TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH
KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn
Tập 167
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 21 tháng 1 năm 2015.
Dịch giả: Diệu Hiệp.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng
học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn; quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn; quy y Tăng Già, chư chúng trung
tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang
434, trang 434, bắt đầu xem từ hàng thứ tư:
Niệm lão giới thiệu tiêu đề của phẩm
này, bài văn rất dài, đây là đoạn cuối cùng. Chúng ta xem Chú Giải, 至於漢吳兩譯,則缺十念必生之根本大願 “chí ư Hán Ngô lưỡng dịch, tắc khuyết thập niệm tất sanh chi căn bản
đại nguyện” (Về hai bản Hán Dịch và Ngô Dịch thì thiếu đại nguyện căn bản:
Mười niệm chắc chắn vãng sanh). Trong 48 nguyện, quan trọng nhất chính là
nguyện này, trong bản Hán Dịch không có nguyện này, bản Ngô Dịch cũng không có.
Có thể thấy năm bản dịch gốc thời Hán, Ngô, Ngụy, Đường, Tống, đây là những bản
còn lưu giữ. Kinh Vô Lượng Thọ truyền đến Trung Hoa vào đời nhà Hán, mãi cho đến
đời nhà Tống, trong khoảng 800 năm đã phiên dịch tổng cộng 12 lần, có thể nói
là nhiều bản dịch nhất. 12 bản dịch ấy, chúng ta nhìn thấy được trong mục lục của
Đại Tạng Kinh, nhưng bảy bản kinh văn đã thất truyền, hiện nay chỉ lưu lại năm bản.
Chúng ta đối chiếu năm bản này thì rất dễ nhìn ra, nội dung của bản dịch khác
biệt rất lớn, [nên] Đại đức xưa phán đoán, tuyệt đối không phải là [cùng] một bản
tiếng Phạn. Bản tiếng Phạn rất nhiều, truyền đến Trung Hoa, Trung Hoa phiên dịch
ra, nội dung trong đó không tương đồng. Giống như nguyện 十念必生 “thập niệm tất sanh” (mười niệm chắc chắn vãng sanh) này,
đây là nguyện quan trọng nhất trong 48 nguyện, hai bản Hán Dịch và Ngô Dịch
không có. Điều này chứng tỏ năm bản dịch gốc đều không thể xem là thiện bản của
Kinh Vô Lượng Thọ, bởi vì có chỗ thiếu sót. Nhưng trong bản này thiếu, trong bản
kia lại có, người xưa suy đoán, năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nhất
định là tuyên giảng nhiều lần. Mỗi lần tuyên giảng, Tôn giả A Nan đều kết tập
thành bản Kinh, cho nên nội dung mới xuất hiện tình trạng này; nếu Phật chỉ giảng
một lần thì chắc chắn không thể xuất hiện tình trạng này. 是以會集諸譯,廣擷眾長,另成會本,實不容緩也 “Thị dĩ hội tập chư dịch, quảng hiệt chúng trường, lánh thành hội
bổn, thật bất dung hoãn dã” (Do đó, hội tập các bản dịch, thu thập khắp các điểm hay, thành bản
hội tập riêng biệt, thật sự không thể chậm trễ). Đây chính là nói Kinh Vô Lượng
Thọ nhất định phải có bản hội tập, hội tập là việc cần thiết.
Đoạn sau cùng này, 於是夏師會集諸譯之大願 “ư thị Hạ sư hội tập chư dịch chi đại nguyện” (vì vậy, thầy Hạ hội tập đại
nguyện của các bản dịch), lão Cư sĩ Hạ Liên Cư nhìn thấy tình trạng này của
Đại Kinh, ngài đã nghiên cứu tường tận năm bản dịch gốc, phát tâm làm lại một bản
hội tập khác. 既重古譯多見之二十四 “Ký trọng cổ dịch đa kiến chi nhị thập tứ” (Vừa chú trọng 24 [nguyện] được
thấy nhiều trong bản dịch xưa), trong bản dịch xưa thật sự nói 24 nguyện
nhiều hơn. 又採世間所流通之四十八 “Hựu thái thế gian sở lưu thông chi tứ thập bát” (Lại chọn 48 [nguyện] mà thế
gian đang lưu thông), thế gian [đang] lưu thông chính là bản Ngụy Dịch của ngài
Khang Tăng Khải. Ngụy là nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc, vị Pháp sư dịch kinh Khang
Tăng Khải là người ở nước Khang Cư. Nước Khang Cư là Tân Cương hiện nay, đã sáp
nhập bản đồ của Trung Hoa, vào thời đó là nước ngoài, vào thời Hán là nước
ngoài, chưa sáp nhập bản đồ Trung Hoa. Ngài hiểu được ngôn ngữ văn tự của Trung
Hoa, là tín đồ Phật giáo kiền thành, cho nên ngài đến Trung Hoa, đã phiên dịch
rất nhiều kinh, trong đó có Kinh Vô Lượng Thọ. Trong bản đó có 48 nguyện, cho
nên mọi người đều thích đọc bản dịch của ngài, do đó mọi người đều biết 48 nguyện.
Hiện nay, Hạ lão, ngài dùng 二十四為章,四十八為目 “nhị thập tứ vi chương, tứ thập
bát vi mục” (24 làm chương, 48 làm mục), dùng phương thức này để hội tập,
ngài chọn cả hai loại. 24 chương, 48 nguyện, 既符(符合)誓二十四章,又合四十八願。經中備集諸譯之長 “ký phù (phù hợp) thệ nhị thập tứ
chương, hựu hợp tứ thập bát nguyện. Kinh trung bị tập chư dịch chi trường” (vừa phù [phù hợp] với 24
chương thệ, lại hợp với 48 nguyện. Trong Kinh hội tập đầy đủ chỗ hay của các bản
dịch), những chỗ hay trong năm bản dịch ấy, ngài đều lựa chọn tiếp nhận, 十念必生、國無女人、蓮花化生諸願 “thập niệm tất sanh, quốc vô nữ nhân, liên hoa hóa sanh chư nguyện” (các nguyện: mười niệm chắc chắn
vãng sanh, cõi nước không có người nữ, hóa sanh trong hoa sen), đều có thể
thấy được trong bản hội tập. 復妙攝各願精要,以少文而顯多義 “Phục diệu nhiếp các nguyện tinh yếu,
dĩ thiểu văn nhi hiển đa nghĩa” (Lại còn khéo lựa chọn tinh yếu của các nguyện, dùng ít văn mà
hiển bày nhiều nghĩa). Điều này là sự cân nhắc trên văn tự, cũng là một bản
xuất sắc nhất, câu chữ trong đó đơn giản, cố gắng hết sức [đạt được] yêu cầu đơn
giản rõ ràng. Văn chương và ngôn ngữ mà người Trung Hoa nói: có bốn nguyên tắc,
phải đơn giản, phải vắn tắt, còn phải tường tận, rõ ràng, đó là văn chương hay
nhất, ngôn ngữ hay nhất. Bản hội tập này của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư thật sự phù hợp
với yêu cầu này, bất luận là trên nghĩa kinh, [hay] trong văn chương đều thuộc hàng
bậc nhất.
Chúng ta trong đời này có duyên phận
được gặp, đó là sự may mắn rất lớn. Ngài cách thời chúng ta không quá xa, thế hệ
này của chúng ta vô cùng may mắn, gặp được rồi, đều gặp được rồi. Thế hệ trước
của tôi, thế hệ của các ngài như lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, gặp được kinh rồi. Những
người thế hệ ấy, người gặp được bản hội tập thì không nhiều, bởi vì bản hội tập
hoàn thành vào cuối năm kháng chiến, vào lúc đó số lượng lưu truyền bản này cực
kỳ giới hạn, lại gặp phải nội chiến. Cũng may, có một vị Pháp sư Luật Hàng từ
Sơn Đông đến Đài Loan, mang theo vài quyển đến Đài Loan, tặng bản hội tập này
cho thầy Lý. Lúc đó, thầy in ấn một ngàn quyển [để] lưu thông ở Đài Loan, nhưng
cũng có rất ít Pháp sư nhìn thấy bản này, bởi vì bản này không quen thuộc, mọi
người đều không muốn xem. Bản cũ đã truyền rất lâu rồi, cho nên tụng Kinh Vô Lượng
Thọ đều là tụng bản của ngài Khang Tăng Khải. Bản mới này không ai hỏi đến, thầy
Lý đã giảng một lần ở Đài Trung, đã chú thích bên lề sách, giao Chú Giải ấy cho
tôi, rất ít người đọc được. Lúc đó, tôi đọc được bản kinh có chú thích bên lề
sách, chú thích là trước đó thầy giảng tại chùa Pháp Hoa ở Đài Trung, sau đó
thì không còn giảng nữa, thầy chỉ giảng một lần. Tôi cầm được thì vô cùng hoan
hỷ, tôi liền muốn giảng bộ Kinh này, tôi có thể đọc hiểu chú giải của thầy. Thầy
nói với tôi, con còn quá trẻ, bây giờ chưa đến lúc, thầy bảo tôi cất giữ, đợi
thời tiết nhân duyên. Lúc đó tôi không hiểu lắm, không hiểu rõ việc này, đến
bây giờ thì chúng tôi hoàn toàn hiểu rõ.
Quý vị xem, có bao nhiêu người phản
đối bản hội tập, phê phán bản hội tập, chướng ngại bản hội tập, trong hơn 20
năm này, chúng tôi đã gặp phải vấn đề này. Nhưng tôi phải kiên trì học tập bản kinh
này, vì sao vậy? Vì thầy truyền lại. Nếu tôi thay đổi, không học bản kinh này,
đó chính là trái thầy phản đạo danh xứng với thực, vậy thì thật sự có tội rồi.
Tôi có lòng tin với thầy, thầy tuyệt đối không hại tôi, thầy rất tốt đối với
tôi, tôi nhất định phải truyền tiếp, việc này phải có tính nhẫn nại rất lớn.
Bản kinh này thật khó được! Chín
ngàn năm mạt pháp, Tịnh tông có thể độ tất cả chúng sanh khổ nạn, tôi cảm thấy
hoàn toàn nhờ vào bản này. Lúc sau, tôi ở Mỹ gặp được lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Lúc
đó, ở nước ngoài, người giảng bộ kinh này thì chỉ một mình tôi, ở trong nước
thì chỉ một mình ngài, [trước đó] chúng tôi không gặp nhau, khi gặp được ở Mỹ
thì vô cùng hoan hỷ, cực kỳ an ủi. Chú Giải của ngài (chính là bộ Chú Giải này)
vừa mới hoàn thành, in dầu rồi, tôi tin rằng, khoảng 100 quyển, thỉnh các Đại đức
Tịnh tông lúc bấy giờ cho ngài kiến nghị. Đây là ngài khiêm tốn cầu giáo, chúng
tôi nhìn thấy thái độ của ngài thì vô cùng bội phục, cũng cảm động lòng người.
