Responsive Menu
Add more content here...

Tập 191 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN

Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn

Tập 191

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 27 tháng 3 năm 2015.

Ban biên dịch: Hoa Tạng Huyền Môn.

Dịch giả: Diệu Hiệp.

 

Kính chào quý vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 486, trang 486, bắt đầu xem từ hàng thứ hai từ dưới lên, nguyện thứ 24: 蓮華化生願 “Liên hoa hóa sanh nguyện” (Nguyện hóa sanh trong hoa sen), mời xem kinh văn:

【十方世界諸眾生類。生我國者。皆於七寶池蓮華中化生。若不爾者。不取正覺。】

“Thập phương thế giới chư chúng sanh loại, sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sanh, nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh-giác”.

(Các loài chúng sanh trong mười phương thế giới, sanh đến cõi nước con, đều hóa sanh trong hoa sen ở ao thất bảo. Nếu không được như vậy, thì con không giữ ngôi Chánh-giác).

Chúng ta xem chú giải của Niệm lão, 第二十四蓮花化生願。生我國者,皆於七寶池蓮花中化生 “đệ nhị thập tứ liên hoa hóa sanh nguyện. Sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sanh” (nguyện thứ 24: Nguyện hóa sanh trong hoa sen. Sanh đến cõi nước con, đều hóa sanh trong hoa sen ở ao thất bảo). 本經第四十品 “Bổn kinh đệ tứ thập phẩm” (Phẩm 40 trong kinh này), phẩm này ở phần sau, sau này chúng ta sẽ học đến, trong phẩm 40 có một đoạn kinh văn như vậy: 若有眾生,明信佛智,乃至勝智,斷除疑惑,信己善根,作諸功德,至心迴向,皆於七寶華中自然化生,跏趺而坐。須臾之頃,身相、光明、智慧、功德,如諸菩薩,具足成就 “Nhược hữu chúng sanh, minh tín Phật trí, nãi chí Thắng-trí, đoạn trừ nghi hoặc, tín kỷ thiện căn, tác chư công đức, chí tâm hồi hướng, giai ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh, già phu nhi tọa. Tu du chi khoảnh, thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức, như chư Bồ-tát, cụ túc thành tựu” (Nếu có chúng sanh hiểu tin Phật trí, cho đến Thắng-trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin thiện căn của mình, làm các công đức, chí tâm hồi hướng, đều tự nhiên hóa sanh, ngồi xếp bằng trong hoa ở ao thất bảo. Trong phút chốc, thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức đều như chư Bồ-tát, thành tựu đầy đủ), đây là một đoạn kinh văn trong phẩm 40 của kinh này. Chúng ta phải chú ý trong đoạn văn này, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, quý vị đạt được công đức vô cùng thù thắng, trong đây đều liệt kê rõ ràng: thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức không khác gì với A-duy-việt-trí Bồ-tát. Đây là sự thật, cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh ở Phàm-thánh-đồng-cư độ cũng như vậy, không có nói hạ hạ phẩm ngoại lệ, không có nói, ở đây chúng ta thấy được sự thù thắng của vãng sanh thế giới Cực Lạc.

Chúng ta xem tiếp phần sau, Niệm lão trích dẫn.. một đoạn trong Kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni, tương đồng với ý nghĩa này. 西方安樂世界 “Tây Phương An Dưỡng thế giới” (Thế giới Tây Phương An Dưỡng), thế giới An Dưỡng chính là thế giới Cực Lạc, 今現有佛,號阿彌陀 “Kim hiện hữu Phật, hiệu A Di Đà” (Hiện nay có Phật, hiệu A Di Đà), kim, hiện tại, có Phật, A Di Đà Phật. 若有四眾 “Nhược hữu tứ chúng” (Nếu có bốn chúng), bốn chúng này là chỉ cho nam chúng nữ chúng xuất gia, nam chúng nữ chúng tại gia, gọi là tứ chúng, đều là đệ tử của Phật. 能正受持彼佛名號 “Năng chánh thọ trì bỉ Phật danh hiệu” (Có thể chân chánh thọ trì danh hiệu của vị Phật ấy), đây chính là tín nguyện trì danh, thật sự tin, muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc, nhất tâm chuyên niệm, có nghĩa như vậy. 以此功德,臨欲終時 “Dĩ thử công đức, lâm dục chung thời” (Nhờ công đức này, nên khi lâm chung), vào lúc lâm chung, 阿彌陀佛即與大眾往此人所,令其得見 “A Di Đà Phật tức dữ đại chúng vãng thử nhân sở, linh kỳ đắc kiến” (A Di Đà Phật liền cùng với đại chúng đến nơi của người ấy, khiến cho họ được thấy), câu nói then chốt chính là ở chỗ này, khiến cho họ được thấy. Người niệm Phật khi lâm chung, nhất định thấy được A Di Đà Phật, bên cạnh A Di Đà Phật còn có rất nhiều Thanh-văn Bồ-tát đến tiếp dẫn quý vị. Sau khi thấy được thì sao? 見已 “Kiến dĩ”, tức là thấy được rồi, 尋生慶悅 “tầm sanh khánh duyệt” (liền sanh khánh duyệt), liền sanh tâm hoan hỷ, 倍增功德 “bội tăng công đức” (công đức tăng lên gấp bội), khi nhìn thấy thì trong tâm sanh hoan hỷ, trong tâm sanh tâm cảm ơn, được Phật lực gia trì, công đức tăng lên gấp bội. 以是因緣,所生之處永離胞胎穢欲之形 “Dĩ thị nhân duyên, sở sanh chi xứ vĩnh ly bào thai uế dục chi hình” (Do nhân duyên này, nơi được sanh ra mãi mãi rời khỏi hình hài uế dục trong bào thai), duyên này vô cùng thù thắng, hóa sanh trong hoa sen, từ đó về sau mãi mãi lìa khỏi bào thai, hình hài uế dục chính là thân tướng mà chúng ta sanh ra ở đây, 純處鮮妙寶蓮華中 “thuần xử tiên diệu bảo liên hoa trung” (đều ở trong hoa sen báu tiên diệu), tiên là tươi tốt, vi diệu, hoa sen bảy báu, 自然化生,具大神通,光明赫奕 “tự nhiên hóa sanh, cụ đại thần thông, quang minh hách diệc” (tự nhiên hóa sanh, đủ đại thần thông, quang minh rực rỡ). Hóa sanh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật, chỉ cần hoa nở thấy Phật thì đầy đủ thần thông, gọi là đại thần thông, không phải là thần thông thông thường của các bậc Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, mà thần thông này giống hệt như Pháp-thân Đại sĩ. Quang minh rực rỡ có nghĩa là hiển hách. Hai bộ kinh được nêu ra ở trên, 同表往生極樂之人,皆於蓮花中自然化生 “đồng biểu vãng sanh Cực Lạc chi nhân, giai ư liên hoa trung tự nhiên hóa sanh” (cùng nêu rõ người vãng sanh Cực Lạc đều tự nhiên hóa sanh trong hoa sen). Trích dẫn kinh để chứng minh, không chỉ trong Kinh Vô Lượng Thọ có nói đến, mà trong Kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni.. cũng có đoạn văn này, khẳng định là thật, tuyệt đối không phải là giả. Đây là cảm ứng, minh chứng cho nguyện thứ 24 của A Di Đà Phật: Nguyện hóa sanh trong hoa sen.

蓮池大師《彌陀疏鈔》曰:六趣眾生 “Liên Trì Đại sư Di Đà Sớ Sao viết: Lục thú chúng sanh” (Trong Di Đà Sớ Sao, Đại sư Liên Trì nói: Chúng sanh trong lục thú), lục thú tức là lục đạo, 則中陰之身自求父母。往生善士,則一彈指頃,蓮華化生 “tắc trung ấm chi thân tự cầu phụ mẫu. Vãng sanh thiện sĩ, tắc nhất đàn chỉ khoảnh, liên hoa hóa sanh” (thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Thiện sĩ vãng sanh, trong một khảy ngón tay, liền hóa sanh trong hoa sen). Thiện sĩ vãng sanh, chính là một người niệm Phật vãng sanh, trong một khảy ngón tay, chứng tỏ tốc độ rất nhanh, hóa sanh trong hoa sen. Lục đạo chúng sanh ở trong sáu đường, chưa ra khỏi lục đạo, thân trung ấm đi tìm cha mẹ của họ. Cha mẹ này thế nào? Có duyên với họ. Duyên gì? Trong kinh, Thế Tôn nói chúng ta biết có bốn duyên: báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ; không phải bốn duyên này, thì họ sẽ không tìm người đó làm cha mẹ, cũng tức là sẽ không đầu thai vào nhà người đó, hễ đầu thai vào nhà người đó, nhất định là có bốn duyên này với cha mẹ. Nếu là báo ơn, thì đứa con này là con trung hiếu, cháu thảo hiền, rất nghe lời, rất hiếu thảo. Nếu là báo oán, vậy thì rất phiền phức, sau này lớn lên sẽ làm cho gia đình bất hòa, thậm chí là nhà tan người mất, họ đến báo thù mà. Đòi nợ, trả nợ, vậy thì xem ai nợ ai, nếu cha mẹ nợ họ, nợ họ không nhiều, thì họ sẽ đi rất nhanh; nếu nợ họ rất nhiều, vậy thì thời gian trả nợ dài hơn. Nếu cha mẹ nợ họ, vậy thì nuôi dưỡng họ, họ đòi xong thì đi rồi, gọi là chết yểu, không phải họ thật sự chết yểu, mà duyên của họ hết rồi. Người học Phật phải biến bốn duyên này thành pháp duyên, chúng ta đều là đồng tham đạo hữu, ai cũng có thể thành tựu, vậy thì tốt, nhất định phải chuyển đổi duyên đó lại. [14:56]

