Responsive Menu
Add more content here...

Tập 157 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm thứ 5: Chí Tâm Tinh Tấn

Tập 157

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 4 tháng 1 năm 2015.

Dịch giả: Cự Lang.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, Lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt-ma, Ly dục trung tôn; quy y Tăng-già, Chư chúng trung tôn. (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú trang 414, xem hàng thứ 2 từ trái sang, khoa đề: 法藏啟請Pháp Tạng Khải Thỉnh. Chia thành ba khoa nhỏ, khoa thứ nhất, 佛境難明“Phật cảnh nan minh”(khó hiểu được Cảnh giới của Phật). Mời xem kinh văn:

法藏白言。斯義宏深。非我境界。】 “Pháp Tạng bạch ngôn: Tư nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới” (Pháp Tạng bạch rằng: Nghĩa ấy rộng sâu, không phải cảnh giới của con).

          Phần trước Thế Gian Tự Tại Vương Phật nói với Tỳ-kheo Pháp Tạng ba chữ “tự,” thứ nhất là “nhữ tự tư duy”, “nhữ tự đương tri”, “nhữ ưng tự nhiếp”. Ba câu này có ý nghĩa rất sâu, Pháp Tạng (đây là Bồ-tát), nói với Phật: đây không phải là cảnh giới của con, phải thỉnh Phật dạy bảo cho ngài rõ ràng. Chúng ta xem chú giải về đoạn này của Niệm lão, chú rất phong phú, đáng để chúng ta học tập. 斯,此也。宏,大也 “Tư, thử dã. Hoằng, đại dã.” (Tư là đây. Hoằng là lớn), đó là chữ “phá” (). 斯義宏深“Tư nghĩa hoằng thâm” , câu này nói thế nào. 境界 “Cảnh giới”, 境者,心之所遊履攀緣者,謂之境“cảnh giả, tâm chi sở du lí phan duyên giả, vị chi cảnh.” (Cảnh là sự phan duyên được du hành bởi tâm, gọi là cảnh). Phan duyên chúng ta dễ hiểu, tâm có thể duyên được thứ gì thì đó đều là cảnh. Phía sau nêu ví dụ rằng: 如色為眼識所遊履 “Như sắc vi Nhãn thức sở du lí” (Như sắc là du hành bởi Nhãn thức), cũng chính sắc là hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất là sở duyên của Nhãn thức đạt được, được duyên bởi Nhãn thức, đó gọi là cảnh giới của sắc, đối với mắt mà nói đây là cảnh sắc. Âm thanh, mắt không thấy được âm thanh, tai có thể nghe được, cho nên tai có thể duyên với mọi âm thanh, thanh là cảnh giới sở duyên với Nhĩ thức. 乃至法 “Nãi chí pháp” (cho đến pháp), pháp trần, pháp trần là cảnh giới sở duyên với Ý thức, chính là khởi tâm động niệm, trong hai chữ “nãi chí” đã lược bớt tai mũ lưỡi thân, chính là sắc–thanh–hương–vị–xúc–pháp sở duyên với sáu căn, đó gọi là cảnh giới. Cho nên sáu trần là cảnh giới sở duyên bởi sáu căn.

          又實相之理 “Hựu Thật tướng chi lý” (Còn về lý của Thật tướng), đây nói thêm bước nữa, Phật pháp Đại thừa đã nói, chân tướng của tất cả các pháp gọi là Thật tướng. Sáu căn: mắt–tai–mũi–lưỡi–thân–ý, phải thêm ý, Ý thức thứ sáu; sáu trần là sắc–thanh–hương–vị–xúc–pháp. Những căn trần này, chân tướng của sáu căn sáu trần là gì? Đó gọi là lý của Thật tướng. Người nào có thể duyên với điều này? 為妙智遊履之所 “Vi Diệu trí du lí chi sở” (Đối tượng được du hành bởi Diệu trí), đều gọi là cảnh giới, thảy gọi là法境 pháp cảnh. Lại nói rộng lớn hơn, sở duyên của Mạt-na thức, sở duyên của A-lại-da, chân tướng sự thật này phải chứng đắc quả A-la-hán, với cảnh giới trong lục đạo, các ngài đều biết, đều minh bạch. Thật tướng là gì? Thật tướng là Không tướng, phàm tất cả các tướng đều là hư vọng. Bậc Tiểu thừa biết, các ngài biết tất cả các pháp vô sở hữu, tất cánh không. Đây là trong ba loại trí đều gọi là Diệu trí, đó là 一切智 Nhất thiết trí, là người Tiểu thừa chứng đắc. Tại sao có sinh ra những tướng này? Điều này Tiểu thừa không biết, Tiểu thừa chỉ biết: tất cả hiện tượng không phải là thật, là giả, cho nên họ có thể không chấp trước. Nhưng nếu quý vị hỏi họ, những giả tướng này đến như thế nào, thì họ cũng không biết. Trí huệ Bồ-tát biết điều đó, Bồ-tát cao hơn A-la-hán, trí huệ này gọi hết thảy là 道種智 Đạo chủng trí, đạo là đạo lý, chủng là chủng loại, muôn pháp trong vũ trụ hoặc là nói tất cả các pháp: rốt cuộc là chuyện như thế nào, tại sao có mặt, chúng đến từ đâu, chúng có tác dụng gì, như những vị Bồ-tát biết mọi loại đạo lý này. Loại thứ ba là sở duyên của Phật, gọi là 一切種智 Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí chấp không, Đạo chủng trí chấp có (là giả có), trí huệ của Phật là chân không diệu hữu, hoàn toàn không có chướng ngại, cho nên gọi là Nhất thiết chủng trí. Ba loại trí huệ được nhà Phật nói đến. Những sở duyên này đều dùng cảnh giới để đại biểu, cho nên cũng gọi là cảnh, cũng thuộc về cảnh pháp.   

          界者,界域 “Giới giả, giới vực” (Giới là biên giới), phạm vi. 境界,指所觀之境、之界域 “Cảnh giới, chỉ sở quán chi cảnh, chi cảnh vực” (Cảnh giới chỉ cho cảnh, phạm vi được quán sát). Ở trong Phật pháp, cạn sâu lớn nhỏ đều thuộc về trong danh từ này. Tiểu thừa chỉ có thể duyên với một Tiểu thiên thế giới, là khả năng của các ngài; Bồ-tát có thể duyên Đại thiên thế giới; Pháp thân Bồ-tát có thể duyên vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, có thể thấy rằng cảnh giới sở duyên này: cạn sâu lớn nhỏ khác nhau. Ở trong Tiểu thừa, Sơ quả chỉ có Thiên nhãn và Thiên nhĩ, Nhị quả mới có Túc mạng thông, Túc mạng là biết đời quá khứ. Túc mạng thông của A-la-hán: có thể biết năm trăm đời quá khứ, năm trăm đời vị lai, đó là giới hạn của các ngài, cũng chính là phạm vi của các ngài, xa hơn thì các ngài không biết. Ai biết? Bồ-tát biết. Thật sự muốn có thể duyên được cảnh giới như Phật, đó chính là điều trong kinh Đại thừa đã nói, điều gì cũng biết, như lão Hoà thượng Hải Hiền nói, đó là đại triệt đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó gọi là Pháp thân Bồ-tát. Các ngài nếu không vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì tương lai các ngài sẽ đi về đâu? Đi đến thế giới Hoa Tạng, cũng chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ của Thích Ca Mâu Ni Phật, hết thảy đi đến bên đó. Đi đến bên đó thấy được Lô Xá Na Phật, Lô Xá Na Phật là Báo thân Phật, chính là Báo thân của Thích Ca Mâu Ni Phật, Pháp thân là Tỳ Lô Giá Na Phật. Pháp thân là chung, cùng chung một Pháp thân. 十方三世佛,共同一法身 “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp thân” (mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp thân), đó là bản thể, bản thể của vạn hữu trong vũ trụ được nói đến trong Triết học, trong Phật pháp gọi là Pháp thân. Trong một số tôn giáo thì cho đó là Chân thần, Pháp thân là Chân thần, Chân thần là Pháp thân.

