Responsive Menu
Add more content here...

Tập 206 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐI KINH KHOA CHÚ 2014 (Ging ln th 4)

PHM TH 7: TẤT THÀNH CHÁNH GIÁC

NHẤT ĐỊNH THÀNH CHÁNH GIÁC

Tp 206

Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tnh Không.

Ging ti: Hip Hi Giáo Dc Pht Đà Hng Kông.

Thi gian: Ngày 1 tháng 7 năm 2015.

Dịch gi: Diu Hip.

Gio chánh: Thích Thin Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 525, bắt đầu xem từ hàng thứ nhất:

【必成正覺第七】 “Tất Thành Chánh Giác Đệ Thất” (Phẩm Thứ Bảy: Nhất Định Thành Chánh Giác).

Đây là phẩm thứ bảy. Chúng ta xem khoa đề, 頌行願以求證 “Tụng Hạnh Nguyện Dĩ Cầu Chứng” (Tụng Hạnh Nguyện Để Cầu Được Chứng Minh), chia làm năm khoa nhỏ, tức là chia làm năm đoạn nhỏ. Đoạn thứ nhất: 法藏說偈 “Pháp Tạng Thuyết Kệ”(Ngài Pháp Tạng Thuyết Kệ). Mời xem kinh văn:

【佛告阿難。爾時法藏比丘說此願已。以偈頌曰。】 “Phật cáo A Nan, nhĩ thời Pháp Tạng Tỳ-kheo thuyết thử nguyện dĩ, dĩ kệ tụng viết” (Đức Phật bảo ngài A Nan: Bấy giờ, Tỳ-kheo Pháp Tạng nói lời nguyện này xong, dùng kệ tụng rằng).

Tỳ-kheo Pháp Tạng, không thể tùy tiện đọc qua câu nói này, chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ 48 nguyện phía trước là do Tỳ-kheo Pháp Tạng nói, báo cáo rất rõ ràng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuật lại cho chúng ta, Tỳ-kheo Pháp Tạng không đến nơi này, là [do] đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền đạt lại cho chúng ta không sót một chữ nguyên bản lời của Ngài.

Chúng ta xem Chú Giải, ở đây Niệm lão chú giải không nhiều, 法藏比丘於世間自在王如來,說四十八願已 “Pháp Tạng Tỳ-kheo ư Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, thuyết tứ thập bát nguyện dĩ” (Tỳ-kheo Pháp Tạng đối [trước] Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, nói 48 nguyện xong), dĩ là nói xong rồi, nói 48 nguyện xong rồi, 乃於佛前復以偈頌表此行願,並請證明 “nãi ư Phật tiền phục dĩ kệ tụng biểu thử hạnh nguyện, tịnh thỉnh chứng minh” (tiếp đó ở trước đức Phật, lại dùng kệ tụng để trình bày hạnh nguyện này, đồng thời thỉnh Phật chứng minh). Phát nguyện rồi, báo cáo với thầy, Ngài không chỉ phát nguyện, mà còn y theo nguyện ấy để tu hành, nghiêm túc nỗ lực, mong rằng thực hiện hết mỗi một nguyện trong 48 nguyện, đồng thời thỉnh Phật chứng minh cho Ngài. 以大願真誠深廣故,應時感得雨花地動,空中讚云:必定成佛。以上是本品內容 “Dĩ đại nguyện chân thành thâm quảng cố, ưng thời cảm đắc vụ hoa địa động, không trung tán vân: Tất định thành Phật. Dĩ thượng thị bổn phẩm nội dung” (Do đại nguyện chân thành sâu rộng, nên lập tức cảm được [trời] rưới hoa, mặt đất rung động, trên hư không ca ngợi rằng: Nhất định thành Phật. Trên đây là nội dung của phẩm này). Trong đây, điều chúng ta phải học là chân thành sâu rộng, phải thực tiễn trong sinh hoạt, thực tiễn trong công việc. Công việc của chư Phật Bồ-tát chính là dạy học, hiện đủ các thân ở mười phương Thế giới, độ các loài chúng sanh khác nhau.

Chúng ta xem đoạn tiếp theo, 願滿普濟 “Nguyện Mãn Phổ Tế” (Nguyện Viên Mãn Cứu Khắp), trong khoa này lại chia thành năm đoạn nhỏ. G1: 超世願滿 “Siêu Thế Nguyện Mãn” (Viên Mãn Nguyện Siêu Việt Thế Gian). Mời xem kinh văn:

【我建超世志。必至無上道。斯願不滿足。誓不成等覺。】 “Ngã kiến siêu thế chí, tất chí Vô thượng đạo. Tư nguyện bất mãn túc, thệ bất thành Đẳng Giác” (Con lập chí siêu thế, quyết đến đạo Vô thượng. Không thỏa mãn nguyện này, thề không thành Đẳng Giác).

Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 我建超世志 “Ngã kiến siêu thế chí” (Con lập chí siêu việt thế gian). 建者,立也 “Kiến giả, lập dã” (Kiến nghĩa là lập), kiến lập. 所謂超世志者,注經家中頗有異解 “Sở vị siêu thế chí giả, chú kinh gia trung phả hữu dị giải” (Về chí siêu việt thế gian: các nhà chú giải kinh có giải thích hơi khác biệt), Đại sư chú giải kinh điển thời xưa có cách nói không như nhau. 如淨影云 “Như Tịnh Ảnh vân” (Như ngài Tịnh Ảnh nói), Pháp sư ở chùa Tịnh Ảnh đời nhà Tùy, trong Chú Giải của ngài nói: 前所發中,求法身願、求淨土願,名超世願 “Tiền sở phát trung, cầu Pháp thân nguyện, cầu Tịnh Độ nguyện, danh siêu thế nguyện” (Trong nguyện đã phát ở trước, nguyện cầu Pháp thân, nguyện cầu Tịnh Độ, gọi là nguyện siêu việt thế gian). Tịnh Ảnh là ngài Huệ Viễn, hoàn toàn giống với đạo hiệu của Sơ tổ chúng ta, cho nên trong lịch sử gọi ngài là “Tiểu Huệ Viễn”, người đời nhà Tùy, ngài có trước tác Nghĩa Sớ cho Kinh Vô Lượng Thọ. 淨影以《魏譯》光明無量願 “Tịnh Ảnh dĩ Ngụy Dịch quang minh vô lượng nguyện” (Ngài Tịnh Ảnh dùng nguyện vô lượng quang minh trong bản Ngụy Dịch), ngài căn cứ vào bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, 光明無量願、壽命無量願與諸佛稱揚願,為攝法身願 “quang minh vô lượng nguyện, thọ mạng vô lượng nguyện dữ chư Phật xưng dương nguyện, vi nhiếp Pháp thân nguyện” (nguyện quang minh vô lượng, nguyện thọ mạng vô lượng và nguyện chư Phật xưng dương, làm nguyện nhiếp Pháp thân). Ở chỗ này, tuy mọi người nói không như nhau, nhưng đều đáng để chúng ta học tập. Tịnh tông, A Mi Đà Phật là người học điển hình, là người học mô phạm của Tịnh tông, chúng ta học theo Ngài, phải học cho giống. Phải giống với A Mi Đà Phật, vậy thì sao có thể không sanh về Thế giới Cực Lạc được chứ! Giống như thế nào? Điều thứ nhất chính là nguyện, Ngài phát 48 nguyện, ta cũng phát 48 nguyện, hoàn toàn tương đồng với nguyện của Ngài, vậy thì đúng rồi, học theo A Mi Đà Phật như vậy thì học được rất giống, tối thiểu là nhìn rất giống ở bên ngoài, là chỗ dựa căn bản để chúng ta vãng sanh. Pháp thân được nói ở phía trước, Tịnh Độ được nói ở phía sau, năm nguyện ấy siêu vượt thế gian. Cách nói của Pháp sư Cảnh Hưng giống với ngài. 義寂、望西等則謂總指所發之四十八願,後說甚是 “Nghĩa Tịch, Vọng Tây đẳng tắc vị tổng chỉ sở phát chi tứ thập bát nguyện, hậu thuyết thậm thị” (Ngài Nghĩa Tịch, Vọng Tây, v.v thì chỉ chung 48 nguyện đã phát ra, các nguyện sau thật sự đều như vậy). Không chỉ là năm nguyện ở phía trước này, mà trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều là bình đẳng, mỗi nguyện đều là chân thật, đều là lưu xuất từ trong Tự Tánh, ý nghĩa này càng viên mãn hơn.