Sau đó, ngài đã chỉnh sửa vài lần thành bản hiệu đính, trước sau đã dùng hết thời
gian sáu năm. Vào lúc đó (khi ở Mỹ), tôi thỉnh giáo ngài, tôi hỏi Chú Giải này
của ngài có bản quyền hay không? Ngài hỏi vì sao tôi lại hỏi như vậy? Tôi nói nếu
không có bản quyền, tôi mang đến Đài Loan để in ấn, nếu như có bản quyền thì tôi
tôn trọng ngài. Ngài hoan hỷ, không có bản quyền, ngài còn muốn tôi viết một
bài tựa cho sách, đề chữ ngoài bìa sách, tôi cũng làm theo ý ngài. Cho nên lần
đầu tiên chúng tôi ở Đài Loan, in mười ngàn quyển bản phồn thể, mười ngàn quyển
bìa cứng. Những năm sau đó, số lượng in ấn, lưu thông, người học tập thật sự
nhiều vô số kể, pháp duyên vô cùng thù thắng! Lúc đó thì nảy sinh vấn đề rồi,
người phê bình nhiều, người phản đối cũng nhiều, rất nhiều đồng tu hỏi tôi làm
sao đây? Tôi liền nói với họ, tôi tin thầy, đích thân thầy truyền cho tôi, sao
thầy có thể hại tôi được? Thầy sẽ không dối gạt tôi, tôi có lòng tin kiên định
với thầy. Vì thế, tôi nói: [Nếu] người trên toàn thế giới đều phản đối thì một
mình tôi không phản đối, tôi vẫn tiếp tục kiên trì. Tôi biết tôi tu học theo bản
kinh này thì nhất định được vãng sanh, tôi sẽ không vì sự phê bình, hủy báng
này mà bị dao động, vẫn mãi kiên trì nhiều năm như vậy. Tháng giêng năm 2013,
lão Pháp sư Hải Hiền ở chùa Lai Phật tự tại vãng sanh, 112 tuổi. Tôi nghe được
sự tích của vị lão Hòa thượng ấy, tôi rất hoan hỷ, tôi rất tán thán, rất bội phục,
vị lão Hòa thượng ấy làm chứng minh cho chúng ta!
Cho nên chúng ta rất may mắn,
trong đời này đến thế gian đây, có thể may mắn gặp được [bản] Hội Tập của Hạ Liên
lão, Tập Chú của Hoàng Niệm lão. Tập Chú này là trí huệ bậc cao, không dễ dàng!
Ngài đã dùng 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của Tổ sư Đại đức để giải thích
bộ Kinh Vô Lượng Thọ này. Vì sao [phải] làm như vậy, mà không dám tự viết ra một
bộ chú giải? Tôi tin rằng ngài có thể lý giải, [nhưng] sợ người khác hủy báng,
sợ người khác phản đối. [Làm] Tập Chú, vậy thì không còn gì để nói, mỗi một đoạn,
mỗi một chữ trong đây đều không phải là ý của tôi, đều là ý của kinh điển, là ý
của Đại đức xưa, không ai dám phản đối. Điều này vô cùng cao minh, rất khó,
không dễ gì! Cho nên chúng ta đọc Chú Giải của ngài, quý vị thấy mỗi đoạn ngài
đều ghi chú, những câu này là trích dẫn từ đâu, khiến chúng ta sanh khởi tâm
cung kính, sanh khởi tín tâm đối với ngài. Người như thế có trí huệ chân thật,
làm được viên mãn như thế, tinh tế đến vậy. Cuối đời, tôi thường đến thăm ngài,
ngài không tiện xuất ngoại, chúng tôi đến Trung Hoa thăm ngài rất thuận tiện,
cho nên mỗi năm tôi đều đến vài lần, chúng tôi gặp gỡ nhau, cùng trò chuyện, thỉnh
giáo ngài. Cũng chính bởi vì nguyên nhân này, cho nên khó có được Pháp sư Hoành
Lâm, tôi cũng không quen với thầy lắm, không có ấn tượng, tôi nghe nói, lần đầu
tiên tôi đến thăm lão Cư sĩ Triệu Phác Sơ, thầy có mặt ở đó, thầy còn trẻ, ở bên
cạnh tiếp đãi. Vị Pháp sư trẻ ấy, nhiều năm nay, thầy dùng thời gian mười mấy
năm, ra tay bênh vực cho tôi, thu thập lại những tư liệu hoằng pháp của tôi, viết
thành một quyển sách, một quyển lớn như vầy, tôi vô cùng cảm tạ, “Nếu Muốn Phật
Pháp Hưng, Chỉ Tăng Tán Thán Tăng”, minh oan cho tôi, tôi vô cùng cảm tạ thầy.
Lão Hòa thượng Hải Hiền. cũng chính là nhìn thấy quyển sách này, vô cùng hoan hỷ,
như có được bảo vật, khoác áo tràng đắp y, cầm lấy quyển sách này, nhờ người
khác chụp hình cho ngài. Cả đời lão Hòa thượng chưa từng chủ động yêu cầu người
khác chụp hình cho ngài, đó là lần đầu tiên trong đời. Chúng tôi tin, ngài là
vâng theo lời dạy của A Di Đà Phật, ngài cầu vãng sanh, khi nào có thể vãng
sanh? Gặp được quyển sách này thì ngài có thể vãng sanh. Cho nên gặp được quyển
sách này thì ngài vô cùng hoan hỷ, hai ngày sau khi chụp hình thì ngài vãng
sanh rồi, tự tại vãng sanh, không bị bệnh, không có bệnh khổ, không có chết khổ.
Một tháng trước khi vãng sanh, nên đi từ biệt bạn bè, đồng tham đạo hữu, những
nơi ngài đã từng ở thì ngài đều đến thăm một lần, cáo biệt, từ biệt mọi người,
hai ngày sau khi nhìn thấy quyển sách này thì ngài ra đi rồi. Ngài đến để biểu
pháp, ngài đến để chứng minh cho chúng ta.
Ngài không biết chữ, chưa từng đi
học, xuất gia năm 20 tuổi, một người thành thật, nghe lời, thật làm, đây là bản
chất của ngài. Sư phụ nhìn đúng ngài rồi, Sư phụ không phải người phàm, người
phàm không nhìn ra được, [người] như vậy trong Phật Pháp gọi là bậc pháp khí,
có thể thành tựu. Chỉ truyền cho ngài một câu sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật, kêu
ngài cứ niệm liên tục. Ngài rất thật thà, niệm câu Phật hiệu này suốt 92 năm,
112 tuổi vãng sanh, đã niệm suốt 92 năm. Công phu niệm Phật, chúng ta có thể
nhìn ra trong video, đĩa phim ấy. Công phu niệm Phật chia thành ba bậc, cấp bậc
thấp nhất là công phu Thành phiến. Thế nào gọi là thành phiến? Bất kể vào lúc
nào, cho dù ở nơi đâu, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thì
không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, như vậy gọi là công phu Thành phiến.
Chưa đoạn phiền não, nhưng đã khống chế được, câu Phật hiệu này khống chế rồi, mặc
dù có phiền não nhưng không khởi tác dụng, như vậy gọi là thành phiến. Có công
phu như vậy thì chắc chắn được vãng sanh. Công phu này hiện tiền, A Di Đà Phật
nhất định đến thông tin cho quý vị, trong Kinh Lăng Nghiêm nói: 憶佛念佛,現前當來必定見佛 “Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật”
(Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật), hiện
tiền chính là hiện tại, tương lai là vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Cho nên hiện tại
thấy Phật hoặc là trong định, hoặc là trong mộng, Phật đến thăm quý vị, đưa tin
cho quý vị, quan trọng nhất chính là nói với quý vị, thọ mạng của quý vị còn
bao lâu, đến khi quý vị mạng chung thì Phật đến tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Nói thông
tin này cho quý vị biết, vậy thì quý vị thật sự một lòng một dạ rồi. Vẫn chưa
được công phu Thành phiến thì không thể nào thấy được Phật, không phải là Phật
không gặp quý vị, mà do bản thân quý vị có nghiệp chướng. Công phu Thành phiến,
tuy chưa tiêu trừ nghiệp chướng, nhưng bị khống chế rồi, nghiệp chướng không khởi
tác dụng, cho nên Phật sẽ hiện thân. Thông thường, chúng ta từ trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục, từ trong Vãng Sanh Truyện, những người niệm Phật từ xưa đến nay,
đạt đến công phu này cần thời gian bao lâu? Thông thường, người thật sự chịu niệm
Phật, khoảng ba năm thì đạt được, trong ghi chép thấy được quá nhiều quá nhiều [người]
rồi, ba năm thành công. Chúng ta trong một đời này, nhìn thấy người niệm Phật,
rất nhiều người niệm ba năm thì vãng sanh. Trước đây có Pháp sư hỏi tôi, có phải
là những người ấy đúng lúc thọ mạng ba năm đã hết không? Tôi nói điều này nói
không thông, làm gì trùng hợp như vậy? Nhiều người, không phải ít người, không
thể nào trùng hợp như thế, chắc hẳn là công phu Thành phiến. Công phu Thành phiến
vẫn còn thọ mạng, không phải hết thọ mạng rồi, nhưng có kiểu người thông minh, họ
gặp được A Di Đà Phật thì không chịu buông, Phật nói với họ, thọ mạng vẫn còn rất
dài, họ có thể thỉnh cầu Phật, thọ mạng còn lại con không cần nữa, bây giờ con đi
theo Phật. Phật vô cùng từ bi, quý vị thật sự thỉnh cầu Ngài, Ngài thật sự đưa
quý vị đi. Như vậy mới nói thông được. Ba năm được công phu Thành phiến, Phật đến
rồi, quý vị không cần thọ mạng mà đi theo Ngài, đây là sự thật.
Năm trước, năm 2012, Cư sĩ Lưu Tố
Thanh vãng sanh, chị của Lưu Tố Vân. Cô cũng phát tâm làm chứng minh cho mọi người,
tự tại vãng sanh. Chủ ý này là do Cư sĩ Lưu Tố Vân nêu ra, cô ấy nói có người
giảng kinh, có người tu hành, tốt nhất là có được một người biểu diễn, biểu diễn
gì vậy? Biểu diễn vãng sanh, vậy thì mọi người sẽ tin. Cô ấy nói với chị, chị
cô ấy liền đồng ý: Để chị biểu diễn, mọi người không sẵn lòng, nhưng chị bằng
lòng, để chị biểu diễn. Đến sau đó thật sự nhìn thấy Phật, Phật nói với cô ấy,
thọ mạng của cô còn mười năm, cô không cần nữa, hiện nay vãng sanh. Vì vậy, cô
chỉ có một tháng, niệm Phật một tháng, phát tâm lớn như thế, thật sự vãng sanh
rồi. Thời gian, Phật báo thời gian với cô, ngày 21 tháng 11 năm 2012, 12 giờ
trưa, không sai lệch chút nào. Thời gian đó là vào tám ngày trước khi vãng sanh,
Lưu Tố Vân nghe thấy một âm thanh, đều là con số, cô đã ghi lại, ghi lại cho chị
cô xem. Chị cô mỉm cười, không nói gì, cất đi rồi. Quả thật vào lúc đó, vào lúc
vãng sanh đó, mọi người đang nói cười, nói chuyện trong gia đình, rất vui vẻ,
thời gian vừa đến, cô nói tôi đi đây, mọi người hãy niệm Phật tiễn tôi, thật sự
ra đi rồi, không sai lệch một giây. Đó là đến làm tấm gương cho mọi người xem.
