Responsive Menu
Add more content here...

Tập 159 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Tập 159

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 7 tháng 1 năm 2015.

Dịch giả: Cự Lang.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng quy y Tam Bảo với tôi: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, Lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt-ma, Ly dục trung tôn; quy y Tăng-già, Chư chúng trung tôn. (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang số 419, trang số 419, hàng thứ 2 từ trái qua:

          二百一十億 “Nhị bách nhất thập ức” (210 ức), đây là khi Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai vì Bồ-tát Pháp Tạng mà tuyên thuyết 210 ức cõi nước của chư Phật. Con số này, 210 ức, Chú Giải của Niệm lão nói: 此有疑曰 “Thử hữu nghi viết” (Đây có nghi rằng), trong đó có nghi ngờ, 若法藏菩薩當時所見限二百一十億之數量 “nhược Pháp Tạng Bồ-tát đương thời sở kiến hạn nhị bách nhất thập ức chi số lượng” (như lúc bấy giờ Bồ-tát Pháp Tạng được thấy giới hạn số lượng là 210 ức), 210 ức vốn không nhiều, 何以又云所攝佛國都勝無數諸佛國者 “hà dĩ hựu vân sở nhiếp Phật quốc đô thắng vô số chư Phật quốc giả” (vì sao lại nói nước Phật được thâu nhiếp đều hơn vô số các nước Phật kia), phần sau có câu này, có mâu thuẫn với 210 ức ở phần trước, đây là ý nghĩa gì? Ở sau nói: 此有二答 “Thử hữu nhị đáp” (Ở đây có hai cách trả lời), có hai cách giải thích. Thứ nhất là căn cứ phẩm Hoa Tạng Thế Giới trong Kinh Hoa Nghiêm, theo trong đó nói, 佛剎無量 “Phật sát vô lượng” (cõi Phật vô lượng), Hoa Tạng thế giới hải, 總有二十重 “tổng hữu nhị thập trùng” (gồm có 20 tầng), số cõi Phật bao quanh ấy, đó chính là 210 số vi trần. Ghi nhớ số vi trần ở kế sau này, 210 số vi trần, vi trần thì không thể đếm được. 今此經中,亦以二百一十標示剎土之數,暗合《華嚴》義 “Kim thử Kinh trung, diệc dĩ nhị bách nhất thập tiêu thị Sát độ chi số, ám hợp Hoa Nghiêm nghĩa” (Trong Kinh này đây cũng lấy 210 [để] biểu thị số cõi nước, [là] ngầm khớp với ý nghĩa của Hoa Nghiêm), tương đồng với điều trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói, 即含攝十方無量之國土 “tức hàm nhiếp thập phương vô lượng chi quốc độ” (tức gồm thâu vô lượng cõi nước trong mười phương). Sau 210 còn có số vi trần, vậy thì có thể nói được trọn vẹn, đó chính là vô lượng vô biên vô số Quốc độ trong mười phương. Quốc độ chính là phạm vi khu vực giáo hoá của một vị Phật, như trong Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, đức Thích Ca Mâu Ni Phật hiện đang giáo hoá ở khu vực này gọi là thế giới Ta-Bà, thế giới này là một Đại thiên thế giới. Một Đại thiên, phần trước chúng ta đã học điều này rất nhiều, là lấy đơn vị thế giới làm khởi điểm, trong một đơn vị thế giới có một núi Tu Di, bốn mặt núi Tu Di có rất nhiều rất nhiều thế giới, như trái đất của chúng ta là một bộ phận nằm trong đơn vị thế giới này, trong kinh gọi là 南贍部洲 Nam Thiệm Bộ Châu. Thế giới giống như vậy, một hạt nhân là một điểm trung tâm, núi Tu Di, bốn mặt có bốn châu, bốn châu lớn, là hành tinh lớn, còn có các hành tinh nhỏ. Như mặt trăng quay quanh trái đất, là vệ tinh của trái đất, trái đất dẫn theo mặt trăng quay quanh mặt trời, mặt trời thì quay quanh núi Tu Di, quay ở phần lưng núi Tu Di, chính là trung gian, đó là một đơn vị thế giới.     

          Trước kia lần đầu tiên tôi đến Bắc Kinh, đi thăm ngài Hoàng Niệm Tổ, ngài nói chuyện với tôi về vấn đề này. Ngài nói một đơn vị thế giới không phải là một hệ mặt trời, rất nhiều người cho rằng hệ mặt trời là một đơn vị thế giới, lão Cư sĩ ngài có học khoa học, ngài nói với tôi đó phải là hệ ngân hà, nói như vậy mới thông suốt. Trung tâm của hệ ngân hà, theo khoa học hiện nay thường nói đó là hố đen, núi Tu Di được nói đến trong kinh chính là hố đen, hố đen là một thiên thể, năng lượng vô cùng lớn, ngay cả ánh sáng cũng bị nó hút vào. Nếu nói một hệ ngân hà này: là một đơn vị thế giới, thì một ngàn đơn vị thế giới gọi là một Tiểu thiên thế giới; lại lấy Tiểu thiên thế giới làm đơn vị, một ngàn Tiểu thiên thế giới gọi là một Trung thiên thế giới; lại lấy Trung thiên làm đơn vị, một ngàn Trung thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Một Đại thiên thế giới trong đó có bao gồm Tiểu thiên, Trung thiên, Đại thiên, cho nên gọi là Tam thiên Đại thiên thế giới, nhưng không phải Đại thiên thế giới có ba ngàn, nói vậy sai rồi. Đại thiên thế giới giống như vậy, Đại thiên thế giới phạm vi lớn nhỏ khác nhau, đó là do công đức tu hành của mỗi một vị Phật: không giống nhau, có lớn, có nhỏ, nhưng công đức nhỏ nhất cũng là một Tam thiên Đại thiên thế giới. Vì vậy có đức Phật thống lĩnh hai Đại thiên thế giới, ba Đại thiên thế giới, năm Đại thiên thế giới, mười Đại thiên thế giới, không nhất định, điều này có liên quan với sự phát tâm của chư Phật ở nhân địa. Thành Phật rồi, Phật Phật đạo đồng, Phật Phật trí huệ đức năng tướng hảo mọi điều đều bình đẳng, không có vị nào không bình đẳng. Song phát nguyện ở nhân địa thật sự khác nhau, như A Di Đà Phật khi còn làm Bồ-tát ở nhân địa đã phát nguyện này, quả thật rất ít thấy.

          Thế giới Cực Lạc bao lớn? Thế giới Cực Lạc là Pháp tánh độ, phải hiểu được điểm này, nếu là Pháp tánh thế thì không có ranh giới, như cổ nhân Trung Hoa đã nói: 其大無外,其小無內 “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (Lớn không có bên ngoài, nhỏ không có bên trong), đó là Pháp tánh độ. Không có trong ngoài là Tánh, thức thì có trong ngoài, A-lại-da thức có trong ngoài, có Khởi tâm Động niệm, có hiện tượng sanh diệt, trong Pháp tánh không có. Pháp tánh, Đại sư Huệ Năng nói hay lắm: 本來無一物,何處惹塵埃 “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Xưa nay không một vật, Nơi nào dính bụi trần), Pháp tánh chính là Chân Tâm, chính là Tự Tánh, Tự Tánh chẳng lập một pháp. Sát độ chư Phật vô lượng vô biên mười phương đều là nương Tự Tánh mà hiển hiện ra, cho nên Tự Tánh có thể sanh, có thể hiện, không biến đổi, Thật Báo độ của tất cả chư Phật: đều là do Tự Tánh biến hiện. Tự Tánh có ẩn hiện khác nhau, không có duyên nó không hiện, không hiện thì không thể nói nó không; có duyên thì nó hiện ra tướng, tuy nó hiện tướng nhưng không thể nói nó có, đó là sự thật, chân tướng sự thật. Tướng được hiện ra gọi là ảo tướng, ở trong Thật Báo độ nói là ẩn hiện khác nhau, ở trong mười pháp giới nói sanh diệt bất đồng, mười pháp giới có sanh có diệt.  

          Trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói rõ ràng sự việc này, tại sao có những hiện tượng này? Do tâm hiện thức biến. Tâm là Tự Tánh, Tự Tánh có thể hiện có thể sanh, A-lại-da có thể biến, trong Thật Báo độ chỉ có những điều được sanh được hiện bởi Tự Tánh, không có hiện tượng sanh diệt. Mười pháp giới đến từ đâu? Là A-lại-da đem Thật Báo độ biến thành mười pháp giới, biến thành lục đạo luân hồi, sự việc là như thế. Vì vậy trong Pháp Tướng tông nói: chuyển tám thức thành bốn trí, không thấy sáu đường luân hồi nữa, cũng không thấy mười pháp giới nữa. Mười pháp giới là do A-lại-da biến hiện ra, A-lại-da không còn nữa thì mười pháp giới không còn, chuyển tám thức thành bốn trí. Có thể thấy ở trong Tự Tánh không có A-lại-da, mà có bốn trí Bồ-đề, Tự Tánh quả thật đầy đủ Đại viên Cảnh trí, Bình đẳng Tánh trí, Diệu quán Sát trí, Thành sở Tác trí, ở chỗ nào? Ở Thật Báo Trang Nghiêm độ. Sanh đến Thật Báo Trang Nghiêm độ đều xưng là Phật, Tông môn có một câu nói hay lắm, 明心見性,見性成佛 “Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật”, chân Phật, không phải giả Phật, cho nên Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật. Phật lại nói với chúng ta, chúng sanh Pháp giới, tất cả chúng sanh khắp Pháp giới Hư không giới, không chỉ có mỗi nhân loại, tất cả chúng sanh xưa nay là Phật. Phật gì? Pháp thân Phật, Pháp thân chính là Tự Tánh.