Hoa sen, chúng ta xem phần văn sau đây: 是蓮華者,乃卸凡殼之玄宮,安慧命之神宅 “Thị liên hoa giả, nãi tá phàm xác chi huyền cung, an huệ mạng chi thần trạch” (Hoa sen này là cung điện huyền diệu để cởi bỏ vỏ phàm, là ngôi nhà thần kỳ để an lập huệ mạng). Trong hoa sen, họ không phải từ thai sanh. Những gì chúng ta nhìn thấy ở thế giới này, xuất sanh có bốn hiện tượng: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh; họ đều không phải vậy, thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng, hóa sanh trong hoa sen, hoa sen này chính là nơi chúng ta chuyển phàm thành thánh, cung điện huyền diệu. Chuyển phàm thành thánh, dùng cách nói của Pháp Tướng tông là chuyển tám thức thành bốn trí. Chuyển vào lúc nào? Chuyển khi ở trong hoa sen. Thời gian nở hoa của hoa sen có dài có ngắn khác nhau. Nếu tu trì tốt, được phẩm vị cao, đến thế giới Cực Lạc thì hoa nở liền, rất nhanh! Công phu tu trì kém một chút, có hoa ở trong ao thất bảo, cách vài ngày thì hoa nở, cũng có hoa cách mấy tháng mới nở, cũng có hoa cách vài năm mới nở, không như nhau, hoàn toàn là do công phu tu hành của chính mình. Công phu tu hành, thật sự không phải thời gian tu hành dài hay ngắn, mà là công lực, công phu tu hành. Công phu này chính là tín tâm, nguyện tâm và trì danh của chúng ta. Trì danh dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm khẩn thiết, cung kính, vậy thì sẽ nhanh. Có thể vãng sanh hay không, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, hoàn toàn do tín nguyện có hay không; phẩm vị cao hay thấp, đó là công phu trì danh của chúng ta sâu hay cạn. Cho nên phải dùng tâm chân thành để niệm Phật hiệu, dùng tâm thanh tịnh bình đẳng để niệm, dùng tâm cung kính để niệm, thì công phu này sâu. Đến thế giới Cực Lạc, vãng sanh thấy Phật, thời gian được rút ngắn rất nhiều, nhanh! Chúng ta phải biết tranh thủ thời gian. Tiếp theo còn một câu, là ngôi nhà thần kỳ để an lập huệ mạng, hai câu này có ý nghĩa như nhau.

Phần sau là Niệm lão khai thị cho chúng ta, 意為 “ý vi” (ý là), ý nghĩa này là, 六趣中一切眾生 “lục thú trung nhất thiết chúng sanh” (tất cả chúng sanh trong lục thú), trong lục đạo luân hồi, 命終之後中陰身現於此身中依自身宿業因緣往求世間父母。投身母腹糞穢之處,結成濁染罪業之體 “mạng chung chi hậu, trung ấm thân hiện, ư thử thân trung, y tự thân túc nghiệp nhân duyên, vãng cầu thế gian phụ mẫu. Đầu thân mẫu phúc phẩn uế chi xứ, kết thành trược nhiễm tội nghiệp chi thể” (sau khi mạng chung, thân trung ấm hiện hữu, ở trong thân này, nương theo nhân duyên túc nghiệp của chính mình, đi tìm cha mẹ ở thế gian. Vào chỗ phân dơ trong bụng mẹ, kết thành thân thể tội nghiệp ô nhiễm), tức là thân thể này của chúng ta, thân thể có được này. Đây là nói phàm phu trong lục đạo ở thế gian này của chúng ta, so sánh với người vãng sanh thế giới Cực Lạc thì không sánh bằng.  何如往生之善士 “Hà như vãng sanh chi thiện sĩ” (Đâu bằng thiện sĩ vãng sanh), những người thiện này, 臨終蒙佛接引 “lâm chung mông Phật tiếp dẫn” (lâm chung được Phật tiếp dẫn), khi họ lâm chung có Phật đến nghênh đón họ. Phật nhất định đến nghênh đón, nếu Phật không đến nghênh đón thì quý vị không biết thế giới Cực Lạc ở đâu, cho nên Ngài nhất định đến nghênh đón. Thời gian một khảy ngón tay, 一彈指間,化生蓮花之中 “nhất đàn chỉ gian, hóa sanh liên hoa chi trung” (trong một khảy ngón tay, hóa sanh trong hoa sen), như vậy là vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, nước An Dưỡng chính là thế giới Cực Lạc. Hoa sen này, thật sự là 玄幽宮殿(是比喻),安養當人慧命之神妙舍宅 “huyền u cung điện (thị tỷ dụ), An Dưỡng đương nhân huệ mạng chi thần diệu trạch xá” (cung điện huyền diệu (là ví dụ), ngôi nhà thần kỳ để an dưỡng huệ mạng của người đó).. để hành nhân liễu thoát thân tội nghiệp sanh tử. Vừa rồi đã nói đến điều này, là nơi chúng ta chuyển phàm thành thánh, chuyển tám thức thành bốn trí. Người thông thường tu những Pháp môn khác, chuyển thức thành trí phải nhờ vào sức mạnh của chính mình, thật không dễ dàng. Người niệm Phật nhờ vào bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia trì, chính là nguyện này, trong một khảy ngón tay, từ thế giới Ta Bà đến thế giới Cực Lạc, hoa sen vừa nở thì người ấy xuất hiện, liền thấy Phật. Sau khi thấy Phật, thân tướng, trí huệ, thần thông, công đức gần như không khác A Di Đà Phật gì mấy, hơn hẳn tất cả Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, sự thù thắng này đến đâu để tìm? Vì chúng ta mà hiển bày sự thù thắng vô cùng của Tịnh tông. Những câu nói trên đây, 深表彌陀大願悲心至極 “thâm biểu Di Đà đại nguyện bi tâm chí cực” (biểu thị sâu sắc đại nguyện và tâm bi của A Di Đà Phật đạt đến tột cùng), từ bi đến cùng cực, 妙德難思 “diệu đức nan tư” (công đức vi diệu khó nghĩ bàn).

Lại trích dẫn Đại Nhật Kinh Sớ quyển thứ 15: 如世人以蓮華為吉祥清淨,能悅可眾心 “Như thế nhân dĩ liên hoa vi kiết tường thanh tịnh, năng duyệt khả chúng tâm” (Như người đời cho hoa sen là kiết tường thanh tịnh, có thể làm vui lòng mọi người), người thế gian thích hoa sen, hoa sen mọc từ bùn mà không nhiễm. 今祕藏中 “Kim bí tạng trung” (Trong bí tạng này), Kinh Đại Nhật là đại kinh chủ yếu của Mật tông, cũng giống như Kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh-độ tông vậy, là kinh điển chủ yếu, trong đó cũng có, 亦以大悲胎藏妙法蓮華為最深祕吉祥,一切加持法門之身坐此華臺也。可見極樂九品之蓮,正顯大日如來密意,舉體皆是最勝祕密吉祥 “diệc dĩ đại bi thai tạng diệu pháp liên hoa vi tối thâm bí kiết tường, nhất thiết gia trì Pháp môn chi thân tọa thử hoa đài dã. Khả kiến Cực Lạc cửu phẩm chi liên, chánh hiển Đại Nhật Như Lai mật ý, cử thể giai thị tối thắng bí mật kiết tường” (cũng lấy hoa sen của diệu pháp Đại Bi Thai Tạng làm kiết tường thâm sâu bí mật nhất, tất cả gia trì thân của người tu Pháp-môn ngồi lên đài hoa này. Có thể thấy hoa sen chín phẩm ở Cực Lạc, hiện rõ mật ý của Đại Nhật Như Lai, cả thân thể đều là kiết tường bí mật tối thắng). Bí mật này, trên thực tế là thâm mật, trong Phật pháp không có bí mật, bí mật thì không thể nói người khác biết, không nói ra được, Phật pháp không có bí mật. Điều được gọi là bí mật là lý và sự của nó quá sâu, không phải người thông thường có thể hiểu được, gọi là thâm mật, có nghĩa như vậy. Đến lúc nào mới có thể hiểu rõ? Đoạn vô-thỉ vô-minh phiền-não rồi, thì quý vị hiểu rõ, vẫn là tự hiểu nghĩa kia. Người bình thường ở thế gian chúng ta nói: “Đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia”, tiểu ngộ. Trên tiểu ngộ có đại ngộ, trên đại ngộ có triệt ngộ, thế giới Cực Lạc là triệt ngộ. Đại ngộ thì có thể thọ dụng kiết tường thâm mật này, nhưng vẫn chưa làm sáng tỏ, nhất định phải đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì hoàn toàn hiểu rõ, mới biết được sự kiết tường bí mật tối thắng. Tuy là người vãng sanh vẫn chưa làm sáng tỏ, nhưng họ thọ dụng được rồi, được thọ dụng đó.

Chúng ta xem tiếp chương 14 dưới đây, nguyện thứ 25: 天人禮敬願 “Thiên nhân lễ kính nguyện” (Nguyện trời người lễ kính), mời xem kinh văn:

 【我作佛時。十方眾生。聞我名字。歡喜信樂。禮拜歸命。以清淨心。修菩薩行。諸天世人。莫不致敬。】

“Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng, dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ-tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương, nghe danh của con, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng, dùng tâm thanh tịnh, tu Bồ-tát hạnh, chư thiên và người đời, chẳng ai không tôn kính).

Người phàm đều thích được người khác lễ kính, có thể được người trời lễ kính, vậy thì không phải là người bình thường, người trời đều tôn kính quý vị. Người trời tôn kính người như thế nào? Tôn kính người có đạo đức, con hiền cháu thảo ở thế gian, họ tôn kính, tôn kính người có học vấn, có đạo đức, những người có tâm từ bi, có thể giúp chúng sanh khổ nạn thì người trời cung kính. Người niệm Phật được người trời cung kính, người tu Tịnh-độ càng được người trời cung kính, vì sao vậy? Đời này quý vị có cơ hội vãng sanh đến thế giới Cực Lạc làm Phật, đây thật sự là việc lớn. Lão Hòa thượng Hải Hiền thường nói: “Chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là việc lớn, còn lại đều là giả”. Không chỉ không phải việc lớn, mà toàn là giả, giả thì đừng để trong tâm, điều này quan trọng hơn hết, nhất định phải luôn để A Di Đà Phật trong tâm.