Lão Hòa thượng Hải Hiền có lẽ là trước đó một tháng, A Di Đà Phật nói cho ngài biết
thông tin này: con nhìn thấy quyển sách ấy thì đến lúc rồi. Ngài đến để biểu
pháp, tác chứng chuyển, làm chứng chuyển trong tam chuyển pháp luân. Ngài chứng
minh cho chúng ta Thế giới Cực Lạc có thật, A Di Đà Phật có thật, 48 nguyện độ
chúng sanh là thật, không phải giả, chứng minh cho chúng ta. Đặc biệt là chứng
minh cho chúng ta, bản hội tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư là chân kinh, mỗi câu mỗi
chữ là do đích thân Phật thuyết. Hạ Liên lão hội tập không sửa đổi một chữ nào
trong kinh văn, mà là kinh văn nguyên bản [trích] từ năm bản dịch gốc, không
dám sửa đổi một chữ, trung thật với yêu cầu của việc hội tập, cho nên mỗi câu mỗi
chữ đều là chân kinh, không phải là giả. Điều thứ hai, ngài chứng minh cho lão
Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, Tập Chú là chánh tri chánh kiến, mỗi câu mỗi chữ là nguyên
văn trong kinh luận của Phật (ngài chép vào đây, nguyên văn, là thật, không phải
giả), trích dẫn ra từ 110 loại chú sớ của Tổ sư Đại đức, đây là chứng minh Tập
Chú là chánh tri chánh kiến. Điều thứ ba là chứng minh cho chúng ta, hai mươi
năm nay chúng ta tu học theo bộ kinh điển này là không sai.
Điều này còn gì tuyệt vời hơn! Đời
này của chúng ta quá may mắn rồi, không gặp được Pháp môn này, có thể nói là [chỉ]
gieo trồng thiện căn, kết thiện duyên trong nhà Phật, đời này không thể thoát
khỏi lục đạo luân hồi, điều này là thật, tuyệt đối không phải là giả. Gặp được
Pháp môn này, thật sự tin tưởng không nghi ngờ, chân tín thiết nguyện, niệm một
câu Phật hiệu này đến cùng, mười niệm chắc chắn vãng sanh! Vậy xem như vào khi
nào gặp được? Quý vị bị bệnh rất nặng, trong lúc hấp hối vẫn chưa dứt hơi thở,
gặp được một người bạn lành, khuyên quý vị niệm A Di Đà Phật, tin thật sự có Thế
giới Cực Lạc, thật sự có A Di Đà Phật, quý vị niệm mười hơi hoặc niệm một tiếng
Phật liền tắt thở cũng đều được vãng sanh. Công đức niệm Phật không thể nghĩ
bàn! Pháp môn này quá dễ, bởi vì quá dễ nên người khác nghi ngờ, liễu sanh tử
xuất tam giới làm gì dễ dàng như vậy? Thật sự dễ dàng, thật sự khó tin. Tôi học
Phật 64 năm, những năm đầu Pháp sư Sám Vân khuyên tôi, tôi ở trên núi với ngài
nửa năm, ngài bảo tôi đọc Di Đà Kinh Sớ Sao, Yếu Giải, Viên Trung Sao, Ấn Quang
Đại Sư Văn Sao, lúc đó chỉ có bốn quyển, Sơ tập, Tục tập, tôi đã xem hết rồi.
Có tin hay không? Tin, tin vào Tịnh Độ, không bài xích Tịnh Độ. Ngài khuyên tôi
tu, tôi không nghe theo, không tiếp nhận. Đến Đài Trung, tôi thân cận thầy Lý học
kinh giáo, thầy cũng giới thiệu Tịnh Độ cho tôi, tôi không học, tôi [chọn] học
giáo, chủ tu là Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm. Những đại kinh đại luận này, tầng lớp trí thức trẻ tuổi vô cùng hướng
đến, ngưỡng mộ, cho rằng Tịnh Độ không tệ, rất tốt, nhưng đại khái là [dành
cho] các bà lão tu, không phải là Phật độ những người trẻ tuổi chúng tôi, quan
niệm sai lầm này đã làm lỡ mất 30 năm. Tôi tiếp nhận Tịnh Độ là vào sau 30 năm,
30 năm đầu không phản đối, cũng rất tán thán, nhưng chính mình không chịu học.
Nếu căn tánh giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, vừa nghe liền tiếp nhận thì
công phu của tôi cũng gần như ngài, sẽ không kém xa như vậy, ngài thật sự được
Nhất tâm Bất loạn.
Vì vậy, ngài được công phu Thành
phiến, tôi ước đoán không vượt quá 25 tuổi; được Sự Nhất tâm Bất loạn, sẽ không
quá 30 tuổi; được Lý Nhất tâm Bất loạn, khoảng năm 35 tuổi. Lý Nhất tâm là
ngang bằng với Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh trong Thiền tông, ngài thật
sự đạt được rồi. Hơn nữa, lão Hòa thượng rất tuyệt vời, quý vị xem, dạy ngài
vào năm 20 tuổi, cứ niệm liên tục Nam mô A Di Đà Phật, sau đó còn dặn dò một
câu nói: “Hiểu rõ rồi không được nói lung tung, không thể nói”. Hiểu rõ đó là
gì? Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, như vậy gọi là hiểu rõ. Cho nên lão
Hòa thượng cũng để lộ ra: “Điều gì tôi cũng biết”, câu nói này chính là hiểu rõ
rồi. Có nói không? Không nói. Người khác hỏi ngài vì sao? Thiên cơ không thể tiết
lộ, tiết lộ thiên cơ sẽ bị sét đánh. Tuyệt diệu, thật tuyệt diệu! Điều này đã
chứng tỏ lão Hòa thượng, Sư phụ của ngài là người khai ngộ, không phải là người
khai ngộ thì không nhận ra, Sư phụ biết người này tương lai nhất định có thành
tựu, thành tựu lớn, quả nhiên không sai. Ngài đã thỉnh cầu A Di Đà Phật đưa
ngài đến Thế giới Cực Lạc rất nhiều lần rồi, nhưng Phật không đưa ngài đi, lời
này tuyệt đối không phải là vọng ngữ. Từ trong câu nói này, chúng ta liền hiểu
được, ngài đã gặp A Di Đà Phật rất nhiều lần, không phải một lần. Trong lời nói
có hàm ý, phải biết nghe, nhất định là nhiều lần. Bởi vì thật sự chứng được Lý
Nhất tâm Bất loạn, quý vị nghĩ Phật thì Phật liền hiện tiền, hoàn toàn không có
khoảng cách với Phật. Vì sao Phật không đưa ngài đi? Phật nói với ngài: con tu
rất tốt. Tu rất tốt là nói về điều gì? Con có thể trì giới, con có thể chịu khổ,
con có thể nhẫn nhục, điều này người thông thường không làm được, con đều có thể
làm được. Cho nên tu được rất tốt, ở thế gian này thêm vài năm, biểu pháp cho mọi
người xem, chính là làm tấm gương cho người học Phật, làm tấm gương cho người
niệm Phật. Vì vậy, cứ luôn kéo dài thọ mạng của ngài, kéo dài đến 112 tuổi, quyển
sách ấy xuất hiện rồi. Ngài chỉ đợi quyển sách ấy, nửa đời sau, sống thêm mấy
chục năm chỉ đợi bộ sách ấy, xoay chuyển lại tri kiến sai lầm này.
Nhờ ngài, một số người đối với bản
hội tập, đối với Tập Chú, đối với việc tu học của chúng ta thì không còn nghi
ngờ nữa, tín tâm kiên định, nguyện tâm kiên định. Ngài vì điều này mà trụ thế,
không phải vì điều khác, nếu vì việc vãng sanh của chính mình, chắc là trước
năm 30 tuổi, ngài đã có khả năng vãng sanh. Ở nhiều năm như vậy, chúng ta thấy
ngài chịu rất nhiều vất vả, thật ra là ngài đang ở Thế giới Cực Lạc, không khác
gì với Thế giới Cực Lạc. Thấy được từ đâu? Từ hành nghi cả đời của ngài, bất luận
vào lúc nào, quý vị thấy ngài nét mặt tươi cười, rất hoan hỷ, đối người, đối việc,
đối vật đều tốt, không có Phân biệt, không có Chấp trước, thậm chí là chúng ta
có thể nói, ngài không có Khởi tâm Động niệm, ngài đang biểu diễn, hoàn toàn
làm tấm gương cho chúng ta xem. Độ hóa chúng sanh, ngài dùng thân hành làm ra
cho quý vị xem, chúng tôi dùng ngôn giáo, giảng rõ ràng, giảng tường tận, giảng
thấu triệu về kinh điển, thân hành và ngôn giáo hỗ trợ thành tựu cho nhau, đây
là phương pháp giáo hóa chúng sanh của tất cả chư Phật Bồ-tát, hàm nghĩa của phương
pháp này rất sâu. Thế nào là sự nghiệp vĩ đại nhất? Chúng ta xem Phật Bồ-tát biểu
diễn, Phật Bồ-tát biểu diễn cho chúng ta đều là dạy học, dạy học cả đời, hơn nữa
đều là giữ nguyên thân phận giáo viên, không làm hiệu trưởng. Phật xem những học
trò ấy đều giống như bạn bè, đều giống như anh em, tương thân tương ái, chăm
sóc lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác với nhau. Cả đời Phật không xây đạo tràng, vì sao
không xây đạo tràng? Có đạo tràng thì dễ dẫn đến phiền não, dễ dấy khởi tham dục.
Quý vị xem, bây giờ có rất nhiều đạo tràng, tôi biết có một số người xuất gia,
vì sao mà xuất gia? Nhà rất nghèo, tôi vừa xuất gia thì phát tài lớn, ở nhà lớn,
còn có biết bao nhiêu người phục vụ, vì điều này. Là sự thật, không phải giả.
Tranh danh trục lợi, đạo tràng này biến thành đạo tràng đấu tranh, không phải
là nơi tu đạo, mà đấu tranh. Cho nên Phật, [đối với] thời đại hiện nay của
chúng ta, Ngài đã nhìn thấy từ sớm rồi, Ngài làm một tấm gương, không lập đạo
tràng. Cuộc sống của đức Phật vô cùng đơn giản, nghỉ một đêm dưới cây, ăn một bữa
giữa ngày, một bữa cơm ấy là đi khất thực, buổi tối ngủ ở dưới cây ngồi thiền.