          Đại sư Huệ Năng kiến Tánh rồi, Tánh là như thế nào? Đại sư Huệ Năng dùng 20 chữ để miêu tả Tánh. Câu đầu tiên nói là: 何期自性,本自清淨“Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”, xưa nay tự nhiên thanh tịnh, trước giờ cũng không hề có ô nhiễm, đó là gì? Đó là Tự Tánh. Chúng ta ngày nay ô nhiễm, ô nhiễm không phải là Tự Tánh, ô nhiễm là A-lại-da, Vọng tâm, Tự Tánh là Chân Tâm, Chân Tâm trước giờ không bao giờ ô nhiễm. Phật dùng Chân Tâm, dùng Chân Tâm thì gọi là thành Phật, dùng Vọng tâm là phàm phu. Trong lục đạo dùng Vọng tâm, Vọng tâm này có thiện, có ác, thiện cũng là vọng, ác vẫn là vọng, ác tâm cảm ba đường ác, hoá ra ba đường ác, thiện tâm thì biến ra ba đường thiện. Từ đó có thể biết trong Chân Tâm không có thiện–ác, không có hiện tượng luân hồi, không những không có thiện–ác mà nhiễm–tịnh cũng không có. Không có nhiễm–tịnh, chúng ta gọi đó là Tứ thánh pháp giới: Thanh văn chính là A-la-hán, cao hơn A-la-hán là Bích-chi-phật, cao hơn Bích-chi-phật là Bồ-tát, cao hơn Bồ-tát là Phật. Phật này không phải chân Phật, [trong] Lục tức Phật của Đại sư Thiên Thai, thì gọi đó là Tương tự Tức Phật, ngài rất giống Phật. Nếu quý vị đem kinh điển để đối chiếu, thì các ngài khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác hoàn toàn giống như trong kinh đã nói, tu tốt lắm, đó là do sự tu thành, nhưng không phải Phật vốn có, Phật vốn có không cần tu, còn ngài là do tu thành, cho nên ngài là Tương tự Phật. Phật vốn có thì sao? Ngài khai ngộ rồi, Ngài kiến Tánh rồi, kiến Tánh thành Phật, Phật đó là chân Phật, cho nên chân Phật thì không phải nhờ tu. Chân Phật đến từ đâu? Chính là buông xuống. Buông xuống điều gì? Đem sự tu kia buông xuống, còn có tu là chính là giả, không phải sự thật, tại sao? Bởi quý vị còn Khởi tâm Động niệm, quý vị còn tu. Đều không còn Khởi tâm Động niệm, đó là Chân Tâm hoàn toàn, đó không phải Vọng tâm, đó là chân Phật, không phải là giả Phật. 

          Chân Phật trụ Thật Báo độ, tại sao? Bởi mặc dù đoạn Vô minh rồi, nhưng còn tập khí của Vô minh, không dễ đoạn tập khí. Ví như chúng ta thấy từ phần dưới lên phần trên, đoạn tận Kiến tư phiền não thì chứng quả A-la-hán, thoát ly lục đạo luân hồi, ngài quả thật không có Kiến tư phiền não, song còn tập khí của Kiến tư phiền não, điều đó rất thô, rất rõ ràng. Ví như người có địa vị cao trong xã hội này, sở hữu tài sản lớn, quả thật không có kiêu mạn, đích thực rất khiêm tốn, nhưng họ có bộ dạng kiêu mạn, tập khí đó còn. Sự thì dễ đoạn, tập khí không dễ đoạn, trong kinh điển Phật dùng bình rượu để làm tỉ dụ, bình rượu chứa đầy rượu, đổ rượu cho cạn sạch, lau cho sạch bong, quả thật không còn rượu nhưng ngửi thấy vẫn còn mùi vị, đó là tỉ dụ cho tập khí, rượu tỉ dụ phiền não, đoạn hết rồi, đích thực không có, ngửi thấy còn tập khí. Có phương pháp nào đoạn tập khí không? Có phương pháp đoạn phần thô trọng, có phương pháp đoạn tập khí của Kiến tư phiền não, sau khi đoạn dứt thì ngài thăng cấp, ngài được gọi là Bích-chi-phật, không gọi là A-la-hán. Cho nên Bích-chi-phật đều đoạn sạch sẽ cả tập khí của Kiến tư phiền não, đều không có, [là] Bích-chi-phật. A-la-hán còn có tập khí, đích thực không có phiền não, đích thực là người tốt, nhưng còn tập khí. Bích-chi-phật các ngài phải đoạn: Trần sa phiền não, đoạn tận Trần sa phiền não rồi, ngài thăng cấp, ngài thành Bồ-tát. Bồ-tát còn tập khí của Trần sa phiền não, cần phải đoạn hết tập khí Trần sa phiền não, ngài thăng cấp, đó chính là Phật trong mười pháp giới, Tương tự Tức Phật, ngài ngay cả tập khí của Trần sa, tập khí của Kiến tư [cũng] đoạn tận hết thảy. Ngài phải đoạn gì nữa? Đoạn Vô minh, đây là thứ cuối cùng, Vô minh phiền não, đoạn hết Vô minh phiền não rồi, ngài vượt ra mười pháp giới. Mười pháp giới là một giấc mộng, tỉnh dậy rồi, lục đạo là chiêm bao, giấc mộng trong giấc mộng, tỉnh dậy là mười pháp giới, mười pháp giới sau khi tỉnh dậy thì Nhất chân pháp giới hiện tiền. Bồ-tát trong Nhất chân pháp giới ấy, chúng ta gọi là Pháp thân Bồ-tát, phá một phẩm Vô minh chứng một phần Pháp thân, chứng Pháp thân chính là thấy Bổn Tánh. Pháp thân chính là Tự Tánh, chính là Bổn Tánh, ở trong Triết học nói, đó chính là Bản thể của toàn bộ vũ trụ. Vũ trụ đến từ đâu? Do Pháp thân biến hiện, không có Pháp thân thì không có những hiện tượng này. Cho nên Pháp thân có thể sanh có thể hiện, A-lại-da có thể biến, A-lại-da là Vọng tâm. Chúng ta ngày nay Vọng tâm làm chủ, Chân Tâm có, nhưng bị nó làm mất đi, mất đi sạch sành sanh, không biết có Chân Tâm, xem Vọng tâm như là Chân Tâm, sai rồi.

          Vô minh là gì? Chúng ta nói một cách thô rõ, mọi người dễ dàng hiểu, [là] Khởi tâm Động niệm. Khởi tâm Động niệm quá vi tế, chúng ta không biết, tần số quá cao, đó là Vọng tâm. Vọng tâm có sanh diệt, ý niệm trước diệt thì ý niệm sau lại sanh, niệm trước diệt niệm sau sanh, một niệm tiếp nối một niệm, trong đó chúng ta cần phải biết, niệm trước với niệm sau khác nhau. Như điện ảnh, điện ảnh kiểu cũ của chúng ta, đây là tấm phim dùng trong điện ảnh, từng tấm ảnh khác nhau, không có hai tấm giống nhau, để vào trong máy chiếu với tốc độ, một giây là 24 tấm, một giây 24 tấm nên đánh lừa được mắt của chúng ta, tưởng rằng đó là thật. Chúng ta xem truyền hình, truyền hình trước đây, một giây nếu tính ra phim đèn chiếu có thì bao nhiêu tấm? 50 tấm, hiện nay là điện ảnh màu kỹ thuật số, khoa học đã tiến bộ, một giây 100 tấm. Nói cách khác, chúng ta ngày nay xem màn hình của Ti vi, tần số của nó là 1% giây, thay đổi tấm phim ở bên trong không ngừng, đích thực không có tấm nào là giống nhau, song ta nhìn gần đến mức như giống nhau. Quý vị xem toàn bộ trái đất: rất rõ ràng là khác nhau, từng giây đều khác nhau, mỗi 1% giây đều khác nhau. Nếu lại mở rộng sang hệ mặt trời, lại mở rộng ra hệ ngân hà, lại càng khác nhau hơn, khác biệt rất lớn. Phật nói với chúng ta độ lớn không chỉ đến vậy, mà khắp Pháp giới Hư không giới: đều được sinh ra trong tần số cao như thế, [là] giả thôi. “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, trong Kinh Kim Cang nói, không sai chút nào, không có điều gì là thật. Tất cả mọi hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên toàn bộ là ảo tướng được sinh ra trong tần số cao như vậy. 