Chúng ta xem chú giải của Niệm lão, 右章 “hữu chương” là chương 14, tổng cộng có ba nguyện, dưới đây là 聞名得福 “văn danh đắc phước” (nghe danh được phước), còn có 第二十七修殊勝行願。本章三願皆表聞名功德 “đệ nhị thập thất tu thù thắng hạnh nguyện. Bổn chương tam nguyện giai biểu văn danh công đức” (nguyện thứ 27: Nguyện tu hạnh thù thắng. Ba nguyện trong chương này đều hiển bày công đức của việc nghe danh), trong đây hiển bày công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Người thông thường không biết công đức danh hiệu này của A Di Đà Phật, cho nên họ không có tâm tôn trọng, nhìn thấy tượng Phật, nghe được danh hiệu, họ hoàn toàn không thể để vào tâm, thậm chí còn cho rằng những điều này là mê tín, là gạt người, khởi ý niệm như vậy thì có tội nghiệp. Những điều này không cần giải thích, mọi người đều có thể nghĩ ra. Người trời cung kính, sao quý vị có thể hiểu lầm được? 從若聞我名,下至諸根無缺,是第二十六聞名得福願。再下為第二十七修殊勝行願。本章三願皆表聞名功德 “Tùng nhược văn ngã danh, hạ chí chư căn vô khuyết, thị đệ nhị thập lục văn danh đắc phước nguyện. Tái hạ vi đệ nhị thập thất tu thù thắng hạnh nguyện. Bổn chương tam nguyện giai biểu văn danh công đức” (Từ “nếu nghe danh con” cho đến “các căn không khiếm khuyết” là nguyện thứ 26: Nguyện nghe danh được phước. Phần còn lại là nguyện thứ 27: Nguyện tu hạnh thù thắng. Ba nguyện trong chương này đều hiển bày công đức của việc nghe danh).

上第十八願十念必生,乃往生之正因,四十八願之核心 “Thượng đệ thập bát nguyện thập niệm tất sanh, nãi vãng sanh chi chánh nhân, tứ thập bát nguyện chi hạch tâm” (Nguyện thứ 18: “Mười niệm chắc chắn vãng sanh” ở trên là chánh nhân vãng sanh, trung tâm của 48 nguyện). Trong 48 nguyện, nguyện nào quan trọng nhất? Nguyện thứ 18, nguyện thứ 18 thật sự là chánh nhân vãng sanh. Họ làm sao để vãng sanh? Tín, nguyện, niệm Phật. Niệm bao nhiêu? Mười niệm. Mười niệm có rất nhiều cách nói, hôm trước đã học qua rồi. Đặc biệt là mười niệm khi lâm chung, cả đời không niệm Phật, khi lâm chung gặp được bạn lành khuyên họ, niệm mười tiếng Phật hiệu, thật sự tin có thế giới Cực Lạc, thật sự tin có A Di Đà Phật, Phật cũng đến tiếp dẫn họ, vô cùng thù thắng. Chúng ta rất khó có được, tháng trước, cha của tổng giám đốc Tạ ở Triều Sán vãng sanh, chính là mười niệm, cha của anh cả đời chưa từng niệm Phật. Những việc tốt mà anh đã làm trong mấy năm nay, tích được thiện đức, chúng tôi tin những điều này gia trì cho ông lão. Vào hai tiếng cuối cùng khi lâm chung, anh ấy nói với tôi, hai tiếng cuối cùng anh rất lo lắng, khuyên cha của anh, nói với cha rằng: Tây Phương thật sự có thế giới Cực Lạc, cha có tin không? Cha anh ấy gật đầu. Lại nói với ông: Thế giới Cực Lạc thật sự có A Di Đà Phật, cha có tin không? Cha anh ấy gật đầu. Sau cùng anh khuyên cha mình: Con niệm A Di Đà Phật, cha niệm theo con, hai cha con chúng ta cùng nhau niệm. Chỉ niệm hai tiếng đồng hồ thì vãng sanh rồi. Trong một đời, vào giây phút cuối cùng này, tín nguyện trì danh thì vãng sanh rồi. Tướng tốt hi hữu, người nhà, thân thích, bạn bè của ông nhìn thấy, mọi người đều tăng trưởng tín tâm, mọi người không còn nghi ngờ nữa, chính mắt nhìn thấy rồi. Ba ngày sau thì nhập quan, toàn thân mềm mại, còn mềm mại hơn lúc còn sống. Có mấy ngàn người nhìn thấy tướng tốt này, mấy ngàn người này đều gieo trồng thiện căn, không thể nghĩ bàn.

Ở đây Niệm lão nói với chúng ta, mười niệm chắc chắn vãng sanh của nguyện thứ 18 là chánh nhân vãng sanh, trung tâm của 48 nguyện. 第十九與第二十兩願,乃第十八之開廣 “Đệ thập cửu dữ đệ nhị thập lưỡng nguyện, nãi đệ thập bát chi khai quảng” (Hai nguyện 19 và 20 là sự triển khai của nguyện thứ 18), mở rộng rồi. 第二十一願,專指具有宿惡之眾生,若能悔過(懺悔),發菩提心,一心專念 “Đệ nhị thập nhất nguyện, chuyên chỉ cụ hữu túc ác chi chúng sanh, nhược năng hối quá (sám hối), phát Bồ-đề tâm, nhất tâm chuyên niệm” (Nguyện thứ 21 chuyên chỉ chúng sanh vốn có nghiệp ác đời trước, nếu có thể hối lỗi (sám hối), phát tâm Bồ-đề, nhất tâm chuyên niệm), cũng có thể vãng sanh, sẽ không đọa vào đường ác nữa. 第二十三願則專指婦女,聞名淨信,發菩提心,求生淨土,則命終轉男,往生極樂 “Đệ nhị thập tam nguyện tắc chuyên chỉ phụ nữ, văn danh tịnh tín, phát Bồ-đề tâm, cầu sanh Tịnh-độ, tắc mạng chung chuyển nam, vãng sanh Cực Lạc” (Nguyện thứ 23 chuyên chỉ người nữ, nghe danh được tịnh tín, phát tâm Bồ-đề, cầu sanh Tịnh-độ, khi mạng chung sẽ chuyển thành nam, vãng sanh Cực Lạc), thế giới Cực Lạc không có người nữ. 以上皆因聞名發心,得生淨土,是為得益中之上者 “Dĩ thượng giai nhân văn danh phát tâm, đắc sanh Tịnh-độ, thị vi đắc ích trung chi thượng giả” (Trên đây đều do nghe danh mà phát tâm, được sanh Tịnh-độ, đó là được bậc thượng trong các lợi ích), được lợi ích tốt nhất, thượng đẳng trong các lợi ích. Chương này là nguyện trời người lễ kính, 則顯其下者。蓋眾生根器不一,故聞名之信樂發心亦不一,或因大心未堅,或因信願不深,或以持念不專 “tắc hiển kỳ hạ giả. Cái chúng sanh căn khí bất nhất, cố văn danh chi tín nhạo phát tâm diệc bất nhất, hoặc nhân đại tâm vị kiên, hoặc nhân tín nguyện bất thâm, hoặc dĩ trì niệm bất chuyên” (hiển bày lợi ích bậc hạ. Bởi vì căn khí của chúng sanh không như nhau, nên khi nghe danh mà phát tâm tín nhạo cũng khác nhau, hoặc do đại tâm chưa kiên cố, hoặc do tín nguyện không sâu, hoặc do trì niệm không chuyên), khi niệm Phật thường khởi vọng-tưởng, thường có tạp-niệm xen vào, 是以未能全契彌陀十念必生等大願,故當世未能了脫生死,僅能獲福於現在及來生,故獲利未能如前之數願也 “thị dĩ vị năng toàn khế Di Đà thập niệm tất sanh đẳng đại nguyện, cố đương thế vị năng liễu thoát sanh tử, cẩn năng hoạch phước ư hiện tại cập vị lai, cố hoạch lợi vị năng như tiền chi số nguyện dã” (vì thế chưa thể khế hợp hoàn toàn các đại nguyện của đức Di Đà như mười niệm chắn chắn vãng sanh v.v…, nên đời này chưa thể liễu thoát sanh tử, chỉ có thể được phước ở hiện tại và đời sau, do đó lợi ích có được chưa thể bằng những nguyện phía trước). Quý vị xem điều mà nguyện này hiển bày, tuy là nghe danh, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng, cũng dùng tâm thanh tịnh tu Bồ-tát hạnh, được chư thiên và người đời đều tôn kính, phước báo trời người, đây là được lợi ích nhỏ, phía trước là được lợi ích lớn.

第二十五願,修菩薩行 “Đệ nhị thập ngũ nguyện, tu Bồ-tát hạnh” (Nguyện thứ 25: Tu Bồ-tát hạnh), Bồ-tát hạnh là 六度萬行,是乃廣修眾善者。本經三輩往生,皆云發菩提心,一向專念 “lục độ vạn hạnh, thị nãi quảng tu chúng thiện giả. Bổn kinh tam bối vãng sanh, giai vân phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” (lục độ vạn hạnh là rộng tu các việc thiện. Phẩm Tam Bối Vãng Sanh của kinh này đều nói phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm). Hai câu tiếp theo quan trọng, vô cùng quan trọng, 蓋發心乃諸善中王 “cái phát tâm nãi chư thiện trung vương” (Bởi vì phát tâm là vua trong các thiện), quý vị tu thiện, việc thiện nào lớn nhất, việc thiện nào thù thắng nhất? Phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ. Nguyện này vô cùng thù thắng, vì sao vậy? Vì thành Phật mà. Quý vị có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc hay không hoàn toàn do tín nguyện có hay không. Nếu tín tâm càng sâu, càng kiên định, sanh đến thế giới Cực Lạc thì càng thù thắng. Nắm chắc một câu Phật hiệu này, tranh thủ từng phút giây, thì được phẩm vị cao. 發心乃諸善中王,持名是萬行之首 “Phát tâm nãi chư thiện trung vương, trì danh thị vạn hạnh chi thủ” (Phát tâm là vua trong các thiện, trì danh là hạnh đứng đầu trong vạn hạnh), quý vị xem hai câu nói này quan trọng biết bao. 缺此往生正因,雖行眾善,則廣而不專,博而未精,未契彌陀本願,難於今生現證,故唯受人天禮敬而已 “Khuyết thử vãng sanh chánh nhân, tuy hành chúng thiện, tắc quảng nhi bất chuyên, bác nhi vị tinh, vị khế Di Đà bổn nguyện, nan ư kim sanh hiện chứng, cố duy thọ nhân thiên lễ kính nhi dĩ” (Thiếu chánh nhân vãng sanh này thì dù làm các việc thiện rộng khắp mà chẳng chuyên, nhiều mà chẳng tinh, chưa khế hợp với bổn nguyện của đức Di Đà, thì đời này khó chứng được, nên chỉ được trời người lễ kính mà thôi). Trong đây không nói đến vãng sanh, quý vị được trời người lễ kính, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Điều này không tệ, đều do tín nguyện không thật, tín nguyện không chuyên mới có hiện tượng này. Những người có hiện tượng này thì nhiều, niệm Phật mới có chút công phu, rất dễ được trời người lễ kính. Phải nhớ, chỉ nhờ điều này thì không thể vãng sanh.

