Responsive Menu
Add more content here...

Tập 216 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm thứ 7: Tất Thành Chánh Giác

Phẩm Thứ 8: Tích Công Luỹ Đức

Tập 216

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 20 tháng 7 năm 2015.

Dịch giả: Diệu Thương.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem 《大經科註》Đại Kinh Khoa Chú, trang 546, chúng ta đếm ngược hàng thứ hai để xem, đây là một đoạn:

至於法藏大士才發願已,空中便即讚言,決定必成無上正覺者,何也?“Chí ư Pháp Tạng Đại sĩ tài phát nguyện dĩ, không trung tiện tức tán ngôn, quyết định tất thành Vô thượng Chánh giác giả, hà dã” (Đến như Đại sĩ Pháp Tạng vừa phát nguyện xong, trong không trung liền lập tức khen ngợi rằng: nhất định chắc chắn thành tựu Vô thượng Chánh giác, tại sao?) Hà dã là câu hỏi, tại vì sao? Niệm lão trích dẫn điều đã nói trong Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận của Cư sĩ Bành Nhị Lâm, có giải thích đoạn này, giải thích được vô cùng tinh yếu, tinh là đặc sắc, yếu là quan trọng, vắn tắt. 茲用其意,而簡述之如下 “Tư dụng kỳ ý, nhi giản thuật chi như hạ” (Dụng ý đó, có thể thuật lại đơn giản như sau). Bây giờ là dùng điều đã giải thích trong Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, để trả lời câu hỏi này. Tỳ-kheo Pháp Tạng đã phát 48 nguyện, sau khi phát 48 nguyện xong, Ngài hi vọng chư thiên thiện thần đến làm chứng minh cho Ngài. Quả nhiên đúng vậy, trời Dục Giới, trời Sắc Giới, các thiện thần đến làm chứng minh cho Ngài, phía trước chúng ta đọc qua rồi. Có thắc mắc, chính là tại sao đúng lúc có sự việc này? Rất khó được, rất hiếm thấy rồi.

         Tiếp theo nói với chúng ta, câu nói này rất quan trọng, đặc biệt là câu thứ nhất, 一切佛土,不離眾生一念清淨心,而得成立 “nhất thiết Phật độ, bất ly chúng sanh nhất niệm thanh tịnh tâm, nhi đắc thành lập” (tất cả cõi Phật, không rời một niệm tâm thanh tịnh của chúng sanh, mà được thành lập). Câu nói này vô cùng quan trọng. Mười phương ba đời, Pháp giới, Hư không giới, cõi nước của tất cả Chư Phật Như Lai là vô lượng vô biên, cõi nước Phật được hình thành như thế nào? Cõi nước của chúng sanh được hình thành như thế nào? Cõi nước của chúng sanh giống như địa cầu này của chúng ta, cũng bao gồm ở trong đó. Cõi nước Phật là Thật Báo Trang Nghiêm độ, là do một niệm tâm thanh tịnh của chúng sanh mà thành lập. Còn cõi nước của chúng sanh, hiện nay chúng ta nói là Lục đạo, đây là do một niệm tâm ô nhiễm của chúng sanh mà thành lập. Tâm chúng ta bị ô nhiễm rồi, tâm chúng ta bị mê rồi. Cho nên liền biến thành Lục đạo Luân hồi, câu này là giảng về nguyên lí, ở trong đây hàm chứa một tầng ý nghĩa rất sâu, tâm tịnh thì cõi nước tịnh, tâm dơ thì cõi nước dơ, là Uế độ.

Tất cả pháp chỉ do Tâm mà hiện, chỉ do Thức mà biến, tâm là Chân tâm, hiện ra là Tịnh độ. Tâm của chúng ta bị ô nhiễm rồi, nên biến thành Vọng tâm, Vọng tâm chính là A-lại-da, một niệm bất giác liền có Vô minh, Vô minh biến hiện ra chính là Lục đạo luân hồi, chính là Mười pháp giới, là đến như vậy. Thật đúng như lúc Lục tổ Đại sư Huệ Năng khai ngộ đã nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn Pháp). Một niệm tâm thanh tịnh này là Tự Tánh, Tự Tánh sở hiện, một niệm bất giác, vậy thì biến thành Thức A-lại-da, Thức A-lại-da có thể biến, nhưng Thức A-lại-da không thể hiện, hiện là do Tự Tánh hiện, phải nhớ kỹ điều này, do Tâm thanh tịnh hiện ra, A-lại-da là Tâm ô nhiễm, Tâm ô nhiễm đó sẽ biến, đem Nhất chân Pháp giới biến thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo luân hồi. Cho nên tất cả Pháp từ tâm tưởng sanh, không sai chút nào, tâm chúng ta nghĩ điều gì, thì Thức A-lại-da liền biến ra thứ đó.