《甄解》 “Chân Giải”, đây là [của] Tổ sư Tịnh tông nước Nhật Bản, ngài nói, 吾祖 “ngô Tổ” (Tổ sư của chúng ta), Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ tông Nhật Bản, chính là Đại sư Thiện Đạo, do họ công nhận. Ở Nhật Bản, Tịnh tông có mười mấy tông phái, nhưng Sơ tổ đều là Đại sư Thiện Đạo, họ rất cung kính đối với Đại sư Thiện Đạo. Nói lời của Đại sư Thiện Đạo: 不可思議四十八願 “Bất khả tư nghị tứ thập bát nguyện” (48 nguyện không thể nghĩ bàn), điều này đã khẳng định trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều không thể nghĩ bàn, 又云無礙誓願。世人以謂此四十八願者,願願各頭 “hựu vân vô ngại thệ nguyện. Thế nhân dĩ vị thử tứ thập bát nguyện giả, nguyện nguyện các đầu” (cũng gọi là thệ nguyện vô ngại. Người đời cho rằng 48 nguyện này, mỗi nguyện đều khác biệt). Đây có nghĩa là, người thế gian này của chúng ta có Phân biệt, có Chấp trước, cho dù là học Phật, nhưng trước khi chứng được quả A-la-hán, vẫn còn Phân biệt, còn Chấp trước; Chứng được A-la-hán mới buông xuống Kiến tư Phiền não. Trong số các vị Tổ sư Đại đức thời xưa, sự thành tựu của các ngài không thể nghĩ bàn, nhưng các ngài nói kinh, chú sớ, vào lúc đó công phu vẫn chưa đến nơi đến chốn, chưa đoạn Tập khí; Chứng được A-la-hán, A-la-hán cũng chưa đoạn Tập khí, Bích-chi-phật mới đoạn được Tập khí, cho nên có kiến giải khác nhau, cách nhìn khác biệt. Tuy là khác nhau, nhưng đều có lý, đều đáng để chúng ta học tập.

Vì vậy, đoạn phía sau này trong Chân Giải nói rất hay, ngài nói nguyện có 48, nhưng 48 nguyện là một nguyện, nói chung là một nguyện. Nguyện ấy là gì? Nguyện ấy chính là rộng độ chúng sanh, chúng ta cần phải học nguyện này. Hiện nay chúng ta phát nguyện là nguyện gì? Chỉ cầu chính mình vãng sanh, không nghĩ đến người khác. Quay lại xem lời nguyện này của A Mi Đà Phật, còn gì tuyệt vời hơn! Mỗi nguyện đều là rộng độ hết thảy chúng sanh trong cõi nước của tất cả chư Phật khắp mười phương ba đời, trên đến Đẳng giác Bồ-tát, dưới tận chúng sanh trong địa ngục, không sót một ai. Đây là 48 nguyện của đức Mi Đà, tâm lượng này lớn biết mấy! Chúng ta tuyệt đối không thể lơ là, chẳng thể quên mất. Tâm lượng của người thế gian chúng ta chỉ là nghĩ đến người thân quyến thuộc, tâm lượng của người học Phật lớn hơn một chút, [là] oán thân trái chủ, lục thân quyến thuộc, có mấy người có thể nghĩ đến một khu vực, một quốc gia này của chúng ta? Rất ít. Trong lúc làm pháp hội lớn thì có, tôi thấy được nguyện văn này trong kệ hồi hướng. Không thấy được [nguyện] giống như A Mi Đà Phật, tất cả chúng sanh trong mười phương ba đời khắp Pháp giới Hư không giới; Tất cả chúng sanh này, trên là Đẳng giác Bồ-tát, dưới là Địa ngục Vô Gián, bao gồm hết thảy, không bỏ sót một ai. Đây là điều chúng ta cần phải ghi nhớ, phải học tập, [vậy thì] nguyện của chúng ta mới tương ưng với A Mi Đà Phật, bằng không thì phát nguyện như thế nào cũng không tương ưng với A Mi Đà Phật.

A Mi Đà Phật nguyện nguyện độ chúng sanh, chúng ta vẫn còn ý kiến với chúng sanh, chúng sanh này tôi thích, tôi phải độ anh ấy; Người kia tôi ghét, tôi không độ anh ấy đâu, có vẻ như độ họ đến Thế giới Cực Lạc, hằng ngày nhìn thấy họ thì không vui. Chúng ta thử nghĩ xem, tâm thái như vậy có thể đến được Thế giới Cực Lạc không? Có thể một niệm lúc lâm chung của quý vị không có tạp niệm này thì quý vị đến được; Nếu một niệm lâm chung vẫn còn tồn tại những ý niệm đó thì không đến được. Sự thù thắng của Pháp môn Tịnh tông, không xét đến những phiền não Tập khí này, gọi là đới nghiệp vãng sanh, chú trọng vào một niệm khi lâm chung, đây là sự thù thắng không gì sánh bằng của Pháp môn này. Cho nên tu Pháp môn này, phải mở rộng tâm lượng, lâm chung mới nắm chắc. Đối với tham sân si mạn nghi, oán hận não nộ phiền, tôi hoàn toàn buông xuống rồi, không để hết thảy những điều này ở trong tâm thì tăng trưởng tín tâm vãng sanh Tịnh Độ của chúng ta, nguyện lực kiên cố hơn. Ở thế gian này, người đối với ta dù không tốt đi nữa, người đời đời kiếp kiếp hãm hại ta, đều tha thứ cho họ, không để điều đó trong tâm, khoan hồng đại lượng giống như chư Phật Như Lai vậy, đại lượng là điều gì cũng có thể bao dung, không có gì không thể bao dung, điều này quan trọng.

Ở đây tổng kết thành 無礙誓願 “vô ngại thệ nguyện” (thệ nguyện vô ngại), phải chú trọng hai chữ 無礙 “vô ngại”, có chướng ngại thì không được, có tốt xấu thì không được. Phiền não căn bản: tham sân si mạn nghi, oán hận não nộ phiền, có thể buông xuống thì vô ngại thôi. Buông những điều trước, tâm vô ngại rồi; Buông oán hận não nộ phiền ở phía sau, Sự vô ngại rồi, Lý Sự đều vô ngại. Chúng ta phải học tập điều này, hạ thủ công phu này ngay trong sinh hoạt thường ngày. Người hủy báng chúng ta, người chướng ngại chúng ta, người hãm hại chúng ta, phải tha thứ cho họ, vì sao vậy? Vì chúng ta biết họ và ta là một thể, chúng ta là do Tự Tánh sanh ra, họ cũng là do Tự Tánh của ta sanh ra, là một chẳng phải hai. Đại đức xưa ở Trung Hoa, lúc đó Phật giáo vẫn chưa truyền đến Trung Hoa, đã nói ra天地與我同根,萬物與我一體 “thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (trời đất cùng gốc với ta, vạn vật cùng thể với ta), người nói lời này là người như thế nào? Khi Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa, trong Phật giáo đã nói là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh mới có thể nói ra lời này, người ở Ấn Độ, người ấy chính là Phật Bồ-tát; Người ở Trung Hoa, chúng ta gọi là Thánh Hiền, đại Thánh đại Hiền. Đã là một thể, còn có thể oán hận sao? Răng cắn trúng lưỡi rồi, lưỡi vẫn phải trả thù sao? Vì sao ngay cả ý niệm trả thù cũng không có? Vì một thể. Điều này quan trọng, lúc nào cũng nghĩ đến khắp Pháp giới Hư không giới là một thể với ta. Câu cuối cùng trong năm câu nói khi khai ngộ của Đại sư Huệ Năng: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp), là Tự Tánh của chính mình, Tự Tánh của người khác và Tự Tánh của chính mình là cùng một Tự Tánh. Tự Tánh chính là Chân Tâm, Chân Tâm gọi là tâm Bồ-đề. Vì vậy, chúng tôi thường khuyên đồng học phải phát tâm Bồ-đề, có nghĩa là sao? Sinh hoạt dùng Chân tâm, công việc dùng Chân tâm, đối người xử việc tiếp vật đều dùng Chân tâm, vậy gọi là phát tâm Bồ-đề.

Quý vị xem, tâm Bồ-đề, vào 30 năm trước, khi tôi giảng ở nước Mỹ, tôi giảng mọi người dễ hiểu. Người xưa giải thích không dễ hiểu, tôi nói thì dễ hiểu, tôi nói mười chữ 真誠、清淨、平等、正覺、慈悲 “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”, chân thành là thể, bốn điều phía sau: thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi là dụng, có thể có dụng. Dụng, ba điều trước là tự thọ dụng, là đối với chính mình; Từ bi ở cuối cùng là tha thọ dụng, đối với người khác, đối với ngoài thân thì một tấm lòng từ bi. Đối với chính mình: thanh tịnh, bình đẳng, giác, đây là ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là thanh tịnh, tâm thanh tịnh là A-la-hán; Thứ hai là bình đẳng, bình đẳng là Bồ-tát, cao hơn A-la-hán; Thứ ba là giác, giác chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, [là] tự thọ dụng. Không thể lơ là đối với thanh tịnh bình đẳng giác, đang tu điều gì? Là tu điều này, đối nội thì tu thanh tịnh bình đẳng giác của chính mình, thanh tịnh, không có ô nhiễm; Bình đẳng, không có cao thấp; Giác, viên mãn thành Phật. Đối với người, dùng tâm thanh tịnh đối với người khác, dùng tâm bình đẳng đối với người khác, dùng tâm chánh giác đối với người khác. Đối người xử việc tiếp vật thảy đều dùng [tâm] chân thật, không thể dùng [tâm] giả dối. Đây là Phật giáo, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, Hiển giáo hay Mật giáo, Tông môn hay Giáo hạ, cho đến 84 ngàn Pháp môn, tâm Bồ-đề là bình đẳng. Phát tâm Bồ-đề là Đệ tử Phật chân thật; Không phát tâm Bồ-đề thì không phải là Đệ tử Phật chân thật, là học trò ở ngoài cửa, dự thính ở ngoài cửa. Chân thật phát tâm mới là Đệ tử chân chánh chân thật của đức Phật, chẳng thể không biết, chẳng thể không hiểu.