          Tất cả vạn pháp trong toàn bộ vũ trụ: cùng một Pháp thân, từ Pháp thân để nói một thể. Đạo gia Trung Hoa cũng nói ra rằng, khi đó Phật Pháp chưa đến Trung Hoa, trong Đạo gia đã nói: 天地與我同根,萬物與我一體 “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất cùng gốc với ta, muôn vật một thể với ta), đó chính là Pháp thân. Làm sao các ngài biết nói ra những lời này? Chúng tôi ngờ rằng Lão tử, Khổng tử: phải chăng là Phật Bồ-tát sang Trung Hoa để hoá thân? Bởi vì Phật pháp Đại nói rằng: Phật Bồ-tát ứng hoá đến mỗi địa phương, là tuỳ thuận chúng sanh, tuỳ tâm ứng lượng, 隨眾生心,應所知量 “tuỳ chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (tùy theo tâm chúng sanh mà ứng vừa với khả năng biết [của họ]), chúng sanh thích tư cách nào thì ngài hiện ra tư cách nấy. Người Trung Hoa thích Thánh hiền, thì xuất hiện bằng tư cách Thánh hiền; người Ấn Độ thích Phật Bồ-tát, thì xuất hiện bằng tư cách của Phật Bồ-tát, có khả năng như vậy. Tôi từng thỉnh giáo với thầy Lý: về hỏi câu này, thầy nói với tôi: “Về lý thì nói thông suốt, về sự thì không có chứng cứ”, từ mặt lý nói thông suốt, nhưng không có chứng cứ. Phật ở Ấn Độ đã tuyên bố rồi, đem vấn đề này nói rõ ràng rồi. Sau khi Phật diệt độ, Phật pháp hoằng dương ra bốn phương tám hướng, tại Trung Hoa không có nói: Khổng tử, Lão tử là do Phật Bồ-tát ứng hoá, không nói, nhưng các đời Tổ sư xuất gia và Đại sư học Phật tại gia: xác thực có Phật Bồ-tát đến ứng hoá. Điều này là thật, không phải giả. Tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, những người này đều tin rằng Đại sư Trí Giả, Đại sư Trí Giả cuối đời Tuỳ đầu đời Đường: là hoá thân của Thích Ca Mâu Ni Phật; Đại sư Thiện Đạo là A Di Đà Phật của thế giới Tây phương Cực Lạc tái lai; Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ cũng là do A Di Đà Phật tái lai; Hoà thượng Bố Đại là Bồ-tát Di Lặc tái lai, trong hàng Cư sĩ cũng có. Cho nên, chư Phật Bồ-tát: thường xuyên hoá thân tại cõi người, bất luận là tư cách gì, thì thân phận của các ngài sẽ không bộc lộ, thân phận bộc lộ thì các ngài ra đi. Do đó nói bất luận là tự xưng hay người khác xưng: ngài là Bồ-tát nào đó tái lai, nói ra mà người đó không đi thì không phải là thật. Là thật thì hễ thân phận bộc lộ, ngài sẽ ra đi. Như Hoà thượng Bố Đại, Hoà thượng Bố Đại đã tự tuyên bố, nói với mọi người ngài là Bồ-tát Di Lặc tái lai, nói xong thì ra đi. Đó chính là sự thật, tuỳ loại hoá thân.   

          又《無量壽經箋註》“Hựu Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú” (Và Tiên Chú Kinh Vô Lượng Thọ), bản này là do Cư sĩ Đinh Phúc Bảo đầu thời Dân Quốc trước tác, dùng kinh chú kinh. Bản này nói rằng自家勢力所及之境土 “tự gia thế lực sở cập chi cảnh độ” (cảnh cõi nước do năng lực của chính mình đạt tới), công phu của mình tu hành cạn sâu lớn nhỏ khác nhau, vì vậy cảnh giới của mỗi người tu hành khác nhau. 又我所得之果報界域,謂之境界 “Hựu ngã sở đắc chi quả báo giới vực, vị chi cảnh giới” (Lại phạm vi quả báo của ta đạt được, thì gọi là cảnh giới). Tiểu thừa có chứng Sơ quả, có chứng Nhị quả, có chứng Tam quả, cảnh giới các ngài lớn nhỏ khác nhau; thần thông, năng lực cũng khác nhau. Đại thừa càng nhiều hơn, trong Kinh Hoa Nghiêm nói 51 cấp bậc, Thập tín vị, Thập trụ vị, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, là 50 vị thứ, trên đó còn có Đẳng giác, còn có Diệu giác. Trong kinh giáo Đại thừa Phật thường nói: bí mật của vũ trụ, chân tướng của sự thật, thí như trong Kinh Hoa Nghiêm thường nói, vũ trụ này là tâm hiện thức biến, 唯心所現,唯識所變 “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” (chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến). Đó là nói cảnh giới gì? Nói về mười pháp giới, lục đạo luân hồi, triệt để làm rõ ràng, làm minh bạch, phải Bát địa trở lên. Địa vị đó cao, Bát địa Bồ-tát cách rất gần với Phật. Dưới hàng Bát địa, cũng tức là Thất địa Bồ-tát trở xuống thì hiểu nhưng không thấu triệt, không tận mắt thấy được, dẫu cho thấy được cũng là mơ hồ không rõ ràng, Bát địa trở lên mới thật sự thấy được. Trên Bát địa là Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Diệu giác là thành Phật. Diệu giác trụ Thường Tịch Quang, không trụ Thật Báo độ. Bồ-tát trong Thật Báo độ, Viên giáo Hoa Nghiêm từ Sơ trụ đến Đẳng giác, 41 vị thứ, cho nên gọi là 41 vị Pháp thân Đại sĩ cư trú Báo độ, các ngài trụ trong Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thật Báo Trang Nghiêm độ không khác gì với thế giới của chúng ta, cũng chính là nói, không khác gì với lục đạo với mười pháp giới, lục đạo và mười pháp giới: hết thảy có hiện tượng sanh diệt, trong Báo độ chỉ có tâm hiện, không có thức, 8 thức 51 tâm sở, không có những điều này; nói cách khác, các ngài là chuyển thức thành trí, chuyển tám thức thành bốn trí. Thức có sanh diệt, trí không có sanh diệt, chuyển A-lại-da thành 大圓鏡智 Đại Viên Cảnh trí, chuyển Mạt-na thành 平等性智 Bình Đẳng Tánh trí, chuyển Thức thứ sáu thành 妙觀察智 Diệu Quán Sát trí, chuyển năm thức trước (chính là mắt–tai–mũi–lưỡi–thân) thành 成所作智 Thành Sở Tác trí, đó gọi là Nhất chân pháp giới. Sau khi chuyển thức thành trí, tướng được hiện ra không có sanh diệt, chỉ có ẩn hiện, ẩn không thể nói nó không có, hiện không thể nói nó có thật, tướng được hiện ra không có sanh diệt.

          Chúng ta vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc vô cùng kỳ diệu đặc biệt, cũng chính là nói có bốn độ, có Đồng Cư độ, có Phương Tiện độ, có Thật Báo độ, có Thường Tịch Quang độ, nhưng toàn bộ đều là tâm hiện, không có thức biến, cũng chính là quý vị ở thế giới Cực Lạc, không nhìn thấy sanh diệt. Mỗi một người đến thế giới Cực Lạc đều là hoá sanh, hoa nở thấy Phật, hoa sen hễ mở ra thì người vãng sanh xuất hiện, không phải đứa trẻ, không phải là từ từ trưởng thành, thân tướng hiện ra: hoàn toàn giống hệt như A Di Đà Phật. Điều này đến phần sau, chúng ta sẽ học đến trong phẩm tiếp theo. Đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật, phàm là người đến thế giới Cực Lạc, thân hình, dung mạo, trí huệ, thần thông, đạo lực đều giống như Ngài, tại sao? Thế giới của Ngài là thế giới bình đẳng. Rất khó được, rất thù thắng! Tại sao chúng ta phải đi đến bên đó? Hoàn toàn dựa vào 48 nguyện của A Di Đà Phật, nguyện nguyện đều thực hiện được rồi, đó chính là sự đãi ngộ mà chúng ta đến thế giới Cực Lạc được thọ dụng. Trong cõi nước của tất cả chư Phật mười phương không có, chỉ có thế giới Cực Lạc có. Đến cõi nước của chư Phật trong mười phương rất khó, không dễ dàng. Đến thế giới Cực Lạc rất dễ dàng, chỉ cần quý vị thật tin, nhất định không được có nghi ngờ, nhất định phải tin Phật, Bồ-tát không có vọng ngữ, đức Di Đà nói lời giữ lời, đức Quan Âm, Thế Chí nói lời giữ lời. Bồ-tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn, nếu khi chúng ta gặp phải điều khổ nạn, một lòng một dạ cầu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì chắc chắn có thể được giải quyết. Không thể không tin tưởng, mang theo thái độ hoài nghi thì không có hiệu quả, không một mảy may nghi ngờ mới có hiệu quả thật. Cho nên chí thành cảm thông, câu này quan trọng, chân thành đến cực điểm, chúng ta bèn thông với Phật Bồ-tát. Có mảy may nghi ngờ là tâm chân thành không đủ, bị phá hoại rồi, cho nên không có cảm ứng, đạo lý ở chỗ này. Chúng ta phải tin tưởng thật sự, không được bán tín bán nghi, phải dốc toàn tâm vào, A Di Đà Phật đích thực chịu trách nhiệm cho.

          Trong thời đại của chúng ta, khoa học công nghệ phát triển, có người nào không chịu ảnh hưởng của khoa học? Đứa trẻ mới sanh ra, mới mở mắt đã xem truyền hình, các bạn nhỏ 2-3 tuổi đã chơi những đồ điện tử, 5-6 tuổi thì các bạn chơi máy vi tính. Đó chính là nói: chịu ảnh hưởng của khoa học rất nghiêm trọng, cho rằng đó là chân lý. Điều mà khoa học đề xuất chính là nghi ngờ, hoàn toàn là đi ngược lại với Thánh hiền, điều đó sinh ra ảnh hưởng rất lớn với sự học Phật của chúng ta. Nếu chúng ta tin tưởng thật sự, không nghi ngờ, đó là thiện căn mà Phật pháp nói. Hiện nay thiện căn này bị khoa học làm chướng ngại, khoa học nhất định phải đem chứng cứ ra. Người niệm Phật trong Tịnh Tông chúng ta vãng sanh tự tại, đó chính là chứng cứ! Người bình thường có thể làm được không? Thân thể khoẻ mạnh, một chút bệnh tật cũng không có, nói đi là họ đi thật, đó chính là chứng cứ.