Chúng ta nghĩ đến, thể lực của Ngài tốt, sức khỏe tốt, không sợ dải nắng dầm
mưa. Nóng hay lạnh Ngài đều không sợ, sức khỏe của Ngài tốt biết mấy, luyện
thành từ nhỏ. Tâm địa thật sự thanh tịnh, không nhiễm một bụi trần. Cả đời giảng
kinh dạy học, thật sự có đại đức, đại trí, đại năng, đây là người thầy tốt.
Không thu học phí, người đến thì không từ chối, người đi thì không giữ lại, quý
vị xem Ngài dạy học. Cúng dường, Ngài chỉ tiếp nhận bốn sự cúng dường: khất thực,
thức ăn, cúng dường thức ăn; khi y phục bị rách, tiếp nhận người khác cúng dường
một bộ y áo; ngọa cụ, buổi tối nghỉ ngơi dưới cây lớn, trên đất trải một tấm nệm,
bằng vải, chính là một miếng vải trải trên mặt đất, hiện nay người xuất gia lạy
Phật, miếng vải phủ trên bồ đoàn đó gọi là cụ, chính là dụng cụ mà ngày xưa trải
trên đất nghỉ một đêm dưới cây; thứ tư là khi bệnh tiếp nhận thuốc thang, ngoài
những thứ này ra, tất cả sự cúng dường khác Ngài đều không nhận, thật sự buông
xả.
Ngày nay chúng ta học Phật, vì sao
không thể khai trí huệ? Không thể được định? Không thể khai trí huệ, [vì] dục vọng
quá nhiều, không buông được, buông xuống triệt để thì rất dễ dàng. Đức Phật tại
thế, nơi đó là vùng nhiệt đới, Ấn Độ, chỉ có ba chiếc y, người Ấn Độ không có
may vá, chỉ là ba miếng vải, quấn lên người. Buổi tối, ba y này là để đắp trên
người, ban ngày là khoác trên người, đơn giản biết mấy, đời sống dễ dàng biết
bao. Thật sự buông xuống, không có bận tâm, không có Vọng tưởng, không có tạp
niệm, tu gì? Tu định. 84 ngàn Pháp môn, pháp là phương pháp, môn là con đường,
tu gì? Hết thảy đều tu Thiền định. Cho nên Thiền định là nồng cốt của việc tu
hành trong nhà Phật. Mục đích là gì? Mục đích là khai trí huệ. Trí huệ từ đâu
mà có? Trí huệ vốn tự đầy đủ trong Tự Tánh, không phải từ bên ngoài mà có, bên
ngoài chẳng có gì cả, những gì bên ngoài toàn là giả. Đại sư Huệ Năng khai ngộ,
Minh tâm Kiến tánh, Tánh có hình dạng gì? Đại sư Huệ Năng đã nói năm câu, 何期自性,本自清淨 “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh), Tự Tánh là thanh tịnh, trước nay
chưa từng ô nhiễm. Bị ô nhiễm là gì? Là A-lại-da, là Vọng Tâm, không phải Chân
Tâm; Chân Tâm xưa nay chưa từng ô nhiễm. Chân Tâm không sanh không diệt, Vọng
Tâm có sanh có diệt. Vọng Tâm là ý niệm của chúng ta, quý vị xem niệm trước diệt
niệm sau liền sanh, một niệm nối tiếp một niệm, hơn nữa ý niệm cực kỳ vi tế,
chúng ta vốn không thể phát giác, không chút cảm giác, chúng ta mê quá sâu rồi.
Nhà khoa học hiện nay nói cho
chúng ta biết, trên thế giới này, vốn dĩ không có thứ gọi là vật chất. Đây là
điều mà nhà khoa học cận đại nêu ra, không có vật chất. Vật chất từ đâu mà có?
Vật chất là gì? Họ nói vật chất là ảo tướng do ý niệm sanh ra, không phải là thật.
Ảo tướng này có sanh có diệt, từ lúc sanh đến lúc diệt chiếm thời gian bao lâu?
Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, đơn vị đo thời gian của khoa học chúng ta hiện
nay là giây, một giây, ảo tướng sanh ra từ một ý niệm, thọ mạng của nó có đến một
giây không? Không. Một giây quá lâu rồi, một giây nó sanh diệt bao nhiêu lần? Bồ-tát
Di Lặc nói với chúng ta, 2 ngàn 240 triệu, đơn vị là triệu. Triệu là ngàn tỷ, một
ngàn tỷ là một triệu, 2 triệu 240 ngàn tỷ, hiện tượng này ở ngay trước mặt
chúng ta, từ lúc sanh ra đến lúc chúng ta già chết, cả đời cũng chưa phát hiện
ra vấn đề này. Vấn đề này gọi là gì? Là thật tướng của các pháp, là chân tướng,
chân tướng của vạn vật trong vũ trụ, là giả, không phải là thật. Con mắt hiện
nay của chúng ta rất tệ, mắt nhìn thấy [cho] là thật, chân tướng ấy ở trước mắt
mà quý vị không thấy được. Chúng ta phải thấy được bao nhiêu mới có thể khiến
chúng ta cảm nhận được? Khoảng một phần hai giây, có cảm giác. Chúng ta có thể
làm thực nghiệm, cuốn băng này của tôi là âm bản của điện ảnh ngày xưa, âm bản
của điện ảnh, phim đèn chiếu, nó nằm trong máy chiếu, tốc độ là 24 hình trong một
giây. Quý vị xem, vừa mở màn, hình này ảnh hiện trên màn ảnh, lập tức đóng lại,
mở tiếp hình thứ hai, đã đổi sang hình thứ hai, một giây có 24 hình. Chúng tôi
làm thực nghiệm, trong 24 hình này, bôi đen 23 hình, chỉ chừa một hình, đây
chính là một phần 24 giây, quý vị sẽ nhìn thấy được gì? Nháy sáng một cái,
trong đó có gì? Không nhìn thấy gì cả. Một phần 24 giây thì chúng ta đã không
cách nào nắm bắt được, mà chân tướng sự thật hiện nay là một phần 2 triệu 240
ngàn tỷ giây, làm sao quý vị biết được đó là giả? Phát hiện của nhà Cơ học Lượng
tử ngày nay, bí mật của vũ trụ, chính là bí mật của vật chất, họ đã vạch trần rồi,
đây là một sự đột phá rất lớn trong Vật lý học.
Hiện tượng vật chất từ đâu mà có?
Họ nói giống hệt như trong kinh Phật giảng, từ ý niệm sanh ra, trước tiên có ý
niệm, sau đó [mới] có hiện tượng vật chất. Cho nên trong kinh Phật giảng không
sai, 相由心生 “Tướng do tâm sanh”, tướng là hiện tượng vật chất, từ đâu có? Từ ý niệm mà có. Ý niệm
thanh tịnh, thì hiện tượng vật chất này thanh tịnh; ý niệm ô nhiễm thì hiện tượng
này bị ô nhiễm. Ý niệm là thiện thì hiện tượng vật chất là thiện, sắc tướng là
thiện, nhà Phật nói là sắc; ý niệm bất thiện thì sắc tướng này bất thiện. Bất
thiện là ba đường ác, thiện là ba đường thiện, hết thảy đều ở trong, ngay cả hiện
tượng tâm lý, ý niệm của chúng ta đều ở trong tần suất cao này, chính là một phần
2 triệu 240 ngàn tỷ giây, sinh ra trong tuần suất như vậy. Nhà khoa học dùng
máy móc mà phát hiện được. Cho nên chúng ta có lý do tin tưởng, khoa học đang
phát triển không ngừng, người trẻ tuổi hiện nay học khoa học đều làm việc này,
nghiên cứu niệm lực, biết được niệm lực không thể nghĩ bàn. Trong kinh Phật giảng,
trong kinh Phật gọi vật chất nhỏ nhất là Ngũ uẩn. Rất nhiều người đã đọc Tâm kinh,
觀自在菩薩,行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空 “Quán Tự Tại Bồ-tát, hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến
Ngũ uẩn giai không”. Ngũ uẩn này, Ngũ uẩn là vật chất nhỏ nhất, tức là vật chất và ý
niệm không thể tách rời, có ý niệm thì có vật chất, không có ý niệm thì không
có vật chất. Khoa học đã đưa ra một sự tổng kết, khoa học đã nghiên cứu hơn 400
năm, sai lầm lớn nhất chính là chia vũ trụ thành hai phần, một là vật lý, hai
là tâm lý, lầm lẫn rồi, chia làm hai là sai rồi. Chân tướng là gì? Chân tướng
là tâm lý và vật lý không thể tách ra, nó là cùng một việc, trong vật lý có tâm
lý, trong tâm lý có vật lý, không thể tách ra. Vì sự sai lầm này, dẫn đến rất
nhiều khái niệm sai lầm khác sinh ra, chuốc lấy rất nhiều phiền phức, nhân loại
chịu rất nhiều thiệt thòi, bị rất nhiều khổ nạn. Cho nên hiện nay, niệm lực là
phương hướng nghiên cứu mới nhất của khoa học. Rốt cuộc thì ý niệm này là gì, ý
niệm từ đâu mà sanh ra? Chúng ta có lý do tin tưởng, 20 năm sau nữa, Phật giáo
không phải là tôn giáo, mà là gì? Khoa học cấp cao. Họ tiếp nhận rồi, họ nghiên
cứu đến cuối cùng đưa ra kết luận, đều nằm trong kinh Phật. Trong kinh Phật nói
với chúng ta, hiện tượng vật chất là từ ý niệm mà có, ý niệm từ đâu mà có? Ý niệm
từ nghiệp lực mà có. Nghiệp lực là gì? Nghiệp lực là sóng dao động. Cho nên hiện
nay, khoa học có nói, cả vũ trụ giống như sợi dây (sợi dây đàn vậy) đang dao động,
hoàn toàn là do sóng dao động tạo thành. Phật giáo gọi hiện tượng sóng dao động
này là nghiệp tướng. Nghiệp chính là tạo tác, tạo tác là động, đó không phải là
tĩnh. Nhưng Tự Tánh là thanh tịnh, không động. Vừa dao động là gì? Chính là một
niệm không giác. Một niệm không giác chính là Vô minh, chính là Vọng tưởng,
chính là Khởi tâm Động niệm. Khởi tâm Động niệm là vô cùng bất chợt, không có
nguyên nhân. Hiện tượng này sanh ra, sau khi sanh ra, theo hiện tượng này mà
càng mê càng sâu, sâu nhất chính là tạo thành chúng sanh trong sáu đường.