Lần này là lần thứ tư chúng ta cùng nhau học tập Kinh Vô Lượng Thọ, khác với ba lần trước, ba lần trước chúng ta chú trọng vào nghĩa lý của kinh, lần học tập này thì chúng ta làm sao thâm nhập, làm thế nào được Chân thật Chi tế, trí huệ chân thật, lợi ích chân thật, chúng ta chú trọng điều này. Vì vậy, chúng ta đặc biệt có lớp học tập, đồng học trong lớp học tập tốt, đều có cảm xúc này, thật sự được lợi ích. Chúng ta học tập sâu hơn một bậc, mỗi câu mỗi chữ đều không bỏ qua.

Câu dưới đây nói hay, 又曰不可思議四十八願。四十八,一一願皆具不可思議德故 “hựu viết bất khả tư nghị tứ thập bát nguyện. Tứ thập bát, nhất nhất nguyện giai cụ bất khả tư nghị đức cố” (lại nói 48 nguyện không thể nghĩ bàn. Vì trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều có đức không thể nghĩ bàn), câu này quan trọng, mỗi nguyện đều đầy đủ công đức không thể nghĩ bàn, không chỉ có năm nguyện. Trong 48 nguyện, Đại sư Thiện Đạo tuyển chọn ra năm nguyện quan trọng nhất, đó chính là定成正覺 “định thành Chánh Giác” (nhất định thành Chánh Giác), [là] nguyện thứ 12; Nguyện thứ 13 là 光明無量“quang minh vô lượng”, quang minh là trí huệ. Vì vậy, Đại sư Huệ Năng khai ngộ, câu thứ ba nói là本自具足 “bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ), đầy đủ điều gì? Thứ nhất là đầy đủ quang minh vô lượng, thứ hai là đầy đủ thọ mạng vô lượng, đây là lợi ích chân thật nhất trong các lợi ích. Ở đâu? Ở trong tâm Bồ-đề. Vì sao trí huệ của Phật lớn như vậy? Trí huệ của Bồ-tát, của Pháp thân Bồ-tát gần như giống với Phật, vì sao vậy? Vì đã Minh tâm Kiến tánh. Minh tâm Kiến tánh thì gọi là Pháp thân Bồ-tát, vì sao vậy? Vì ngài chứng được Pháp thân rồi. Thế nào là Pháp thân? Khắp Pháp giới Hư không giới là một thể, đây chính là Pháp thân. Mỗi người chúng ta đều có, trước nay chưa từng tách rời, chỉ là [do] không nhận biết được, [nên] xem nhục thân này là chính mình, quên mất Pháp thân, dính tướng rồi. Người khai ngộ thì biết, thân sanh diệt này cùng với Tự Tánh không sanh không diệt của tôi là một không phải hai, họ thật sự tin rằng Tự Tánh vốn có vô lượng công đức, vô lượng ở đây chính là cả vũ trụ, cả vũ trụ là do tâm của chính mình biến hiện ra. Vì vậy, quý vị quan sát cả vũ trụ, thì quý vị có thể từ từ thể hội được công đức của Tự Tánh vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.

Ở Nhật Bản, Nhật Bản có một phái chuyên niệm nguyện thứ 18, nguyện thứ 18 là gì? Mười niệm chắc chắn vãng sanh; Không cần 48 nguyện nữa, chỉ cần một nguyện. Tôi đã từng giảng kinh ở Nhật Bản hai lần, [những] Pháp sư, đồng tu bên đó đã hỏi tôi vấn đề này, chúng tôi chuyên niệm nguyện thứ 18 có được không? Tôi nói người hiểu thì được, người không hiểu thì không được. Họ hỏi tôi thế nào là hiểu? Trong 48 nguyện, mỗi một nguyện đều đầy đủ 47 nguyện còn lại, như vậy là hiểu; Một nguyện, một là tất cả, tất cả là một, quý vị chấp trước một nguyện này, trong một nguyện này viên mãn 47 nguyện còn lại. Như vậy họ mới rõ. Quý vị tách riêng nguyện này ra thì không được, không cần những nguyện khác nữa, sao có thể được? Vậy thì nguyện của A Mi Đà Phật có khiếm khuyết, không viên mãn. Mỗi nguyện đều viên mãn, mỗi nguyện đều không khiếm khuyết, một nguyện chính là tất cả nguyện, nguyện nào cũng là 48 nguyện, như vậy mới không có sai lầm. Chỉ chấp trước một nguyện, không cần 47 nguyện còn lại thì sai rồi!

Vì vậy, phần sau này nói rất hay, chúng ta phải ghi nhớ điều này, trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều đầy đủ đức không thể nghĩ bàn. 諸願相入,而無所隔,名無礙 “Chư nguyện tương nhập, nhi vô sở cách, danh vô ngại” (Các nguyện nhập vào nhau, không có ngăn cách, gọi là vô ngại), giải thích về vô ngại rồi. 由上可見四十八願互融互入,一一皆是超世之願也 “Do thượng khả kiến tứ thập bát nguyện hỗ dung hỗ nhập, nhất nhất giai thị siêu thế chi nguyện dã” (Từ trên có thể thấy 48 nguyện dung nhập lẫn nhau, mỗi nguyện đều là nguyện siêu vượt thế gian). Tổ sư nói với chúng ta những nguyện nào trong 48 nguyện là thù thắng, là nói với người sơ học, vì sao vậy? Vì Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước của quý vị vẫn rất sâu đậm, nói với quý vị điều này, khiến quý vị sanh khởi tín tâm, cầu nguyện vãng sanh, từ từ nâng cấp lên cao, vậy thì đúng rồi.

Đoạn tiếp theo, 善導大師於《法事贊》中云:弘誓多門四十八,遍標念佛最為親。是謂一一之願悉為念佛也 “Thiện Đạo Đại sư ư Pháp Sự Tán trung vân: Hoằng thệ đa môn tứ thập bát, biến tiêu niệm Phật tối vi thân. Thị vị nhất nhất chi nguyện tất vi niệm Phật dã” (Trong sách Pháp Sự Tán, Đại sư Thiện Đạo nói: Hoằng thệ nhiều môn bốn mươi tám, đều nêu niệm Phật gần gũi nhất. Đây có nghĩa là mỗi một nguyện đều là niệm Phật). Làm sao biết được mỗi nguyện đều là niệm Phật? Đó chính là, “biến” là rộng khắp, chỉ bày rộng khắp cho chúng ta niệm Phật là gần gũi nhất, ba tư lương: tín, nguyện, trì danh. Hoa Nghiêm nói rất hay, phải thường xuyên để câu nói này của Hoa Nghiêm vào trong tâm, luôn đề khởi công phu quán chiếu, chính là nói 一即一切,一切即一 “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một là tất cả, tất cả là một). Phạm vi lớn, một pháp hàm nhiếp tất cả pháp, một nguyện hàm nhiếp 48 nguyện. Chúng ta mở rộng ra, 48 nguyện có thể bao gồm vô lượng vô biên đại nguyện của chư Phật Bồ-tát không? Bao gồm. Lại mở rộng ra nữa, trên thế giới hiện nay có rất nhiều tôn giáo, những tôn giáo ấy có thể bao gồm trong nguyện này không? Bao gồm, mỗi nguyện trong 48 nguyện đều bao quát, bất kỳ nguyện nào trong 48 nguyện đều bao quát một cách viên mãn. 84 ngàn Pháp môn là một môn, một môn chính là 84 ngàn Pháp môn, một môn chính là vô lượng Pháp môn, vô lượng Pháp môn chính là một môn. Chân tướng sự thật này, chúng ta có biết không? Nếu thật sự biết được thì tâm quý vị định rồi, quý vị sẽ giữ vững môn tu tập này của mình.