          Mỗi một người vãng sanh, hiện tượng được thị hiện, chúng tôi tận mắt nhìn thấy, tận tai được nghe, chắc chắn không phải truyền thuyết. Hơn 40 năm trước, tôi dạy học tại núi Phật Quang, bên sát vách núi Phật Quang là làng Tướng Quân, một năm trước khi tôi ở núi Phật Quang, làng Tướng Quân có một bà lão niệm Phật 3 năm, đứng vãng sanh. Sự việc này đã hơn 40 năm trước, bây giờ tại Cao Hùng, tôi có một lần giảng diễn tại trường Đại học Trung Sơn, có nhắc đến người đó, sau khi tôi xuống giảng đài, có người nói với tôi đó là thật, họ là người hàng xóm. Bà lão vãng sanh rất có trí huệ, người ta không quấy nhiễu được, bà vãng sanh là ban đêm, khi ăn cơm tối. Con dâu con trai rất hiếu thảo, ban đêm cùng ăn cơm tối, buổi tối ngày ra đi, bà nói với mọi người: Các con ăn cơm trước đi, đừng chờ mẹ, mẹ phải tắm gội. Người trong nhà còn đang đợi, đợi rất lâu sao không thấy bà ra? Gọi bà không thấy trả lời, đi vào buồng xem thì quả thật đã tắm gội, thay y phục, không còn bóng dáng bà nữa. Nhà bà có Phật đường, vào trong Phật đường nhìn xem, bà đứng yên ở trước tượng Phật, mặc bộ đồ hải thanh, hỏi bà không nói, nhìn kỹ thấy bà đi rồi, đứng mà ra đi. Chỉ niệm Phật 3 năm! Bà lão là người rất từ bi, rất đôn hậu, bà là người đại thiện, làng xóm đều khen ngợi. Học Phật 3 năm, trước lúc chưa học Phật, thần nào cũng lạy, 3 năm trước con trai cưới dâu về, con dâu ấy hiểu biết một chút Phật giáo, khuyên bà đừng lạy khắp nơi nữa, lạy A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh độ. Bà bèn tiếp thu, trong nhà lập một Phật đường, không đi ra ngoài nữa, ngày ngày ở nhà niệm Phật lạy Phật. Cảnh giới của bà cũng không nói, giữ kín, tránh để người ta quấy nhiễu bà. Khi ra đi không hề sanh bệnh, không có bệnh khổ, đứng mà ra đi, không có nỗi khổ của sự chết. Sự biểu diễn này độ biết bao nhiêu người! Khi đó truyền ra, người đến xem rất nhiều, mọi người thật tin tưởng, điều này không phải là giả. Bà lão chắc chắn là biết trước giờ đi, chỉ là không nói, nói sợ người nhà làm phiền, khi bà ra đi rồi thì mọi người mới biết.

          Tôi học Phật hơn 60 năm, là 64 năm, năm nay là năm 2015, 64 năm, tôi đã nhìn thấy, tôi đã nghe thấy, là thật, không phải giả, có mười mấy người, điều này không phải là lừa người. Những sự thật này bày ở trước mặt, chúng ta không tin nữa thì không còn cách nào, đành phải đợi đời sau kiếp sau, lại gặp được Phật pháp. Có cơ hội này không? Có, chắc chắn là rất lâu rất lâu. Tại sao? Không thể vãng sanh, thì chúng ta chịu chi phối của nghiệp lực, nghiệp lực rất phức tạp, nên không vãng sanh thì chịu luân hồi trong lục đạo. Trong lục đạo đến đường nào? Có thể được cõi người không? Ngũ giới Thập thiện thật sự có thể làm được 80 phần, thì đời sau có thể được thân người. Nếu không thể được 80 phần thì không tin cậy được rồi. Trong lòng mình phải có tính xem: tập khí phiền não có giảm nhẹ không? Người học Phật đương nhiên có giảm nhẹ, giảm nhẹ có đủ phân lượng không? Có thể giữ cho đời sau đạt tiêu chuẩn được thân người không? Nếu không được thì phải làm sao? Không được thì phải đi vào tam đồ. Chúng ta phải ghi nhớ, Đường Thái Tông hồi đó sau khi chết đi vào đâu? Đi vào đường súc sanh. Tại sao đi đến đường súc sanh? Đường súc sanh là ngu si, khi ra đi mê hoặc điên đảo, người trong nhà đều không biết. Mê hoặc điên đảo, quá nửa là đường súc sanh, oán hận là đường địa ngục (tật đố chướng ngại), tham dục là đường ngạ quỷ, chúng ta có những tập khí đó hay không? Còn có người để oán hận, việc để oán hận hay không? Còn có tham lam, không buông xuống được hay không? Tình chấp, của cải, địa vị, bao gồm luôn vinh dự, phải buông xuống những thứ này, toàn là giả thôi, để ở trong tâm thì chính là nghiệp nhân của tam đồ. Đoạ vào tam đồ thì rất dễ dàng, nhưng rất khó đi ra. Đường Thái Tông có thể rời khỏi địa ngục, ông đọa súc sanh trước, đường súc sanh sau đó còn đi qua cõi người, thời gian không lâu thì đọa địa ngục, thời gian trong địa ngục dài. Ai cứu ông ấy? Quần Thư Trị Yếu cứu ông. Chúng tôi có một chút duyên phận với ông, chúng tôi phát tâm in Quần Thư Trị Yếu, in mười ngàn bộ lưu thông đến toàn thế giới. Thế là ông nhập xác, khi đó tôi đang ở Úc Châu, em gái của Pháp sư Ngộ Nhẫn, Đường Thái Tông nhập vào xác cô ta để cảm ơn. Chúng tôi cảm thấy rất kinh ngạc, tôi cũng không có làm việc tốt nào cho ông, có ơn nào đâu, ơn gì? Ông bèn nói đến Quần Thư Trị Yếu, chúng tôi in ra bộ sách này, Bồ-tát Địa Tạng Vương dắt ông ra khỏi địa ngục. Ông nói với tôi, sách này có thể cứu Trung Hoa, có thể cứu toàn thế giới. Tôi cũng nghe người khác nói với tôi, sau khi ông nhập xác thì trú tại Niệm Phật đường ở Học viện chúng tôi, ở hơn một tháng, ở bên đó niệm Phật, sau đó nghe nói ông đến cõi trời, cũng nghe nói ông niệm Phật vãng sanh rồi. Điều đó đều có khả năng, vì ông có duyên vô cùng sâu với Phật, đương thời lúc còn làm vua, ông là đại hộ pháp của Phật môn, cho nên nói ông rất có khả năng vãng sanh. 

          Tiếp theo nói, phạm vi quả báo mà ta đã đắc, đây đều có thể gọi là cảnh giới. Tiếp theo Pháp sư Tuấn Đế bên Nhật Bản, ở trong chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, giải thích câu kinh văn này, 斯義弘深,非我境界者,亦有三意 “Tư nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới giả, diệc hữu tam ý” (Nghĩa ấy sâu rộng, không phải cảnh giới của con, cũng có ba ý), có ba ý nghĩa. Thứ nhất,謂菩薩常途淨土之行,我已知之 “vị Bồ-tát thường đồ Tịnh độ chi hạnh, ngã dĩ tri chi.” (là hạnh của đạo lý đường lối Tịnh độ của Bồ-tát, con đã biết được). Sự việc này Bồ-tát Pháp Tạng biết, hạnh của Tịnh độ này. Hạnh của đạo lý đường lối Tịnh độ là Tứ thánh pháp giới, chính là Thanh văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật trong mười pháp giới. Trong mười pháp giới, Bốn pháp giới ở trên là Tịnh độ, lục đạo luân hồi ở dưới là Uế độ, ngài biết những sự việc này. 今欲得諸佛土之中最勝淨土,斯義弘深,非我境界 “Kim dục đắc chư Phật độ chi trung tối thắng Tịnh độ, tư nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới” (Nay muốn được Tịnh độ tối thắng trong cõi nước của chư Phật, nghĩa ấy rộng sâu, không phải cảnh giới của con). Con không phải cầu Tịnh độ thông thường, mà con cầu Tịnh độ tối thắng, siêu việt bốn độ đó, ngài cầu điều ấy, đó không phải là cảnh giới của Ngài.