          Chỉ có Tự Tánh, Bổn Tánh là thật, Bổn Tánh vĩnh viễn không chịu những sự quấy nhiễu này. Cũng không thể nói là hoàn toàn không quấy nhiễu nhau, chỉ cần có hiện tượng nó sẽ hiện ra, chúng ta nói có duyên thì hiện, nếu duyên dứt thì nó không có, thì nó không hiện. Tự Tánh có ẩn hiện, không có sanh diệt, hiện, chẳng sanh; không hiện, chẳng diệt, chẳng sanh chẳng diệt là Bổn Tánh. Phật nói với chúng ta, Bổn Tánh là tương đồng, cho nên nói: 一切眾生皆有如來智慧德相“Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng”(Tất cả chúng sanh đều có trí huệ-đức-tướng của Như Lai), trí huệ–đức-tướng là viên mãn, vô lượng vô biên không có cùng tận, Phật đã chứng đắc, sau khi chứng đắc nói với chúng ta. Chúng sanh chưa chứng đắc có không? Có, [nhưng] họ không khởi tác dụng, vì sao? Bởi họ có chướng ngại, chướng ngại chính là ba loại phiền não: Vô minh, Trần sa, Kiến tư, là ba loại phiền não lớn này làm chướng ngại, không khởi tác dụng. Vậy khi ấy Giáo học của Phật giáo dạy điều gì? Chính là nói với quý vị Kiến tư, Trần sa, Vô minh không phải là thật, là giả thôi, quý vị chỉ cần buông nó xuống thì chướng ngại của quý vị không còn nữa, trí huệ, đức năng, tướng hảo trong Tự Tánh quý vị đều khôi phục hết thảy. Sau khi khôi phục thì bộ dạng như thế nào? Không hai không khác với chư Phật Như Lai, viên mãn đầy đủ. Tất cả tôn giáo, tất cả học thuật trên thế gian đều không nói đến, chỉ có Phật nói rõ ràng, nói sáng tỏ.

          Điều Phật giáo tìm cầu là hướng nội không hướng ngoại, cho nên gọi là Nội học. Chúng ta lại nói sáng tỏ, nói rõ ràng một chút, Vô minh phiền não là gì, thế nào gọi là Vô minh phiền não? Vừa mới nói qua, Khởi tâm Động niệm, Khởi tâm Động niệm chính là Vô minh phiền não. Phật không khởi tâm không động niệm, mãi mãi không có Khởi tâm Động niệm, đó là thật. Có khởi tâm động niệm thì họ mê, Tự Tánh mê rồi, Chân Tâm mê rồi, tạo ra một Vọng tâm, Vọng tâm gọi là A-lại-da thức, chúng ta cũng gọi là tình thức, những thứ này khởi tâm động niệm. Ví như nói chúng ta mắt thấy sắc, mắt thấy Cảnh giới tướng ở bên ngoài, nhìn thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ, đó là trí huệ trong Tự Tánh. Vậy thì như thế nào? Không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó chính là Phật, Phật biết Phật thấy, [nhưng] không có Khởi tâm, không có Động niệm, biết rõ triệt để, nhìn thấu suốt, hoàn toàn nhìn thấu chân tướng sự thật, gọi là Thật tướng các pháp. Tai nghe cũng không khởi tâm, không động niệm, đó chính là Phật, vốn dĩ là Phật, như như Phật. Nếu khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đó là Bồ-tát, Bồ-tát thấy sắc nghe thanh có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước. Xuống một tầng nữa, có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là A-la-hán, A-la-hán và Bích-chi-phật không có Chấp trước, có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt. Phật đã giảng rất rõ ràng, rất sáng tỏ.

           Sáu căn của chúng ta đối với cảnh giới sáu trần: mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, tiếp xúc của thân thể, ý niệm của Ý thức Thứ sáu, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, khởi tâm động niệm–phân biệt–chấp trước, đó gọi là phàm phu lục đạo; không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, đó gọi là thành Phật. Phàm phu [khác] với Phật là ở điều này, thực tại nói không khác nhau, một bên là Giác, một bên là Mê, mê rồi thì khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, giác ngộ thì không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước. Tu hành chân chánh thì tu ở chỗ nào? Tu không khởi tâm không động niệm, đó là người Thượng thượng căn, nhanh! Chỉ cần không khởi tâm không động niệm, ngài chính là Phật tri Phật kiến, vô lượng vô biên trí huệ, đức năng, tướng hảo trong Tự Tánh ngài đầy đủ hết thảy. Vì sao? Do Ngài vốn như vậy, Ngài không phải do học mà có. Vả lại Phật Phật đạo đồng, chính là nói trí huệ, đức năng, tướng hảo thì tất cả chư Phật là bình đẳng, tại sao? Bởi cùng một Tự Tánh. Cho nên đích thực là một thể. Tự Tánh không có hiện tượng, không phải vật chất, cũng không phải tinh thần, cũng không phải hiện tượng tự nhiên, không thể tưởng tượng nổi. Tự Tánh ở chỗ nào? Mọi lúc, mọi nơi luôn luôn có mặt. Tự Tánh như thế nào? Bất đắc dĩ miễn cưỡng gọi bằng danh từ là Thường Tịch Quang. Tự Tánh là ánh sáng, không đâu không có, không lúc nào không có, tất cả mọi hiện tượng đều được sanh được hiện từ Tự Tánh, Tự Tánh là có thể sanh có thể hiện, vạn sự vạn vật trong toàn vũ trụ là được sanh được hiện. Chỉ cần quý vị có thể quay về với Tự Tánh, quay về với năng sanh năng hiện, thì toàn vũ trụ quá khứ, hiện tại, vị lai quý vị sáng tỏ hết thôi. Không cần học, học không ra, do học mà ra là giả.

          Có người làm chứng minh cho chúng ta, ai vậy? Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này để biểu pháp cho chúng ta, biểu vốn dĩ là Phật, mặc dù là Phật nhưng mê rồi, mê thì chẳng giác, biến thành phàm phu lục đạo. Vào thuở thiếu niên ra ngoài để dạo chơi nhìn thấy người có sanh–già–bệnh–chết, đó đều là làm gương cho chúng ta thấy, trong lòng có sự cảnh giác, cảm thấy điều gì? Đời người khổ. Làm sao có thể viễn ly những nỗi khổ này? Lìa khổ được vui, điều này hay lắm! Ai vui? Phật Bồ-tát vui. Chúng sanh khổ, đặc biệt là chúng sanh lục đạo, mắt của Phật nhìn thấy, rất đáng thương xót. Đem những sự việc trong học Phật biểu diễn cho chúng ta thấy, 19 tuổi ngài với thân phận vương tử, nếu không xuất gia thì ngài sẽ kế thừa ngôi vua, 19 tuổi rời khỏi gia đình, để đi tu đạo, đó đều là làm gương cho chúng ta thấy. Từ bỏ ngôi vua, từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý trong cung đình, để làm một vị tăng khổ hạnh, ba y một bát, ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, cuộc sống suốt đời như thế. Biểu diễn cho chúng ta thấy, như thế nào mới có thể thành Phật? Buông xuống. Ra đi học tập, Ấn Độ vào thời ấy là quốc gia tôn giáo, cũng là quốc gia học thuật, Triết học Ấn Độ cao minh, mỗi tôn giáo, mỗi trường phái của họ đều nghiêm túc mà học tập. Rất thông minh, học suốt 12 năm, học hết rồi, không có một điều gì mà Ngài chưa học qua. Học rồi thế nào? Pháp thế gian, không giải quyết được vấn đề, không thể thoát ly luân hồi, không thể ra khỏi mười pháp giới. Cho nên từ bỏ, 30 tuổi, 19 tuổi bắt đầu học, 30 tuổi học suốt 12 năm, từ bỏ. Từ bỏ làm gì? Tu định, hoàn toàn buông xuống, không có một mảy may vướng mắc, khai ngộ ở dưới cây Bồ-đề, đều là biểu diễn. Chúng ta bèn hiểu ra 19 tuổi rời khỏi nhà là buông xuống những phiền não thế tục, 30 tuổi nhập định khai ngộ là buông xuống các Sở tri chướng thế gian, sở học của thế gian vô dụng; nhập định, xuất định thì Đại triệt Đại ngộ, sau khi xuất định thì Triệt ngộ. Triệt ngộ là gì? Điều gì cũng biết, không có một điều gì mà không biết, bèn bắt đầu dạy học. 30 tuổi bắt đầu dạy học, đầu tiên tại vườn Lộc Dã dạy cho năm học trò, năm vị Tỳ-kheo, sau đó Tăng đoàn dần dần mở rộng, chúng thường tuỳ 1255 người, theo Ngài suốt đời. Không xây dựng đạo tràng, cả đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật không xây dựng đạo tràng, ngủ dưới gốc cây, ăn một bữa giữa ngày, ôm bình bát, không ở cố định. Một đoàn thể như thế, chúng ta tính toán sẽ không ít hơn 3000 người, vào thời đại đó thì đấy là một đoàn thể rất lớn. Mỗi ngày giảng kinh dạy học, thuyết pháp 49 năm, đến năm 79 tuổi viên tịch, 30 tuổi bắt đầu dạy học, đến 79 tuổi, 49 năm. Cho nên trong điển tịch Trung Hoa ghi giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm.