Vì vậy, có cần phải thay đổi tôn giáo không? Không cần. Quý vị tin Cơ Đốc giáo, tương lai quý vị sanh lên Thiên đường. Tôi muốn đến Thế giới Cực Lạc, không muốn lên Thiên đường. Nếu quý vị thật sự lên Thiên đường, chúng tôi sanh đến Thế giới Cực Lạc, đến đó lại gặp nhau, sao anh cũng ở đây? Người kia nói: sao anh cũng ở đây vậy? Chúng ta học tôn giáo khác nhau, sao đều ở nơi này? Quý vị mới hoảng nhiên đại ngộ, thông tin trong Kinh Hoa Nghiêm nói với quý vị, quý vị chưa hiểu được. “Một là tất cả, tất cả là một”, quý vị gọi đó là Thiên đường, chúng tôi gọi đó là Thế giới Cực Lạc, thật ra là cùng một nơi, vi diệu chẳng tả xiết. Tôn giáo có xung đột không? Không có xung đột. Xung đột từ đâu ra? Là chính quý vị mê hoặc điên đảo mà ra. Nếu quý vị làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì xung đột ở đâu? Từ đó chúng ta hiểu rõ rồi, hiểu rõ thì chúng ta gặp được người của tôn giáo khác, nói gì với họ? Thâm nhập một môn, anh là Cơ Đốc giáo thì thâm nhập một bộ Kinh Thánh, huân tu lâu dài, nói với họ điều này. Giao tiếp với các tôn giáo khác, có thể đọc qua kinh điển của họ, nhưng con đường của ta không thay đổi, vậy thì đúng rồi. Những tôn giáo đó cũng có thể giúp quý vị, môn này của quý vị là chánh tu, những môn khác giúp quý vị là trợ tu, chánh trợ song tu. Cho nên hiểu được thì đều là lợi ích, đều là công đức; Không hiểu, vậy thì nảy sinh chướng ngại, thậm chí là tạo tội nghiệp. Hủy báng lẫn nhau, đều tự khen mình, vậy thì tạo tội nghiệp, gọi là khen mình chê người, không biết được mình với người khác là một, một thể. Chẳng thể không biết đạo lý này, khi biết được mình với người khác là một thể, một môn này chính là tất cả Pháp môn, chính là phổ môn, thâm nhập một môn, có lý gì mà không thành công? Ba điều chân thật mà Kinh Vô Lượng Thọ giảng, quý vị thảy đều đạt được.

Ba điều chân thật này, chúng tôi không theo thứ tự trong kinh điển, chúng tôi chiếu theo nhu cầu của chính chúng ta, thứ nhất là trí huệ, trí huệ chân thật; Thứ hai là Chân thật Chi tế; Thứ ba là lợi ích chân thật, đây là đối với chính mình. Đối với người khác thì sao? Khi đối với người khác, phải đảo lại hai điều ở phía sau, đối với người khác thì trí huệ chân thật, lợi ích chân thật, sau cùng là Chân thật Chi tế. Thứ tự sắp xếp là linh hoạt, không phải cứng nhắc. Tùy duyên độ chúng, tùy duyên là linh hoạt, vì vậy Phật pháp không có định pháp, là linh hoạt, làm gì có định pháp? Thân tướng mà đức Phật thị hiện, không có tướng cố định, trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa nói: nên dùng thân gì để được độ thì hiện thân ấy, quý vị xem linh hoạt biết mấy, họ cần pháp gì thì thuyết pháp ấy. Đức Phật có pháp để thuyết không? Không có định pháp để thuyết. Từ đây có thể biết, gọi là pháp, đều là pháp phương tiện, chân thật cũng là phương tiện, trong phương tiện có chân thật. Vì sao vậy? Vì quý vị khai ngộ thì chân thật thôi; Không khai ngộ thì chân thật cũng là phương tiện, tuyệt diệu!

Tịnh Độ tông này, đều nêu niệm Phật là gần gũi nhất. Mỗi một nguyện đều là niệm Phật, không có nguyện nào chẳng phải là niệm Phật. 又《往生論》謂三種莊嚴入一法句 “Hựu Vãng Sanh Luận vị tam chủng trang nghiêm nhập nhất pháp cú” (Thêm nữa, Luận Vãng Sanh nói ba loại trang nghiêm nhập vào một câu pháp). Đã nói ba loại trang nghiêm này nhiều rồi, cõi nước trang nghiêm, trước tiên là nói từ Y báo, chính là sự trang nghiêm của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, 17 loại trang nghiêm, đã nói 17 loại trang nghiêm; Sự trang nghiêm của Chánh báo, Chánh báo có Phật, có Bồ-tát; Về Phật, đã nói 8 loại, Bồ-tát là người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, quá nhiều quá nhiều rồi, đã nói 4 loại. Ba loại này là phân chia tổng quát, ba loại là: Y báo, đức Mi Đà, các vị Bồ-tát khác nhập vào một câu pháp. 一法句者,真實智慧無為法身 “Nhất pháp cú giả, chân thật trí huệ Vô vi Pháp thân” (Một câu pháp là trí huệ chân thật, Pháp thân Vô vi), Pháp thân Vô vi chính là Chân thật Chi tế, hợp lại với nhau là lợi ích chân thật, đây là tông chỉ của Tịnh tông.

Mục tiêu cuối cùng của việc học tập Tịnh tông, chúng ta muốn được điều gì? Trí huệ chân thật ở đâu? Pháp thân Vô vi ở đâu? Lợi ích chân thật ở đâu? Đều không nằm ngoài tâm, ngoài tâm không có pháp, đều ở trong tâm, tâm này là Chân Tâm, Bồ-đề tâm. Trong Vọng tâm thì không có, trong Vọng tâm có Phiền não. Trong Chân tâm có trí huệ, có Pháp thân, có công đức, lợi ích chính là công đức, lợi ích chân thật tức là công đức chân thật, vô lượng vô biên công đức. Công là công dụng, đức là vốn có, Tự Tánh vốn có. Tự Tánh chính là Pháp thân, Pháp thân là chính mình, không sanh không diệt, thanh tịnh Vô vi. Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là ở chỗ này, ba loại chân thật được nói trong Kinh này. Chân thật chính là Tự Tánh, chính là thân thật của chính mình, Thiền tông đã nói là 父母未生前本來面目 “phụ mẫu sanh tiền bản lai diện mục” (bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra). Người học Tịnh Độ chúng ta, bản lai diện mục chính là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật chính là bản lai diện mục của chúng ta. Chúng ta đến Thế giới Cực Lạc để làm Phật, danh hiệu thảy đều là A Mi Đà Phật. Ở Thế giới Cực Lạc sẽ không thấy rối, không cần phải phân biệt, sẽ không nhìn nhầm chút nào. A Mi Đà Phật là thầy của ta, mỗi người vãng sanh đến bên đó đều thành tựu, thành tựu rồi đều là A Mi Đà Phật, đều thành Phật rồi. Phẩm này, 必成正覺 “Tất Thành Chánh Giác”, nhất định thành Chánh Giác.

Trí huệ chân thật, Pháp thân Vô vi, đây chính là một câu pháp. 且以聲字皆實相 “Thả dĩ thanh tự giai Thật tướng” (Hơn nữa, vì âm thanh và chữ viết đều là Thật tướng), âm thanh là tiếng niệm Phật, “Nam mô A Mi Đà Phật”, âm thanh; chữ viết là sáu chữ này, không cần “Nam mô” cũng được, bốn chữ “A Mi Đà Phật”, âm thanh, bốn chữ này đều là Thật tướng, thật là chân thật. Thế nào gọi là Thật tướng? Vĩnh hằng bất biến. Vì sao âm thanh và chữ viết đều vĩnh hằng bất biến? Vì đó là từ Tự Tánh lưu xuất ra. Vì sao âm thanh và chữ viết của chúng ta ngày nay lại biến đổi? Vì từ A-lại-da lưu xuất. A-lại-da là gì? A-lại-da là Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước. Chúng tôi thường dùng ba từ này: Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước. Nếu đối chiếu với Pháp Tướng tông thì Vọng tưởng chính là A-lại-da thức, Chấp trước là Mạt-na thức, Phân biệt là Ý thức Thứ sáu, vậy thì quý vị hoàn toàn hiểu rõ. Chưa chuyển thức thành trí thì gọi là Quyền giáo Bồ-tát, Quyền giáo là chưa vượt khỏi Mười pháp giới, Phật, Bồ-tát trong Mười pháp giới, chúng ta phải biết. Nếu chuyển tám thức thành bốn trí, chuyển tám thức, buông xuống Vọng tưởng, không còn Vọng tưởng thì Đại Viên Kính trí hiện tiền; Không còn Chấp trước thì Bình Đẳng Tánh trí hiện tiền; Không còn Phân biệt thì Diệu Quán Sát trí hiện tiền; Vừa chuyển như vậy, thì năm thức trước cũng chuyển rồi, biến thành Thành Sở Tác trí. Thành Sở Tác trí này là gì? Giúp đỡ chúng sanh, phương tiện độ hóa chúng sanh đều xuất hiện, vô lượng vô biên phương tiện, 84 ngàn Pháp môn là phương tiện. Vì vậy, tu hành của Tướng tông là chuyển thức thành trí, Hoa Nghiêm, Thiên Thai đều là tu Chỉ Quán. Phương pháp của Tịnh Độ tông tuyệt diệu, đới nghiệp vãng sanh, một câu Phật hiệu, tín nguyện trì danh, bốn chữ thì giải quyết được rồi. Quý vị phải thật sự tin, không thể có chút nghi ngờ nào, phải thật sự phát nguyện, đời này của tôi, niệm niệm chỉ là cầu sanh Tịnh Độ, tôi không muốn làm chuyện lục đạo luân hồi nữa, buông xuống tất cả những việc trong lục đạo luân hồi. Tùy duyên không phan duyên, phan duyên rất vất vả, [là] tạo nghiệp, tùy duyên không tạo nghiệp, tùy duyên có thể thành tựu công đức, tùy duyên cần có trí huệ, phan duyên là tình cảm. Đều phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ.