          Thứ hai,謂實雖隨各自樂欲,應攝取之。今欲五乘齊入報土 “vị thật tuy tuỳ các tự nhạo dục, ưng nhiếp thủ chi. Kim dục Ngũ thừa tề nhập Báo độ” (là thật tuy tuỳ theo mỗi người ưa thích mong muốn, cần nhiếp thủ lấy. Nay muốn Năm thừa cùng đi vào Báo độ), ý nghĩa này sâu, đó không phải là cảnh giới của Ngài. Ý nghĩa trong câu này, thật là thật sự, mặc dù tuỳ theo mỗi loại, điều ưa thích mong muốn của mỗi người tu hành, và nguyện vọng của họ, cần nhiếp thủ lấy, ví như Tứ quả trong Tiểu thừa, là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, niềm vui mà các ngài đã được: không khác với mong muốn của các ngài. Người Sơ quả hy vọng chứng Nhị quả, người Nhị quả hy vọng chứng Tam quả, người Tam quả hy vọng chứng Tứ quả, không giống nhau, đây là tuỳ theo chính ngài đã tu chứng, ngài có thể chứng đắc, đó là các ngài phải cần nhiếp thủ. Hiện giờ nguyện vọng của ngài Tỳ-kheo Pháp Tạng: là hy vọng Ngũ thừa cùng nhập vào Báo độ. Ý nghĩa này sâu, Ngũ thừa bao gồm người, Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Ngũ thừa, năm loại người này có thể tất cả: đều vào Thật Báo Trang Nghiêm độ, điều này không dễ dàng, điều này rất đặc biệt. Cho nên ý nghĩa này sâu, không phải cảnh giới của con. Trong ngoặc đơn kế tiếp là do lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói, 報土乃法身大士所居 “Báo độ nãi Pháp thân Đại sĩ sở cư” (Báo độ là nơi của bậc Pháp thân Đại sĩ cư trú), chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ, bây giờ muốn cho người Nhị thừa, Nhị thừa là Tiểu thừa, các ngài không đạt đến tầng thứ này, thua Tiểu thừa một bậc là trời người, cũng tức là Thiên thừa và Nhân thừa, mong đem bốn loại người này, hết thảy đều sanh đến Thật Báo Trang Nghiêm độ, 故非凡情所能測 “cố phi phàm tình sở năng trắc” (nên chẳng phải là điều mà phàm tình đo lường được). Sự việc này chúng ta không thể tưởng tượng được, một câu Phật pháp nói là không thể nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn chính là không thể tưởng tượng nổi, thông thường nói là vốn không có khả năng. Không có khả năng tại sao lại trở nên có khả năng? Nghĩa lý trong đó sâu sắc.

          Ý nghĩa thứ ba, 雖法報高妙 “tuy Pháp Báo cao diệu”(Chỉ có Pháp thân Báo thân cao diệu), pháp là Pháp thân, báo là Báo thân, cảnh giới của các ngài cao diệu, 非菩薩之分“phi Bồ-tát chi phận”(không phải phận của Bồ-tát), phải là Pháp thân Bồ-tát mới được, Tam hiền Bồ-tát bình thường không được, Thiên Thai Biệt giáo, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng đều chưa kiến tánh, đều chưa thật sự khai ngộ. Các ngài tu hành ở đâu? Ở Pháp giới Phật, Pháp giới Bồ-tát trong mười pháp giới, ở trong đó tu hành. Thanh văn, Duyên-giác có, ở phần sau, Tứ thánh có bốn tầng, phía trên có Bồ-tát, có Phật, đó chính là Tam hiền trong Biệt giáo, gọi là Quyền giáo Bồ-tát, các ngài không tài nào tiến vào Thật Báo độ. Trong đó, trong Ngũ thừa suy ra [có] Dục giới, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, ở trong đó có người tu hành, có người tích luỹ công đức rất lớn: trong ba đường ác, đó là nguyên nhân  gì? Khi sắp mạng chung một ý niệm sai. Vì sao Phật dạy chúng ta phải tiễn đưa vãng sanh? Khi tiễn đưa vãng sanh, không thể đụng chạm đối với thân thể của người vãng sanh, thậm chí cũng không được chạm vào: giường của họ nằm, vì đụng chạm là họ có đau khổ, sự đau khổ đó hễ tâm sanh oán hận thì đi vào địa ngục, sợ điều này. Cho nên tiễn đưa vãng sanh nhất định phải kiêng kỵ, phải hiểu được, không chạm vào giường của họ, tóm lại khi đi lại phải giữ khoảng cách một chút, không chạm vào, sợ họ sanh lòng sân hận. Người tu hành chân chính, khi sắp mạng chung, tự mình không có định công, công phu này, người tiễn đưa vãng sanh không cẩn thận xúc phạm họ, họ sanh khởi lòng oán hận, như thế đi đến địa ngục rồi. Có thể độ không? Có thể độ, Bồ-tát Địa Tạng ở địa ngục độ chúng sanh, chuyên môn độ cho loại người này, sau khi đọa đến địa ngục gặp được Bồ-tát, Bồ-tát dạy họ, họ có thể y giáo phụng hành, lại đi ra từ địa ngục. Đường địa ngục, đường ngạ quỷ, đường súc sanh: đều có bậc đại tu hành ở trong đó, chính là khi sắp mạng chung, một niệm sai lầm mà đọa vào, họ gặp được thiện duyên, gặp được Phật Bồ-tát, nghe kinh nghe pháp, chủng tử trong A-lại-da của họ khởi hiện hành, giúp cho họ rất mau thoát khỏi ba đường ác; người niệm Phật như vậy, có thể từ trong đường ác vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. Sanh đến thế giới Cực Lạc là sự đãi ngộ bình đẳng, thân tướng hoàn toàn tương đồng với A Di Đà Phật, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, thần thông, đạo lực, trí huệ đều tương tự như Phật. Cho nên họ có năng lực thường xuyên không ngừng hoá thân, đi đến cõi nước của tất cả chư Phật: trong khắp pháp giới hư không giới để lạy Phật cúng Phật, để làm gì? Tu phước, nghe kinh văn pháp [là] tu huệ, phước huệ song tu. Ngày nay chúng ta thấy một tôn Phật cũng không dễ dàng, đến thế giới Cực Lạc, tất cả chư Phật Như Lai, quý vị đều rất dễ dàng tiếp xúc được. Trong thế giới ấy, không có thời gian và không gian, không có không gian tức là không có khoảng cách, mười phương thế giới nằm ở đâu? Ở ngay trước mắt; không có thời gian, không có trước sau, quý vị muốn xem Phật quá khứ, muốn xem Phật vị lai, đều xem được, đều không có chướng ngại. Tu hành ở thế giới Cực Lạc dễ dàng! Tuyệt đối đừng bỏ lỡ cơ hội, bỏ lỡ rất đáng tiếc, ở trong thời gian không gian vô hạn này, gặp được duyên này vô cùng khó được, ngàn vạn đừng nên bỏ lỡ.

          Tiếp theo thứ ba, là chỉ Pháp thân Báo thân cao diệu, không phải phận của Bồ-tát, Bồ-tát đây là Bồ-tát Tam thừa, 我能經無量劫,當克獲之 “ngã năng kinh vô lượng kiếp, đương khắc hoạch chi” (con có thể qua vô lượng kiếp, chắc chắn sẽ thu hoạch được). Niệm lão mở ngoặc nói, 法報二身,經無量劫必可悟證 “Pháp Báo nhị thân, kinh vô lượng kiếp tất khả ngộ chứng” (Pháp thân và Báo thân, qua vô lượng kiếp chắc chắn có thể ngộ chứng), nhưng hiện tiền không được, 但當下尚非其分,故下云非我境界 “đãn đương hạ thượng phi kỳ phận, cố hạ vân phi ngã cảnh giới” (nhưng hiện giờ vẫn không thuộc phận của mình, nên sau đó nói không phải cảnh giới của con), không phải cảnh giới của con. “Tư nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới”. Hoằng thâm là廣大謂弘,幽邃謂深 “quảng đại vị hoằng, u thuý vị thâm” (Rộng lớn là hoằng, sâu thẳm là thâm). 雖有三義不同,拋卻己分,專歸佛力,斯乃法藏菩薩自開他力門也 “Tuy hữu tam nghĩa bất đồng, phao khước kỷ phận, chuyên quy Phật lực, tư nãi Pháp Tạng Bồ-tát tự khai tha lực môn dã.” (Tuy có ba nghĩa khác nhau, nhưng hiển lộ từ chối phận mình, chuyên nương về Phật lực, đó là Bồ-tát Pháp Tạng tự mở ra môn tha lực). Câu này rất quan trọng, chúng ta ngày nay nói đến vấn đề tín tâm, với câu này phải sanh ra niềm tin chắc chắn, tuyệt không được có mảy may nghi ngờ, đó chính là ba loại đường lối phổ thông bình thường của phần trước, Tịnh Tông là đặc biệt. Tịnh Tông làm thế nào? Bỏ đi chính mình, không dựa điều này, mà dựa hết vào A Di Đà Phật, ta có thể thành tựu hay không không liên quan với chính ta, năng lực của chính ta đương nhiên không được, liễu sanh tử thoát tam giới, nói dễ vậy sao, chắc chắn không làm được, nhưng hiện giờ phải làm sao? Hiện giờ chuyên nương về Phật lực. Tám vạn bốn ngàn Pháp môn khác: bán tín bán nghi vẫn có thể học, Pháp môn này thì chắc chắn không được, tín tâm phải trăm phần trăm, tín tâm chỉ 99%, vẫn thiếu một phần cũng không được, tại sao? Không phải năng lực của chính ta, mà dựa hết vào Phật lực. Dựa vào Phật lực bằng điều gì? Nhờ vào 48 nguyện. Phẩm thứ 6 ở sau chính là 48 nguyện. Do vậy nhất định phải học tập nghiêm túc 48 nguyện, đó là chứng cớ để chúng ta có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc, cũng chính là A Di Đà Phật đảm bảo cho chúng ta, 48 nguyện là ý nghĩa như vậy. Thật sự tin tưởng, một chữ cũng không nghi ngờ, vậy chúc mừng quý vị, đời này quý vị chỉ cần một câu Phật hiệu niệm cho tốt là quý vị thành công.  