Hiện nay chúng ta học Phật chính
là quay đầu, chúng ta phải quay về Tự Tánh. Thích Ca Mâu Ni Phật trở về rồi, Đại
sư Huệ Năng trở về rồi, lão Hòa thượng Hải Hiền trở về rồi, mẹ của ngài cũng trở
về rồi, Sư đệ Hải Khánh của ngài cũng trở về rồi, cho chúng ta thấy được, trở về
được đại tự tại! Tịnh Độ gọi là Thường Tịch Quang, trở về Thường Tịch Quang,
Thường Tịch Quang chính là Tự Tánh. Thường
Tịch Quang, ba chữ này biểu pháp tượng trưng cho Tự Tánh. Thường là không sanh
không diệt, như vậy gọi là Thường; Tịch là thanh tịnh, vĩnh viễn không bị ô nhiễm,
như vậy gọi là Tịch; Quang, Quang là nói hình dạng đó, hình dạng đó là khắp vũ
trụ, không nơi nào không có, không lúc nào không có. Như ánh đèn trong phòng của
chúng tôi, vừa mở bóng đèn này, chiếu khắp căn phòng, lúc nào nơi nào cũng có,
đó là gì? Là Pháp thân. Thường Tịch Quang
chính là Tỳ Lô Giá Na, chính là Pháp thân. Vì vậy, sau khi trở về Thường
Tịch Quang thì vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, vô lượng
thần thông đạo lực đều hiện tiền, vì sao vậy? Vì Tự Tánh vốn có, không cần mong
cầu ở bên ngoài. Khi nào có thể thấy được? Tâm thanh tịnh thì thấy được thôi.
Quý vị xem đề kinh của chúng ta, trên đề kinh này dạy chúng ta tu, tu gì? Tu
thanh tịnh, tu bình đẳng, tu giác. Thanh tịnh là A-la-hán, bình đẳng là Bồ-tát,
giác chính là Phật. Năm chữ này trên kinh là ba cấp bậc thành tựu trong sự tu học
Phật Pháp: Phật, Bồ-tát, A-la-hán; một mà ba, ba mà một. Được tâm thanh tịnh
thì trí huệ, thần thông, đạo lực của quý vị giống với A-la-hán, có sáu loại thần
thông, rất tự tại, không còn Phần đoạn Sanh tử nữa, không thấy lục đạo luân hồi
nữa; bình đẳng là Bồ-tát, cao hơn A-la-hán, trí huệ, đức năng lớn hơn A-la-hán;
đến [khi] viên mãn, chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó chính là
giác, vậy là thành Phật rồi.
Phật không gạt người, Phật nói gì?
Đây là mọi người đều sẵn có, tất cả chúng sanh vốn là Phật. Thiện căn, phước đức,
nhân duyên đều đầy đủ, thì nên tức khắc thừa nhận, trực tiếp đảm đương, tôi phải
trở về bản lai diện mục của tôi. Bản lai diện mục là Phật, người nào cũng là Phật,
tất cả chúng sanh thảy đều là Phật, muỗi trùng kiến cũng là Phật (chúng sanh hữu
tình), cây cối hoa cỏ vẫn là Phật, núi sông đất đai cũng là Phật. Phật là gì?
Phật là Tự Tánh, những thứ này đều do Tự Tánh biến hiện, đến sau cùng đều phải trở
về Tự Tánh. Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp, vạn pháp trở về Tự Tánh, Tánh và Tướng
là một, không phải hai. Đây thật sự là Triết học cao nhất, khoa học cao nhất.
Phật pháp giảng đến sau cùng, học thuật của thế gian, tôn giáo, khoa học, Triết
học, những nghiên cứu về bí mật của vũ trụ, thảy đều không rời khỏi Tự Tánh. Chỉ
cần thấy Tánh, thì vấn đề hoàn toàn được giải quyết, mà còn là cách giải quyết
rốt ráo viên mãn. Chúng ta chẳng thể không biết điều này.
Tin tức mà lão Hòa thượng Hải Hiền
đã tiết lộ, hay, đây là kinh nghiệm của cả đời ngài, ngài biểu diễn cho chúng
ta xem, “chăm chỉ niệm Phật”, chỉ niệm một câu A Di Đà Phật này, buông xuống vạn
duyên, “thành Phật là thật, còn lại đều là giả”, không có điều gì là thật, cho
nên nhất định phải buông xuống. Buông xuống quan trọng nhất không phải là trên
hình thức, mà là ở trong tâm. Trong tâm buông xuống thế nào? Mắt thấy sắc, nhìn
thấy rõ ràng sáng tỏ, tường tận thấu suốt, đây là trí huệ, đây là bản năng của
chúng ta. Tuy là rõ ràng, tuy là sáng tỏ, nhưng không có Khởi tâm Động niệm, vì
sao vậy? Vì biết được đây là 凡所有相皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (những gì có tướng đều là hư vọng),
一切法無所有,畢竟空,不可得 “nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (tất cả pháp vô sở hữu, rốt
ráo không, chẳng đạt được), tuyệt đối sẽ không Khởi tâm Động ý niệm. Không
Khởi tâm không Động niệm, đó là cảnh giới gì? Đó là cảnh giới của Phật. Giống
như hiện nay chúng ta đang đối trước màn hình tivi, sắc tướng trong màn hình, cả
người chúng ta bị nó thu hút, đều cho đó là thật, chúng ta Khởi tâm Động niệm,
Phân biệt Chấp trước đối với hình ảnh đó, đây gọi là phàm phu lục đạo. Phật xem
tivi như thế nào? Ngài không Khởi tâm không Động niệm, vì sao vậy? Vì thảy đều
là giả. Khởi tâm Động niệm không có trở ngại, không có nhiễm tịnh, không có thiện
ác, không có gì cả, tất cả mọi sự Phân biệt Chấp trước đều là trong Vọng tưởng
của quý vị biến hiện ra, không phải là thật, thật cũng bằng không, thật thì
cũng không có, đạo lý ở chỗ này. Chỉ cần quý vị thấu triệt, luyện công trong đời
sống thường ngày, luyện gì vậy? Luyện không Khởi tâm không Động niệm, không
Phân biệt không Chấp trước. Thật sự buông xuống Chấp trước thì quý vị chứng quả
A-la-hán, không thấy lục đạo luân hồi nữa, tỉnh giấc mộng này. Tỉnh giấc là cảnh
giới gì? Tỉnh giấc vẫn là một cảnh mộng, Pháp giới Tứ Thánh. Lục đạo là ô nhiễm,
Pháp giới Tứ Thánh thanh tịnh, gọi là Tịnh độ, Tịnh độ của chư Phật Như Lai. Thập
pháp giới vẫn chưa rốt ráo, thập pháp giới từ đâu mà có? Từ Khởi tâm Động niệm
mà có. Lục đạo luân hồi từ Chấp trước mà có, không Chấp trước thì không còn lục
đạo nữa. Không Khởi tâm, không Động niệm thì không còn thập pháp giới nữa,
không còn thập pháp giới mới là chân thật, phá mê khai ngộ. Cảnh giới nào hiện
tiền? Pháp giới Nhất Chân hiện tiền. Nhất Chân chính là Thế giới Cực Lạc, Thế
giới Hoa Tạng, Báo độ của chư Phật Như Lai. Nơi đó là tâm hiện, không có thức
biến, cảnh giới do tâm hiện không có tướng sanh diệt, cảnh giới do A-lại-da biến
hiện thì có sanh có diệt, có sanh có diệt là do Vọng tâm biến ra, không sanh
không diệt là do Chân tâm biến ra. Cho nên, Thế giới Cực Lạc là do Chân tâm biến
hiện, Thế giới Hoa Tạng là do Chân tâm biến hiện. Chúng ta phải dùng Chân tâm,
tập quen dùng Chân tâm. Chân tâm là gì? Tuyệt đối không dối gạt người khác, tuyệt
đối không thể chiếm một chút lợi ích của người khác, không thể chiếm được, là
giả mà. Thấy sắc nghe tiếng, luyện công từ trong đó, như vậy gọi là tu hành. Tu
gì vậy? Tu không chấp tướng, tu không động tâm, tu điều này. Tức là tu không
Phân biệt, tu không Chấp trước, không Chấp trước thì tâm thanh tịnh hiện tiền,
không Phân biệt thì tâm bình đẳng hiện tiền, không Khởi tâm không Động niệm thì
Tự Tánh hiện tiền, giác hiện tiền.
Vì vậy, trước tiên phải lý giải được
rốt cuộc vũ trụ là gì? Tin tưởng lời nói của Phật, Phật không nói một câu nào gạt
người, cả vũ trụ là chính mình. Chính mình chỉ có một, chính mình chân thật là
Tự Tánh. Chúng ta hiện nay có nhiều người như vậy, nhiều việc như thế, nhiều cảnh
giới đến vậy, đều là do Tự Tánh biến hiện, giống như hình ảnh trên tivi vậy, tất
cả hình ảnh là một thể, không thể chia cắt. Vì vậy, đối với tất cả người, đối với
tất cả việc, dùng tình yêu thương của Chân tâm, chính là đại từ đại bi. Không
có lý do, không có điều kiện thì gọi là đồng thể đại bi, vô duyên đại từ. Vô
duyên tức là không điều kiện, vậy thì đúng rồi. Cho nên vào cảnh giới của Phật
là vào toàn thể của cả vũ trụ, có được không? Được. Hiện tượng vật chất này là
giả, hiện tượng vật chất có chướng ngại, có thể không cần hiện tượng vật chất.
Chúng sanh ở cấp bậc cao trong sáu đường, Vô Sắc giới, Vô Sắc giới không cần
thân thể, thân thể là hệ lụy, không cần, tự tại biết mấy! Cho nên trên trái đất,
trong sáu đường, cấp cao nhất chính là thế giới tinh thần. Trời Sắc giới vẫn có
hiện tượng vật chất, không còn dục vọng, không còn những thứ này, không có thất
tình ngũ dục, không có tham sân si mạn nghi, nhưng nơi đó vẫn chưa thoát khỏi
hình tướng của thân thể, cho nên gọi là trời Sắc giới, không có dục. Dưới trời
Sắc giới là trời Lục Dục, những người trời ấy có dục, dục tao nhạt hơn chúng ta,
càng lên cao thì càng nhạt, không còn dục nữa thì đến Sắc giới, không còn sắc nữa
thì đến Vô Sắc giới, không còn Vô Sắc giới thì ra khỏi tam giới, ra khỏi lục đạo.
Phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ về
lý, đối với mọi việc trước mắt, tất cả người việc vật, tùy duyên mà không phan
duyên. Tốt, thật sự làm được không tranh với người, không cầu nơi đời. Vì sao vậy?