法藏菩薩大願攝三種莊嚴 “Pháp Tạng Bồ-tát đại nguyện nhiếp tam chủng trang nghiêm” (Đại nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng thu lấy ba loại trang nghiêm), Y báo trang nghiêm, Chánh báo trang nghiêm, trong Chánh báo có đức Phật trang nghiêm (A Mi Đà Phật trang nghiêm), đại chúng Bồ-tát trang nghiêm, trong 48 nguyện, mỗi nguyện đều thu gom cả ba loại trang nghiêm. Vì vậy, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thù thắng không cách nào diễn tả được, tư tưởng của chúng ta không đạt đến, ngôn ngữ của chúng ta cũng không đạt đến, 究竟圓滿,圓入一法句 “cứu cánh viên mãn, viên nhập nhất pháp cú” (cứu cánh viên mãn, nhập trọn vẹn vào một câu pháp), hiếm có biết mấy! Tiếp theo nói với chúng ta, 故此南無阿彌陀佛 “cố thử Nam mô A Mi Đà Phật” (nên Nam mô A Mi Đà Phật này), sáu chữ này, một câu danh hiệu này, 即是法身本體,即是圓圓果海 “tức thị Pháp thân bổn thể, tức thị viên viên quả hải” (chính là Bản thể của Pháp thân, chính là biển quả viên viên), vì sao nói hai chữ “viên”? Vì Nhân: viên mãn rồi; Quả: viên mãn rồi; Nhân viên quả mãn, 乃四十八願之所標 “nãi tứ thập bát nguyện chi sở tiêu” (là điều được hiển bày trong 48 nguyện), xem 48 nguyện, quý vị liền thể hội được, 48 nguyện là nghĩa căn bản mà Tịnh tông nương vào, Tịnh Độ tông là kiến lập trên 48 nguyện, 48 nguyện chính là một câu danh hiệu, 故體具本願一切功德妙用 “cố thể cụ bổn nguyện nhất thiết công đức diệu dụng” (cho nên, thể đầy đủ tất cả công đức diệu dụng của bổn nguyện), đó đã là Bản thể của Pháp thân, câu Phật hiệu này từ Bản thể mà lưu xuất tất cả công đức diệu dụng. Diệu dụng quá nhiều rồi, thân tâm của chúng ta bất an, niệm câu Phật hiệu này thì được Phật lực gia trì, thân tâm an rồi; gặp phải một số tai biến, quý vị vẫn có thể đề khởi câu Phật hiệu này, nhất tâm xưng niệm thì tai biến liền được hóa giải, thật sự khởi tác dụng, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh.

Bổn nguyện niệm Phật của người Nhật, không thể nói là họ không có đạo lý, Tổ sư đề xướng rất có trí huệ. Nếu chúng ta có thể hiểu được 一即一切,一切即一 “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một là tất cả, tất cả là một), vậy thì sẽ không chê trách nữa, mà còn ca ngợi họ, mong rằng họ niệm Phật đừng thay đổi. Nhất tâm chuyên niệm, có lý gì mà không vãng sanh? Lão Hòa thượng Hải Hiền một câu Phật hiệu, 92 năm không chuyển hướng. Ngài niệm đến cảnh giới nào? Chắc chắn là niệm đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Bởi vì ngài đã từng nói một câu, tin tức tiết lộ trong câu này: “Điều gì tôi cũng biết”. Người nào dám nói câu này? Người Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ dám nói. Nếu không Minh tâm Kiến tánh, mà nói câu này là đại vọng ngữ, là khen mình chê người, tội đại vọng ngữ là ở Địa ngục Vô Gián. Ngài có thể nói ra câu này, khó! Để lộ một chút tin tức cho chúng ta, điều gì cũng biết; Nhưng có nói không? Không nói, tuyệt diệu! Quý vị hỏi ngài, ngài không nói gì cả, ngài chỉ khuyên quý vị niệm Phật.

Tiếp theo nói rất hay, 又此名號,是性德之本體 “hựu thử danh hiệu, thị Tánh đức chi Bổn thể” (thêm nữa, danh hiệu này là Bản thể của Tánh đức), vô lượng giác, tất cả vô lượng, xuất sanh vô tận, danh hiệu là Bản thể của Tánh đức. 修德所圓成,性修二德,圓攝無餘 “Tu đức sở viên thành, tánh tu nhị đức, viên nhiếp vô dư” (Tu đức đã viên thành, Tánh đức và Tu đức, nhiếp trọn vẹn không thiếu sót), trong Tu đức có Tánh đức, trong Tánh đức có Tu đức, Tánh và Tu tương ưng, Tánh và Tu là một thể, Tánh và Tu không hai, hàm nhiếp trọn vẹn không thiếu sót, điều này khởi tác dụng thì không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên. 今四十八願,遍標念佛 “Kim tứ thập bát nguyện, biến tiêu niệm Phật” (48 nguyện này, đều nêu niệm Phật), chỉ rõ một cách phổ biến cho chúng ta về Pháp môn Niệm Phật. 願願皆攝佛之果德 “Nguyện nguyện giai nhiếp Phật chi quả đức” (Mỗi nguyện đều hàm nhiếp quả đức của Phật), trong mỗi một nguyện đều bao gồm quả đức của Phật, 一一全顯無為法身,故可悉謂為攝法身也 “nhất nhất toàn hiển Vô vi Pháp thân, cố khả tất vị vi nhiếp Pháp thân dã” (mỗi nguyện đều hiển bày Pháp thân Vô vi, nên đều có thể gọi là nhiếp Pháp thân). Pháp thân là nhất định không thể tách rời, không có một pháp nào có thể tách rời Pháp thân. Giống như màn hình tivi của chúng ta, trên màn hình, mỗi hình ảnh trong từng thước tấc cũng không tách rời màn hình. Cùng một đạo lý, những gì chúng ta thấy được, những gì nghe được, cảnh giới mà sáu căn tiếp xúc với bên ngoài là vô lượng vô biên, Pháp thân ở đâu? Nếu thấy được Tánh ở trong Tướng thì khai ngộ thôi, Tánh và Tướng không hai, Tánh và Tướng như nhau. Làm thế nào mới có thể thấy Tánh? Thấy sắc nghe âm thanh, sáu căn duyên theo cảnh giới sáu trần, không có Vọng tưởng, không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước thì thấy Tánh thôi. Vì sao hiện nay chúng ta không thể thấy Tánh? Vì chúng ta vừa tiếp xúc thì khởi Phân biệt, Chấp trước, khởi Vọng tưởng, đó là phàm phu; Thật sự làm được không Chấp trước, đó chính là A-la-hán; Không Phân biệt, không Chấp trước là Bồ-tát; Không Khởi tâm, không Động niệm là Pháp thân Đại sĩ. Tu ở đâu? Hoàn toàn tu trong cảnh giới của căn, trần, thức.