          Cho nên điểm này, tín tâm nguyện tâm, chúng ta nhất định phải học lão Hoà thượng Hải Hiền. Ngài ấy không biết chữ, chưa từng đi học. Sư phụ của ngài nhìn đúng ngài, tại sao? Pháp môn này chính là cần tín tâm viên mãn, trùng hợp ngài có đủ. Người này cả đời thật thà, nghe lời, thật làm, gặp phải người như vậy, thì dạy ngài một câu A Di Đà Phật, cứ luôn luôn niệm. Quả nhiên là cứ luôn luôn niệm, cả đời không đổi đề mục, không thay phương hướng, khẳng định sẽ giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, công phu Thành phiến, Sự nhất tâm bất loạn, Lý nhất tâm bất loạn, ngài có thể thuận lợi chứng đắc. Lão Hoà thượng Hải Hiền, tôi xem đĩa CD về ngài, phỏng đoán ngài được Sự nhất tâm bất loạn: có lẽ là trong khoảng 30 tuổi, được Lý nhất tâm bất loạn không hơn 40 tuổi. Ngài thành công rồi, đại triệt đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, có trí huệ, biểu hiện ra bên ngoài dường như không có trí huệ; có thần thông nhưng chẳng hiện thần thông, lão lão thật thật làm một vị Hoà thượng bình thường. Có thể nhẫn điều người ta không thể nhẫn, làm điều người ta không thể làm, làm một Đệ tử Phật rất tốt: trong thời đại hiện nay. Trong mắt mọi người không xem ngài ra gì, ngài cũng không nhiễm danh văn lợi dưỡng, suốt cả ngày, một câu Phật hiệu chưa từng đánh mất, Phật hiệu của ngài một câu tiếp một câu, câu này tiếp nối câu kia. Tiếp đãi tín đồ có nói có cười, đều không để ở trong tâm, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngài mới có thành tựu như thế, đó là tấm gương tốt của chúng ta. Điều quan trọng là thật buông xuống, buông xuống toàn bộ tất cả pháp thế và xuất thế gian, 84 ngàn Pháp môn đều không  dính nhiễm. Nếu quý vị hỏi ngài, thì ngài tán thán. Tại sao thầy không học? Bởi tôi không biết chữ. Quý vị xem, thật khó được! Tôi chỉ biết niệm một câu A Di Đà Phật, những điều khác đều không biết. Giữ giới, giới học từ đâu? Khi thọ giới học ở trên Giới đàn, sau khi học được không có bỏ mất, mỗi ngày khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, chắc chắn sẽ không vi phạm Tam Quy, Ngũ giới, Thập thiện, Sa-di Luật nghi, giới Tỳ-kheo, ngài đã làm được, giữ giới niệm Phật. Có thể chịu khổ, chịu nỗi khổ mà người ta không thể chịu, nhẫn nỗi sỉ nhục mà người ta không thể nhịn. Pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ, cả đời không hề mắng người, cả đời không hề oán hận người, thấy người nào cũng tốt, thấy việc gì cũng tốt, người ta gặp ngài đều trông thấy ngài cười vui vẻ, rất hoan hỷ. Cả đời chưa bao giờ phê bình bất kỳ ai, không hề xem thường bất kỳ ai, không dễ dàng! Những chỗ này đều là điều mà chúng ta phải nghiêm túc học tập.

          Cho nên chúng ta ở đây ghi nhớ câu này, hiển lộ từ chối phận mình, chuyên nương về Phật lực, đó là Bồ-tát Pháp Tạng (chính là A Di Đà Phật), tự ngài mở ra Pháp môn Tha lực. Không dùng tự lực, làm không được, hoàn toàn dựa vào A Di Đà Phật. Tôi niệm rất tốt, niệm rất tương ưng, không có tạp niệm, đến khi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi vãng sanh. Sư Tuấn Đế, ngài nói ra câu này. 開他力門 “Khai Tha lực môn” (mở môn Tha lực), cách nói này, 正明淨宗超情離見,不可思議 “chánh minh Tịnh Tông siêu tình ly kiến, bất khả tư nghì” (làm rõ ràng sự vượt tình lìa kiến của Tịnh Tông, không thể nghĩ bàn). Nói rất hay, nói một chút cũng không sai, Tịnh Tông là chuyên nhờ Tha lực, không nhờ Tự lực. Chánh minh, là chân chánh thuyết minh Tịnh Độ Tông siêu tình ly kiến, đây là điều trong Đại thừa giáo thường nói, tình là tình chấp, kiến là kiến giải, siêu việt rồi, ly cũng là siêu việt, thật sự không thể nghĩ bàn, không cách nào tưởng tượng.究竟方便“Cứu cánh phương tiện”, phương tiện đến mức độ nào? Phương tiện đến rốt ráo, không có phương tiện nào hơn điều này, gọi là rốt ráo. Pháp phương tiện đạt đến rốt ráo viên mãn, một câu Phật hiệu chỉ cần quý vị thật tin, thật mong muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc, thì không một ai không thành tựu. Tiếp theo đây là nói, 果覺因心之無上妙諦 “quả giác nhân tâm chi Vô-thượng diệu đế” (quả giác ngộ dựa vào vô thượng diệu đế của tâm). Câu Phật hiệu này: là quả giác mà A Di Đà Phật đã chứng đắc, thành Phật là quả. A Di Đà Phật là sự giác ngộ viên mãn, câu này là tiếng Phạn, phiên dịch sang ý nghĩa Trung Hoa, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, không phải không phiên dịch được, dịch thành ý nghĩa Trung Hoa là Vô Lượng Giác, Vô Lượng Giác chính là A Di Đà Phật. Chúng ta ngày nay dùng Vô Lượng Giác: để làm trung tâm chủ yếu – cốt lõi tu hành trong nhân địa của chúng ta. Chúng ta tu gì? Chúng ta sử dụng Vô Lượng Giác. Niệm niệm không rời Vô Lượng Giác, niệm lâu rồi Vô Lượng Giác tự nhiên hiện tiền. Lão Hoà thượng Hải Hiền làm gương cho chúng ta, thật sự không thể nghĩ bàn. Dùng quả giác của Di Đà để làm nhân tâm tu hành của chúng ta(chúng ta tại nhân địa).

          Tiếp theo Niệm lão có giải thích đơn giản: 伊謂法藏菩薩云非我境界者 “Y vị Pháp Tạng Bồ-tát vân phi ngã cảnh giới giả” (Ngài bảo Bồ-tát Pháp Tạng nói không phải cảnh giới của con), chữ “Y” này chính là ngài Tuấn Đế, lão Hoà thượng Tuấn Đế, ngài nói, Bồ-tát Pháp Tạng nói rằng không phải cảnh giới của con, tổng cộng có ba ý nghĩa. Đây là Niệm lão dùng bạch thoại giải thích ra cho chúng ta, để chúng ta dễ dàng thể hội hơn. Thứ nhất là: 我雖已知諸菩薩攝集一般淨土之行 “Ngã tuy dĩ tri chư Bồ-tát nhiếp tập nhất bàn Tịnh độ chi hạnh” (Con dẫu đã biết các vị Bồ-tát thâu gom các hạnh của Tịnh độ thông thường). Tịnh độ thông thường: chính là Tịnh độ của tất cả chư Phật, Phương Tiện độ, Pháp môn Tịnh Tông gọi là Phương Tiện độ, là Tịnh độ. Đồng Cư độ là Uế độ, Đồng Cư độ chính là lục đạo. Tịnh độ là Tứ thánh pháp giới: Thanh văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật, không có phàm phu lục đạo, cho nên đó là Tịnh độ. Thế giới Cực Lạc có, có Phương Tiện độ (chính là Tịnh độ), các vị Bồ-tát hiểu điều đó. Nhưng ngày nay điều Tỳ-kheo Pháp Tạng yêu cầu là: 最勝淨土“Tối thắng Tịnh độ”, vả lại超過諸佛國土,故非我境界 “siêu quá chư Phật quốc độ, cố phi ngã cảnh giới” (Vì vượt hơn quốc độ chư Phật, nên không phải cảnh giới của con). Điều này khó. Bồ-tát Pháp Tạng biết các Tịnh độ thông thường, [còn] đây thù thắng vượt hơn tất cả Tịnh độ, thật vượt hơn, không chỉ Tịnh độ vượt hơn, ngay cả Đồng Cư độ cũng vượt hơn. Thế giới Cực Lạc quả thực có bốn độ, Đồng Cư độ là lục đạo, nơi đó không có lục đạo, chỉ có hai đường người và trời, không có đường Tu-la, không có ba đường ác, thế giới Cực Lạc có người và trời. Người thế nào sanh vào trời người? Công phu Thành phiến, sanh đến thế giới Cực Lạc là cõi trời cõi người. Nếu chứng đắc Tiểu quả, cũng tức là nói đoạn Kiến tư phiền não rồi, từ Sơ quả đến A-la-hán trong Tiểu thừa, đến Tứ quả, bao gồm Bích-chi Phật, tất cả sanh Phương Tiện độ, Phương Tiện độ chính là Tịnh độ thông thường. Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp thân, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thế giới Cực Lạc có bốn độ, nhưng bốn độ đều đặc biệt, chúng ta thấy trong 48 nguyện, bốn độ đều là Pháp tánh độ, điều đó không thể nghĩ bàn; nói cách khác, Pháp tánh độ ấy: chính là không có hiện tượng sanh diệt. Thế giới hiện tại của chúng ta, Đồng Cư độ của Thích Ca Mâu Ni Phật, người có sanh–già– bệnh–chết, thực vật có sanh–trụ–dị–diệt, khoáng vật có thành–trụ–hoại–không, đây đều là pháp sanh diệt. Phàm Thánh Đồng Cư độ trong thế giới Cực Lạc: cũng là bất sanh bất diệt, nói cách khác, gọi là Phàm Thánh Đồng Cư độ, trên thực tế không khác gì với Thật Báo Trang Nghiêm độ. Đồng Cư độ như vậy, Phương Tiện độ cũng như vậy, cho nên bốn độ trong toàn thể thế giới Cực Lạc, hết thảy đều là Pháp tánh độ, chúng ta phải làm rõ ràng điểm này. Pháp tánh độ không có sanh diệt, người trong Pháp tánh độ vô lượng thọ. Một câu trong kinh văn đã nói rõ, vãng sanh thế giới Cực Lạc, cho dù là Hạ hạ phẩm vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ, hết thảy đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát, 皆作阿惟越致菩薩 “giai tác A-duy-việt-trí Bồ-tát”, A-duy-việt-trí Bồ-tát là Pháp thân Bồ-tát. Câu này quan trọng! A Di Đà Phật phát nguyện này, nguyện này thực hiện rồi, không thực hiện được thì Ngài không thành Phật, 48 nguyện, nguyện nào cũng thực hiện được, thế giới Cực Lạc mới thành tựu viên mãn, tiếp dẫn tất cả chúng sanh trong mười phương, dẫu cho là ba đường ác niệm Phật đi vãng sanh, cũng đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát. Cho nên thế giới Cực Lạc xác xác thực thực, thuần tuý chính xác là Nhất Phật thừa, bình đẳng thành Phật. Chúng ta khen ngợi thế giới đó, thế giới được cai trị bởi của bậc Thánh nhân, thế giới đại đồng, có một chút ý vị, người cư trú trên thế giới đó, mọi người là đối đãi bình đẳng, chung sống hoà thuận, thế giới Tây phương Cực Lạc quả thật là đối đãi bình đẳng. 