          Dạy học, tất cả kinh luận được Ngài giảng dạy là do ai dạy cho Ngài? Ngài học được ở đâu? Không có, không ai dạy Ngài. Vì sao? Trí huệ mở rồi, không có một điều gì mà không biết, quý vị hỏi Ngài, Ngài sẽ nói với quý vị, quý vị không hỏi Ngài, Ngài không nói. Pháp môn quan trọng nhất thì không người hỏi cũng nói, đó là gì? Pháp môn Tịnh Độ, không có người hỏi. Kinh Di Đà không hỏi tự nói, Kinh Vô Lượng Thọ phóng quang hiện điềm lành, dẫn dắt Tôn giả A Nan hiếu kỳ, đến thỉnh giáo, Phật lại nói ra. Phóng quang là gì? Để học trò cảm thấy lấy làm lạ, hướng Phật thỉnh giáo đây là ý gì, Phật lại thuyết pháp, đó là dẫn dụ họ. Cho nên Tự Tánh viên mãn, vốn tự đầy đủ, phải biết điều này. Do đó, khái niệm và phương pháp trong giáo học Phật pháp hoàn toàn khác với thế gian.

          2000 năm trước Phật pháp truyền đến Trung Hoa, lý niệm phương pháp trong giáo học của Phật-Đà hay, nhà Nho Trung Hoa chấp nhận, Đạo gia cũng chấp nhận, phương pháp này chính là Tam học Giới–Định–Huệ, nhân giới đắc định, nhân định khai huệ. Đức Thế Tôn nói với chúng ta, đây không chỉ là con đường Ngài đã đi, mà tất cả Bồ-tát trong mười phương ba đời đều dùng Giới–Định–Huệ thành tựu Vô thượng Bồ-đề, không phải chỉ có đức Thế Tôn mới có, là một con đường đi chung của tất cả chư Phật Như Lai. Có thể không tin điều này sao? Nho và Đạo của Trung Hoa tiếp nhận rồi, đề xuất一門深入,長時薰修 “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (thâm nhập một môn, huân tu lâu dài), 讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự thấy ý nghĩa), chính là đến từ Giới–Định–Huệ. Đó là Trung Hoa từ xưa đến nay, một mạch đến 200 năm trước, giáo học của Trung Hoa đều là y cứ những nguyên lý nguyên tắc này, cho nên bậc Thánh hiền ra đời. Loại giáo dục trong hiện đại nay không tạo ra bậc Thánh hiền mà ra những nhà triết học, ra những nhà khoa học, không phải là Thánh hiền nhân, ngay cả Quân tử cũng không đạt được, cho nên thế giới này: không xuất hiện cảnh thái bình thịnh thế. Noi theo phương pháp này của Trung Hoa, phương pháp Trung Hoa chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo rất lớn, phương pháp này có thể tạo nên Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc có nhờ đâu? Là nhờ điều đó tạo nên. Do vậy chúng ta chỉ cần thấm đẫm một điểm này thì sẽ có một giai đoạn thái bình thịnh thế, không có ai biết điều này.

          Đích thực như người xưa đã nói, ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc. Tu điều gì? Giới–Định–Huệ, Huệ là mở ra tự nhiên, quan trọng nhất là Định, Giới là cách thức, Định là then chốt, đó là thuộc về cách thức, Giới Luật là cách thức trong cách thức, Định đạt đến trình độ nhất định thì sẽ mở Trí huệ. Định nhỏ mở Trí huệ nhỏ, Định lớn mở Trí huệ lớn, Định công viên mãn thì sẽ mở Trí huệ viên mãn, gọi là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cho nên những thứ này dù có biết chữ hay không cũng không liên quan, với đi học hay chưa đi học cũng chẳng sao. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, không người dạy Ngài, nói ra kinh luận nhiều như thế, Đại sư Lục Tổ Huệ Năng tại thế, ngài cũng là không biết chữ, chưa từng đi học. Ngài Huệ Năng vào thuở đó, 24 tuổi gặp được Hoà thượng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, ngài là tiều phu, cuộc sống làm lụng khổ cực, cha ngài mất sớm, hai mẹ con ngài nương nhau mà sống, ngài là con hiếu thảo. Bán củi, một hôm tình cờ nghe người ta niệm Kinh Kim Cang, nghe thì rất hoan hỷ, càng nghe càng thấy có ý vị, người đó niệm xong thì ngài vào gõ cửa, hỏi họ niệm thứ gì? Ngài đem ý nghĩa ngài nghe giảng cho người đó nghe, sau khi nghe rồi hết sức ngạc nhiên, không biết chữ, tiều phu, làm sao có thể nghe hiểu được Kinh này, có thể nói ra ý nghĩa như vậy, vô cùng ngạc nhiên. Cảm thấy đây là một thiên tài, không thể mai một, khuyên ngài đi đến chỗ Hoà thượng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn để học tập. Trong nhà ngài còn có mẹ già, người ấy rất khảng khái, đưa cho ngài 10 lạng bạc, một năm ngài cũng không kiếm được 10 lạng bạc, cho ngài làm phí an gia, tìm những Phật hữu, những đồng tham đạo hữu học Phật chăm sóc cho mẹ ngài, để ngài không phải lo lắng về sau: Ngài cứ đi học tập cho tốt, mẹ của ngài cứ để mọi người chúng tôi chăm sóc. Có duyên!  

          Ở Hoàng Mai 8 tháng, lão Hoà thượng bảo ngài làm gì, bảo ngài giã gạo chẻ củi ở trong nhà giã gạo. Ở Hoàng Mai 8 tháng, Hoàng Mai có Giảng đường, [ngài] chưa từng đi đến một ngày, có Thiền đường nhưng cũng chưa từng toạ thiền một nén nhang. Ngài thật thà, thấy được từ ghi chép trong Đàn Kinh, tại sao? Bởi ngài Thần Tú làm một bài kệ dán ở trên vách tường, ngài không biết ở đâu, đó là nói rõ ngài đối với đạo tràng ấy, đạo tràng rất lớn, mấy ngàn người cư trú, rất bỡ ngỡ, trung thực với công việc của mình, công việc của ngài chính là chẻ củi giã gạo, thật thà như thế đấy. Thành công như thế nào? Chẻ củi giã gạo đến khi không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, thành công rồi. Ngài ở nơi đó tham Thiền, là Thiền cao cấp nhất, người khác không biết. Xấp xỉ khoảng 8 tháng là thành tựu, lão Hoà thượng biết, ngài biết, chỉ có hai người họ biết, còn lại không ai biết được. Lão Hoà thượng biết thời gian đến rồi, công phu luyện thành rồi, nên tuyên bố truyền pháp, yêu cầu mỗi người viết một bài kệ cho ngài xem qua. Vào lúc đó mỗi người đều cho rằng truyền nhân truyền pháp của lão Hoà thượng chắc chắn là ngài Thần Tú, ngài Thần Tú là đại Đệ tử của ngài, Ngũ tổ là Cao tăng đắc đạo, người đến cầu giáo với ngài rất đông, có rất nhiều người đều là do ngài Thần Tú thay thế, cho nên truyền pháp cho ngài Thần Tú, mọi người đều cho đó là chuyện đương nhiên. Không ai ngờ lại truyền cho ngài Huệ Năng, mọi người cảm thấy rất bất ngờ, không chịu phục, muốn cướp y bát về lại, lão Hoà thượng già hồ đồ mất rồi. Song ngài Thần Tú hiếm có, quả thật là một Cao tăng, không có lòng ganh tỵ, không có phân biệt, cho rằng ngài Huệ Năng xác thực là cao minh hơn mình, ngài phục rồi.