25 viên thông trong Kinh Lăng Nghiêm, 25 vị đại Bồ-tát, các ngài làm sao có thể thành đạo Vô thượng? Chính là [trong] sáu căn sáu trần sáu thức, chọn lấy một món để tu, lâu ngày thì các ngài tu thành công rồi. Bồ-tát Đại Thế Chí, ngài dùng Pháp môn Niệm Phật này mà tu thành công; Bồ-tát Quán Âm dùng phản văn văn Tự Tánh mà tu thành công. Phương pháp tu hành của hai vị Bồ-tát này, chính là nguồn gốc của phương pháp tu học Tịnh tông. 反聞聞自性,性成無上道 “Phản văn văn Tự Tánh, Tánh thành Vô thượng đạo”, phản văn chính là thường xuyên quán sát Tự Tánh, Tự Tánh là Chân Tâm, tuyệt đối không thể có Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước xâm nhập vào, chúng tôi thường nói là: trong tâm chỉ để A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra, điều gì cũng không để trong tâm thì đúng rồi, chính là phương pháp tu hành này. Thấy sắc, A Mi Đà Phật; Nghe tiếng, A Mi Đà Phật, hoàn toàn đều quy về A Mi Đà Phật. Tất cả sắc tướng là do A Mi Đà Phật biến ra; Tất cả âm thanh đều là do A Mi Đà Phật biến ra, hết thảy đều quy về A Mi Đà Phật thì tốt, đừng khởi những Phân biệt Chấp trước khác, vậy là biết tu. Vì vậy, ngài không cần thời gian rất dài, thời gian hai ba năm, tâm của ngài thanh tịnh rồi; Thời gian bảy tám năm, tâm của ngài bình đẳng rồi; Mười mấy hai mươi năm thì ngài không khởi tâm, không động niệm, thì khai ngộ, thì kiến Tánh rồi.

Tôi thấy lão Hòa thượng Hải Hiền Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh khoảng vào lúc nào? Khoảng 40 tuổi. Ngài là thị hiện, thị hiện một phàm phu thông thường. Dùng phương pháp của ngài, 20 tuổi ngài bắt đầu niệm Phật, niệm đến 40 tuổi, 20 năm, có thể đạt đến Lý nhất tâm Bất loạn. Phải gặp được thầy tốt, thầy tốt lựa chọn Pháp môn cho quý vị, sẽ không chọn sai, thích hợp với căn tánh của quý vị. Điều kiện mà chính mình có đủ [là] thành thật, nghe lời, thật làm thì có thể thành công. Vì vậy, chúng ta thấy được ba vị Thánh ở chùa Lai Phật, làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta trong thời đại này. Quý vị xem, các ngài ra đi tự tại biết bao, thong dong biết mấy! Tuổi tác đã lớn, nhưng không có Già khổ, không có Bệnh khổ, không có Chết khổ. Tám khổ trong thế gian, ngài không có Cầu bất Đắc khổ, hoàn toàn buông xuống rồi, không cầu nữa, thật sự là không tranh với người, không cầu nơi đời, nhất tâm hướng về Thế giới Cực Lạc, một lòng đợi A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn ngài vãng sanh.

諸願互融相入,無所隔礙,一一願含無量不可思議無上殊勝之願,無有限量。進言之,則所云四十八者,亦只是隨順眾生之假名,實則本願無量也。又本願之數雖無量,但究竟只是一法句也 “Chư nguyện hỗ dung tương nhập, vô sở cách ngại, nhất nhất nguyện hàm vô lượng bất khả tư nghị vô thượng thù thắng chi nguyện, vô hữu hạn lượng. Tiến ngôn chi, tắc sở vân tứ thập bát giả, diệc chỉ thị tùy thuận chúng sanh chi giả danh, thật tắc bổn nguyện vô lượng dã. Hựu bổn nguyện chi số tuy vô lượng, đãn cứu cánh chỉ thị nhất pháp cú dã” (Các nguyện đều dung nhập lẫn nhau, không có ngăn ngại, mỗi nguyện đều bao gồm vô lượng nguyện vô thượng thù thắng không thể nghĩ bàn, không có giới hạn. Tiến hơn để nói thì 48 nguyện được nói ra cũng chỉ là giả danh tùy thuận chúng sanh, thực tế thì bổn nguyện là vô lượng. Thêm nữa, tuy số lượng bổn nguyện là vô lượng, nhưng cuối cùng chỉ là một câu pháp mà thôi). Một câu pháp này, trong Luận nói là真實智慧無為法身 “chân thật trí huệ Vô vi Pháp thân” (trí huệ chân thật Pháp thân Vô vi); Trong Kinh này của chúng ta đã nói là 真實之際、真實智慧、真實利益 “Chân thật Chi tế, chân thật trí huệ, chân thật lợi ích” (Chân thật Chi tế, trí huệ chân thật, lợi ích chân thật), đã nói ba câu, ba câu này là một mà ba, ba mà một. Đây là chỗ chúng ta cần học tập. Chúng ta học Phật, vì sao công phu không đắc lực? Vì sao sự việc rắc rối như thế, nhiều như vậy? Vì không biết được天下本無事,庸人自擾之 “thiên hạ bổn vô sự, dung nhân tự nhiễu chi” (thiên hạ vốn không việc, do người tự quấy thôi). Quý vị hỏi Phật Bồ-tát có việc hay không? Không có việc gì. Nếu quý vị hỏi lão Hòa thượng Hải Hiền có việc hay không? Ngài cũng sẽ nói với quý vị là không có việc gì. Việc là do chính quý vị tự tìm, sinh ra từ vọng niệm của chính quý vị, không có vọng niệm thì việc từ đâu ra?

Chúng ta xem tiếp đoạn bên dưới, 至於對超世之解,諸家亦復不同 “chí ư đối siêu thế chi giải, chư gia diệc phục bất đồng” (còn đối với cách giải thích về siêu thế, các nhà cũng có sự bất đồng), siêu vượt Thế gian. 義寂謂為超勝地前世間之位,故名超世 “Nghĩa Tịch vị vi siêu thắng địa tiền Thế gian chi vị, cố danh siêu thế” (Ngài Nghĩa Tịch nói là vượt hơn địa vị Địa tiền của Thế gian, nên gọi là siêu thế), điều này cũng nói được thông suốt. Địa là Thập địa Bồ-tát, siêu vượt hơn bậc Thập địa, các ngài siêu vượt rồi, siêu thế có nghĩa là vậy. Sư Cảnh Hưng nói: 為地前十向滿位一重發心。蓋均謂為初地之前也 “Vi Địa tiền Thập hướng mãn vị nhất trùng phát tâm. Cái quân vị vi Sơ địa chi tiền dã” (Là một tầng phát tâm của địa vị Thập hồi hướng viên mãn trước Thập địa, cho nên đều gọi là trước bậc Sơ địa). Địa tiền: có Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, đây là Địa tiền, có 40 cấp bậc. Pháp môn Niệm Phật được oai thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, có thể giúp quý vị siêu vượt, vượt qua rất nhiều, chúng ta ngày nay, ngay cả Sơ tín của Thập tín cũng không đạt được. Sự đoạn hoặc chứng chân của Sơ tín vị tương đồng với Sơ quả của Tiểu thừa, đều phải đoạn năm loại Kiến hoặc: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến, chúng ta chưa đoạn. Đoạn hết năm loại Kiến hoặc này thì chứng quả Tu-đà-hoàn, Sơ tín vị của Đại thừa Bồ-tát. Địa tiền ở đây là dưới Sơ địa, dưới Sơ địa là Thập hồi hướng. Tiếp theo đây đã nói rồi, đều gọi là trước bậc Sơ địa.

善導、曇鸞等師,則大異於是 “Thiện Đạo, Đàm Loan đẳng Sư, tắc đại dị ư thị” (Các vị Đại sư như Thiện Đạo, Đàm Loan v.v… thì có khác biệt rất lớn đối với điều này), cách nói khác với các ngài. 如曇鸞師謂:法藏菩薩於世間自在王佛所,悟無生法忍,爾時位名聖種性,(此乃《瓔珞經》中六種性之第四種,即十地菩薩)於此性中發四十八願。善導大師亦判為十地菩薩之發心。故均遠超地前之說 “Như Đàm Loan Sư vị: Pháp Tạng Bồ-tát ư Thế Gian Tự Tại Vương Phật sở, ngộ Vô sanh Pháp nhẫn, nhĩ thời vị danh Thánh chủng tánh, (thử nãi Anh Lạc Kinh trung lục chủng tánh chi đệ tứ chủng, tức Thập địa Bồ-tát) ư thử tánh trung phát tứ thập bát nguyện. Thiện Đạo Đại sư diệc phán vi Thập địa Bồ-tát chi phát tâm. Cố quân viễn siêu Địa tiền chi thuyết” (Như sư Đàm Loan nói: Bồ-tát Pháp Tạng ở chỗ Thế Gian Tự Tại Vương Phật, ngộ Vô sanh Pháp nhẫn, địa vị bấy giờ gọi là Thánh chủng tánh, (đây là đệ tứ chủng trong Lục chủng tánh của Kinh Anh Lạc, tức là Thập địa Bồ-tát) ở địa vị tánh này phát 48 nguyện. Đại sư Thiện Đạo cũng phán là sự phát tâm của Thập địa Bồ-tát. Cho nên đều là khác xa với cách nói siêu vượt Địa tiền), phần sau nói hay hơn phần trước, cách nhìn của mỗi người khác nhau, Đại sư Thiện Đạo, Đàm Loan nói hay. Điều này có chứng cứ, có trong kinh điển, thật sự là Bồ-tát Pháp Tạng ở nơi của Thế Gian Tự Tại Vương Phật, Ngài liền ngộ được Vô sanh Pháp nhẫn, Vô sanh Pháp nhẫn là Thất địa trở lên. Vì vậy vào lúc ấy, đây là tánh thứ tư trong sáu tánh được nói trong Kinh Anh Lạc, chính là Thập địa Bồ-tát. Ở địa vị tánh ấy phát 48 nguyện, khi Ngài phát 48 nguyện, Ngài là địa vị gì? Thập địa Bồ-tát. Vì vậy, Đại sư Thiện Đạo cũng phán là Thập địa Bồ-tát, giống với cách nhìn của Pháp sư Đàm Loan, [là] Thánh chủng tánh.