          Ba loại bất thoái, Tiểu thừa là Vị bất thoái, không cần xem Sơ quả Tiểu thừa, lợi ích của người chứng đắc Sơ quả, ngài chắc chắn sẽ không thoái chuyển vào ba đường ác, đời đời kiếp kiếp ngài sanh ra trong hai đường người và trời, thọ mạng cõi người hết thì sanh thiên, thọ mạng cõi trời hết lại đến nhân gian, chỉ có qua lại trong người và trời, không có ba đường ác, cũng sẽ không biến thành La-sát, Tu-la, là Vị bất thoái; Hạnh bất thoái là Bồ-tát, chắc chắn sẽ không thoái chuyển tâm Bồ-đề, Bồ-tát phát tâm độ chúng sanh trước, độ chính mình sau, thành tựu người trước, thành tựu mình sau; loại thứ ba là Niệm bất thoái, Niệm bất thoái là Pháp thân Bồ-tát, [địa vị] này cao, niệm niệm hướng về Vô-thượng Bồ-đề, tự hành hoá tha, không có khởi tâm động niệm, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, không khởi tâm động niệm. Chúng ta cũng phải học điều này, mắt thấy sắc, tai nghe thanh, không bị quấy nhiễu bởi thanh sắc, không bị dao động bởi thanh sắc, tâm quý vị thanh tịnh, trong tâm quý vị chỉ có A Di Đà Phật, nghe rõ ràng, nhìn rõ ràng, không để ở trong tâm, đó gọi là bậc đại tu hành, người chân tu hành. Phải luyện ngay trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là hoàn cảnh nhân sự. Phải dùng tâm gì? Đều xem tất cả mọi chúng sanh là A Di Đà Phật, tuyệt diệu! Thấy quý vị là A Di Đà Phật. Hỏi quý vị điều gì? Xưng quý vị, quý vị là A Di Đà Phật. Họ cũng là A Di Đà Phật, tất cả đều là A Di Đà Phật, hay! Tu hành dùng được phương pháp này, nhìn thấy người là A Di Đà Phật, nhìn thấy súc sanh cũng là A Di Đà Phật, con chó nhỏ, con mèo nhỏ, nhìn thấy con muỗi con kiến đều là A Di Đà Phật, không có gì không phải là A Di Đà Phật. Dựa chắc vào A Di Đà Phật, tất cả trong tất cả: toàn là hoá thân của A Di Đà Phật, toàn là A Di Đà Phật đến độ ta, hễ ý niệm của ta chuyển thì nghiệp chướng không có nữa. Quý vị chuyển không được nghiệp chướng, là tại sao? Báo đền, quả báo. Khi ý niệm vừa chuyển, thì không có báo đền, không có quả nữa. Ta là Đệ tử đức Di Đà, ngoài ta ra, tất cả là A Di Đà Phật, phương pháp này hay. 

          Thứ hai là應攝之淨土 “ưng nhiếp chi Tịnh độ” (Tịnh độ cần thâu nhiếp), Tịnh độ cần phải nhiếp thủ, 其實際雖依本人各自之願樂,但今欲五乘行人皆能生報佛之國土,乃十方之所無,故非我境界 “kỳ thực tế tuy y bổn nhân các tự chi nguyện nhạo, đãn kim dục Ngũ thừa hành nhân giai năng sanh Báo Phật chi quốc độ, nãi thập phương chi sở vô, cố phi ngã cảnh giới” (nhưng thực tế dẫu nương theo mong muốn ưa thích của mỗi người, nhưng nay muốn hành nhân Năm thừa đều có thể sanh quốc độ của Báo thân Phật, là điều không có trong mười phương, nên không phải là cảnh giới của con). Tịnh độ bình thường nói là theo ý nguyện của cá nhân họ, công phu của cá nhân, đoạn Kiến tư phiền não thì sanh Pháp giới Thanh văn, đoạn tập khí Kiến tư phiền não thì sanh Pháp giới Duyên-giác, đoạn Trần sa phiền não thì sanh Pháp giới Bồ-tát, phá một phẩm vô minh chứng một phần Pháp thân thì sanh Thật Báo độ, đây chính là tuỳ theo cảnh giới của mỗi người. Hiện tại điều mà ngài Pháp Tạng cầu: là hy vọng hành nhân Ngũ thừa, Ngũ thừa nào? Sau đây nói, Ngũ thừa: thứ nhất là nhân thiên (cõi người, cõi trời), thứ hai Thanh văn, thứ ba Duyên-giác, thứ tư Bồ-tát, thứ năm là Phật thừa. Hành nhân Ngũ thừa này, hết thảy入報佛之土,迥異常情 “nhập Báo Phật chi độ, huýnh dị thường tình” (Vào cõi của Báo thân Phật, khác hẳn với thường tình), sự việc này rất đặc biệt, thế gian không có, trong tất cả cõi nước của chư Phật cũng không có, cho nên khác hẳn thường tình. 人天乘 Nhân thiên thừa là phàm phu, chưa ra khỏi lục đạo. 聲聞緣覺乘,小乘也。今欲令凡小行人,等同大乘,與一佛乘之大菩薩 “Thanh văn Duyên-giác thừa, Tiểu thừa dã. Kim dục linh phàm tiểu hành nhân, đẳng đồng Đại thừa, dữ Nhất Phật thừa chi Đại Bồ-tát” (Thanh văn thừa và Duyên-giác thừa: là Tiểu thừa. Nay muốn khiến cho hành nhân phàm phu và Tiểu thừa: ngang hàng với Đại thừa, với các đại Bồ-tát trong Nhất Phật thừa), Nhất Phật thừa là các vị Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh, kiến tánh thành Phật, 同登報佛淨土 “đồng đăng Báo Phật Tịnh độ” (cùng lên Tịnh độ của Báo thân Phật), cùng đến thế giới Cực Lạc, Thật Báo Trang Nghiêm độ của A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc. 此義極深,故曰非我境界 “Tư nghĩa cực thâm, cố viết phi ngã cảnh giới” (Nghĩa ấy vô cùng sâu, nên nói không phải cảnh giới của con). 