Vì những gì quý vị tranh giành và tìm cầu đều là giả, không có điều gì là thật,
không cầu không tranh là thật. Ở thế gian này, mọi người đều dốc sức tranh
giành, hết lòng mong cầu, những gì họ có được có phải là do tranh giành được, tìm
cầu được hay không? Không phải, là do trong mạng quý vị có. Trong mạng không có
mà thật sự có thể mong cầu được, có thể tranh giành được thì chư Phật Bồ-tát đều
đi tranh giành, đều đi tìm cầu rồi, là giả, không cầu được. Những người đó như
thế nào? Đều là người không hiểu rõ đạo lý nhân quả. Nhân quả là đạo lý rất dễ
hiểu ở thế gian, không có gì sâu sắc. Mọi người thích của cải, của cải từ đâu
mà có? Phật nói với quý vị: từ bố thí
tài mà có, quý vị tu bố thí tài, càng tu càng nhiều. Đại Lục Trung Hoa xem Phạm
Lãi là thần tài. Thờ cúng thần tài là ai? Phạm Lãi. Thần tài thật, không phải
là thần tài giả. Quý vị xem, sau khi ngài giúp Câu Tiễn khôi phục lại quốc gia,
ngài rất thông minh, con người của Câu Tiễn thì có thể cùng nghèo hèn, chẳng thể
cùng giàu sang, khi nghèo hèn thì ông là bạn tốt của quý vị, giàu sang rồi thì
ông ấy hoài nghi quý vị, ngài biết. Vì vậy, quốc gia vừa được khôi phục thì
ngài ẩn rồi, đi rồi, trốn rồi, đổi tên, dẫn theo Tây Thi, Tây Thi là vợ của
ngài, mở tiệm buôn bán nhỏ, làm được ba năm thì phát tài lớn. Phát tài lớn thì
thế nào? Bố thí, cứu giúp người nghèo khổ, bố thí hết tất cả. Lại bắt đầu từ việc
làm ăn nhỏ, ba năm sau lại phát tài, tam tụ tam tán, càng bố thí càng nhiều.
Ngài không tự mình hưởng thụ, ngài cho một số người nghèo khổ, người cần thiết,
ngài đều giúp đỡ, thần tài thật sự. Bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí
vô úy được khỏe mạnh sống lâu. Quý vị xem, người thế gian đều muốn ba điều này.
Trong kinh Phật giảng rất hay, đó là thật, không phải là giả, việc đó có nhân,
có quả. Bố thí tài là nhân, được của cải là quả, bố thí pháp là nhân, được
thông minh trí huệ là quả; bố thí vô úy là nhân, khỏe mạnh trường thọ là quả.
Quý vị xem, Phật dạy quý vị, chỉ cần quý vị gieo nhân thì quả báo hiện tiền, vì
sao không làm? Tuyệt đối không nên nghĩ tôi phải chiếm hữu, tôi phải đạt được,
như thế liền trở thành nghiệp, nghiệp này sẽ có quả báo, nghiệp thiện là ba đường
thiện, nghiệp ác là ba đường ác.
Phật dạy chúng ta không tạo nghiệp
luân hồi, phải tạo nghiệp Bồ-tát, nghiệp Bồ-tát là tất cả vì chúng sanh, không
có điều gì là vì chính mình, các ngài đã siêu việt rồi. Thích Ca Mâu Ni Phật trụ
thế 80 năm, Ngài biểu diễn cho chúng ta chính là chánh nghiệp của Bồ-tát, là tấm
gương tốt của chúng ta, chúng ta phải chăm chỉ nỗ lực. Hơn nữa Ngài còn dạy
chúng ta chân thật lìa khổ được vui. Vì vậy, giáo học của Phật là dạy điều gì?
Chúng ta phải biết, giáo học của Phật chỉ một câu nói: lìa khổ được vui. Chúng
sanh quá khổ rồi, không có của cải, khổ; không thông minh trí huệ, khổ; không
khỏe mạnh trường thọ khổ. Khổ có rốt ráo khổ, rốt ráo khổ là gì? Lục đạo, quý vị
không ra khỏi lục đạo, quý vị không cách nào vĩnh viễn thoát khổ; muốn rốt ráo
lìa khổ thì nhất định phải ra khỏi lục đạo luân hồi. Lục đạo là do ai tạo nên?
Do chính mình tạo, tất cả nghiệp thiện và bất thiện tạo nên. Những nghiệp này đều
có ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng nhất là ngã, có ngã chính là sự ô nhiễm nghiêm
trọng nhất. Vì vậy, vào cửa Phật giáo, buông xuống cái tôi thì vào cửa rồi. Quý
vị xem Sơ quả Tu-đà-hoàn của Tiểu thừa, làm thế nào chứng được? Buông xuống năm
quan niệm sai lầm thì chứng được quả. Năm quan niệm sai lầm, người thông thường
nhìn nhận sai lầm, thứ nhất là thân thể, cho rằng thân là ta. Cho nên Phật dạy
điều đầu tiên là phải buông xuống điều then chốt này, thân không phải là ta.
Thân là gì? Thân là thứ ta sở hữu, như quần áo, bộ quần áo này là sở hữu của ta,
dơ rồi thì thay bộ khác; thân thể không còn sử dụng được thì đổi một thân thể mới,
vậy thì đầu thai, lại đến rồi. Cho nên thân không phải là ta, ta là không sanh
không diệt, thân là có sanh có diệt. Có người nói, linh hồn có phải là ta không?
Nó đầu thai, tôi chết rồi thì biến thành linh hồn, linh hồn biết đầu thai, linh
hồn có phải là ta không? Hình như linh hồn là ta, nhưng vẫn không phải là ta
chân thật, vì sao vậy? Nó mê hoặc điên đảo. Ta chân thật sẽ không đầu thai, thực
tế mà nói thì ta chân thật không thể gọi là linh hồn, mà gọi là linh tánh. Hồn
cũng là mê, mê hồn, làm gì linh được? Linh thì sao lại đầu thai làm ngạ quỷ,
làm súc sanh, không linh, hoàn toàn nhẫm lẫn rồi. Cho nên nhất định phải biết
điều này, linh tánh là ta, tánh là thanh tịnh, tánh không có ô nhiễm, tánh là
bình đẳng, không có Phân biệt.
Vì vậy, Phật dạy cho chúng ta, tu
hành trong khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rời khỏi chỗ này thì không có nơi
để tu. Tu hành ở ngay trong người, việc và vật, tu điều gì? Tu không Chấp trước,
điều gì cũng tốt, ngài Hải Hiền làm tấm gương cho chúng ta, thật sự không có
Phân biệt, không có Chấp trước. Những thức ăn mà ngài dùng, những y phục mà
ngài mặc đều có thể được tâm an, vì sao vậy? Hiểu rõ đạo lý rồi, lý đắc thì tâm
liền an, tâm an chính là điều tốt đẹp nhất. Vì sao vậy? Nhà khoa học biết, tất
cả pháp từ tâm tưởng sanh, tâm của chúng ta tốt thì điều gì cũng tốt, thức ăn
cũng là tốt, y phục mặc cũng là tốt. Chúng ta ăn thức ăn, người có Phân biệt ăn
vào là đắng, người không có Phân biệt ăn vào là ngọt, vì sao vậy? Vì chính mình
chuyển biến cảnh giới bên ngoài rồi. Người có Phân biệt thì mặc áo rách [thấy] rất
khó chịu; người hiểu rõ thì mặc áo rách đẹp vô cùng, khác nhau hoàn toàn, dùng
tâm để chuyển biến hoàn cảnh vật chất. Vì sao Thế giới Cực Lạc tốt như vậy?
Không có điều gì khác, mỗi người đến Thế giới Cực Lạc đều là chánh niệm, không
có tà niệm, không có ô nhiễm, họ nhờ giác chánh tịnh mà đến, họ vãng sanh đều
là nhờ vào thanh tịnh bình đẳng giác mà đi, tâm niệm tốt nhất, cho nên Thế giới
đó gọi là Cực Lạc. Cư dân trên trái đất của chúng ta hiện nay, nếu hiểu rõ đạo
lý này thì chúng ta thay đổi tất cả ý niệm bất thiện, trái đất sẽ trở thành Thế
giới Cực Lạc.
Cho nên phải dạy, sự nghiệp nào vĩ
đại nhất? Dạy học. Quý vị xem trong Kinh Di Đà, đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
chúng ta, A Di Đà Phật ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc 今現在說法 “kim hiện tại thuyết pháp” (nay đang thị hiện thuyết
pháp), Ngài ở đó dạy học không gián đoạn. Thế giới Cực Lạc rất thù thắng,
Thế giới Cực Lạc không có tổ chức chính trị, không có quốc vương, không có tổng
thống, trong kinh không nói những điều này, không có tổ chức hành chính. Nơi đó
có gì? Nơi đó có thầy, có học trò, đó là một trường học lớn. Người vãng sanh từ
mười phương thế giới đều đến đó để cầu học, thầy là A Di Đà Phật, Bồ-tát là lớp
Cao cấp, A-la-hán là lớp Trung cấp, lục đạo chúng ta vãng sanh đến đó là lớp Sơ
cấp. Ba lớp ấy, lớp Sơ cấp là Phàm Thánh Đồng Cư độ, lớp Trung cấp là Phương Tiện
Hữu Dư độ, lớp Cao cấp là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Điều đặc biệt hơn, ba lớp
này cùng nhau lên lớp, thật tuyệt diệu! Cho nên đó là pháp bình đẳng, ở đó không
nhìn thấy sự so sánh, không nhìn thấy, hoàn toàn là bình đẳng, tướng mạo bình đẳng,
phần sau chúng ta có thể đọc được, thể chất bình đẳng, đều là thân tử ma chân
kim sắc, tướng hảo viên mãn đến tột cùng. Thân của A Di Đà Phật có 84 ngàn tướng,
mỗi tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp phóng 84 ngàn quang minh, trong mỗi
ánh quang minh đều nhìn thấy chư Phật Bồ-tát giảng kinh dạy học ở trong đó.