          Đó chính là người Đông phương, người Trung Hoa, tín đồ Phật giáo Ấn Độ cổ: tu học là lấy khai ngộ làm mục tiêu, lấy khai ngộ, khai ngộ thật sự, đó là đã tốt nghiệp, chưa khai ngộ thì không được. Nếu thật sự muốn được khai ngộ [thì] buông xuống vạn duyên, điều gì cũng phải buông xuống. Chân tu hành là bắt đầu từ đâu? Từ buông xuống Thân kiến, cửa ải đầu tiên này, Thân kiến là thân thể. Thân là gì? Không phải ta, ai chịu buông xuống? Nếu quý vị không buông xuống, thì thân này là sự phiền hà, thân cần phải mang theo rất nhiều rất nhiều điều kiện, quý vị muốn thoả mãn nó, đó là căn bản của phiền não. Thân là gì? Thân không phải ta, thân là sở hữu của ta, như y phục, y phục không phải ta, là sở hữu của ta, sở hữu của ta thì dễ dàng buông xuống rồi. Phải nhìn thấu được thân, đó là lẽ thật. Lẽ thật là gì? Tự Tánh là sự thật, Bổn Tánh là sự thật, thân thể là giả, chúng ta muốn chiếu cố sự thật thì đừng dồn toàn bộ tinh thần chiếu cố cho điều giả, giả thì tuỳ duyên là được rồi, ải thứ nhất. Cửa ải này phá đi, nhìn thấu thật sự, buông xuống thật sự, chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn trong Tiểu Thừa, là Bồ-tát Sơ tín vị trong Đại thừa. Nếu không buông xuống thân này, quý vị chưa nhập Phật môn, quý vị vẫn ở ngoài cửa. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn vì chúng ta, 19 tuổi đã buông xuống, thân có thể tuỳ theo mọi duyên, không cần nhọc lòng vì nó. Tham học khắp nơi là làm gương cho tầng lớp trí thức, quý vị đi khắp nơi học tập có tác dụng không? Không tác dụng gì, lãng phí bao nhiêu thời gian. Thế nào mới có tác dụng? Tu Định có tác dụng, đem những gì đã tu đã học, hết thảy tất cả Vọng tưởng–Phân biệt–Chấp trước đều buông xuống, thế là khai ngộ rồi. Vì sao không khai ngộ? Bởi trong tâm quý vị có những thứ chưa buông xuống, cho nên quý vị không thể khai ngộ, trong tâm không có điều gì, có này kia là hỏng rồi. Trong tâm có điều này kia thì khó, thật khó! Cho nên A Di Đà Phật từ bi, mở một Pháp môn đặc biệt cho chúng ta, Pháp môn này là gì? Trong tâm có thể để một điều, nhưng không thể để điều nào khác, điều đó chính là danh hiệu của Phật, A Di Đà Phật. Quý vị chỉ cần để một điều này, nhất định không cho có điều thứ hai, buông xuống toàn bộ, quý vị niệm càng rồi sẽ Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh.

          Cận đại đã có người làm được, tháng giêng năm 2013, hai năm trước, tháng giêng năm 2013, lão Hoà thượng Hải Hiền ở Nam Dương: đã làm gương mẫu cho chúng ta. Ngài ấy không biết chữ, chưa từng đi học, sống thời loạn thế, hoàn cảnh gia đình rất không tốt, 20 tuổi xuất gia. Từ nhỏ ngài đã đi theo người lớn ra ruộng vườn làm nông, cho nên đối với nông canh, ngài có kinh nghiệm rất phong phú, sau khi xuất gia vẫn thực hiện bổn hạnh cũ. Sư phụ chỉ dạy ngài một câu A Di Đà Phật, nói với ngài cứ niệm luôn luôn, minh bạch rồi không thể nói bừa, không thể nói. Sự minh bạch đó là gì? Chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Có thể thấy sư phụ ngài không phải là người bình thường, lúc ngài 20 tuổi đã nhìn ra tương lai ngài sẽ khai ngộ. Vị ấy là một bậc Cao tăng Đại đức, dạy ngài điều gì? Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đọc sách ngàn lần, tự thấy ý nghĩa, tự thấy chính là khai ngộ, nhất định quý vị phải tự nhìn thấy, cầu thầy chứng minh cho quý vị. Phương pháp dạy học này cao minh đến cực độ, trên thế giới này không có, chỉ có Phật pháp Đại thừa có, Tiểu thừa không có, Tiểu thừa còn phải dạy, phải lên lớp, Đại thừa không có. Do đó Sư phụ ngài là người rất tuyệt vời, khẳng định là người khai ngộ, không phải bậc khai ngộ sẽ không nhận biết.

          Thiên phú của ngài Hải Hiền: là được chọn làm người lý tưởng nhất để tu học giáo dục Thánh hiền, ngài thật thà, nghe lời, thật làm, có ba điều kiện này thì không có gì mà không thành công. Thái độ học tập phải chân thành, phải cung kính, tâm địa phải thanh tịnh, ngài có sẵn hết thảy những điều kiện này. Cho nên Sư phụ ngài dạy ngài một câu Phật hiệu này niệm đến cùng, ngài vãng sanh vào tháng giêng năm 2013, lúc 112 tuổi, một câu Phật hiệu này ngài đã niệm 92 năm, không đổi đề mục. 92 năm không hề gián đoạn, đích thực một câu tiếp nối một câu, ngoại trừ Phật hiệu ra, điều gì ngài cũng không có, tâm địa thanh tịnh. Công phu như thế, chúng ta tưởng tượng, dùng ví dụ thông thường để nói là 3 năm, đạt được Công phu Thành phiến. Công phu Thành phiến là thật sự làm được chỉ có một câu Phật hiệu, ngoài một câu Phật hiệu ra, trong tâm không có điều thứ hai nào khác, đó gọi là Thành phiến, Công phu này cạn nhất. Người niệm Phật vào cửa rồi, vào cửa gì vậy? Đi vào cánh cửa của thế giới Cực Lạc. Công phu niệm đến như thế, một lòng cầu sanh thế giới Cực Lạc, khi mạng chung, đức A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn quý vị. Khi quý vị thật sự có công phu này thì A Di Đà Phật sẽ đến báo tin cho quý vị, hoặc là ở trong Định, hoặc là ở trong giấc mơ, quý vị nhìn thấy A Di Đà Phật đến, A Di Đà Phật sẽ nói với quý vị, con còn tuổi thọ bao lâu nữa: Đợi đến khi con mạng chung, Ta sẽ đến tiếp dẫn con, báo tin tức này cho quý vị, chính quý vị rất rõ ràng, tín tâm và nguyện tâm càng kiên định. Lại có không ít người: nhìn thấy A Di Đà Phật đến báo tin, yêu cầu với Phật: Con không cần số tuổi thọ này, bây giờ con đi với ngài, bèn đi thật. Cho nên chúng ta thấy rằng có nhiều người niệm Phật 3 năm: là vãng sanh rồi. Có phải tuổi thọ của họ chỉ còn 3 năm không? Nói vậy không thông suốt, tuyệt đối không phải, là bản thân họ thông minh, chính họ không muốn ở lại thế gian này, sớm một chút, sớm đi đến thế giới Cực Lạc. Được, đức Phật rất từ bi.

          Về ngài Hải Hiền, chúng tôi tin rằng ngài có năng lực này, có duyên phận này, 3 năm, 23-24 tuổi, ngài đã có duyên vãng sanh. Ngài cũng rất thông minh, yêu cầu Phật đưa ngài đi. Phật không đưa ngài đi, Phật khuyên ngài sống tại thế gian này thêm mấy năm nữa, làm tấm gương tốt cho những người học Phật, làm một tấm gương tốt cho những người niệm Phật. Cho nên ngài là vâng lời dặn dò của A Di Đà Phật, lưu lại nhân gian để biểu pháp, chính là làm gương tốt cho mọi người. Cứ làm như thế suốt 92 năm, 92 năm ấy, ngài đã cống hiến cho Phật giáo, không có người nào có thể hơn được ngài. Ngài 3 năm thì Công phu Thành phiến, ngài không đi, lại qua 3 năm, 5 năm, ngài đắc Sự nhất tâm Bất loạn, lại thêm 3-5 năm, ngài đắc Lý nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn tức là điều gì cũng sáng tỏ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Tôi ước tính khi đó ngài bao nhiêu tuổi? Trước sau 40 tuổi, là ngài đạt được rồi. Đắc được vậy thì có thần thông, trí huệ mở ra, không nói, có thần thông mà chẳng hiện thần thông, vì sao? Bởi Sư phụ đã dặn dò ngài, sáng tỏ rồi, không thể nói bừa, không được nói, ngài nghe lời. Có lẽ A Di Đà Phật nói với ngài: Con khi nào có người đưa cho con một quyển sách, quyển sách đó gọi là 《若要佛法興,唯有僧讚僧》Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng (Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Thịnh, Chỉ Có Tăng Khen Ngợi Tăng), ở đây có một quyển, là quyển sách này, nếu có người đem sách này tặng cho con, thì Phật sẽ đón con vãng sanh. Cho nên tháng giêng năm 2013, có vài người đồng tu mang theo quyển sách này, mang lên trên núi đưa cho lão Hoà thượng. Lão Hoà thượng hỏi là sách gì? Họ nói rằng tên quyển sách gọi là Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng, ngài nghe xong vô cùng hoan hỷ, dường như đã đợi bao nhiêu năm, như lấy được của quý báu, cầm quyển sách này, các vị hãy mau chụp hình cho tôi, cả đời lão Hoà thượng chưa bao giờ chủ động yêu cầu người ta chụp hình cho mình, chỉ có một lần đó. Ba ngày sau thì ra đi. Đó là biểu pháp viên mãn của ngài, vì thời đại của chúng ta, đặc biệt là tu học Tịnh Độ tông, y theo bản Hội Tập này của ngài Hạ Liên Cư, Tập Chú của ngài Hoàng Niệm Tổ, y theo những quyển sách đó để tu hành, để làm chứng minh. Chứng minh bản Hội Tập của Hạ lão là Chân kinh, mỗi một chữ, mỗi một câu đều là do chính miệng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói, không phải người khác tự tung tin đồn, không được phản đối. Thứ hai là vì Tập Chú được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thực hiện, [là] Chánh tri Chánh kiến. Niệm lão dùng thời gian 6 năm sưu tập 83 loại kinh luận, 110 loại Chú Sớ của các Tổ sư Đại đức để chú giải Kinh này. Mỗi một câu ngài đều nói rất rõ ràng, quý vị xem bên này là Hoa Nghiêm, Đại Trí Độ Luận, Gia Tường Sớ, Tịnh Ảnh Sớ, đây là Chú Sớ của các Tổ sư, từng chữ từng câu trong Chú Giải này đều có căn có cứ, rất đáng quý. Ngài có trí huệ, nhưng không dùng trí huệ của chính mình, mà muốn dùng lời của Phật, muốn dùng lời của Tổ sư Đại đức: để người sanh khởi tín tâm, không nghi ngờ nữa. Thứ ba là vì mọi người chúng ta làm chứng minh, vì chúng ta làm chứng minh, chứng minh điều gì? Chứng minh thứ nhất là phương Tây xác xác thực thực có thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc thật có A Di Đà Phật, 48 nguyện của A Di Đà Phật, mỗi nguyện là để tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, không có một điều nào là giả, chúng ta chiếu theo bản Hội Tập này, chiếu theo Tập Chú này để tu hành, không có sai lầm. Lão Hoà thượng đợi đến khi quyển sách này lộ ra, chứng minh những điều này cho chúng ta, chứng minh xong thì ngài ra đi. 

