì sao? Thời gian, không gian: là do ý niệm chúng ta sinh ra, không phải là thật. Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta, vũ trụ này: vốn dĩ không có một thứ gì, đây là thật. Không một thứ gì là sao? Bao gồm hiện tượng tự nhiên, hiện tượng tâm lý, hiện tượng vật chất: toàn bộ đều là giả, không phải chân thật. Chân thật là gì? Chân thật là 常寂光Thường Tịch Quang, đây là chân thật, những thứ khác hoàn toàn là giả. Phàm phu hết thảy đều bị A-lại-da lừa dối, A-lại-da là pháp sanh diệt, tất cả pháp không phải do nó sinh, mà là do Tự Tánh sinh. Tự Tánh năng sanh năng hiện, Đại sư Huệ Năng nói rất hay, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, cả vũ trụ là đến từ đâu? Do Tự Tánh sinh, Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, nhưng bất biến, cho nên nói Vô Lượng Thọ, vĩnh hằng bất biến. Thứ sẽ biến là gì? A-lại-da, A-lại-da tiến vào, đem sở sanh sở hiện trong Tự Tánh: biến thành mười pháp giới, biến thành lục đạo. Cho nên phương pháp tu học của Pháp Tướng tông Đại thừa: chuyển tám thức thành bốn trí là siêu việt luân hồi, siêu việt mười pháp giới, trở về đến Thật Báo độ. Thật Báo độ cũng không phải là thật, nó chỉ chân thật hơn mười pháp giới, tại sao? Mười pháp giới là pháp sanh diệt, nó bất sanh bất diệt, nó không có hiện tượng sanh diệt. Nhưng Tự Tánh có ẩn và hiện khác nhau, ẩn là nó không hiện, khi có duyên thì nó mới hiện, là hiện tướng. Nó có ẩn, nó có hiện, hiện không thể nói nó có, ẩn không thể nói nó không, chẳng phải có chẳng phải không, trong Pháp môn Tịnh Độ gọi là Thường Tịch Quang. Cho nên Tịnh Độ đạt đến cứu cánh viên mãn, là trở về Thường Tịch Quang, chúng ta từ Thường Tịch Quang đi ra, cuối cùng trở về Thường Tịch Quang. Giống như “không giới hạn” mà các nhà khoa học hiện nay nói, “không” là viên mãn, không phải một, một là chưa viên mãn, 0, “không giới hạn”, cuối cùng chúng ta trở về số 0.

          Trong Thật Báo độ, Thật Báo độ, là duyên gì mà hiện Thật Báo độ? Tập khí vô thuỷ vô minh. Vô thuỷ vô minh chính là khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm thì nó có, không khởi tâm không động niệm thì nó không. Không khởi tâm không động niệm: đây chính là chứng đắc Pháp thân, là minh tâm kiến tánh, không khởi tâm không động niệm. Mặc dù không khởi tâm không động niệm, nhưng nó vẫn còn tập khí, tập khí không cách gì đoạn được, vì có tập khí nên nó vẫn còn tướng, vĩnh viễn tồn tại. Đoạn sạch tập khí rồi, thì tướng không thấy nữa, biến thành gì? Biến thành Thường Tịch Quang, tự nhiên trở về Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang chính là Pháp thân, 毘盧遮那Tỳ-lô-giá-na là Pháp thân Phật, chúng ta nặn nó thành bức tượng người, nó không thể nặn ra, nó không có tướng, nó là Thường Tịch Quang. Bởi vì Tỳ-lô-giá-na là tiếng Phạn, phiên dịch thành ý nghĩa tức là遍一切處 Biến Nhất Thiết Xứ (khắp thảy mọi nơi), đây gọi là Quang. Thường Tịch, hàm nghĩa danh từ này, “thường” là vĩnh hằng, không sanh không diệt, không sanh không diệt là thường; “tịch” là thanh tịnh, trước nay chưa bao giờ bị ô nhiễm, trước nay chưa bao giờ động, như như bất động; quang là quang minh biến chiếu, nó đang ở đâu? Không ở đâu không có, không khi nào không có, nó là bản thể của tất cả pháp, tất cả pháp là do nương nó mà hiện ra, không có nó thì không thể hiện, cho nên trong ba thân, có Ứng thân, Báo thân, Pháp thân, xưng là Pháp thân. Pháp thân không có tướng, Báo thân có tướng, Ứng hoá thân chính là thân ứng hoá có sanh có diệt: trong mười pháp giới; Báo thân có sanh, không có diệt; Pháp thân không sanh không diệt, trong kinh nói rất rõ ràng, đây là chính mình thật sự.