Nhìn thấy được cả vũ trụ trong thân tướng rồi. Hơn nữa, tuy là có ba cấp bậc,
có trời người, có Nhị thừa, có Bồ-tát, có ba cấp bậc này, nhưng trên thực tế, A
Di Đà Phật dùng nguyện lực, 48 nguyện đã giữ cho công bằng ba cấp bậc này. Việc
này, trong tất cả cõi nước của chư Phật mười phương không có, chỉ Thế giới Cực
Lạc mới có, chúng ta phải biết điểm này. Đây là A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni
Phật, chỉ dạy chúng ta, đời này lựa chọn Thế giới Cực Lạc. Bất luận tu Pháp môn
nào cũng không quan trọng, phương hướng và mục tiêu của ta là Thế giới Cực Lạc,
là thân cận A Di Đà Phật. Trong kinh này đã nói rất rõ ràng, người chuyên tu có
thể vãng sanh, không phải người chuyên tu cũng có thể vãng sanh, đó là cảnh giới
không thể nghĩ bàn. Trong tất cả kinh Phật, đều không có cách nói này, chỉ kinh
này đặc biệt. Điều kiện vãng sanh là bốn chữ; tín, không có chút nghi ngờ, thật
tin; thật nguyện, nhất tâm chính là mong muốn cầu sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận
A Di Đà Phật, có tín nguyện như vậy thì đạt được điều kiện vãng sanh. Phẩm vị
cao thấp khi đến Thế giới Cực Lạc, chính là [do] sự sâu cạn của công phu niệm
Phật, như phần trước chúng tôi nói, nếu niệm đến công phu Thành phiến, vãng
sanh Đồng Cư độ; niệm đến Sự Nhất tâm Bất loạn, vãng sanh Phương Tiện độ; niệm
đến Lý Nhất tâm Bất loạn, vãng sanh Thật Báo độ. Điều này là thật, trong kinh
nói rất rõ ràng. Nhưng trong 48 nguyện nói rõ với chúng ta, tuy có phân chia,
nhưng trên thực tế thì Đồng Cư độ, Phương Tiện độ được sự gia trì từ 48 nguyện
của A Di Đà Phật; trí huệ, thần thông, đạo lực của người vãng sanh cùng với
Pháp thân Bồ-tát trong Thật Báo độ không khác biệt, họ đều đạt được, 皆作阿惟越致菩薩“giai tác A-duy-việt-trí Bồ-tát” (đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát).
Điều này thật tuyệt vời! Nói cách khác, sanh đến thế giới Cực Lạc, cho dù là Hạ
hạ phẩm vãng sanh, nhưng sau khi đến Thế giới Cực Lạc, những gì quý vị hưởng thụ
là sự đãi ngộ của Thượng thượng phẩm.
Chúng ta tin Phật không nói lời giả
dối, lời Phật là chân thật, sẽ không dối gạt mọi người, không phải là dụ hoặc
chúng ta, mà là chân tướng sự thật. Chúng ta phải tin, chúng ta phải tranh thủ,
siêu việt ngay trong đời này, không tiếp tục làm chuyện luân hồi, không tiếp tục
làm chuyện ngu si này nữa, chiếm tất cả làm của riêng là việc làm ngu si, không
có chính mình. Ở thế gian này, hết thảy đều tùy duyên, hết thảy đều thật sự tùy
duyên thì chư Phật Bồ-tát sắp xếp cho quý vị tất cả [mọi việc], chính mình
không cần bận tâm. Bồ-tát sắp xếp cho chúng ta, thuận cảnh cũng thuận theo được,
nghịch cảnh cũng thuận theo được, đều rất hoan hỷ. Thuận cảnh không có tham luyến,
nghịch cảnh không có oán hận, tâm luôn luôn thanh tịnh bình đẳng giác là được!
Đây là chân thật tu hành. Mỗi phút mỗi giây đều tràn đầy pháp hỷ, đi đứng nằm
ngồi thì trong tâm chỉ một câu A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thì không có
ý niệm nào khác.
Bản hội tập này thật sự hiếm có,
là tinh yếu trong năm bản dịch, hết thảy đều nằm trong đây, không thiếu sót, 十念必生、國無女人、蓮花化生 “thập niệm tất sanh, quốc vô nữ nhân, liên hoa hóa sanh” (mười niệm chắc chắn vãng
sanh, cõi nước không có người nữ, hóa sanh trong hoa sen) hết thảy đều nằm
trong bản kinh này. 復妙攝各願精要 “Phục diệu nhiếp các nguyện tinh yếu” (Lại khéo chọn lấy sự tinh yếu
của các nguyện), trong năm bản dịch gốc, văn trong lời nguyện rất dài, ngài
rút gọn rồi, dùng ít chữ nhất, nhưng giữ lại đầy đủ ý nghĩa, đây là 以少文而顯多義 “dĩ thiểu văn nhi hiển đa nghĩa” (dùng văn ít mà hiển bày nhiều
nghĩa). Ví dụ như, tiếp theo nêu ra ví dụ, 《魏譯》第三十八願 “Ngụy Dịch đệ tam thập bát nguyện” (Nguyện thứ 38 trong bản Ngụy
Dịch), quý vị xem nguyện văn trong đó, 設我得佛,國中天人,欲得衣服,隨念即至。如佛所讚應法妙服,自然在身。有求裁縫搗染洗濯者,不取正覺 “thiết ngã đắc Phật, quốc trung
thiên nhân, dục đắc y phục, tùy niệm tức chí. Như Phật sở tán ứng pháp diệu phục,
tự nhiên tại thân. Hữu cầu tài phùng đảo nhiễm tẩy trạc giả, bất thủ
Chánh-giác” (nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước muốn được y phục,
thì tùy theo ý mình mà hiện đến. Y phục đẹp phù hợp với pháp như Phật ca ngợi,
tự nhiên ở trên thân. Nếu có người cần phải may vá, đập nhuộm, giặt giũ thì con
không giữ ngôi Chánh giác). Dài như vậy. 第二十四願曰:設我得佛,國中菩薩在諸佛前,現其德本。諸所求欲供養之具,若不如意者,不取正覺。《魏譯》此兩願顯衣服與供具之如意。但缺飯食如意。如《漢譯》第二十三願,(《吳譯》為第十四願)曰:我作佛時,我國諸菩薩欲飯時 “Đệ nhị
thập tứ nguyện viết: Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ-tát tại chư Phật tiền,
hiện kỳ đức bổn. Chư sở cầu dục cúng dường chi cụ, nhược bất như ý giả, bất thủ
Chánh-giác. Ngụy Dịch thử lưỡng nguyện hiển y phục dữ cúng cụ chi như ý. Đãn
khuyết phạn thực như ý. Như Hán Dịch đệ nhị thập tam nguyện, (Ngô Dịch vi đệ thập
tứ nguyện) viết: Ngã tác Phật thời, ngã quốc chư Bồ-tát dục phạn thời” (Nguyện thứ 24 nói: Nếu con thành
Phật, Bồ-tát trong cõi nước ở trước chư Phật, hiện đức bổn của mình. Những vật
phẩm mong muốn để cúng dường, nếu không như ý thì con không giữ ngôi Chánh giác.
Hai nguyện này của bản Ngụy Dịch nói lên sự như ý của y phục và vật phẩm cúng dường.
Nhưng lại thiếu sự như ý của ăn uống. Như nguyện thứ 23 của bản Hán Dịch,
(trong bản Ngô Dịch là nguyện thứ 14) nói: Khi con làm Phật, lúc chư Bồ-tát
trong nước con muốn ăn), tức là muốn ăn cơm, 則七寶缽中,生自然百味飯食在前。食已,缽皆自然去。不爾者,我不作佛。(於此又可見魏唐之四十八願,實不足四十八也。)今此會本,攝集以上三願為:我作佛時,生我國者,所需飲食、衣服、種種供具,隨意即至,無不滿願 “tắc thất bảo bát trung, sanh tự nhiên
bách vị phạn thực tại tiền. Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ. Bất nhĩ giả, ngã bất tác Phật. (Ư
thử hựu khả kiến Ngụy Đường chi tứ thập bát nguyện, thật bất túc tứ thập bát
dã). Kim thử hội bản, nhiếp tập dĩ thượng tam nguyện vi: Ngã tác Phật thời,
sanh ngã quốc giả, sở nhu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ý tức chí,
vô bất mãn nguyện” (thì trong bát bằng bảy báu, tự nhiên sanh ra trăm vị món ăn
hiện ở trước. Ăn xong, bát đều tự nhiên biến mất. Nếu không như thế thì con
không làm Phật. (Từ đây lại có thể thấy được 48 nguyện trong bản Ngụy Dịch và Đường
Dịch thật sự không đủ 48). Nay bản hội tập này, thu thập lại ba nguyện trên
thành: Khi con thành Phật, người sanh đến cõi
nước con, mọi thứ cần dùng như món ăn thức uống, y phục, đủ các vật phẩm cúng dường
đều theo ý mà hiện đến, đều được toại nguyện). Lời
văn này đơn giản, hòa tất cả những điều trên vào rồi. 可見會本,文約義豐 “Khả kiến hội bản, văn ước nghĩa
phong” (Có thể thấy bản hội tập, lời văn ngắn gọn mà nghĩa phong phú), thật sự hội tập rất hay, 諸譯所具之彌陀勝願,備顯無遺。是以近世諸賢,公認此為善本,良有以也 “chư dịch sở cụ chi Di Đà thắng
nguyện, bị hiển vô di. Thị dĩ cận thế chư Hiền, công nhận thử vi thiện bổn,
lương hữu dĩ dã” (nguyện thù thắng của đức Di Đà có trong các bản dịch, đều hiển
bày đầy đủ không thiết sót. Vì vậy chư Hiền nhân thời cận đại, công nhận đây là
thiện bản, thật là có lý). Những câu này là lời nói của Hoàng Niệm lão,
cũng là lời chân thật.
Khi bản này mới xuất hiện, có một
số Đại đức xuất gia và tại gia, nhìn thấy đều tán thán, thật sự là bản kinh hay.
Chúng tôi vì muốn mọi người sanh khởi tín tâm, đặc biệt tập hợp năm bản dịch gốc
bằng tiếng Trung của Kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của Vương Long Thư, bản hội
tập của Ngụy Mặc Thâm, còn có bản tiết giảo của Cư sĩ Bành Nhị Lâm, với bản hội
tập của Hạ lão, tổng cộng chín bản kinh, in thành một quyển, mọi người có thể
xem toàn bộ. Chín bản kinh đều ở trước mặt quý vị, chọn dùng bản nào cũng có thể
vãng sanh Thế giới Cực Lạc, không có cao thấp, vì sao vậy? Vì điều kiện vãng
sanh chỉ là tín nguyện trì danh, câu này thì trong bản kinh nào cũng có, đều đề
xướng. Đối với việc học của quý vị, quý vị tự xem, quý vị thích bản kinh nào nhất
thì quý vị chọn bản kinh đó, không cần kinh này dày kinh kia mỏng, không cần
thiết phải phê bình. Bản kinh nào cũng hay, đều do Phật nói. Năm xưa, Phật thuyết
pháp không phải là nói một lần, mà nhiều lần. Chúng ta biết Phật thuyết pháp
không có bản thảo, cũng không có đại cương, Phật hoàn toàn lưu lộ từ Tự Tánh.