Chúng ta xem tiếp nguyện thứ 26: “Nghe danh được phước”. Quý vị xem “trời người lễ kính”, “nghe danh được phước”, đều là người niệm Phật không thể vãng sanh. Kinh văn của nguyện thứ 26:

  【若聞我名。壽終之後。生尊貴家。諸根無缺。】

“Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia, chư căn vô khuyết”.

(Nếu nghe danh con, sau khi mạng chung, sanh vào nhà tôn quý, các căn không khiếm khuyết).

Đây chính là tướng mạo cũng đoan chánh, cũng trang nghiêm, nhưng lại đến nhân gian rồi, không mất thân người; hoặc người tu phước báo lớn hơn, thì sanh lên cõi trời, trời Dục-giới, nơi đó cũng không khó đến. Trong chú giải, 《大論》曰:生剎利為有勢力 “Đại Luận viết: Sanh sát lợi vi hữu thế lực” (Đại Luận nói: Sanh vào hàng sát-đế-lợi thì có thế lực), sát-đế-lợi là hoàng tộc, có thế lực lớn; 生婆羅門家為有智慧;生居士家 “sanh Bà-la-môn gia vi hữu trí huệ; sanh cư sĩ gia” (sanh vào nhà Bà-la-môn thì có trí huệ; sanh vào nhà cư sĩ), đây chính là nhà tôn quý, họ đến những nơi này, 故能利益眾生 “cố năng lợi ích chúng sanh” (vẫn có thể lợi ích chúng sanh). Thật sự mà nói, đại đa số người niệm Phật đều được quả báo này, cho nên người thật sự vãng sanh thế giới Cực Lạc không nhiều. Do đó chúng ta hiểu được, ở thế giới này, người làm quan lớn, giàu có, thông minh trí huệ, có địa vị ở xã hội, được mọi người tôn kính, những người này có nhân gì? Công phu niệm Phật chưa đến nơi đến chốn. Năm xưa thầy Lý thường nói với chúng tôi: Một vạn người niệm Phật, thật sự được vãng sanh chỉ có ba người, năm người mà thôi. Vậy còn người không thể vãng sanh? Không thể vãng sanh thì được điều này, được những phước báo này, phước báo trời người. Nếu không phải nhờ niệm Phật, mà muốn được phước báo trời người, được đại phú đại quý trong cõi trời người, làm đế vương, làm tướng, ngày nay gọi là nhà doanh nghiệp lớn, có hàng tỷ của cải, đều là người niệm Phật, đều là đệ tử nhà Phật, được quả báo thù thắng như vậy, không phải không có nguyên nhân mà có được, giàu có là quả báo, quả ắt có nhân.

Chúng ta xem tiếp, lão Cư sĩ lại trích dẫn một đoạn trong Hội Sớ, 生下賤家,受世輕慢,利濟不廣。是故聞名得福,來生皆生尊貴之家也。又諸根即眼耳鼻舌身意六根 “sanh hạ tiện gia, thọ thế khinh mạn, lợi tế bất quảng. Thị cố văn danh đắc phước, lai sanh giai sanh tôn quý chi gia dã. Hựu chư căn tức nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý lục căn” (sanh vào nhà thấp hèn, bị người đời khinh chê, không thể làm lợi ích rộng lớn. Cho nên nghe danh được phước, đời sau đều sanh vào nhà tôn quý. Các căn là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu căn không thiếu, đầy đủ. Lời nói này trong sách Hội Sớ rất hay, vẫn có không ít người sanh vào nhà thấp hèn, nghèo khó thấp hèn, người thế gian xem thường, khinh mạn, đây là gì vậy? Không thể làm lợi ích rộng lớn, tích thiện không nhiều. Chúng ta đều có thể thấy được, trong đồng tham đạo hữu chúng ta, quý vị quan sát tỉ mỉ, có rất nhiều người thích làm việc thiện, bản thân ăn xài tiết kiệm, dùng tiền tiết kiệm được làm việc tốt, lợi ích chúng sanh, những người này đời sau sanh vào nhà tôn quý. Còn người rất keo kiệt, chỉ muốn chính mình hưởng thụ, không muốn chăm sóc người khác, đời sau được thân người, sanh vào nhà thấp hèn. Chẳng thể không thuộc lòng kinh, không thuộc lòng thì không hiểu rõ những chân tướng sự thật này. Người học Phật đều hiểu, không thể nói không hiểu nhân quả báo ứng, đều hiểu. Tuy là hiểu, nhưng hiểu không đủ sâu, không đủ thấu triệt, cho nên trong sự hành trì, vẫn là niệm niệm đều nghĩ đến lợi ích của chính mình. Sự giàu sang mà mình có được, không chịu bố thí cho người khác, vậy là sai rồi. Không biết tu phước, không biết tích đức, không ra khỏi luân hồi, vậy thì đời sau không bằng đời trước. Đời này được thân người, đời sau có thể không được thân người nữa, cho dù được thân người cũng bần cùng thấp hèn. Những quả báo này đều ở trước mặt chúng ta, mọi lúc mọi nơi chúng ta đều nhìn thấy. Thấy rồi thế nào? Thấy rồi nhưng không hiểu, không có cảm nhận. Người đọc nhiều kinh sách, họ nhìn thấy thì có cảm xúc, họ nhìn thấy quả liền nghĩ đến nhân, nhìn thấy nhân họ cũng thấy được quả, tu nhân biết quả.

Làm người cần phải tích thiện tu phước, người trời tôn kính. Không sợ thiệt thòi mắc lừa, thiệt thòi mắc lừa cũng không để trong tâm, không oán hận, đây chính là tu phước (chính là tích phước), nhất định phải làm sáng tỏ, làm rõ ràng. Thật sự làm sáng tỏ là Bồ-tát, biết được quan hệ của tất cả chúng sanh với mình là một thể, một thể thì có thể không chăm sóc sao? Tu phước, việc tốt mà tôi làm đều là lợi ích chúng sanh, càng nhiều chúng sanh được lợi ích, thì phước báo càng lớn; thời gian lợi ích chúng sanh càng dài, thì quý vị hưởng phước càng lâu. Nhân của đại phú đại quý, đều ở chỗ giúp đỡ chúng sanh khổ nạn. Giúp đỡ điều gì? Giúp họ phá mê khai ngộ, đây là phước bậc nhất, thật sự có trí huệ. Người thật sự có trí huệ không mê hoặc, sẽ không tạo nghiệp, sẽ không tạo tội. Làm người chỉ sợ hồ đồ, chỉ sợ mê hoặc điên đảo, cho rằng một chút lợi ích trước mắt là phước báo, sai rồi, không xứng đáng được mà quý vị có được chính là tội nghiệp. Xứng đáng có được thì cũng phải tiết kiệm, mong muốn đem số tiền dư giúp đỡ nhân dân khổ nạn, vậy thì đúng rồi. Không chỉ phải cứu giúp thân mạng người khác, mà quan trọng nhất là cứu giúp huệ mạng của người khác, giúp người khác khai trí huệ. Dùng phương pháp gì? Dạy học. Dạy học, tuy cuộc sống hiện nay tương đối khổ một chút, nhưng đời sau có phước báo lớn, quý vị giúp người khác phá mê khai ngộ. Nếu là giảng kinh, vậy thì phước báo càng lớn, kinh là do Phật Bồ-tát truyền lại, giảng kinh giống như Phật Bồ-tát thuyết pháp lợi sanh. Người nghe nhiều, thật sự nghe hiểu, đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, người như vậy nhiều hơn thì xã hội cũng sẽ an định, thế giới cũng sẽ hòa bình, công đức này lớn biết mấy! Cho dù hôm nay chịu một chút khổ cũng hoan hỷ. Cổ thánh tiên hiền làm tấm gương cho chúng ta, Khổng lão phu tử không giàu sang, đời sống vật chất tạm qua ngày; Thích Ca Mâu Ni Phật 19 tuổi rời khỏi gia đình, đi làm một vị tăng khổ hạnh, giữa ngày ăn một bữa, tối nghỉ dưới cây, người Trung Hoa chúng ta gọi là ăn xin, Ngài trải qua cuộc sống như vậy. Vì sao? Vì tu đại phước báo cứu cánh cho đời sau. Chúng ta nhìn Khổng tử, nhìn đức Phật, quý vị có thể nhìn ra được, đó là tấm gương tốt để chúng ta đoạn ác tu thiện, chúng ta muốn có được phước huệ chân thật thì phải học tập theo các Ngài.

Tiếp theo là nguyện thứ 27, nguyện cuối cùng trong chương này.

 【常修殊勝梵行。】

“Thường tu thù thắng phạm hạnh”.

(Thường tu phạm hạnh thù thắng).

Không những tu phạm hạnh, mà còn tu được thù thắng.

【若不爾者。不取正覺。】

“Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh-giác”.

(Nếu không được như vậy, thì con không giữ ngôi Chánh-giác).

Đây là câu tổng kết cuối cùng trong mỗi chương, nếu Tỳ-kheo Pháp Tạng không làm được, nguyện này không viên mãn, thì Ngài không thành Phật. Hiện nay Ngài đã thành Phật mười kiếp ở thế giới Cực Lạc rồi, hay nói cách khác, mỗi nguyện trong 48 nguyện Ngài đều làm được, Ngài đều làm viên mãn. Chúng ta xem chú giải của Niệm lão, 梵者 “Phạm giả” (Phạm nghĩa là), đây là văn tự ngôn ngữ thời xưa của Ấn Độ, gọi là Phạn văn, chữ phạm này có nghĩa là thanh tịnh. 梵行,清淨無欲之行 “Phạm hạnh, thanh tịnh vô dục chi hạnh” (Phạm hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục). Chữ “dục” này là dục vọng, dục vọng khuếch trương ra chính là tâm tham, lòng tham không đáy, tâm hạnh của người này tương ưng với cõi quỷ trong ba đường ác, quỷ là tham nhất; nếu trong tham có thêm sân hận thì đến địa ngục rồi. Cho nên hạnh thanh tịnh vô dục. 斷淫欲諸天,皆名為梵天。如梵天斷淫欲之行,曰梵行 “Đoạn dâm dục chư thiên, giai danh vi Phạm thiên. Như Phạm thiên đoạn dâm dục chi hạnh, viết phạm hạnh” (Chư thiên đoạn dâm dục đều gọi là Phạm thiên. Hạnh đoạn dâm dục giống như Phạm thiên gọi là phạm hạnh). Chúng ta liền biết, Phật nói với chúng ta về tam giới, trong lục đạo có tam giới, có Dục-giới, có Sắc-giới, có Vô-sắc-giới, chưa đoạn dâm dục nam nữ thì đều ở Dục-giới, không ra khỏi Dục-giới. Đoạn dâm dục rồi thì không ở Dục-giới nữa, họ sanh đến cõi nào? Họ đến trời Sắc-giới rồi. Sắc-giới có 4 tầng thiền gồm 18 tầng trời, những người này đều không có sự dâm dục nam nữ, đều đoạn rồi. Bất luận là người nam, người nữ, chỉ cần đoạn dâm dục thì sẽ sanh lên cõi trời này. Cõi trời này cao, Sơ-thiền có ba tầng, Nhị-thiền cũng có ba tầng trời, Tam-thiền có ba tầng trời, Tứ-thiền rất đặc thù, Tứ-thiền có chín tầng trời, ngoại trừ ba tầng trời bình thường, còn có tầng trời của ngoại đạo, ngoài ra còn có Tiểu-thừa tu hành ở tầng này, chính là Tam-quả A-na-hàm, tu hành ở tầng trời này, có năm tầng trời, gọi là Ngũ Bất Hoàn thiên. Những vị thánh này, thánh nhân Tiểu-thừa, họ sẽ không đến nhân gian nữa, chỉ tu hành ở tầng trời đó, thăng cấp lên cao, có người lợi căn thì trực tiếp ra khỏi lục đạo luân hồi; người độn căn một chút, họ còn phải thông qua trời Tứ-không, họ phải đến trời Tứ-không, từ trời Tứ-không tiếp tục siêu việt. Trong kinh điển, Phật đã nói cho chúng ta biết rất rõ ràng.