          Mục tiêu chung cực của Phật pháp là gì? Là tìm thấy bản lai diện mục của mình, như Thiền tông đã nói父母未生前本來面目 “phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (mặt mũi vốn có trước khi cha mẹ sanh ra). Chính mình thật sự, là ngã thật sự, chính là Pháp thân, chính là Thường Tịch Quang, không khi nào không có, không ở đâu không có, cho nên chứng đắc Thường Tịch Quang thì rất nhiều rất nhiều. A Di Đà Phật cũng là một, chúng ta vừa niệm A Di Đà Phật, thì A Di Đà Phật hiện thân, vì sao? Bởi chúng ta có cảm thì Ngài có ứng. Chúng ta hiện tại niệm, niệm cả ngày đến tối, mà Phật cũng không hiện thân, nguyên nhân là gì? Trong ý niệm của chúng ta còn pha tạp, chưa thanh tịnh, có nghi ngờ, có tham sân si mạn, có một chút chút cực kỳ vi tế đều là chướng ngại. Không có một mảy may chướng ngại, thì hễ quý vị niệm là Phật sẽ hiện tiền ngay, quý vị không niệm Ngài thì không thấy. Vì khoảng cách của Phật với chúng ta, với chúng ta là một thể, không tách rời, nhất định phải biết đạo lý này. Do đó chúng ta bổn lai là Phật, mỗi cá nhân đều là Phật, là sự thật, tuyệt đối không phải nói dối. Chúng ta hiện tiền có trở ngại, trở ngại này chính là phiền não, chính là tập khí, phiền não vẫn không đáng sợ, nhưng tập khí rất đáng sợ. A-la-hán đã đoạn Kiến tư phiền não, nhưng chưa đoạn tập khí Kiến tư phiền não, cho nên sau khi chứng đắc quả A-la-hán rồi, các ngài còn phải đoạn dứt tập khí phiền não, đoạn dứt tập khí rồi thì các ngài thăng cấp, không gọi các ngài là A-la-hán, các ngài được gọi là Bích-chi-phật. Bích-chi-phật phải đoạn dứt 塵沙煩惱Trần sa phiền não, sau khi đoạn dứt Trần sa phiền não, thì các ngài thăng lên trở thành Bồ-tát, các ngài chưa đoạn tập khí. Bồ-tát đoạn dứt tập khí Trần sa phiền não, thì các ngài nâng cao, nâng cao lên thì thành Phật, Phật này là 相似即佛Tương tự tức Phật, Phật ở trong mười pháp giới, các ngài cần phải đoạn dứt luôn 無明煩惱Vô minh phiền não, thì mười pháp giới không thấy nữa.

          Mười pháp giới đến như thế nào? Do Vô minh phiền não biến hiện, lục đạo luân hồi là do Kiến tư phiền não biến hiện. Phật trong mười pháp giới: cần phải đoạn dứt khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là Vô minh phiền não, vô cùng vi tế, như vừa mới giảng: một khảy ngón tay có 320 ức trăm ngàn niệm, quá vi tế, phải đoạn dứt những điều này, các ngài mới ra khỏi mười pháp giới, đây chính là Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát: sáu căn trong cảnh giới sáu trần, không khởi tâm không động niệm, các ngài vẫn còn tập khí. Tập khí có cách nào để đoạn dứt không? Không có cách gì, quý vị muốn khởi tâm động niệm để đoạn tập khí, lại hỏng hết, quý vị càng hạ xuống, quý vị không phải nâng cao lên. Vậy sẽ ra sao? Cứ kệ nó, thời gian lâu rồi thì tự nhiên không còn. Mất bao lâu thời gian? Ba A-tăng-kỳ kiếp, chính là nói, các ngài phải trụ ba đại A-tăng-kỳ kiếp: trong Thật Báo độ. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp này gọi là Vô Lượng Thọ, vô lượng trong hữu lượng, hữu lượng là gì? Ba A-tăng-kỳ kiếp. Nhưng sau ba A-tăng-kỳ kiếp, thì tập khí của các ngài không còn nữa, được chân vô lượng thọ, hữu lượng với vô lượng được đánh dấu bằng nhau, thật sự là vô lượng, các ngài quay về Thường Tịch Quang, không thấy Thật Báo độ nữa. Do vậy, 凡所有相皆是虛妄 phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (những gì có tướng đều là hư vọng), không nói Thật Báo độ là ngoại lệ, Thật Báo độ cũng bao gồm ở trong đó, không có tướng.