          Chúng ta xem thấy trên video, những văn chữ báo cáo trong Vĩnh Tư Tập, ngài từng nhiều lần yêu cầu A Di Đà Phật đưa ngài đi đến thế giới Cực Lạc. Đức Phật đều mỉm cười nhẹ nhàng khuyên ngài: nên sống thêm mấy năm nữa, để biểu pháp, làm một tấm gương cho mọi người thấy. Có được bộ sách này, biểu pháp viên mãn. Mọi người chúng ta thấy được, nghe được, nhìn thấy tấm gương của ngài là một câu Phật hiệu. Cứ niệm luôn luôn, không có ý niệm thứ hai. Ngoại trừ niệm Phật ra, ngài còn đi làm nông, cả đời này, sinh hoạt ở trong hoàn cảnh động loạn, ngôi chùa nhỏ trong làng quê ấy: không có người cúng dường, không có Pháp hội, không có Phật sự, cho nên hoàn toàn dựa vào sức trồng trọt chính mình để nuôi sống bản thân. Tuổi trẻ có sức lực, không lười biếng, ngài bắt đầu khai khẩn đất, núi rừng miền quê đất hoang nhiều, không có chủ nhân, ngài khai khẩn để trồng lương thực, trồng rau củ, trồng cây ăn trái, tổng diện tích khai khẩn cả đời hơn 100 mẫu. Đó là bậc Cao tăng đắc đạo, Phật Bồ-tát gia trì, Long Thiên Hộ Pháp gia trì, quỷ thần gia trì, những thứ ngài trồng đều bội thu, đều tốt hơn người khác. Ngài không có lòng tham, ngài không bán, xung quanh chu vi nơi ngài cư trú mấy chục dặm, khu vực trong vòng 100 dặm, có những người nghèo khổ, có những người khốn khổ, ngài đều đi cứu tế. Cho nên người ta đều gọi ngài là đại thiện nhân, thật cứu khổ cứu nạn. Chúng ta đích thực phải lấy ngài làm gương mẫu, nghiêm túc học tập theo ngài. Đồng học học Phật tâm địa phải bình tĩnh, người trên thế giới hiện nay lòng dạ nông nổi, nông nổi đối với học Phật là chướng ngại nghiêm trọng nhất. Làm sao mới không nông nổi? Chính là phải buông xuống. Đời sống phải học lão Hoà thượng, có thể ăn no là được rồi, ăn chỉ cần có thể no bụng, mặc chỉ cần có thể tránh rét, sống chỉ cần nhà không dột nước, thì phải nên hài lòng, cảm thấy mỹ mãn. Đối với thế gian này không có lưu luyến, một lòng một dạ cầu sanh Tịnh Độ, cả đời lão Hoà thượng đã biểu pháp này cho chúng ta.

          Năm xưa lúc tôi gặp Niệm lão ở nước Mỹ, Niệm lão bảo tôi thành lập Tịnh tông Học hội ở hải ngoại. Tịnh tông Học hội: là do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đề ra, ở tại Đại Lục chưa thành lập, hy vọng tôi ở hải ngoại, khi đó tôi đang ở nước Mỹ, khu vực bên Canada tổng cộng có hơn 30 Tịnh tông Học hội, là chỗ tôi thường hay giảng kinh. Sau khi tôi rời khỏi nước Mỹ, những hội này có lẽ còn tồn tại mười mấy nơi, hiện giờ vẫn tồn tại. Tại Châu Âu, tại Châu Úc, tại Đông Nam Á, tôi thường đi những nơi đó, chúng tôi đều là theo Pháp bổn này, theo Pháp môn này, nhất định phải có tín tâm, phải có nguyện tâm, phải thật sự buông xuống, công phu tự nhiên sẽ đắc lực.

          Thế giới Cực Lạc bao lớn? Khắp Pháp giới Hư không giới lớn chừng nào, thì thế giới Cực Lạc lớn chừng đó. Thế giới Cực Lạc có Thật Báo độ, không chỉ Pháp thân Đại sĩ cư trú ở Thật Báo Trang Nghiêm độ, mà Thanh văn Duyên giác, các ngài cư trú ở Phương Tiện độ, thông thường vãng sanh đến thế giới Cực Lạc là Đồng Cư độ, thế giới Cực Lạc cũng có bốn độ này. Nhưng rất đặc biệt, chúng ta ở đây có sáu đường, bên đó chỉ có hai đường, chỉ có cõi người và cõi trời, bên đó không có A-tu-la và ba đường ác. Càng đặc biệt hơn chính là Đồng Cư độ, Phương Tiện độ cũng là thuộc về Pháp tánh độ, điều này không thể nghĩ bàn, Pháp tánh độ chẳng sanh chẳng diệt, Pháp tánh độ là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, cũng tức là nói một đời quý vị sanh đến thế giới Cực Lạc, bất luận quý vị sanh ở độ nào, bất luận là phẩm vị nào, thấp nhất: dẫu là vãng sanh Hạ hạ phẩm ở  Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng là Pháp tánh độ, cũng là Vô Lượng Thọ, điều đó không thể nghĩ bàn. Đó là điều chưa từng nghe nói trong mười phương thế giới, chỉ có thế giới Cực Lạc có, những thế giới khác không có tình hình này, những thế giới khác không chênh lệch với chúng ta lắm. Đó là một cảnh giới thù thắng đặc biệt không gì sánh bằng, A Di Đà Phật dùng phương pháp này để tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, khiến chúng ta đi đến thế giới Cực Lạc, một đời viên mãn thành Phật, nhanh chóng, những Pháp môn khác phải mất vô lượng kiếp, Pháp môn này thành tựu ngay trong một đời. Chúng ta đến thế giới Cực Lạc là đi lúc đang sống, không phải chết rồi mới đi, nhìn thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, quý vị còn chưa đứt hơi, vẫn còn nói năng, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi, tôi đi theo Ngài đây, vậy mới bỏ lại thân thể này, ra đi lúc còn sống. Đến thế giới Cực Lạc thì chứng Vô Lượng Thọ, một đời viên mãn thành tựu, không cần đợi đời sau. Đây là Pháp môn rất thù thắng như thế, nếu ta lơ là thì thật sự đáng tiếc.

          210, đơn giản là 21. Số 16, 21 ở trong Mật tông đều là đại biểu cho đại viên mãn; như số 7 được nói đến trong Hiển giáo, quý vị xem Tịnh Độ tông nói số 7, Kinh A Di Đà đều dùng số 7 để biểu pháp, đại biểu viên mãn; Hoa Nghiêm dùng số 10, số 1 đến 10 đại biểu viên mãn, 16 và 21 là đại biểu viên mãn trong Mật tông. Cho nên 210 ức, từ 21 mở rộng lên 210 ức, con số rốt ráo viên mãn, không sót một điều gì. Cho nên số đó đại biểu cho cõi Phật mười phương, mười phương là đông–tây–nam–bắc bốn góc và trên–dưới, mười phương này, không sót một cõi Phật nào. Thế giới Cực Lạc cũng to lớn nhường ấy. Thường Tịch Quang – ánh sáng này là thật, Nhục nhãn chúng ta không nhìn thấy, nó thì nhìn thấy chúng ta, chúng ta không nhìn thấy nó. Ánh sáng này không lúc nào không có, không nơi đâu không có, nhìn thấy ánh sáng này là thấy được bản thể của tất cả các pháp, Tự Tánh của tất cả các pháp, lúc đó bèn sáng tỏ rồi. Lão Hoà thượng Hải Hiền đã từng nói, ngài nói điều gì ngài cũng biết, chỉ là không muốn nói, có thần thông mà chẳng hiện thần thông, chỉ khi thật cần thiết mới ngẫu nhiên hiện một chút chút, người bình thường không để ý. Đây đều là có đạo lý thật sự, đang dạy dỗ chúng ta.