Phạm hạnh là hạnh thanh tịnh, sự dâm dục giữa nam và nữ không còn nữa, đối với tài, danh, thực, thùy của thế gian, hết thảy những dục vọng này đều không còn. Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế biểu diễn cho chúng ta xem, Ngài là con vua, nếu Ngài không xuất gia thì Ngài sẽ kế thừa vương vị của vua cha, Ngài sẽ làm quốc vương. Ngài xuất gia năm 19 tuổi, từ bỏ quyền kế thừa vương vị rồi, không tham danh; không tham lợi dưỡng, không cần cuộc sống vinh hoa phú quý nữa, đi làm vị tăng khổ hạnh. Cho nên quý vị xem, tài, sắc, danh, thực, thùy, Ngài buông xả hết rồi, buông xả thất tình ngũ dục, làm vị tăng khổ hạnh, như vậy là tu phạm hạnh. 30 tuổi, trước năm 30 tuổi, Ngài có 12 năm, là từ lúc 19 tuổi đến 30 tuổi, 12 năm đó, tất cả tôn giáo ở Ấn Độ Ngài đều đã học qua, tất cả học phái Ngài cũng học qua, sau khi học rồi cảm thấy học vấn này không cứu cánh, không thể giải quyết vấn đề của lục đạo luân hồi, thật sự tất cả tôn giáo và học phái đều không ra khỏi lục đạo luân hồi, điều này không cứu cánh, Ngài từ bỏ rồi, không học nữa. Sự từ bỏ này gọi là buông xả sở-tri-chướng. Phật dạy có hai chướng ngại: phiền-não-chướng, sở-tri-chướng, hai điều này chướng ngại Tự-tánh của chúng ta, khiến bản thân chúng ta không thể minh tâm kiến tánh; muốn minh tâm kiến tánh thì phải buông xả hai điều này. Ngài làm tấm gương cho chúng ta, 19 tuổi buông xả phiền-não-chướng, 30 tuổi buông xả sở-tri-chướng. Sở-tri-chướng rất khó buông xả, buông xả sở-tri-chướng, Ngài nhập định dưới cây Bồ-đề, liền được khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì Ngài dạy học, bắt đầu sự nghiệp giảng dạy, dạy cả đời, 79 tuổi viên tịch, gọi là 講經三百餘會,說法四十九年 “giảng kinh tam bách dư hội, thuyết pháp tứ thập cửu niên” (giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm). Đây là cuộc đời của Thế Tôn, làm tấm gương cho chúng ta xem.

Ngài khai ngộ rồi, đây chính là giáo học của Phật pháp chú trọng ở khai ngộ, không chú trọng việc học [bằng cách] ghi nhớ. Quý vị nghe giảng kinh, học kinh giáo, nhớ được rất nhiều, cũng giảng đến hoa trời rơi rụng, không được, đây là gì? Đây là của người khác, không phải của quý vị. Cổ thánh tiên hiền Trung Hoa cũng chú trọng vấn đề này, trong Luận Ngữ, Khổng tử có nói: “Ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư dã”. Người như thế nào mới có thể làm thầy người khác? Phải khai ngộ. Cho nên đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách, tự hiểu chính là khai ngộ. Cách dạy học của Trung Hoa thời xưa, thầy chỉ đôn đốc học trò đọc, đọc theo số lần, một ngày phải đọc bao nhiêu lần. Đọc được một ngàn lần đương nhiên là sẽ thuộc, vấn đề chính là học trò có hiểu những gì mình đọc hay không? Trò hiểu được bao nhiêu, nói cho thầy nghe. Không phải là thầy giảng cho trò nghe, mà trò nói cho thầy nghe, thầy nghe rồi gật đầu vui vẻ, ấn chứng cho họ, vậy là khai ngộ rồi. Tiểu ngộ thì ai cũng có, thường xuyên có; đại ngộ cũng có, đại ngộ thì có thể làm thầy người khác, có thể giảng kinh dạy học. Tiêu chuẩn giảng kinh dạy học.. là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, giống hệt như Phật, Phật đại triệt đại ngộ trong thiền-định. Cả đời giảng nhiều kinh luận như vậy, Ngài học với ai vậy? Không có ai dạy, đều là tự hiểu nghĩa kia. Tự hiểu có giới hạn không? Nói cho quý vị biết là không có, vô lượng trí huệ, không có giới hạn, bất luận người nào hỏi Phật, bất luận là hỏi vấn đề gì, Phật đều có thể giải đáp cho quý vị, Phật đều có thể dạy quý vị. Trí huệ từ đâu mà có? Là Tự-tánh vốn có. Đại sư Huệ Năng nói rất hay, Ngài khai ngộ rồi, câu thứ ba Ngài nói là 何期自性,本自具足 “hà kỳ Tự-tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ Tự-tánh, vốn tự đầy đủ). Cho nên trong Tự-tánh vốn đã có đầy đủ, đầy đủ là không thiếu sót chút gì, trí huệ viên mãn. Vả lại Phật nói với chúng ta, trí huệ viên mãn, đức hạnh viên mãn, tướng hảo viên mãn đó, tất cả sự viên mãn là mỗi người đều có, mọi người bình đẳng. Cho nên Phật nói rất hay, tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật. Vì sao hiện nay quý vị không phải là Phật? Chính là phiền-não tập-khí đã chướng ngại hết thảy trí huệ, đức năng, tướng hảo vốn có của quý vị, không hiển lộ ra được, hiện nay học một chút kiến thức cũng học như đúng mà lại sai. Giáo học của nhà Phật yêu cầu trí huệ, không cầu tri thức. Có trí huệ thì tự nhiên có tri thức, có tri thức nhưng không có trí huệ. Trí huệ có thể giải quyết vấn đề, không có di chứng; tri thức giải quyết vấn đề, mang theo sau một đống di chứng, vĩnh viễn cũng không thể làm sáng tỏ. Đây là điều chúng ta chẳng thể không biết.

Tiếp theo Niệm lão trích dẫn Kinh Pháp Hoa, sớ của Đại sư Gia Tường, Ngài nói: 有人言通取一切戒為梵行,別名斷淫為梵行 “Hữu nhân ngôn thông thủ nhất thiết giới vi phạm hạnh, biệt danh đoạn dâm vi phạm hạnh” (Có người nói giữ tất cả giới là phạm hạnh, người khác lại nói đoạn dâm dục là phạm hạnh). Đây là lời của ngài Gia Tường đã nói trong Pháp Hoa Kinh Sớ, phạm hạnh có hai ý nghĩa, trì giới là phạm hạnh, cũng có người nói chuyên chỉ riêng cho việc đoạn dâm dục là phạm hạnh, trì giới mà không đoạn dâm dục thì không được xem là phạm hạnh. 故《大品》曰:淫欲障生梵天,何況菩提 “Cố Đại Phẩm viết: Dâm dục chướng sanh Phạm thiên, hà huống Bồ-đề!” (Cho nên trong Đại Phẩm nói: Dâm dục chướng ngại sanh lên Phạm thiên, huống chi là Bồ-đề!) Câu nói này quan trọng. Chưa đoạn dâm dục, quý vị sanh lên trời Dục-giới, quý vị không thể đến trời Sắc-giới, Sắc-giới gọi là Phạm thiên. Không đoạn dục thì chỉ có thể ở Dục-giới, trong sáu tầng trời Dục-giới không đoạn dâm dục, đoạn dâm dục rồi thì sanh lên Phạm thiên, trời Sắc-giới, lên cao hơn là trời Vô-sắc-giới. Hai tầng cao nhất trong lục đạo, Sắc-giới, Vô-sắc-giới quý vị đều không có phần, huống chi là Bồ-đề? Bồ-đề là thành Phật, vậy làm sao có thể? 以上皆以離欲為梵行 “Dĩ thượng giai dĩ ly dục vi phạm hạnh” (Ở trên đều cho rằng lìa dâm dục là phạm hạnh), đây là trong nhà Phật, đặc biệt là Tiểu-thừa, điều này do họ nói.