          Phật nói những chân tướng sự thật này cho chúng ta, mục đích chính là để dạy chúng ta rằng: đều không nên chấp trước tất cả các tướng, ngay cả tướng của Phật cũng không nên chấp trước, thì tâm của quý vị mới thật sự trở về thanh tịnh, mới thật sự trở về bình đẳng. Đắm tướng là sai rồi, phàm phu đắm tướng cho đó là thật, còn lấy đó cho là của mình, tài sắc danh lợi đều là rỗng không, mộng huyễn bào ảnh. Kinh Kim Cang hay, số chữ không nhiều, nguyên lý nguyên tắc và chân tướng sự thật đều nằm hết trong đó. Phật pháp hết thảy chỉ là nhận thức: chân tướng vũ trụ nhân sinh mà thôi, tu hành đắm tướng là sai rồi, tu sửa lại không đắm tướng nữa là đúng. Làm việc tốt, hành Bồ-tát đạo là làm việc tốt, phải như trong Kinh Kim Cang đã nói, sau khi làm giống như không làm, chúng ta thường hay nói: không nên để ở trong tâm, để ở trong tâm là sai hoàn toàn, trong tâm không nên để bất cứ điều gì. Tâm vốn dĩ là thanh tịnh, Lục tổ Huệ Năng khai ngộ, câu đầu tiên nói Chân Tâm là thanh tịnh, “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”, Tự Tánh không có ô nhiễm. Ô nhiễm là A-lại-da, quý vị động ý niệm thì nó biến thành A-lại-da, vậy thì mê rồi, là không giác ngộ, tâm thanh tịnh giác chứ không mê. Thứ hai là nói với chúng ta: Tự Tánh bất sanh bất diệt, A-lại-da có sanh có diệt, Tự Tánh không sanh không diệt, Chân Tâm, đó mới là chính mình, đó chính là Phật, cho nên bổn lai là Phật. Vốn tự đầy đủ, trí huệ không đến từ bên ngoài, bên ngoài không có trí huệ, trí huệ đến từ trong Tự Tánh. Tri thức có được từ bên ngoài, do vậy hiện nay người ta cứ đi tìm kiếm bên ngoài, ngay cả Phật pháp cũng tìm kiếm bên ngoài, tìm kiếm cách giảng thế nào, đều giảng sai hết. Tại sao sai hết toàn bộ? Bởi Phật không nói một câu pháp nào, sao quý vị lại nói Ngài thuyết pháp.

          Pháp của Phật lưu xuất từ Tự Tánh, tu ra sao? Quý vị minh tâm kiến tánh, quý vị lưu xuất từ Tự Tánh: giống như Ngài lưu xuất. Tự Tánh của Ngài lưu xuất Hoa Nghiêm, lưu xuất Pháp Hoa, sau khi kiến tánh quý vị cũng lưu xuất Hoa Nghiêm, cũng lưu xuất Pháp Hoa, Phật Phật đạo đồng, trong Tự Tánh là một pháp chứ không có hai pháp, đó là sự thật, phải sáng tỏ đạo lý này. Kinh điển của Phật, chú sớ của Tổ sư Đại đức: nhất định phải khai ngộ mới có thể chú giải kinh, chưa khai ngộ thì không thể chú giải kinh, tại sao? Chú giải cho kinh sẽ sai, là ý kiến của quý vị, chứ không phải ý kiến của Phật. Phật vô ngã, quý vị cũng vô ngã, quý vị với Phật là giống nhau. Phật vô ngã, quý vị có ngã, làm sao giống nhau được? Không như nhau. Cho nên minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, tiêu chuẩn xác định tại chỗ này. Kiến tánh thế nào? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, trong đề kinh này có, chúng ta chính là tu thanh tịnh bình đẳng, khi nào giác ngộ đó là kiến tánh. Giác có tiểu giác (giác ngộ nhỏ), chính là có tiểu ngộ, có đại ngộ, có triệt ngộ, Đại thừa phải triệt ngộ, Tiểu thừa đến đại ngộ là đủ rồi. Đại thừa đáng quý, Tiểu thừa chỉ có thể ra khỏi lục đạo luân hồi, không thể ra khỏi mười pháp giới, Đại thừa phải ra khỏi mười pháp giới. Nhất thừa phải siêu vượt Thật Báo độ, trở về Thường Tịch Quang, Tịch Quang Tịnh độ.