          Chúng ta lại xem đoạn sau đây, 至於所說之二百一十億佛土(四百二十頁第五行),為限於清淨國土,抑亦兼及穢土 “chí ư sở thuyết chi nhị bách nhất thập ức Phật độ (tứ bách nhị thập hiệt đệ ngũ hàng), vi hạn ư thanh tịnh Quốc độ, ức diệc kiêm cập Uế độ” (như đối với 210 ức cõi Phật được nói đến (hàng thứ 5 trang 420) là giới hạn trong các Quốc độ thanh tịnh, hay là cũng kiêm luôn các Uế độ), có người hỏi, 210 ức là giới hạn trong các cõi nước thanh tịnh, như thế giới Cực Lạc là quốc độ thanh tịnh, hay vẫn bao gồm Uế độ? Như trái đất của chúng ta, trái đất thuộc về Uế độ. Vấn đề này: 古德根據經文中,天人善惡,國土粗妙,有兩異說。一者《嘉祥疏》云:二百一十億佛土,善因雖有強弱之分,然所招之土,同是七寶國土之粗妙應現。……粗之言大,妙之言美,明所現二百一十億皆是大善之土耳。據嘉祥師意,所現唯淨 “Cổ đức căn cứ Kinh văn trung, thiên nhân thiện ác, Quốc độ thô diệu, hữu lưỡng dị thuyết. Nhất giả Gia Tường Sớ vân: nhị bách nhất thập ức Phật độ, thiện nhân tuy hữu cường nhược chi phân, nhiên sở chiêu chi độ, đồng thị Thất bửu Quốc độ chi thô diệu ứng hiện. …… Thô chi ngôn đại, diệu chi ngôn mỹ, minh sở hiện nhị bách nhất thập ức giai thị đại thiện chi độ nhĩ. Cứ Gia Tường sư ý, sở hiện duy Tịnh” (Bậc cổ đức căn cứ trong Kinh văn, sự thiện và ác trong trời người, sự thô và diệu của quốc độ, có hai thuyết khác nhau. Một là theo Gia Tường Sớ nói: 210 ức cõi Phật, nhân thiện tuy có sự phân biệt mạnh và yếu, nhưng cõi được chiêu cảm, cùng là ứng hiện ra sự thô hoặc diệu của cõi nước bảy báu… Thô ý nói là lớn, diệu ý nói là đẹp, làm rõ 210 ức được hiện ra đều là cõi đại thiện thôi. Theo ý của sư Gia Tường, thì sở hiện chỉ là Tịnh độ). Những gì được hiện đều là Tịnh độ, không có Uế độ. Đó là một cách nói, cách nghĩ cách nhìn của Tổ sư, có sự khác nhau. 二者,通現淨穢土 “Nhị giả, thông hiện Tịnh Uế độ” (Hai là bày tỏ thông cả Tịnh độ lẫn Uế độ). Tịnh Ảnh Sớ, Tịnh Ảnh là Pháp sư Huệ Viễn thời nhà Tuỳ, đức hiệu Huệ Viễn của ngài với Sơ tổ chúng ta là Đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn hoàn toàn giống nhau. Cho nên ở trong Phật giáo gọi Sơ tổ là Đại Huệ Viễn, Tịnh Ảnh là tên ngôi chùa, chùa Tịnh Ảnh, Pháp sư Huệ Viễn của chùa Tịnh Ảnh được gọi là Tiểu Huệ Viễn, danh hiệu hoàn toàn giống nhau nhưng không phải là một thời đại. Trong Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của Đại sư Tịnh Ảnh nói rằng: 粗,不精也。說惡說粗,令其捨遠。說善說妙,使其修習。是則所說二百一十億佛土,有淨有穢也 “Thô, bất tinh dã. Thuyết ác thuyết thô, linh kỳ xả viễn. Thuyết thiện thuyết diệu, sử kỳ tu tập. Thị tắc sở thuyết nhị bách nhất thập ức Phật độ, hữu Tịnh hữu Uế dã.” (Thô là không tốt đẹp. Nói ác nói thô, khiến ngài bỏ tránh; Nói thiện nói diệu, để ngài tu tập. Do vậy 210 ức cõi Phật được nói đến, là có Tịnh độ lẫn có Uế độ).Thuyết ở sau, thì các ngài Pháp sư Cảnh Hưng, Pháp sư Nghĩa Tịch, Pháp sư Huyền Nhất, sư Vọng Tây của Nhật Bản: cũng đồng ý với cách nói của Tịnh Ảnh Sớ, nên phải có Tịnh độ, có Uế độ, đều nói hết thảy.

          Uế độ, Tỳ-kheo Pháp Tạng nhìn thấy, ngài sẽ từ bỏ, Thiện độ thì ngài sẽ thu nhận, đó chính là để ngài lựa chọn. Cho nên sự thành tựu của thế giới Cực Lạc không phải bằng sự tưởng tượng suông, mà là thật sự phù hợp với logic của người hiện nay nói đến, ngài đã đi khảo sát, đi thu thập, lấy sở trường của người, bỏ sở đoản của người. Sự kiến lập thế giới Cực Lạc vượt hơn tất cả cõi nước của chư Phật, cũng tức là nói: đó là bộ sưu tập tất cả những điều tốt đẹp của tất cả cõi nước chư Phật, trong mỗi loại cõi nước có điều gì hay thì thế giới Cực Lạc đều có, có khiếm khuyết thì thế giới Cực Lạc không tìm thấy. Chúng ta sang phẩm sau sẽ nhìn thấy, trong nguyện thứ nhất của Phật, người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, cho dù là Hạ hạ phẩm vãng sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư độ, hoa nở thấy Phật, thân tướng hoàn toàn tương đồng với A Di Đà Phật, đều là sắc thân bằng Tử ma chân kim. Tướng hảo không phải là 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, mà trong Quán Kinh nói với chúng ta, A Di Đà Phật thân có 84 ngàn tướng, mỗi một tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp phóng ra 84 ngàn tia sáng, trong mỗi một tia sáng đều có chư Phật mười phương ở trong đó giảng kinh dạy học giáo hoá chúng sanh, quá thù thắng. Tướng của mỗi một người giống hệt như A Di Đà Phật, tại sao? Vì bình đẳng, để quý vị không sanh phiền não: Tướng của tôi không bằng Phật, Phật đẹp hơn tôi, đó là sanh phiền não, khởi tâm động niệm rồi, Ngài để tướng của tất cả mọi người hoàn toàn giống như Ngài, cho nên sẽ không khởi tâm động niệm. Phải lưu ý những chỗ này thì tâm cầu vãng sanh của chúng ta mới sanh ra được. Vả lại chúng ta có thể gặp được Hạ Liên lão, gặp được Hoàng Niệm lão, có thể gặp được lão Hoà thượng Hải Hiền, các ngài vì chúng ta chỉnh lý kinh điển, chú thích kinh văn, lão Hoà thượng biểu diễn cho chúng ta thấy, vì chúng ta mà làm chứng, cơ duyên này rất khó được. Chúng ta sống trong thời đại này may mắn hơn bao giờ hết, thế hệ già chúng tôi, rất nhiều rất nhiều người trong thế hệ tôi chưa được nghe qua bản Hội Tập, chưa nghe qua, chúng ta có duyên, học Phật không bao lâu thì gặp được bản này. Ngài Hoàng Niệm Tổ chú giải cho bản này không dễ dàng, cuối đời sức khoẻ không tốt, mang bệnh, liều mình viết ra bản này. Tôi là người đầu tiên xem được, ngài đi sang Mỹ, khi đó còn chưa có bản hiệu đính, chỉ in dầu, phân lượng in dầu rất ít, mang một bộ đi sang Mỹ tặng cho tôi, tôi xem được vô cùng hoan hỷ, có bộ Chú Giải hay như thế. thầy của tôi chưa từng được thấy Chú Giải này, tôi đem về Đài Loan in 10 ngàn cuốn, bản đóng bìa cứng, in 10 ngàn cuốn, thầy tôi đã vãng sanh, thầy chưa được thấy. Chúng ta đều có thể tiếp xúc, đó là may mắn không gì sánh bằng, duyên phận tốt như vậy, nếu không thể vãng sanh thì thật sự đáng tiếc. Không có lý do gì không cầu vãng sanh, không có lý do gì không thể vãng sanh. 

          Phần sau trích dẫn Kinh Bi Hoa, quý vị xem ngài đều có căn cứ. 。《悲華經》曰:所現佛國或有世界嚴淨妙好,乃至或有世界有大火災。 “Bi Hoa Kinh viết: Sở hiện Phật quốc hoặc hữu thế giới nghiêm tịnh diệu hảo, nãi chí hoặc hữu thế giới hữu đại hoả tai” (Kinh Bi Hoa nói: cõi nước Phật được hiện hoặc có thế giới trang nghiêm thanh tịnh tuyệt đẹp, cho đến hoặc có thế giới có nạn lửa lớn). Thế giới của chúng ta có không? Có. Thế giới trang nghiêm, thanh tịnh, tuyệt đẹp, trời Dục giới, trời Sắc giới. Cho đến nơi gặp nạn lửa lớn, chúng ta có thấy hay không? Nhìn thấy ngày ngày, quý vị không biết, mặt trời là một khối biển lửa, những gì hiện ra trong mặt trời là không có sinh vật, đó là một khối lửa. Thế giới như một khối lửa là đại hoả tai, không ít, các vì sao được thấy vào ban đêm, quý vị xem hành tinh này chớp chớp nháy nháy, đó là toàn là mặt trời, không phải chúng ta không nhìn thấy lửa lớn như thế, mà do khoảng cách quá xa, nên không nhìn thấy. Cho nên thế giới khác nhau, đó chính là có Tịnh, có Uế.