Nhưng vẫn còn ý nghĩa sâu hơn, 但另有深義 “đãn linh hữu thâm nghĩa” (nhưng có ý nghĩa sâu xa khác), nghĩa này sâu hơn nghĩa trước, 以證涅槃之萬行為梵行 “dĩ chứng Niết-bàn chi vạn hạnh vi phạm hạnh” (lấy vạn hạnh để chứng Niết-bàn làm phạm hạnh), điều này thì cao hơn. 如《法華嘉祥疏》曰:梵行之相者,梵名涅槃,即根本法輪大涅槃也。行即萬行,到大涅槃也 “Như Pháp Hoa Gia Tường Sớ viết: Phạm hạnh chi tướng giả, Phạn danh Niết-bàn, tức căn bổn pháp luân Đại Niết-bàn dã. Hạnh tức vạn hạnh, đáo Đại Niết-bàn dã” (Như Pháp Hoa Gia Tường Sớ nói rằng: Tướng của phạm hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết-bàn, tức là căn bản pháp luân Đại Niết-bàn. Hạnh tức là vạn hạnh đạt đến Đại Niết-bàn). Ý nghĩa này sâu, phạm hạnh này chỉ ai? Thành Phật. Trước khi thành Phật, Pháp-thân Bồ-tát là phạm hạnh, 41 vị Pháp-thân Đại sĩ, Viên-giáo Sơ-trụ trở lên, sanh Thật-báo-trang-nghiêm độ, đây là phạm hạnh của Đại-thừa; còn Tiểu-thừa, Đại-phạm thiên chính là phạm hạnh, khác biệt rất lớn. Đại-phạm thiên chưa ra khỏi lục đạo, Viên-giáo Sơ-trụ Bồ-tát là sanh đến Thật-báo-trang-nghiêm độ, không phải là Đồng-cư độ, Phương-tiện độ, không phải, mà là Thật-báo độ, ý nghĩa này cao sâu hơn. Cho nên nói đó là căn bản pháp luân Đại Niết-bàn. Bồ-tát hạnh chính là lục độ vạn hạnh, lục độ là sáu cương lĩnh lớn, tế hạnh trong mỗi cương lĩnh đều không có giới hạn. Trong kinh Đại-thừa nói với chúng ta, Thập thiện nghiệp đạo là căn bản của thiện ác, triển khai Thập thiện nghiệp chính là 84 ngàn tế hạnh (tức là thiện hạnh) mà Bồ-tát tu, 84 ngàn tế hạnh quy nạp lại chính là Thập thiện nghiệp. Trong Tiểu-thừa, Thập thiện nghiệp này triển khai là ba ngàn oai nghi, là A-la-hán chứng được, ba ngàn oai nghi, cô đặc lại chính là Thập thiện nghiệp đạo. Thập thiện nghiệp đạo thông cả Đại-thừa Tiểu-thừa, là gốc! Người niệm Phật chúng ta nắm lấy gốc này là được rồi, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác phải tương ưng với thập thiện, không thể làm trái Thập thiện. Trái với Thập thiện là thập ác, thập ác thì đi đâu? Thập ác thì đến địa ngục trong ba đường ác rồi, chẳng thể không biết điều này. Vì sao được lên cao, vì sao bị đọa xuống, then chốt đều ở Thập thiện. Trong kinh này, Phật dạy chúng ta, bắt đầu tu thập thiện từ đâu? Tu từ khẩu nghiệp, không như lời dạy trong những kinh khác, những kinh khác đều là thân, khẩu, ý. Sự sắp xếp của kinh này, trong phẩm thứ tám chúng ta sẽ đọc được, câu thứ nhất là 善護口業,不譏他過;善護身業,不失律儀;善護意業,清淨無染 “thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá; thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi; thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm” (khéo giữ khẩu nghiệp, không chê bai lỗi người; khéo giữ thân nghiệp, không mất luật nghi; khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm), sự sắp xếp của kinh này là khẩu, thân, ý, dụng ý rất sâu. Vì sao vậy? Khẩu nghiệp là dễ tạo nhất, dễ phạm nhất nên đưa lên hàng đầu. Thứ tự sắp xếp trước sau như vậy đều có ý nghĩa rất sâu xa, chúng ta không thể tùy tiện xem qua. Cho nên điều này có nghĩa sâu xa khác là phải chứng Đại Niết-bàn.

如《法華嘉祥疏》曰 “Như Pháp Hoa Gia Tường Sớ viết” (Như Pháp Hoa Gia Tường Sớ nói), 梵行之相者,梵名涅槃,即根本法輪大涅槃也 “phạm hạnh chi tướng giả, Phạn danh Niết-bàn, tức căn bản pháp luân Đại Niết-bàn dã” (tướng của phạm hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết-bàn, tức là căn bản pháp luân Đại Niết-bàn). Đây là căn bản pháp luân Đại-bát Niết-bàn, bậc Sơ-trụ trở lên trong Viên-giáo chứng được, chứng được quả vị này thì sanh Thật-báo độ. Không phải người tu Tịnh-độ đều đến thế giới Hoa Tạng, chính là Kinh Hoa Nghiêm, thế giới Hoa Tạng được nói đến trong Kinh Hoa Nghiêm là Thật-báo-trang-nghiêm độ của Thích Ca Mâu Ni Phật, đến nơi đó rồi. Hạnh là vạn hạnh, tu hạnh này đến Đại Niết-bàn, Thập thiện viên mãn chính là vạn hạnh viên mãn, cũng là Đại-bát Niết-bàn của Đại-thừa Bồ-tát. Lại nữa, Đại Nhật Kinh Sớ quyển thứ 17, đây là Mật giáo, Mật tông, trong đây nói 梵謂涅槃 “Phạn vị Niết-bàn” (tiếng Phạn gọi là Niết-bàn), giống như kinh Đại-thừa đã nói. 梵行謂修梵行者名 “Phạm hạnh vị tu phạm hạnh giả danh” (Phạm hạnh là danh xưng của người tu phạm hạnh), người tu phạm hạnh gọi là phạm hạnh. 具大涅槃名為梵 “Cụ Đại Niết-bàn danh vi phạm” (Đầy đủ Đại Niết-bàn gọi là phạm), cụ là có đủ, có đủ Đại Niết-bàn, như vậy mới gọi là phạm. Từ đây có thể chứng minh, trong Mật tông có Đại-thừa, có cả Đại-thừa Tiểu-thừa. 上二經疏,皆謂到大涅槃之行,為梵行。是則梵行之深義,不侷限於持戒與斷淫而已 “Thượng nhị kinh sớ, giai vị đáo Đại Niết-bàn chi hạnh, vi phạm hạnh. Thị tắc phạm hạnh chi thâm nghĩa, bất cục hạn ư trì giới dữ đoạn dâm nhi dĩ” (Hai bộ kinh sớ trên đều nói hạnh đạt đến Đại Niết-bàn là phạm hạnh. Đây là nghĩa sâu sắc của phạm hạnh, không chỉ giới hạn trong trì giới và đoạn dâm dục mà thôi), ý nghĩa này sâu hơn, trì giới và đoạn dâm dục là Tiểu-thừa. 今願文曰殊勝梵行 “Kim nguyện văn viết thù thắng phạm hạnh” (Nguyện văn này nói phạm hạnh thù thắng), ý nghĩa của hai chữ thù thắng này rất sâu, ở đây Niệm lão giải thích cho chúng ta, phạm hạnh thù thắng 應兼此二義 “ưng kiêm thử nhị nghĩa” (chắc chắn bao gồm cả hai nghĩa này), những nghĩa mà Đại-thừa Tiểu-thừa đã nói đều bao gồm trong đây.

蓋斷除淫欲,禮佛念佛,發菩提心,一向專念,即趣向大涅槃根本法輪之妙行也 “Cái đoạn trừ dâm dục, lễ Phật niệm Phật, phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, tức thú hướng Đại Niết-bàn căn bản pháp luân chi diệu hạnh dã” (Bởi vì đoạn trừ dâm dục, lạy Phật niệm Phật, phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm, là hướng đến diệu hạnh căn bản pháp luân của Đại Niết-bàn). Điều này tương ưng với những điều mà kinh Đại-thừa đã nói, đây là trong Kinh Vô Lượng Thọ đã nói, cũng là điều mà người tu Tịnh-độ cần phải biết. Hằng ngày, chúng ta lạy Phật niệm Phật, phát tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề là gì? Tứ hoằng thệ nguyện chính là tâm Bồ-đề. Trong Quán Kinh nói (đây là kinh điển của Tịnh-độ tông), chí thành tâm là chân thành đến tột cùng, chân-tâm, đây là thể của tâm Bồ-đề. Có thể có dụng, trong dụng thì có tự thọ dụng, có tha thọ dụng; nói về tự thọ dụng là thâm tâm; tha thọ dụng là từ bi tâm, đại bi tâm, trong Quán Kinh nói là hồi hướng phát nguyện tâm, hồi hướng phát nguyện là biểu hiện của sự từ bi. Công đức mà chúng ta tu tích, chính mình không hưởng thụ hoàn toàn, mong muốn cúng dường mọi người, tất cả chúng sanh đều có thể hưởng thụ được, tâm lượng này lớn. Hằng ngày tôi phát tâm niệm Phật, hồi hướng cho tất cả chúng sanh khổ nạn ở khắp pháp-giới hư-không-giới, tốt! Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể gặp được Pháp môn Tịnh-độ, đều có thể tín nguyện trì danh, đồng sanh cõi Cực Lạc, chính là phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm, đây là hướng về hạnh vi diệu căn bản pháp luân của Đại-bát Niết-bàn, hạnh vi diệu này chính là nhất hướng chuyên niệm. Đại sư Ngẫu Ích nói đơn giản nhất: tín, nguyện, trì danh. Tín nguyện trì danh, tín nguyện chính là phát tâm Bồ-đề, trì danh chính là nhất hướng chuyên niệm, hoàn toàn tương đồng với kinh này.