復以法藏菩薩大願,不但超過三乘,且超踰諸佛願也。經云法藏發願之初便言:我立是願,都勝無數諸佛國者 “Phục dĩ Pháp Tạng Bồ-tát đại nguyện, bất đãn siêu quá Tam thừa, thả siêu du chư Phật nguyện dã. Kinh vân Pháp Tạng phát nguyện chi sơ tiện ngôn: Ngã lập thị nguyện, đô thắng vô sô chư Phật quốc giả” (Lại vì đại nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng, không chỉ vượt hơn Tam thừa, mà còn vượt hơn nguyện của chư Phật. Trong kinh nói, ngài Pháp Tạng khi mới phát tâm, liền nói: Con lập nguyện này đều hơn cõi nước của vô số chư Phật), trong kinh thật sự có câu này. 《後出偈經》云:發願踰諸佛,誓二十四章 “Hậu Xuất Kệ Kinh vân: Phát nguyện du chư Phật, thệ nhị thập tứ chương” (Trong Kinh Hậu Xuất Kệ nói: Phát nguyện vượt hơn chư Phật, 24 chương thệ nguyện), ở đây cũng đã nói ra rõ ràng, Ngài phát nguyện vượt hơn chư Phật. 24 chương, Hạ Liên lão hội tập bản Kinh này, chọn 24 chương 48 nguyện, dung hợp hai loại với nhau. 經中成就文曰:微妙奇麗 “Kinh trung thành tựu văn viết: Vi diệu kỳ lệ” (Văn thành tựu trong Kinh nói: Vi diệu đặc biệt tốt đẹp), đây là nói đến Thế giới Cực Lạc, 清淨莊嚴,超踰十方一切世界 “thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập phương nhất thiết Thế giới” (thanh tịnh trang nghiêm, vượt hơn tất cả Thế giới trong mười phương), đây là nói Y báo của Thế giới Cực Lạc vượt hơn chư Phật. Trong Kinh còn nói: 阿彌陀佛,光中極尊,佛中之王 “A Mi Đà Phật, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (A Mi Đà Phật là quang minh tôn quý nhất, là vua trong chư Phật), đây là Chánh báo vượt hơn chư Phật. 可見法藏菩薩超世之願,亦超踰諸佛之願也。極樂世界無量清淨莊嚴,全顯當人自性。心作心是,理事無礙 “Khả kiến Pháp Tạng Bồ-tát siêu thế chi nguyện, diệc siêu du chư Phật chi nguyện dã. Cực Lạc Thế giới vô lượng thanh tịnh trang nghiêm, toàn hiển đương nhân Tự Tánh. Tâm tác tâm thị, lý sự vô ngại” (Có thể thấy nguyện siêu vượt Thế gian của Bồ-tát Pháp Tạng, cũng vượt hơn nguyện của chư Phật. Vô lượng sự thanh tịnh trang nghiêm của Thế giới Cực Lạc, đều hiển bày Tự Tánh của mỗi người. Tâm tác tâm thị, Lý Sự vô ngại). Câu này, đức Phật thường nói trong kinh Đại thừa: 一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), 相由心生 “tướng do tâm sanh”, 色由心生 “sắc do tâm sanh”, sắc và tướng đều là nói về vật chất; Trong kinh cũng nói心作心是 “tâm tác tâm thị”, đây là trong Quán Kinh nói; 應觀法界性,一切唯心造 “Ưng quán Pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh Pháp giới, tất cả do tâm tạo), những lời được nói trong kinh Đại thừa, đây đều là “đều hiển bày Tự Tánh của mỗi người”.

Chúng ta đối với những kinh văn này, nếu thật sự thông đạt, thật sự thể hội được thì việc giải quyết tai nạn của trái đất, động loạn của xã hội trước mắt, đã tìm được phương pháp. Làm thế nào để thực tiễn? Vậy thì phải khẳng định: Phật giáo là giáo dục. Cổ Thánh tiên Hiền của Trung Hoa đã nói: 建國君民,教學為先 “Kiến quốc quân nhân, giáo học vi tiên” (Việc dựng nước trị dân, dạy học là hàng đầu). Xây dựng một quốc gia, một chính quyền, điều gì quan trọng nhất? Giáo hóa nhân dân, giáo dục là quan trọng nhất, cho nên việc dựng nước trị dân, dạy học là hàng đầu. Giáo dục nào? Giáo dục cao nhất, rốt ráo nhất, viên mãn nhất là giáo dục Đại thừa. Khi tôi còn trẻ, Tiên sinh Phương Đông Mỹ đã nói với tôi, tôi theo thầy học Triết học, thầy nói với tôi: “Đại thừa là đỉnh cao nhất của Triết học trên toàn thế giới, muốn học Triết học thì chẳng thể không đọc kinh Phật”. Sau khi tôi nghe lời nói này xong, tôi phải suy nghĩ lại xem lời này là thật hay giả. Thầy Phương dạy tôi, không phải ở trường học, mà là ở nhà thầy, trong nhà thầy có một phòng khách nhỏ, chỉ hai thầy trò chúng tôi, hai tiếng từ 9 giờ sáng đến 11 giờ trưa chủ nhật hằng tuần, thầy giảng dạy cho tôi. Cho nên tôi thường xuyên đến nhà thầy, tôi rất quen thuộc nhà thầy. Thầy nói lời này, tôi rất để ý, nhìn phòng sách của thầy, [xem] trên bàn sách của thầy có kinh Phật hay không? Quả nhiên là có, trước nay chưa bao giờ thấy trên bàn thầy không để kinh Phật, không có. Cho nên tôi biết là thầy thật sự có đọc, lời của thầy không phải là giả. Hằng ngày thầy đều đọc sách, thật sự là không có ngày nào không đọc kinh Phật, kinh Phật là môn hằng ngày của thầy, ngày nào cũng không thiếu, tôi mới tin lời nói của thầy.

Giáo dục của nhà Nho không tệ, giáo dục của nhà Đạo cũng rất tốt, giáo dục của tất cả tôn giáo, chúng ta có thể tổng hợp lại với nhau gọi là giáo dục Thánh Hiền, không mê tín. Người xưa gọi giáo dục Thánh Hiền là tôn giáo, cao minh tột bậc, đây là trí huệ của người nước ta. Vì sao vậy? Vì ý nghĩa của hai chữ “tôn, giáo” trong chữ viết nước ta quá hay rồi. Tôn có ba ý nghĩa: chủ yếu, quan trọng, tôn kính; Giáo cũng có ba ý nghĩa: giáo dục, giáo học, giáo hóa. Liên kết hai chữ tôn giáo với nhau, ý nghĩa là gì? Tôn giáo là giáo dục chủ yếu của nhân loại, tôn giáo là giáo học quan trọng của nhân loại, tôn giáo là giáo hóa tôn kính của nhân loại. Người như thế nào mới có thể chủ trì được giáo dục tôn giáo này? Nhất định phải Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, người như thế trong Phật giáo xưng ngài là Phật, đức Phật chủ trì giáo dục. Thấp xuống một bậc, Pháp thân Bồ-tát, các ngài vượt hơn 28 tầng trời, 28 tầng trời không sánh bằng. Chư Phật, đại Bồ-tát ấy chủ trì giáo dục, các Ngài không làm hành chánh, các Ngài làm Hiệu trưởng, Phật làm Hiệu trưởng, Bồ-tát làm Giáo viên, làm Giáo sư, đều dạy người dân cho tốt, các Ngài có trí huệ chân thật, có đức năng (đạo đức, năng lực) chân thật, dạy người dân cho tốt hết rồi, xã hội an định, nước nhà giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Đây là siêu vượt thế gian.