          Chúng ta học Phật phải có phương hướng, phải có mục tiêu, tu ở chỗ nào? Tu  sáu căn ở trên sáu trần, không ở nơi nào khác, nhìn sắc thấy được rõ ràng, trí huệ, Tự Tánh Bát-nhã phóng quang, rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, không khởi tâm không động niệm, đó là dụng Chân Tâm, không dùng Vọng Tâm; Khởi tâm động niệm, là dùng Vọng Tâm, không dùng Chân Tâm. Cho nên khó, bất luận Pháp môn nào cũng không dễ dàng. Phương pháp của Tịnh tông rất xảo diệu, trong tâm chỉ cần chứa A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra, không còn ý nghĩ nào khác nữa. A Di Đà Phật chính là Thường Tịch Quang, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc bỗng nhiên đại ngộ, vốn dĩ họ chính là Thường Tịch Quang. Trong Kinh Di Đà, đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta, A Di Đà Phật có nghĩa là gì? Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ tức là không sanh không diệt, Vô Lượng Quang tức là quang minh biến chiếu, chính là Thường Tịch Quang. Do vậy vạn sự vạn vật khắp hư không pháp giới: là cùng một thể với chính mình, đều là từ trong Thường Tịch Quang biến hiện ra, chứ không phải điều gì khác, quan hệ rất mật thiết, thế nên đồng thể đại bi, vô duyên đại từ: tự tự nhiên nhiên lưu xuất, đó là cốt lõi của toàn vũ trụ.

          Tất cả tôn giáo chính là tình yêu, chính là từ bi, sau đó biến thành tôn giáo, đó là gì? Mê rồi, biến thành tôn giáo rồi; [khi] giác ngộ, giác ngộ là Thường Tịch Quang. Giác ngộ thì như Lão tử nói là không có danh tướng, 名可名,非常名;道可道,非常道 “danh khả danh, phi thường danh; đạo khả đạo, phi thường đạo”, nói không ra được, nhưng không có điều gì mà không biết. Lão Hoà thượng Hải Hiền nói, tôi điều gì cũng biết, có nghĩa là sao? Ngài ấy minh tâm kiến tánh rồi, tiết lộ thông tin này cho chúng ta, chúng ta vừa nghe là hiểu được, ngài ấy khế nhập cảnh giới. Chúng ta bây giờ chưa khế nhập, nhưng phải làm cho ngày càng gần hơn, gần thế nào? Buông xuống, mọi thứ đều phải buông xuống. Tại sao? Toàn bộ đều là giả, không có điều gì là thật. 是故法藏菩薩於發無上菩提心後,祈結大願,超勝無數佛國,故請求世尊為演經法 “Thị cố Pháp Tạng Bồ-tát ư phát Vô thượng Bồ-đề tâm hậu, kỳ kết đại nguyện, siêu thắng vô số Phật quốc, cố thỉnh cầu Thế Tôn vị diễn kinh pháp” (Bởi vậy Bồ-tát Pháp Tạng: sau khi phát tâm Vô thượng Bồ-đề, kỳ vọng xây dựng nguyện lớn, vượt hơn vô số cõi Phật, nên thỉnh cầu đức Thế Tôn diễn nói kinh pháp cho mình). Ngài đến thỉnh pháp, thỉnh Phật thuyết pháp cho ngài.

          Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta chỉ có thể học tập đến đây thôi.                

(Hết tập 154)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trả lời 0