一聞佛名,即具如是功德,足證佛號,名具萬德 “Nhất văn Phật danh, tức cụ như thị công đức, túc chứng Phật hiệu, danh cụ vạn đức” (Một khi nghe danh hiệu Phật thì đầy đủ các công đức như vậy, đủ để chứng minh Phật hiệu là đầy đủ vạn đức). Ba nguyện trước đều nói đến công đức của danh hiệu, điều này đủ để chứng minh một câu danh hiệu A Di Đà Phật đầy đủ vạn đức. Vạn không phải là con số, không phải là một vạn, hai vạn, không phải vậy, vạn đại diện cho viên mãn, viên mãn chính là đức lớn vô lượng vô biên. 又聞名功德,微妙難思 “Hựu văn danh công đức, vi diệu nan tư” (Lại nữa, công đức nghe danh vi diệu khó nghĩ bàn). Nghe câu Phật hiệu này, công đức cũng vô lượng vô biên. Người niệm Phật rất nhiều, nhưng người không biết công đức thù thắng của danh hiệu thì quá nhiều rồi. Họ không biết, họ niệm danh hiệu Phật, có công đức nhưng không lớn, vì sao vậy? Vì tâm của họ không tương ưng với Phật hiệu. Tâm hạnh phải tương ưng, bản thân phải thật sự biết được. Cho nên chẳng thể không đọc kinh, không đọc kinh thì không biết. Kinh thì phải đọc nhiều, phải đọc thuộc lòng, quý vị đọc thông kinh này rồi, quý vị hoàn toàn hiểu rõ, vậy thì quý vị niệm A Di Đà Phật, công đức của mỗi tiếng không thể nghĩ bàn, công đức của mỗi niệm không thể nghĩ bàn, thật sự là vi diệu khó nghĩ bàn. 如《尊勝陀羅尼經》曰:諸飛鳥畜生含靈之類 “Như Tôn Thắng Đà La Ni Kinh viết: Chư phi điểu súc sanh hàm linh chi loại” (Như Kinh Tôn Thắng Đà La Ni nói: Các loài chim bay, súc sanh, hàm linh), câu này là nói cõi súc sanh, các loài súc sanh cũng có rất nhiều, 聞此陀羅尼一經於耳,盡此一身更不復受 “văn thử Đà La Ni nhất kinh ư nhĩ, tận thử nhất thân cánh bất phục thọ” (một khi nghe Đà La Ni qua tai, hết báo thân này thì không thọ lại nữa). Câu này có nghĩa là: những động vật này nghe được danh hiệu của Phật, chỉ cần chúng nghe được một lần, thật sự nghe rõ ràng, đời sau chúng có thể rời khỏi thân súc sanh mà đến cõi người, công đức này lớn biết bao! Chúng tôi sống ở nông thôn, nông thôn có vườn, có cây cối, có hoa cỏ, chúng tôi còn có một miếng đất trồng rau, để Phật hiệu trong vườn rau, trên cây, để máy niệm Phật nhỏ, bên trong là Phật hiệu, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, để những chúng sanh có duyên này được nghe. Chúng thật sự nghe được thì có được lợi ích thù thắng này, chúng rời khỏi thân súc sanh rồi đến cõi người. Đến cõi người, có duyên với Phật, sau này lớn lên đều là đệ tử nhà Phật.

又《涅槃經》曰:是大涅槃經亦復如是,若有眾生一經耳者,卻後七劫不墮惡道 “Hựu Niết Bàn Kinh viết: Thị Đại Niết Bàn Kinh diệc phục như thị, nhược hữu chúng sanh nhất kinh nhĩ giả, khước hậu thất kiếp bất đọa ác đạo” (Lại nữa, Kinh Niết Bàn nói: Kinh Đại Niết Bàn này cũng như vậy, nếu có chúng sanh một khi nghe qua tai thì bảy kiếp sau đó không đọa vào đường ác). Quý vị xem công đức này lớn biết mấy, Kinh Đại Niết Bàn là kinh Đại-thừa, Kinh Niết Bàn nói như vậy, tất cả kinh Đại-thừa cũng nói như vậy. Hiện nay chúng ta dùng máy niệm Phật, chép danh hiệu, chép kinh văn vào trong máy niệm Phật này, để máy ở đó từ sáng đến tối phát không gián đoạn, tất cả chúng sanh gần đó đều nghe được, chúng ta có tâm này, đây là độ chúng sanh. Độ những chúng sanh này dễ độ hơn người, người có nghi ngờ, không chịu tin, những chúng sanh này hoan hỷ, chúng bằng lòng nghe.一經於耳,尚具上述功德。何況經耳之後,兼能信受 “Nhất kinh ư nhĩ, thượng cụ thượng thuật công đức. Hà huống kinh nhĩ chi hậu, kiêm năng tín thọ” (Một khi nghe qua tai còn có công đức như trên đã nói, huống chi là sau khi nghe qua tai có thể cùng lúc tin nhận). Nghe rồi, họ có tin, có tiếp nhận hay không thì không biết, chúng ta chỉ biết họ nghe được thì có công đức lớn như vậy. Nếu nghe rồi họ tin, họ tiếp nhận rồi thì công đức đó lớn hơn, 其功更勝 “kỳ công cánh thắng” (công đức ấy thù thắng hơn). 一般經中聞字 “Nhất ban kinh trung văn tự” (Chữ “nghe” trong các kinh thông thường), vừa mở kinh điển ra câu đầu tiên là 如是我聞 “như thị ngã văn” (tôi nghe như vầy), chữ “nghe” này, 不是但聞 “bất thị đãn văn” (không chỉ là nghe), không phải chỉ nghe được, ý nghĩa trong đó có tin có nhận. Trong Đại-thừa giáo, trong chữ “nghe” này có tín giải hành chứng, bao gồm những cảnh giới này. 是故聞名之人,今生縱不即能往生 “Thị cố văn danh chi nhân, kim sanh túng bất tức năng vãng sanh” (Cho nên người nghe danh, cho dù đời này không thể lập tức vãng sanh), họ không thể vãng sanh trong đời này, 來世亦必常修殊勝梵行也 “lai thế diệc tất thường tu thù thắng phạm hạnh dã” (đời sau cũng nhất định thường tu phạm hạnh thù thắng). Trong phạm hạnh thù thắng, phạm hạnh vô cùng thù thắng chính là tín nguyện trì danh, cũng tức là họ rất có thể.. nghe được Pháp môn Tịnh-độ. Vì sao vậy? Duyên này là do người tu Tịnh-độ kết duyên với họ, đặc biệt là nếu chúng ta cho họ nghe Phật hiệu A Di Đà Phật, chính là trực tiếp gieo trồng, kết duyên phạm hạnh thù thắng với họ rồi.

Tiếp theo là chương 15, bắt đầu từ nguyện thứ 28: 國無不善願 “Quốc vô bất thiện nguyện” (Nguyện cõi nước không có điều bất thiện), kinh văn:

 【我作佛時。國中無不善名。】

“Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh”.

(Khi con thành Phật, trong cõi nước không có danh từ bất thiện).

Chúng ta xem chú giải của Niệm lão, 從右章第二十八至第三十八願 “tùng hữu chương đệ nhị thập bát chí đệ tam thập bát nguyện” (từ nguyện thứ 28 của chương này đến nguyện thứ 38), đoạn này có 11 nguyện, nguyện thứ 28 đến 38, 為攝彼土眾生願 “vi nhiếp bỉ độ chúng sanh nguyện” (là nguyện nhiếp thọ chúng sanh cõi ấy), đây là nói đến thế giới Cực Lạc, chúng sanh ở thế giới Cực Lạc, 表極樂國中眾生之功德受用 “biểu Cực Lạc quốc trung chúng sanh chi công đức thọ dụng” (hiển bày sự thọ dụng công đức của chúng sanh trong cõi Cực Lạc). Trong chương này có bốn nguyện, 國中無不善名,是第二十八國無不善願。住於定聚以上,是第二十九住正定聚願。猶如漏盡比丘以上,是第三十樂如漏盡願。最後,若起想念,貪計身者,不取正覺 “quốc trung vô bất thiện danh, thị đệ nhị thập bát quốc vô bất thiện nguyện. Trụ ư định tụ dĩ thượng, thị đệ nhị thập cửu trụ chánh định tụ nguyện. Do như lậu tận Tỳ-kheo dĩ thượng, thị đệ tam thập lạc như lậu tận nguyện. Tối hậu, nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh-giác” (trong cõi nước không có danh từ bất thiện, đây là nguyện thứ 28: Nguyện cõi nước không có điều bất thiện. Từ “trụ nơi chánh định tụ” trở lên là nguyện thứ 29: Nguyện trụ chánh định tụ. Từ “giống như Tỳ-kheo hết sạch các lậu” trở lên là nguyện thứ 30: Nguyện vui như hết sạch các lậu. Sau cùng, “nếu khởi ý niệm, tham chấp thân này thì không giữ ngôi Chánh-giác”), đây là nguyện thứ 31. Những nguyện này đều nói đến thế giới Cực Lạc, nói rõ cho chúng ta biết vãng sanh đến thế giới Cực Lạc có những lợi ích gì, giúp chúng ta sanh khởi tâm cầu sanh Tịnh-độ, điều này rất quan trọng. Chúng ta cầu vãng sanh, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc có lợi ích gì? Rất nhiều người mới học nhất định sẽ hỏi điều này. 11 nguyện này hoàn toàn nói đến điều thù thắng không gì sánh bằng của thế giới Cực Lạc, đầu tiên nói với chúng ta, cõi nước không có danh từ bất thiện, cả danh từ cũng không có, thì đương nhiên càng không có việc bất thiện.

Trước tiên chúng ta so sánh với nơi ở của chúng ta một chút, trái đất mà chúng ta đang sinh sống hiện nay, trên trái đất này quá nhiều danh từ bất thiện, nói không hết. Việc bất thiện quá nhiều, khiến cho chúng sanh sinh sống ở nơi này chịu khổ chịu nạn. Đây là vì sao? Vì sao có hiện tượng này? Vì sao thế giới Cực Lạc tốt như vậy? Nhìn thấy quả này, chúng ta phải nghĩ đến nhân, nhân là gì? Thế giới Cực Lạc tốt như vậy, nhân chính là A Di Đà Phật giảng kinh thuyết pháp cho mọi người hằng ngày, tiểu bổn Kinh Di Đà nói là 今現在說法 “kim hiện tại thuyết pháp” (hiện nay đang thuyết pháp), do dạy mà tốt. Con người có thể dạy tốt được. Trên trái đất này của chúng ta, hiện nay ai đang dạy? Người làm cha mẹ không dạy nữa; người làm cha mẹ vào thời xưa ở Trung Hoa thì dạy, hiện nay không dạy nữa. Trường học cũng không dạy, chính phủ cũng không dạy, người nào đang dạy? Tivi đang dạy, internet đang dạy, truyền thông đang dạy. Dạy điều gì? Đều dạy sát đạo dâm vọng. Bốn chữ sát đạo dâm vọng này đều không tốt, đều là danh từ bất thiện. Danh từ bất thiện, việc bất thiện trên trái đất của chúng ta hiện nay không biết là bao nhiêu, đáng để lo nghĩ. Hiện nay, những điều bất thiện này đang mỗi năm mỗi tăng thêm, mỗi năm mỗi lan rộng, vậy thì mười năm sau, trái đất này như thế nào? Không dám nghĩ đến! Mười năm sẽ đến rất nhanh.