Trong nước ta hiện nay, chúng ta đã thấy được trên thông tin truyền thông, khẳng định Phật giáo không phải là tôn giáo, không phải là mê tín, mà là giáo dục, điều này thật sự hiếm có. Hơn 20 năm trước, vào những năm 1980, nhà nước mở cửa không bao lâu, tôi đến tham quan Bắc Kinh, lần đầu tiên gặp Phác lão. Chúng tôi là đồng hương, cho nên nói chuyện rất thân thiết, lần đầu tiên gặp mặt, chúng tôi đã nói chuyện hết bốn tiếng rưỡi. Lúc đó, tôi kiến nghị với Phác lão, nhà nước nên mở một trường Đại học Tôn Giáo, mỗi tôn giáo thành lập một Học viện, Viện Phật học, Viện Cơ Đốc học, Viện Hồi học, Viện Đạo học, những tôn giáo mà Trung Hoa công nhận, mỗi tôn giáo mở một Học viện. Sau đó lại tăng thêm một Viện Quản Lý học, đào tạo gì? Nhân tài hộ trì, Đạo tràng cần có người quản lý, giữ gìn. Như vậy, tôn giáo liền được thống nhất, tôn giáo liền trở thành người một nhà, khoa ngành mà chúng ta học khác nhau. Xây dựng một Đạo tràng lớn (Trung tâm Hoạt động Tôn giáo), dùng truyền thông hiện đại hóa: mạng Internet, truyền hình vệ tinh, dùng để dạy học. Giáo sư đều tập trung vào trong Đại học Tôn giáo, những bài học, khóa trình giảng kinh bình thường ở giảng đường, có thể phát sóng trên đài truyền hình, để cho người dân cả nước đều tiếp nhận giáo dục Thánh Hiền, thì vấn đề thật sự được giải quyết rồi. Lúc bấy giờ, ngài ấy nghe xong rất hoan hỉ. Tất cả những Tự viện ở Trung Hoa, tôi nói Tự viện bây giờ không thể tu hành nữa, vì sao vậy? Vì đều trở thành thắng cảnh tham quan du dịch, ít nhất cũng có ba bốn trăm năm lịch sử, mọi người đều muốn đến tham quan, người trên toàn thế giới đến Trung Hoa tham quan du lịch biết bao nhiêu! Vì vậy, những Tự viện, Am đường ấy, hết thảy đều thuộc về Sở Du lịch, làm địa điểm tham quan du lịch, làm cơ cấu tuyên truyền Phật giáo, họ đến tham quan, giới thiệu cho họ, thuận tiện giảng Phật pháp cho họ, Phật pháp rốt cuộc là gì. Tốt! Việc dạy học của tôn giáo như thế, làm ra sự cống hiến lớn nhất đối với sự an định hòa bình của nước nhà, không chỉ có thể làm quốc gia hài hòa, mà còn có thể làm thiên hạ hài hòa, mang đến sự hài hòa an định cho cả trái đất. Lúc đó, Phác lão đã cao tuổi rồi, thật sự là tâm có dư nhưng sức chẳng đủ, không thể thực hiện. Bây giờ làm, vẫn còn kịp. Hiện nay, chúng tôi đang làm thực nghiệm ở thành phố nhỏ Toowoomba nước Úc, thực nghiệm thành công rồi. Lần này tôi đến nước Anh, người nước Anh có ý muốn làm, muốn xây dựng một Đạo tràng lớn cung cấp cho cả thế giới làm Trung tâm Hoạt động Tôn giáo, đây là trí huệ chân thật, công đức chân thật, thật sự là cứu xã hội, cứu quốc gia, cứu thế giới, chúng tôi hy vọng họ sớm ngày có thể thành lập hoàn thiện.

Tiếp theo đây, xem thử khoa học của chúng ta có làm được không. 水鳥樹林,宣流正法。聲色香光,悉增道念 “Thủy điểu thọ lâm, tuyên lưu Chánh pháp. Thanh sắc hương quang, tất tăng đạo niệm” (Nước, chim, rừng, cây: tuyên lưu Chánh pháp; Thanh, sắc, hương, quang: đều tăng niệm về đạo). Đây chính là biểu diễn văn nghệ, có thể giống như điều đức Phật đã nói, đều là Chánh pháp hay không? Thật sự làm được, như lý tưởng của Khổng lão phu tử, văn nghệ, sự trình diễn của tất cả nghệ thuật, đều không nên quên đi một tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc 思無邪 “tư vô tà” (ý nghĩ không tà), vậy là được rồi, rất quan trọng. Lấy đây làm tiêu chuẩn, biểu diễn nghệ thuật là giáo dục, giáo dục dạy bảo mọi người chánh tri chánh kiến; Tuyệt đối không thể dẫn dắt họ vào tà tư tà niệm, đó là sai rồi. Truyền thông ngày nay: điện ảnh, tivi, rất lấy làm tiếc, không ai có thể ngăn cản. Năm xưa, trong nước có đại cách mạng văn hóa, Đài Loan đề xướng phục hưng văn hóa truyền thống. Trên thực tế, Đài Loan chỉ hô khẩu hiệu, không thực tiễn; Nếu như thực tiễn thì Đài Loan sẽ không giống như tình trạng hiện nay.

Có một hôm, tôi ở trong nhà của thầy Phương, cũng là buổi sáng, sáng hôm đó không học, ba quan chức trong Bộ Giáo dục đến thăm, thỉnh giáo với thầy: làm thế nào để thực tiễn phục hưng văn hóa truyền thống? Thầy nghe xong rồi mỉm cười, ngồi xuống, nói với họ, có cách. Thứ nhất: Đài Loan có ba đài truyền hình, hãy đóng cửa. Vẫn còn mười mấy đài phát thanh vô tuyến, hãy đóng cửa. Lúc đó, đài phát thanh vô tuyến phát thanh rất nhiều, tivi vừa mới thịnh hành, điện ảnh, tivi trắng đen. Thêm nữa, báo chí ngừng xuất bản, tạp chí ngừng xuất bản. Những quan chức này nghe được, nói rằng: Thưa thầy, không làm được điều này! Thầy liền nói: Những thứ này đang phá hoại văn hóa truyền thống Trung Hoa hằng này, nếu các anh không để chúng dừng lại, thì việc phục hưng văn hóa truyền thống là không thể nào.

Xã hội ngày nay, vì sao loạn như vậy? Vì sao tai biến nhiều như vậy? Chính là những thứ này gây nên. Chúng tôi tin, Phật pháp giảng rất rõ ràng:一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), cho nên chỉ cần quý vị chú ý, quan sát tỉ mỉ, người hiện nay, từ người già cho đến trẻ em, họ nghĩ gì, họ nói gì, họ làm gì. Những truyền thông này đang dạy điều gì? Đều đang dạy danh văn lợi dưỡng, đang dạy sát đạo dâm vọng, có người nào không làm việc này? Dạy mọi người hư hỏng hết rồi. Vì vậy, thầy Phương đã nói, cứu khổ cứu nạn thì trước tiên cần phải ngăn cấm những thứ này, dừng lại hết. Hiện nay là quốc gia dân chủ, tổ chức bỏ phiếu, nhân dân thích những thứ này. Vì sao thích những thứ này vậy? Vì không được giáo dục về mặt chính diện, nên họ hướng về giáo dục cấp thấp rồi. Chính phủ quốc gia không đề xướng, không dùng Chánh pháp dạy mọi người.

Chánh pháp, những điều này có thể biểu diễn, nhưng phải ghi nhớ思無邪 “tư vô tà” (ý nghĩ không tà). Quý vị xem truyền thống Trung Hoa, vở kịch, ca múa biểu diễn ở các thời đại, không phải không có, triều đại nào cũng có, nhưng đều có thể tuân thủ theo nguyên tắc này của Phu tử, 思無邪 “tư vô tà” (ý nghĩ không tà), hơn nữa nội dung biểu diễn đều liên quan đến luân lý, đạo đức. Vì vậy, đây là mang theo giáo dục luân lý, đạo đức, nhân quả, dùng phương pháp nghệ thuật để trình diễn cho đại chúng, là việc tốt. Cho nên vở kịch của Trung Hoa, luôn là thiện có thiện quả, ác có ác báo, không bao giờ tách rời hiếu đễ trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, trung hiếu tiết nghĩa, không tách khỏi những điều này. Vì vậy, tuy rằng người dân đi học không nhiều, rất nhiều người mù chữ, chưa từng đến trường, nhưng họ đều có trí huệ, họ hiểu đạo lý. Từ đâu mà được? Từ vở kịch, ca múa, từ đây, họ học được rồi. Điều hay, thật sự tốt, chúng ta chẳng thể không biết, phải tìm trở lại. Những câu nói đó của thầy Phương rất có ý nghĩa, rất quan trọng. Các nước dân chủ thông thường, người ta không dám làm, làm rồi sẽ thế nào? Sợ người khác không bỏ phiếu cho mình. Trung Hoa có thể làm, người lãnh đạo các cấp của Trung Hoa không phải là dân bầu cử, Trung Hoa có thể làm được; Nói cách khác, Trung Hoa có thể mang đến cho cả thế giới giáo dục về luân lý đạo đức, giáo dục Thánh Hiền, có thể dẫn dắt cả thế giới hướng đến an định hài hòa, thái bình thịnh thế, đây là điều đáng để ca ngợi.

Được rồi, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 206)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.