          Thứ ba nói Pháp thân và Thường Tịch Quang, Pháp thân này chính là Thật Báo độ, Pháp thân và Thường Tịch Quang, 報佛與實報莊嚴土,境界高妙 “Báo Phật dữ Thật Báo Trang Nghiêm độ, cảnh giới cao diệu” (Báo thân Phật và Thật Báo Trang Nghiêm độ, cảnh giới cao diệu). Người ở nơi ấy là tu hành ở trong đó, quả báo cuối cùng là ngài thành Phật, cho nên gọi là cao, xưng là diệu. 非一般菩薩分內之常行。我可經無量劫專精修習而證得之,但我當下尚非其分,故曰非我境界 “Phi nhất bàn Bồ-tát phận nội chi thường hành. Ngã khả kinh vô lượng kiếp chuyên tinh tu tập nhi chứng đắc chi, đãn ngã đương hạ thượng phi kỳ phận, cố viết phi ngã cảnh giới” (Không phải là thường hành trong phận của Bồ-tát thông thường. Con có thể qua vô lượng kiếp chuyên tinh tu tập mà chứng đắc điều đó, nhưng hiện giờ con vẫn không phải phận ấy, nên nói là không phải cảnh giới của con). Nói chính Ngài có thể qua vô lượng kiếp, chuyên, tu hành phải chuyên, phải tinh, chuyên nhất tinh tấn tu tập như vậy thì có thể chứng đắc, song hiện tại Ngài vẫn chưa đến địa vị này, cho nên hiện giờ vẫn không phải phận mình, nên nói không phải là cảnh giới của con. 法藏菩薩此答,雖有不同之三義 “Pháp Tạng Bồ-tát thử đáp, tuy hữu bất đồng chi tam nghĩa” (Lời đáp ấy của Bồ-tát Pháp Tạng, tuy có ba nghĩa khác nhau), ba ý nghĩa, 但總是拋卻己分,專歸佛力 “đãn tổng thị phao khước kỷ phận, chuyên quy Phật lực” (nhưng tóm lại hiển lộ từ chối phận mình, chuyên nương vào Phật lực). Câu này quan trọng, chính là không dùng chính mình, không dựa vào mình, hoàn toàn dựa vào Phật lực. 84 ngàn Pháp môn phải dựa vào chính mình, vô lượng Pháp môn cũng phải dựa vào chính mình, hiện nay ta hoàn toàn không dựa vào mình, dựa hết vào A Di Đà Phật, ý nghĩa chính ở nơi đây. Cho nên một câu ở chỗ này, ngài Hoàng Niệm Tổ đã lấy ra muốn chúng ta ghi nhớ, Pháp môn Tịnh Tông tóm lại từ chối phận mình, chuyên quy Phật lực. 非我境界四字,即是拋卻己分;請佛明示,即是專求佛力 “Phi ngã cảnh giới tứ tự, tức thị phao khước kỷ phận; thỉnh Phật minh thị, tức thị chuyên cầu Phật lực” (Bốn chữ “phi ngã cảnh giới”, tức là hiển lộ từ chối phận mình; thỉnh Phật dạy rõ, tức là chuyên cầu Phật lực).

          上文世間自在王如來“Thượng văn Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai” (Đoạn văn trên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai), trả lời ba câu của Ngài, 汝自思惟、汝自當知、汝應自攝,此三個自字皆直指當人自性 “nhữ tự tư duy, nhữ tự đương tri, nhữ ưng tự nhiếp, thử tam cá tự tự giai trực chỉ đương nhân Tự Tánh” (ông tự suy nghĩ, ông nên tự biết, ông nên tự nhiếp, ba chữ tự này đều chỉ thẳng Tự Tánh của người đó), đây chính là dựa vào mình, 開顯妙心 “khai hiển diệu tâm”(khai thị hiển bày diệu tâm), phải dựa vào chính mình, 正《觀無量壽佛經》中是心是佛 “chánh Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh trung thị tâm thị Phật” (chính là “tâm này là Phật” ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật), tâm này làm Phật, là ý nghĩa này, đó là phận mình. Người học Phật, đặc biệt là những người niệm Phật cầu vãng sanh, chúng ta thường nói tín tâm khó, thật khó. Hai câu này trong Quán Kinh, là cốt lõi tu học của Tịnh Tông, tổng cương lĩnh, đó chính là是心是佛,是心作佛 “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói rằng: 一切眾生本來是佛 “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật” (Tất cả chúng sanh vốn là Phật), quý vị tin được, nếu quý vị không tin thì khó rồi. 48 nguyện của A Di Đà Phật, tại sao giúp quý vị một đời làm Phật? Bởi vì tâm quý vị là Phật, tâm này của quý vị đang làm Phật, A Di Đà Phật làm Tăng thượng duyên cho chúng ta, Tăng thượng duyên này vô cùng quan trọng. Cho nên tiếp theo nói là玄旨 “huyền chỉ”, tôn chỉ huyền diệu. 但欲一切眾生內重己靈,明此根本,方能生起無量無邊自覺覺他之妙行 “Đãn dục nhất thiết chúng sanh nội trọng kỷ linh, minh thử căn bổn, phương năng sanh khởi vô lượng vô biên Tự giác Giác tha chi diệu hạnh” (Chỉ mong trong tất cả chúng sanh trong tôn trọng tánh linh của mình, làm rõ căn bổn này, mới có thể sanh khởi vô lượng vô biên diệu hạnh Tự giác và Giác tha). Câu “nội trọng kỷ linh” này, “kỷ linh” đây chính là Tự Tánh. “Minh thử căn bổn” chính là Minh tâm Kiến tánh. Phật pháp Đại thừa, tu hành là lấy điều này làm mục tiêu, đến khi Minh tâm Kiến tánh thì kể như tốt nghiệp, đó là thấy Phật. Sau khi “minh thử căn bổn” thì đến đâu? Hết thảy đều là đi đến Thật Báo Trang Nghiêm độ để tu hành, đó gọi là Pháp Báo vi diệu. Minh tâm Kiến tánh, mới có thể sanh khởi vô lượng vô biên diệu hạnh Tự giác và Giác tha, diệu hạnh này là hạnh Bồ-tát, chính là quý vị có trí huệ, thần thông, đạo lực: rất tương tự với Phật, dường như không sai biệt lắm, quý vị mới có năng lực Tự giác Giác tha. Tự giác là nâng cao chính mình; Giác tha là giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, đó là diệu hạnh.

          今法藏菩薩再請曰非我境界,請佛廣演,是即外慕諸聖 “Kim Pháp Tạng Bồ-tát tái thỉnh viết phi ngã cảnh giới, thỉnh Phật quảng diễn, thị tức ngoại mộ chư Thánh” (Nay Bồ-tát Pháp Tạng lại thỉnh rằng “không phải cảnh giới của con”, thỉnh cầu Phật rộng diễn giải, đó tức là ngoài hâm mộ các vị Thánh). Ý nghĩa này hay! “Phi ngã cảnh giới” là bỏ đi chính mình, dựa vào ta không được, ta làm không được. “Thỉnh Phật quảng diễn”, “diễn” là diễn thuyết, thân hành ngôn giáo, chữ “diễn” này có ý nghĩa như vậy, ta hoàn toàn phải dựa vào thầy, đó là hoàn toàn đối với bên ngoài, cầu sự giúp đỡ ở các bậc đại Thánh đại Hiền. Sư Tuấn Đế nói: 此乃法藏菩薩自開他力門也 “Thử nãi Pháp Tạng Bồ-tát tự khai Tha lực môn dã.” (Đây là Bồ-tát Pháp Tạng tự mở môn Tha lực). 此語道破淨宗玄微,世稱淨宗為他力法門。淨宗所以能三根普被,一生成辦,凡夫二乘例登不退,皆仗彌陀一乘願海、六字洪名之力,此即仗他力 “Thử ngữ đạo phá Tịnh Tông huyền vi, thế xưng Tịnh Tông vi Tha lực Pháp môn. Tịnh Tông sở dĩ năng tam căn phổ bị, nhất sanh thành biện, phàm phu Nhị thừa lệ đăng bất thoái, giai trượng Di Đà Nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh chi lực, thử tức trượng Tha lực” (Lời này tiết lộ sự huyền diệu của Tịnh Tông, đời gọi Tịnh Tông là Pháp môn Tha lực. Sở dĩ Tịnh Tông có thể bao trùm khắp ba căn, một đời thành tựu, phàm phu và Nhị thừa đều lên bậc bất thoái, bởi đều dựa vào nguyện hải Nhất thừa của đức Di Đà, sức mạnh của sáu chữ hồng danh, đây tức là dựa vào Tha lực). Chúng ta tại sao tin được? Chính là căn cứ điều này, chúng ta tin những lời này, từng chữ từng câu đều là thật, không có một chữ nào là giả dối, thực tại chân tướng là như thế. Tịnh Tông, quý vị thấy “tam căn phổ bị”, ba căn là thượng–trung–hạ, thượng căn là Bồ-tát, trung căn là Thanh văn, hạ căn là phàm phu lục đạo, chỉ cần quý vị tiếp nhận Pháp môn này, một đời là viên mãn. Thành là thành tựu, biện là giải quyết ổn thỏa, “nhất sanh thành biện” là gì? Con đường thành Phật một đời là chắc chắn, còn gì hơn được! Phàm phu chính là nhân thiên, Nhị thừa là Thanh văn và Duyên-giác, hết thảy đều lên Bất thoái chuyển, chính là tam bất thoái, tam bất thoái chính là A-duy-việt-trí Bồ-tát, A-duy-việt-trí Bồ-tát chính là Pháp thân Đại sĩ. “Giai trượng”, hoàn toàn phải dựa vào nguyện hải Nhất thừa của A Di Đà Phật, nguyện hải Nhất thừa chính là 48 nguyện, chúng ta dựa vào điều này. Chúng ta thật sự tin có thế giới Cực Lạc, thật sự tin có A Di Đà Phật, một chút cũng không nghi ngờ. Chúng ta thật sự tin rằng: dựa vào A Di Đà Phật là chỗ dựa vững chắc, tuyệt sẽ không làm chúng ta thất vọng. Năng lượng của sáu chữ hồng danh này không có gì sánh bằng, đó chính là hoàn toàn dựa vào Tha lực, tha là A Di Đà Phật, không dựa vào mình, mà dựa vào tha lực.