Vì sao lại khác biệt? Vì thính chúng khác nhau, thời tiết nhân duyên khác nhau,
địa điểm khác nhau, thì thuyết pháp khác nhau. Ví như chúng ta ở đây học Kinh
Vô Lượng Thọ, cách học ở Hong Kong là như vậy, ở Đại Lục Trung Quốc thì lại
khác, quý vị đến Nhật Bản thì càng không thể giống được. Đến nước ngoài, đến bất
kỳ nước nào, nhân dân của quốc gia nào, văn hóa của họ, cách nhìn cách nghĩ của
họ cũng khác nhau, nếu quý vị không theo ý họ thì họ không thể tiếp nhận. Vì vậy,
tại sao Phật tuyên thuyết nhiều lần, đạo lý ở chỗ này. Diện tích lãnh thổ của Ấn
Độ rất lớn, vào thời đó không đoàn kết, rất nhiều nước nhỏ, giống như thời Xuân
Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa vậy, ở khu vực nào thì phải phù hợp với văn hóa và đời
sống của nhân dân ở khu vực đó, mọi thứ đều phải suy nghĩ đến, đều phải cân nhắc,
tự nhiên không như nhau. Chúng ta cần phải thể hội được điều đó. Vì vậy, khi kết
tập kinh tạng, làm bản hội tập là đúng đắn. Tạng Kinh của chúng ta được phiên dịch
từ tiếng Phạn, khi phiên dịch có hội tập không? Có, bản đầu tiên chính là bản hội
tập. Bản đầu tiên, [nội dung] trong đó đều do Phật nói, nhưng có phải là một bộ
kinh không, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chính là 42 đoạn trích lục từ kinh Đại thừa
Tiểu thừa, đó chính là bản hội tập. Cho nên có người đề xướng không thể hội tập,
đó là cách nhìn của bản thân họ, trên thực tế, Pháp sư dịch kinh đã dùng phương
pháp này từ rất sớm, thời xưa gọi là hợp kinh, tập hợp lại, hợp kinh, chính là
bản hội tập hiện nay.
Đây là giới thiệu phẩm đề của phẩm
này, tiếp theo là kinh văn chính thức, chúng ta xem kinh văn, 陳說請聽 “trần thuyết thỉnh thính” (trình bày rõ xin mời nghe).
Đức Phật dặn dò Bồ-tát Pháp Tạng, đem kinh nghiệm tu học của Ngài, nêu ra báo
cáo trong đại hội:
【法藏白言。唯願世尊。大慈聽察。】 “Pháp Tạng bạch ngôn: Duy nguyện Thế
Tôn, đại từ thính sát” (Pháp Tạng bạch rằng: Ngưỡng mong Thế Tôn, đại
từ nghe và xem xét).
Chú Giải
của Niệm lão, 聽者,耳聞也。察者,心中審思也。《會疏》曰:如來聽其說明,照察丹誠,故云聽察。故經義為法藏菩薩請求世尊,垂慈於我,聽我所說,鑒我誠心 “thính giả, nhĩ văn dã. Sát giả, tâm trung thẩm tư dã. Hội
Sớ viết: Như Lai thính kỳ thuyết minh, chiếu sát đan thành, cố vân thính sát. Cố
kinh nghĩa vi Pháp Tạng Bồ-tát thỉnh cầu Thế Tôn, thùy từ ư ngã, thính ngã sở
thuyết, giám ngã thành tâm” (thính là tai nghe. Sát là suy xét trong tâm. Sách Hội Sớ nói:
Như Lai nghe Ngài nói rõ, soi xét sự chân thành, nên gọi là thính sát. Vì vậy,
nghĩa kinh là Bồ-tát Pháp Tạng thỉnh cầu đức Thế Tôn, rủ lòng từ thương xót
con, nghe những gì con nói, xem xét tâm thành của con). Tiếp theo là Pháp Tạng
Bồ-tát trình bày đại nguyện đã phát khởi, đây chính là bản kinh này hội tập, 24
chương, 48 nguyện, đem các bản dịch gốc đều tập hợp vào trong đây. Phần
trước là 總說 “tổng thuyết” (nói
chung).
【我若證得無上菩提。成正覺已。所居佛剎。具足無量不可思議功德莊嚴。】 “Ngã nhược chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thành Chánh giác dĩ, sở cư Phật sát,
cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm” (Nếu con chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thành Chánh giác rồi, cõi Phật con ở đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn).
Cây này là tổng thuyết. 首四句,總括全部大願 “Thủ tứ cú, tổng quát toàn bộ đại nguyện” (Bốn câu đầu, tổng quát toàn bộ
đại nguyện), chính là 48 nguyện. 願我成佛時,所居之佛剎,具足無量(無法以數量表示)勝妙功德 “Nguyện ngã thành Phật thời, sở cư
chi Phật sát, cụ túc vô lượng (vô pháp dĩ số lượng biểu thị) thắng diệu công đức” (Nguyện khi con thành Phật,
cõi Phật con ở đầy đủ vô lượng (không cách nào dùng số lượng nói rõ) công đức
thù thắng vi diệu), công đức thù thắng vi diệu, 具足無量清淨莊嚴 “cụ túc vô lượng thanh tịnh trang
nghiêm” (đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm). Câu tổng thuyết
này rất quan trọng, vì sao vậy? Đó thật sự có thể giúp chúng ta, dẫn dắt chúng
ta phát tâm hướng đến cầu sanh Thế giới Cực Lạc. 具足者 “Cụ túc giả” (Đầy đủ), nghĩa là viên
mãn, đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm, tức là viên mãn vô lượng thanh tịnh
trang nghiêm. 周遍含攝,無欠無餘,故云具足 “Chu biến hàm nhiếp, vô khiếm vô dư, cố vân cụ túc” (Bao gồm tất cả, chẳng thiếu
chẳng dư, nên gọi là đầy đủ). Sự đầy đủ này là nói, vô lượng vô biên cõi nước
của chư Phật trong mười phương ba đời, chân thiện mỹ hảo trong những cõi ấy, Tỳ-kheo
Pháp Tạng đều tiếp nạp toàn bộ, những chỗ thiếu sót trong cõi nước chư Phật,
Ngài đều từ bỏ không cần, chúng ta có thể thấy được trong lời nguyện. Như thế
giới này của chúng ta, đương nhiên Ngài cũng đã nhìn thấy, thế giới này có ba
đường ác, có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, có A-tu-la, có La-sát, có đủ mọi sự ô
nhiễm bất thiện, Ngài thảy đều không cần; thế gian chúng ta có điều tốt, giáo dục
luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, giáo dục Thánh Hiền, đây là điều
tốt, điều thiện, [ở] Thế giới Cực Lạc đều có. Cho nên nguyện thứ nhất của Ngài
chính là 國無惡道 “quốc vô ác đạo” (cõi nước không có đường ác). Như thế giới của chúng ta, rất
nhiều cõi nước của chư Phật cũng gần như vậy, tức là đều có sáu đường, đều có
mười pháp giới. Cõi nước Phật thanh tịnh không có sáu đường, mười pháp giới, có
thế giới như vậy không? Có, nhưng không nhiều, đa số vẫn là gần giống như nơi
này của chúng ta. Vì vậy, đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Tiếp
theo, vì sao chọn lựa Thế giới Tây Phương Cực Lạc? Điều này vô cùng quan trọng.
Đầy đủ, 周遍含攝,無欠無餘 “chu biến hàm nhiếp, vô khiếm vô
dư” (bao gồm tất cả, chẳng thiếu chẳng dư), đây gọi là đầy đủ.
所具功德與莊嚴皆不可思議,超情離見 “Sở cụ công đức dữ trang nghiêm giai bất khả tư nghị, siêu tình ly
kiến” (Công đức và sự trang nghiêm có được đều không thể nghĩ bàn,
vượt tình lìa kiến), không phải là điều mà phàm phu chúng ta có thể tưởng
tượng được, 非思量分別之所能知,非語言文字之所能表,故曰不可思議。《華嚴經》獨明事事無礙之不可思議境界,一多相即、小大相容、廣狹自在、延促同時、重重無盡、圓明具德等等 “Phi tư lượng phân biệt chi sở
năng tri, phi ngôn ngữ văn tự chi sở năng biểu, cố viết bất khả tư nghị. Hoa
Nghiêm Kinh độc minh Sự Sự Vô Ngại chi bất khả tư nghị cảnh giới, nhất đa tương
tức, đại tiểu tương dung, quảng hiệp tự tại, diên xúc đồng thời, trùng trùng vô
tận, viên minh cụ đức đẳng đẳng” (chẳng phải nhờ vào suy lường – phân biệt mà biết được, chẳng
phải nhờ vào ngôn ngữ văn tự mà biểu đạt được, nên gọi là không thể nghĩ bàn. Chỉ
riêng Kinh Hoa Nghiêm nói rõ cảnh giới Sự Sự Vô Ngại không thể nghĩ bàn, nhất
đa tương tức, đại tiểu tương dung, rộng hẹp tự tại, dài ngắn đồng thời, trùng
trùng vô tận, viên minh cụ đức, v.v…), nói tường tận chính là Thập Huyền
môn của Hoa Nghiêm, phần phán giáo ở trước đã nói. 今經阿彌陀佛即是毘盧遮那如來,極樂淨土何異華藏世界。極樂依正舉體是事事無礙不可思議境界,一一圓具無盡玄門,故曰具足無量不可思議功德莊嚴。由於具足無量不可思議功德,故能令眾生,聞名得福,聞名發心,十念必生,逕登不退 “Kim kinh A Di Đà Phật tức thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Cực Lạc Tịnh độ hà dị
Hoa Tạng Thế giới. Cực Lạc Y Chánh cử thể thị Sự Sự Vô Ngại bất
khả tư nghị cảnh giới, nhất nhất viên cụ vô tận Huyền môn, cố viết cục túc vô
lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm. Do ư cụ túc vô lượng bất khả tư
nghị công đức, cố năng linh chúng sanh, văn danh đắc phước, văn danh phát tâm,
thập niệm tất sanh, kính đăng bất thoái” (Trong kinh này, A Di Đà Phật chính là Tỳ
Lô Giá Na Như Lai, Tịnh độ Cực Lạc nào
khác Thế giới Hoa Tạng. Y báo Chánh báo ở Cực Lạc, tất cả đều
là cảnh giới Sự Sự Vô Ngại không thể nghĩ bàn, mỗi mỗi đều
tròn đầy vô tận Huyền môn, nên nói là đầy đủ vô lượng công đức trang
nghiêm không thể nghĩ bàn. Bởi vì đầy đủ vô lượng công đức không thể
nghĩ bàn nên có thể khiến cho chúng sanh nghe danh được phước, nghe danh phát
tâm, mười niệm chắc chắn vãng sanh, thẳng lên
ngôi bất thoái). Câu nào cũng là lời chân thật. Vì vậy, trong đời
này của chúng ta vô cùng may mắn, có thể được thân người, gặp Phật Pháp, có thể
gặp được Tịnh tông, gặp được bản hội tập và bộ tập chú này của Tịnh tông, thật
sự là vô cùng hiếm có khó được. Nhất định phải nắm chắc cơ hội này, tuyệt đối
không thể buông lơi, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật. Làm Phật
là thật, phải ghi nhớ câu nói này của ngài Hải Hiền, còn lại đều là giả, giả
thì tùy duyên là được, đừng xem là thật, xem là thật thì sanh phiền não, sai rồi.
Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 167)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.