Tiến sĩ Joseph Toynbee, sau thế chiến thứ hai ông đã nghĩ đến, ông là tiên tri tiên giác, chúng ta là hậu tri hậu giác, ông đã nghĩ đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật quá nhanh, tốc độ quá nhanh, loài người có khả năng tiêu diệt trái đất, có khả năng tiêu diệt sạch sẽ toàn bộ văn minh mà loài người đã sáng tạo trên trái đất, đó là gì? Chiến tranh hạt nhân. Nếu bùng nổ đại chiến thế giới thứ ba là vũ khí hạt nhân, vũ khí hạt nhân không có thắng bại, là loài người ngu xuẩn đến cùng cực, tự sát tập thể, cùng đến chỗ chết, tình hình là như vậy. Hằng ngày ông đều nghĩ, tôi ước đoán ông đã nghĩ ít nhất năm năm, năm năm cuối đời, 80 tuổi đến 85 tuổi, năm 85 tuổi ông qua đời, hằng ngày đều nghĩ, làm thế nào để đại chiến thế giới thứ ba không bùng nổ. Ông là một người nghiên cứu lịch sử văn hóa thế giới, ông đem văn hóa thế giới từ xưa đến nay chia thành 23 loại, có rất nhiều văn hóa không còn nữa, đều diệt vong rồi. Ông bái phục nhất là văn hóa Đông Á, văn hóa Đông Á, trên thực tế là chỉ Trung Hoa, chính là văn hóa truyền thống Trung Hoa. Ông nói văn hóa Đông Á còn có ba nền văn hóa vệ tinh, tức là thứ yếu, chính là ba nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Chúng ta đều biết, ba quốc gia này qua lại với Trung Hoa, trong lịch sử ghi chép lại, vào thời Chiến Quốc đã có rồi. Chiến Quốc là thời kỳ Mạnh tử tại thế, quan hệ các nước đó với Trung Hoa đã hơn hai ngàn năm, lịch sử lâu đời. Cho nên lời của Joseph Toynbee nói không sai, đó là văn hóa vệ tinh của văn hóa truyền thống Trung Hoa, ông nói nếu ba quốc gia này kết hợp với Trung Hoa, thúc đẩy văn hóa trên toàn thế giới, thì tương lai văn hóa Trung Hoa sẽ hợp nhất toàn thế giới. Nói rất hay!

Vào năm đó, ông nói lời này vào thập niên 70, khu vực Trung Hoa vẫn trong công cuộc đại cách mạng văn hóa, cho nên người thường đều không tin lời của ông, nói tuổi của ông quá cao, già lú lẫn rồi, sao lại nói ra lời như thế được? Không có ai tin. Câu trả lời của ông là: Mọi người hãy nhớ, Trung Hoa có lịch sử 5000 năm, có một ngày đất nước đó không tiến được, trở về tìm lại tổ tiên, thì sẽ đứng đầu thế giới. Tìm lại rồi, đó là điều mà Joseph Toynbee đã nói, văn hóa ấy sẽ đứng đầu, không chỉ có thể cứu Trung Hoa, mà còn có thể cứu cả thế giới. Dùng gì để cứu? Dùng văn hóa truyền thống Trung Hoa cứu toàn thế giới, pháp bảo cụ thể chính là Quần Thư Trị Yếu. Là thật, không phải giả. Chúng tôi cũng đã làm một cuộc thăm dò, biên soạn Quần Thư Trị Yếu thành một quyển 360 đơn giản, dịch sang tiếng Anh, tặng cho đại biểu đại sứ của mỗi quốc gia ở Liên Hiệp Quốc, không người nào phản đối, ai cũng hoan hỷ, đây là điềm báo tốt. Nếu như có thể thì chúng tôi sẽ dịch hết bộ sách này, dùng phương pháp 360 để lưu truyền, tôi dự đoán dịch hết cả bộ là khoảng sáu quyển đến tám quyển, tiếp tục dịch ra các ngôn ngữ văn tự khác nhau của mỗi quốc gia trên thế giới, để cho người trên cả thế giới đều đến học tập, đây chính là Quần Thư Trị Yếu dung hợp toàn cầu. Mục tiêu chính là quy tắc đại đồng mà người Trung Hoa niệm niệm không quên và luôn mong cầu, thế giới đại đồng! Dùng bộ sách này, dùng trí huệ, lý niệm, phương pháp này dung hợp toàn thế giới, đối đãi bình đẳng, chung sống hòa thuận, đây là bình thiên hạ mà người Trung Hoa nói. Bình thiên hạ, thiên hạ chính là các nước, tất cả quốc gia trên trái đất, bình là đối đãi bình đẳng, chung sống hòa thuận, vậy thì nguyện vọng của Joseph Toynbee đã đạt được rồi, là việc tốt!

Chúng ta xem tiếp những câu khai thị sau đây của Niệm lão, 聞名之人,今生縱然不能往生,來世必定常修殊勝梵行 “văn danh chi nhân, kim sanh túng nhiên bất năng vãng sanh, lai thế tất định thường tu thù thắng phạm hạnh” (người nghe danh, cho dù đời này không thể vãng sanh, nhưng đời sau nhất định thường tu phạm hạnh thù thắng), chúng tôi có thể nhận định câu nói này là nói về tín nguyện trì danh.

Tiếp theo, chương này nói đến 國無不善願 “quốc vô bất thiện nguyện” (nguyện cõi nước không có điều bất thiện). 住於定聚以上,是第二十九住正定聚願。猶如漏盡比丘以上,是第三十樂如漏盡願。最後,若起想念,貪計身者,不取正覺,是第三十一不貪計身願 “Trụ ư định tụ dĩ thượng, thị đệ nhị thập cửu trụ chánh định tụ nguyện. Do như lậu tận Tỳ-kheo dĩ thượng, thị đệ tam thập lạc như lậu tận nguyện. Tối hậu, nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh-giác, thị đệ tam thập nhất bất tham kế thân nguyện” (Từ “trụ nơi chánh định tụ” trở lên là nguyện thứ 29: Nguyện trụ chánh định tụ. “Như Tỳ-kheo hết sạch các lậu” trở lên là nguyện thứ 30: Nguyện vui như hết sạch các lậu. Sau cùng, “nếu khởi ý niệm, tham chấp thân này, thì không giữ ngôi Chánh-giác”.. là nguyện thứ 31: Nguyện không tham chấp thân).

第二十八,國無不善願。極樂國中尚無不善之名,何況有不善之實 “Đệ nhị thập bát, quốc vô bất thiện nguyện. Cực Lạc quốc trung thượng vô bất thiện chi danh, hà huống hữu bất thiện chi thật” (Nguyện thứ 28: Nguyện cõi nước không có điều bất thiện. Trong thế giới Cực Lạc còn không có danh từ bất thiện, huống chi là thật bất thiện), thật chính là việc. 龍樹大士曰:彼尊佛剎無惡名,亦無女人惡道怖 “Long Thọ Đại sĩ viết: Bỉ tôn Phật sát vô ác danh, diệc vô phụ nữ nhân ác đạo bố” (Đại sĩ Long Thọ nói: Cõi nước của vị Phật ấy không có danh từ xấu ác, cũng không có người nữ, nỗi sợ về đường ác), đường ác là chỉ ba đường ác: ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh; bố là nỗi sợ, không có người nữ, không có nỗi sợ ba đường ác, 乃至無有諸趣惡知識 “nãi chí vô hữu chư thú ác tri thức” (thậm chí là không có chư thú ác tri thức), chư thú ác tri thức ở đây là nói người ác. Ở thế giới hiện nay của chúng ta, ác tri thức quá nhiều, thiện tri thức quá ít, đều là tà tri tà kiến, đủ các ý niệm bất thiện. Tà tri tà kiến, tà thuyết tà hạnh ngập tràn xã hội, vô cùng đáng sợ, thế giới Cực Lạc không có. 又《往生論》云:淨土果報,離二種譏嫌過,應知 “Hựu Vãng Sanh Luận vân: Tịnh-độ quả báo, ly nhị chủng cơ hiềm quá, ưng tri” (Luận Vãng Sanh lại nói: Quả báo Tịnh-độ, lìa hai điều cơ hiềm, cần phải biết), cần phải biết. 一者體。二者名。體有三種:一者二乘人,二者女人,三者諸根不具人 “Nhất giả thể. Nhị giả danh. Thể hữu tam chủng: Nhất giả Nhị-thừa nhân, nhị giả phụ nữ, tam giả chư căn bất cụ nhân” (Một là thể. Hai là danh từ. Thể có ba điều: Một là người Nhị-thừa, hai là người nữ, ba là người không đầy đủ các căn). Thế giới Cực Lạc không có ba điều này, 名離體譏嫌。名亦有三種,非但無三體,乃至不聞二乘、女人、諸根不具 “danh ly thể cơ hiềm. Danh diệc hữu tam chủng, phi đãn vô tam thể, nãi chí bất văn Nhị-thừa, nữ nhân, chư căn bất cụ” (gọi là xa lìa thể cơ hiềm. Danh từ cũng có ba loại, không chỉ không có ba thể, thậm chí còn không nghe nói đến Nhị-thừa, người nữ, không đầy đủ các căn), cả danh từ cũng không nghe thấy, không ai nghĩ đến, cũng không có ai nói, hình như đến thế giới Cực Lạc, ai cũng quên sạch sẽ hết ba thứ này, hình như ba thứ này đều không tồn tại, như vậy gọi là 離名譏嫌 “ly danh cơ hiềm” (xa lìa danh từ cơ hiềm). 上論中所謂之譏嫌名,即願文中之不善名。又《疏鈔》曰:由耳之所聞,唯是諸佛如來萬德洪名,菩薩、聲聞及諸天善人種種嘉號,曾無三惡名字歷耳根故 “Thượng luận trung sở vị chi cơ hiềm danh, tức nguyện văn trung chi bất thiện danh. Hựu Sớ Sao viết: Do nhĩ chi sở văn, duy thị chư Phật Như Lai vạn đức hồng danh, Bồ-tát, Thanh-văn cập chư thiên thiện nhân chủng chủng gia hiệu, tằng vô tam ác danh tự lịch nhĩ căn cố” (Danh từ cơ hiềm mà bộ luận trên nói, chính là danh từ bất thiện trong nguyện văn. Trong Sớ Sao lại nói: Những âm thanh tai nghe được chỉ là vạn đức hồng danh của chư Phật Như Lai, danh hiệu tốt đẹp của Bồ-tát, Thanh-văn, chư thiên và thiện nhân, không hề có danh từ ba đường ác lọt vào nhĩ căn), không nghe thấy danh từ của ba đường ác. 耳中不聞惡名,故曰無不善名 “Nhĩ trung bất văn ác danh, cố viết vô bất thiện danh” (Tai không nghe đến danh từ xấu ác, nên gọi là không có danh từ bất thiện). Danh chính là danh từ, không có danh từ bất thiện, không có tên gọi bất thiện, đương nhiên càng không thể có những hiện tượng, sự thật bất thiện này, không có điều này. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

 

( Hết tập 191)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0