          又所現佛土,有報有化 “Hựu sở hiện Phật độ, hữu Báo hữu Hoá” (Thêm nữa cõi Phật được hiện có Báo có Hoá). Có Thật Báo độ, có Biến Hoá độ, Biến Hoá độ chính là chỉ mười pháp giới. 《悲華經》曰:或有世界純是菩薩遍滿其國,無有聲聞緣覺之名。是報佛之土也 “Bi Hoa Kinh viết: Hoặc hữu thế giới thuần thị Bồ-tát biến mãn kỳ quốc, vô hữu Thanh văn Duyên giác chi danh, thị Báo Phật chi độ dã.” (Trong Kinh Bi Hoa nói: Hoặc có thế giới chỉ thuần là Bồ-tát đầy khắp nước ấy, không có tên gọi Thanh văn Duyên giác, là cõi của Báo thân Phật). Như thế giới Hoa Tạng được nói trong Kinh Hoa Nghiêm, đó chính là Bồ-tát đầy khắp nước ấy. Thanh văn, Duyên giác ở đâu? Ở Tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới, các ngài không ở Báo độ. 又或有世界清淨微妙,無諸濁惡。是則化佛之淨土也 “Hựu hoặc hữu thế giới thanh tịnh vi diệu, vô chư trược ác, thị tắc Hoá Phật chi Tịnh độ dã.” (Thêm nữa hoặc có thế giới thanh tịnh nhiệm mầu, không có các thứ trược ác, chính là Tịnh độ của Hoá thân Phật). Tịnh độ của Hoá Phật chính là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật trong mười pháp giới, đó là thuộc về Hoá độ, có Phật ở những nơi đó giáo hoá chúng sanh. 爾時世間自在王如來,應其心願 “Nhĩ thời Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, ứng kỳ tâm nguyện” (Bấy giờ đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai ứng với tâm nguyện của ngài), chữ “kỳ” này là chỉ Tỳ-kheo Pháp Tạng, Tỳ-kheo Pháp Tạng thỉnh pháp, đức Phật將此二百一十億佛國報化淨穢諸土之相 “tương thử nhị bách nhất thập ức Phật quốc Báo Hoá Tịnh Uế chư độ chi tướng” (đem các tướng của các độ Báo, Hoá, Tịnh, Uế trong 210 ức nước Phật ấy), đó chính là nói các tướng của tất cả sát độ chư Phật trong khắp Pháp giới Hư không giới, 悉現與之,令其得見 “tất hiện dữ chi, linh kỳ đắc kiến” (thảy hiện ra cho ngài, khiến ngài được thấy). Để ngài Pháp Tạng nhìn thấy hết thảy, thấy được hết cả, để ngài tự lựa chọn, Phật không lựa chọn thay ngài, hoàn toàn để ngài tự lựa chọn. 說是法時,經千億歲 “Thuyết thị pháp thời, kinh thiên ức tuế” (Khi nói pháp ấy, qua ngàn ức năm), Bồ-tát Pháp Tạng nghe Phật thuyết pháp cho ngài, thời gian bao lâu? Ngàn ức năm, 以表說法現土之詳盡 “dĩ biểu thuyết pháp hiện độ chi tường tận” (để tỏ sự tường tận của nói pháp và hiện ra các cõi), không mất thời gian lâu vậy làm sao có thể thấy hết được, nhất định phải qua thời gian dài như thế. Từ chỗ này, chúng ta có thể thấy được phước báo của người trong thời đó lớn, Phật trụ thế lâu dài. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện với chúng ta, trụ thế chỉ 80 năm, giảng kinh dạy học 49 năm. Không thể nói không có phước báo, không có phước báo thì không có đức Phật ra đời, Ấn Độ có Phật ra đời, Trung Hoa có Thánh nhân ra đời, như Nghiêu–Thuấn–Vũ–Thang, Khổng tử, Mạnh tử, Thánh nhân, Ấn Độ có Phật Thích Ca ra đời. Thế giới này quá lớn, có rất nhiều thế giới không có đức Phật ra đời, chúng sanh ở nơi đó khổ, mê hoặc điên đảo, chúng ta có thể tưởng tượng được. Thấy thế giới, xã hội hiện tiền này của chúng ta, thì chúng ta sẽ thể hội được đây là loạn thế, sự động loạn này chưa có trong lịch sử Trung Hoa, cũng chưa có trong lịch sử thế giới. Chúng ta rất may mắn, mặc dù sanh trong loạn thế nhưng có thể gặp được nền giáo dục Thánh hiền, có thể gặp được Phật Pháp, mang lại niềm an ủi rất lớn cho chúng ta. Ở thế gian này những người không được gặp pháp Thánh hiền, không gặp được Phật Pháp, thậm chí còn có rất nhiều người không có tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta có thấy ở nhiều quốc gia khu vực trên thế giới. Trong đời này tạo ra tất cả nghiệp thiện ác, quả báo chiêu cảm được sau khi chết đi, thiện hạnh thiện nhân thì cảm ba đường thiện, ác niệm ác hạnh thì cảm ba đường ác, ba đường thiện thì ít, còn ba đường ác rất nhiều rất nhiều. 

          Vì vậy, đức Phật Tự Tại Vương thuyết pháp qua ngàn ức năm, đó là đối với Tỳ-kheo Pháp Tạng: 以表說法現土之詳盡,亦顯時間延促無礙 “Dĩ biểu thuyết pháp hiện độ chi tường tận, diệc hiển thời gian diên xúc vô ngại” (Để tỏ sự tường tận của nói pháp và hiện ra các cõi, cũng là làm rõ sự kéo dài hay rút ngắn của thời gian không trở ngại). Ở trong Thật Báo độ không có khái niệm thời gian, cũng không có khái niệm không gian, thời gian không gian không phải là thật. Ở trong 《百法明門論》 Bách Pháp Minh Môn Luận đã quy loại nó là thuộc về 不相應行法 Bất tương ưng hành pháp, Bất tương ưng hành pháp tổng cộng có 24 loại, trong đó có hai loại, một là thời gian, hai là không gian. Bất tương ưng hành pháp là danh từ của nhà Phật, nói theo cách hiện nay chính là khái niệm trừu tượng, không phải là thật, đích thực không có những thứ này. Cũng tức là nói, không có không gian thì không có khoảng cách, không có thời gian thì không có trước sau. Ở trong Tự Tánh xác thực rằng không tìm thấy không gian, cũng không tìm thấy thời gian, thời gian và không gian đều là giả. Trong Kinh nói với chúng ta, khi Thế Gian Tự Tại Vương Phật xuất hiện thì thọ mạng loài người thuở đó là 42 kiếp, tuổi thọ dài, phước báo lớn, cho nên thời gian Phật trụ thế cũng dài, thời gian giảng kinh thuyết pháp cũng dài. So sánh với chúng ta nơi này thì chênh lệch với chúng ta rất lớn, trong thời đại đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện, tuổi thọ trung bình của loài người là 100 tuổi. Thế gian này là Giảm kiếp, cứ cách 100 năm giảm bớt 1 tuổi, đức Phật Thích Ca cách chúng ta 3000 năm, đã giảm 30 tuổi, cho nên người thế gian hiện nay tuổi thọ trung bình thọ là 70 tuổi. Nhưng Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn còn 9000 năm, 9000 năm này cũng có thăng có trầm, có lên có xuống, hoàn toàn ở việc dạy học. Nếu thế gian xuất hiện những nhà lãnh đạo tốt, đề xướng nền giáo dục Thánh hiền, thì sẽ nâng vận nước đi lên. Nếu không biết cách giáo dục, như hiện nay cứ xem tài chính, kinh tế làm số một, thì xã hội này sẽ càng đi xuống, động loạn càng nhiều hơn, mang lại cho thế gian chỉ là sự tai hại, là động loạn. Điều đó là lời Cổ Thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ-tát nhắc nhở chúng ta, để chúng ta phải nghiêm túc rõ ràng. Chúng ta sống trong thời đại này phải biết thích ứng với thời đại này như thế nào, ở trong thời đại này thành tựu đạo nghiệp của chính mình. Quý vị thấy không trở ngại sự tu hành của chúng ta, không trở ngại chúng ta cầu nguyện vãng sanh, sanh thế giới Cực Lạc, đó chính là môi trường học tập, môi trường sinh sống tốt đẹp bậc nhất trong khắp Pháp giới Hư không giới. Chúng ta có thể gặp gỡ thì không được từ bỏ, nhất định phải thành tựu. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi. 

 (Hết tập 159)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.