        淨宗之所以究竟方便者“Tịnh Tông chi sở dĩ cứu cánh phương tiện giả” (cho nên Tịnh Tông là phương tiện rốt ráo), tu hành chứng quả, vô lượng vô biên Pháp môn, Pháp môn này rốt ráo phương tiện, môn phương tiện lại không tìm thấy môn phương tiện này, là phương tiện bậc nhất trong các môn phương tiện. 即以彌陀無上果覺“Tức dĩ Di Đà Vô-thượng quả giác” (tức là dùng quả giác Vô-thượng của đức Di Đà), chữ “dĩ” là dùng, điều chúng ta dùng là quả giác Vô-thượng của đức A Di Đà Phật, quả giác này chính là Phật hiệu, 作為眾生因地初心 “tác vi chúng sanh nhân địa sơ tâm” (làm thành sơ tâm của chúng sanh trong nhân địa), chính là sơ phát tâm, sơ học. Sư phụ của lão Hoà thượng Hải Hiền, là lão Pháp sư Truyền Giới, thu nhận ngài làm Đồ đệ, đích thân xuống tóc cho ngài, sau khi xuống tóc rồi trao cho ngài một câu, Nam Mô A Di Đà Phật, cứ niệm luôn luôn, sáng tỏ rồi không thể nói loạn, không thể nói. Sự sáng tỏ ấy là gì? Sáng tỏ chính là Minh tâm Kiến tánh, khai ngộ rồi, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, không nên nói với người ta, cứ giả điếc giả khờ. Ở thế gian làm một tấm gương tốt, gương của người tu hành, gương của người niệm Phật, bảo ngài biểu pháp. Ngài làm được toàn bộ, không phụ lòng thầy, đích thực điều gì cũng biết, niệm đến Minh tâm Kiến tánh. Do đó danh hiệu là quả giác Vô-thượng của đức Di Đà, làm thành sơ tâm của chúng sanh trong nhân địa, sơ học trong nhân địa, để A Di Đà Phật ở trong tâm.

          因達果海,果徹因源 “Nhân đạt quả hải, quả triệt nhân nguyên” (Nhân thông suốt biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân), câu Phật hiệu này thật sự để ở trong tâm, không có vọng tưởng, không có tạp niệm, năng lượng này không thể nghĩ bàn, tại sao? Thông với A Di Đà Phật. Giống như tín hiệu vô tuyến ngày nay, bên quý vị hễ động, là bên kia biết, A Di Đà Phật thu nhận được. Nếu có tạp niệm, có vọng tưởng, là phá hoại công lực của quý vị. A Di Đà Phật có biết không? Biết, mặc dù biết nhưng không thể thông với quý vị, Ngài ở nơi đó phát ra, quý vị không nhận được. Tại sao không thu nhận được? Bởi quý vị có tạp niệm, quý vị có vọng tưởng, chúng quấy nhiễu tâm của quý vị, do vậy quý vị không thu nhận được. Nếu quý vị chỉ có A Di Đà Phật, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, quý vị là thông suốt với A Di Đà Phật. Không có tạp niệm, không có vọng tưởng, chỉ có A Di Đà Phật, đó gọi là công phu Thành phiến. Do đó A Di Đà Phật sẽ hiện thân cho quý vị thấy, tâm của quý vị định rồi. Tại sao? Đích thân nhìn thấy A Di Đà Phật, quý vị vẫn nghi ngờ sao? Có người nghi ngờ không? Có. Tại sao? Trong Ngũ dục lục trần đó, không buông xuống được. Bên kia thông suốt với A Di Đà Phật, bên này vẫn không buông xuống, thì không còn cách nào nữa, A Di Đà Phật lôi quý vị cũng không lôi đi được. Cho nên người niệm Phật: cần phải giảm nhẹ đối với tất cả các pháp thế và xuất thế gian, phải biết chân tướng. Chân tướng, trong kinh Đại thừa nói rất hay, nói thẳng thắn nhất thì nên xem Kinh Kim Cang, người Trung Hoa rất thích niệm đọc, phân lượng không nhiều, chỉ có năm ngàn chữ, trong Kinh Kim Cang nói với chúng ta: 凡所有相皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Tất cả các tướng đều là giả), 一切有為法,如夢幻泡影 “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Tất cả pháp hữu vi, như mơ, ảo, bọt, bóng). Nói với quý vị tất cả các pháp, pháp hữu vi chính là thứ có sanh có diệt, hết thảy là mộng, ảo, bọt, bóng, là giả, không phải là thật. Quý vị phải làm rõ ràng, làm minh bạch thì quý vị sẽ buông xuống; quý vị còn vui mừng hớn hở với người thế gian, đó là gì? Đó là tiếp dẫn chúng sanh, đó là để độ chúng sanh, có để ở trong tâm không? Không có, cao minh! Để những thế pháp này ở trong tâm, là sai lầm, toàn tạo nên chướng ngại, làm chướng ngại mất đường dây nóng của A Di Đà Phật, không thông suốt. Cho nên đích thực “nhân đạt quả hải”, nhân là một niệm của chính chúng ta, quả là A Di Đà Phật, “quả triệt nhân nguyên”. Phía đức A Di Đà Phật: đích thực giống như biển cả, A Di Đà Phật không nơi đâu không có, A Di Đà Phật không lúc nào không có, chúng ta có cảm thì lập tức hiện ra, cảm ứng khó nghĩ, nhân quả đồng thời.   

          此又是他力之妙用。更加以外聖易信,己靈難明 “Thử hựu thị Tha lực chi diệu dụng, cánh gia dĩ ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh” (Đây lại là diệu dụng của Tha lực, hơn nữa với bậc Thánh bên ngoài thì dễ tin, còn tánh linh của mình thì khó rõ). Đây là hiện tượng của phàm phu bình thường, Phật Bồ-tát Thánh hiền bên ngoài thì dễ dàng tin tưởng, tâm tánh của mình thì rất không dễ hiểu rõ. Minh tâm Kiến tánh khó, Thánh hiền bên ngoài thì quý vị thật sự liễu giải, nhận biết, dễ dàng tin tưởng. Ngoại Thánh dễ tin A Di Đà Phật, “kỷ linh nan minh”, được rồi, để sang một bên không nên để ý đến, chúng ta toàn tâm toàn ý dựa vào ngoại Thánh, là dựa vào A Di Đà Phật, dựa vào đến cuối cùng hiểu ra, vốn dĩ A Di Đà Phật chẳng lìa Tự Tánh. Mọi người nhìn thấy Pháp bổn của Tam Thời Hệ Niệm, Thiền sư 中峰 Trung Phong nói hai câu, nói rất hay: 我心即是阿彌陀佛,阿彌陀佛即是我心 “Ngã tâm tức thị A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tức thị ngã tâm” (Tâm ta tức là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tức là tâm ta), nói hay biết bao! A Di Đà Phật từ đâu đến? Do tâm ta hiện. Thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Ở ngay phương này. 此方即是淨土,淨土即是此方 “Thử phương tức thị Tịnh Độ, Tịnh Độ tức thị thử phương” (Phương này tức là Tịnh độ, Tịnh độ tức là phương này). Chỉ cần quý vị buông xuống khởi tâm động niệm phân biệt chấp trước, ở đây chính là Tịnh độ, không hai không khác với ở thế giới Cực Lạc. Tại sao? Buông xuống khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước là hồi quy Tự Tánh. Thế gian của chúng ta đây, sau khi kiến tánh thì như thế nào? Thấy được tất cả pháp thanh tịnh vô nhiễm, không có ô nhiễm, thấy rằng tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt, thế là kiến tánh. Cho nên phải biết nhân quả đồng thời, cảm ứng không thể nghĩ bàn. 

          是以具縛凡夫但能信有世界名曰極樂,其土有佛,號阿彌陀。深信此兩個有字 “Thị dĩ cụ phược phàm phu đãn năng tín hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, thâm tín thử lưỡng cá hữu tự” (Do vậy phàm phu có đủ trói buộc chỉ có thể tin có thế giới tên là Cực Lạc, cõi đó có Phật hiệu là A Di Đà, tin sâu hai chữ “có” này), Niệm lão chú ở đây rất hay, viết hay lắm, hai chữ “hữu” này rất quan trọng. Đại sư Ngẫu Ích: vào cuối đời, buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, tự mình chọn một ngoại hiệu, gọi là 西有道人 Tây Hữu Đạo Nhân. Tây là Tây phương, Hữu là có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật, lấy hai chữ “hữu” này: làm thành ngoại hiệu của mình, niệm niệm không quên hai chữ “hữu” này. Do đó lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ khuyên nhủ chúng ta phải có thể tin, tin được “có thế giới gọi là Cực Lạc, cõi ấy có Phật hiệu là A Di Đà”, là trong Kinh Di Đà nói. Tin sâu hai chữ “hữu” này, 切願往生,一向持名,即可如願,逕登不退。是乃凡愚所同能 “thiết nguyện vãng sanh, nhất hướng trì danh, tức khả như nguyện, kính đăng bất thoái. Thị nãi phàm ngu sở đồng năng” (tha thiết nguyện vãng sanh, một hướng trì danh, liền được như nguyện, thẳng lên bất thoái. Đó là điều mà kẻ phàm ngu cùng có khả năng), đều làm được cả, một chút cũng không khó. 若獨言究明自心,則唯上智所堪任 “Nhược độc ngôn cứu minh tự tâm, tắc duy thượng trí sở kham nhiệm” (Nếu chỉ nói rằng xét rõ tâm mình, thì chỉ có bậc thượng trí mới kham làm được). Nếu nói Minh tâm Kiến tánh, đó là người thượng thượng căn, không phải người thượng thượng căn thì không làm được.

          Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 157)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trả lời 0