Tại sao có thể biến? Tiếp theo Cư sĩ Bành Tế Thanh giảng rất rõ ràng, nghĩa lý rất sâu, chúng ta xem câu tiếp. 法藏大士,發此宏願,祇為破除眾生妄執. “Pháp Tạng Đại sĩ, phát thử hoằng nguyện, chỉ vị phá trừ chúng sanh vọng chấp” (Đại sĩ Pháp Tạng, phát hoằng nguyện đó, chỉ vì phá trừ vọng chấp của chúng sanh). Vọng là A-lại-da, chấp là Mạt-na. Nếu dùng Tướng tông để nói, thì Bồ-tát Pháp Tạng phát đại nguyện đó, ấy là vì để giúp đỡ chúng ta chuyển mê thành ngộ, chuyển tám Thức thành bốn Trí, chính là ý nghĩa này. 開顯當人本有心量 “Khai hiển đương nhân bổn hữu tâm lượng” (Khai mở hiển bày tâm lượng vốn có của đương nhân). Đương nhân là chính chúng ta, khai hiển chính chúng ta, và tâm lượng vốn có của chính chúng ta, chính là Tự Tánh viên mãn, là một không phải hai với A Mi Đà Phật, với chư Phật mười phương, là vốn có. Tất cả pháp đều là do Tự Tánh vốn tự đầy đủ. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ, đã nói ra báo cáo rất hay, cho nên ngài vừa nói ra, Ngũ tổ liền trao y bát cho ngài, lập ngài làm Tổ đời thứ sáu. Câu thứ ba mà ngài nói là, 何期自性,本自具足 “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ). Tâm lượng vốn có là Tự Tánh vốn có. 令知淨土即是法性本然,非從外得 “Linh tri Tịnh Độ tức thị Pháp tánh bổn nhiên, phi tùng ngoại đắc” (Khiến cho biết rằng Tịnh Độ tức là Pháp tánh vốn như thế, không phải đạt được từ bên ngoài). Thế giới Tây Phương Cực Lạc là việc như thế nào? Là vốn có trong Tự Tánh của chính mình, là Pháp tánh vốn như thế, là Pháp tánh chân chánh, Pháp tánh viên mãn, chính là điều này, không phải đạt được từ bên ngoài.

Từ đây có thể biết, Bồ-tát Pháp Tạng chứng đắc Tự Tánh viên mãn, nên ngài hiển bày ra rồi. Thù thắng nhất, khó được nhất: là ngài dùng 48 nguyện gia trì cho chúng ta, chúng ta chỉ cần đến Thế giới Cực Lạc, liền được hưởng thụ Trí huệ, Phước báo viên mãn đầy đủ của Tự Tánh, giống như A Mi Đà Phật, giống như chư Phật Như Lai, không có sai khác chút nào. Không phải đến từ bên ngoài, mà là Tự Tánh vốn có, Tự Tánh của chúng ta và Tự Tánh của A Mi Đà Phật, là một. Ngài hiện ra cũng chính là chính chúng ta hiện ra. Chỉ là chính chúng ta chưa đoạn phiền não tập khí, nên gọi là đới nghiệp vãng sanh, còn Ngài đoạn sạch rồi, nên không mang nghiệp, Ngài đều không có tập khí Vô thỉ Vô minh, chúng ta nên hiểu rõ đạo lý này.

Tiếp theo nói: 何以故? “Hà dĩ cố?” (Tại vì sao?) Tại vì sao? Phía dưới giải đáp cho chúng ta, 自性空寂,離諸惡趣 “Tự Tánh không tịch, ly chư ác thú” (Tự Tánh không tịch, xa lìa các đường ác). Đây là trước hết giảng về đoạn phiền não, Tự Tánh vốn là Không, vốn là Tịch, ở trong Tịnh Độ, Tự Tánh chính là Thường Tịch Quang Tịnh độ, trong Thường Tịch Quang là một vùng quang minh, cũng không có thứ khác, ở đó không có hiện tượng, hoàn toàn không có hiện tượng vật chất, hiện tượng tâm lý và hiện tượng tự nhiên. Tịch chính là thanh tịnh tịch diệt, cho nên không có đường ác, không những không có ác, mà cũng không có thiện, thiện ác đều không có, chúng ta giảng thiện giảng ác đều là tương đối, trong đó không có điều tương đối. Cho nên các đệ tử của nhà Phật, tu hành nên tu từ đâu? Là buông xuống Thân kiến, buông xuống Biên kiến, Biên kiến chính là đối lập, chân thật tu hành phải hạ thủ từ đây, đây gọi là chân tu. Nói chân thật là phàm phu mê quá nặng, họ có đối lập với ai không? Nắm giữ lấy thân là chính mình, là hoàn toàn đối lập với tất cả bên ngoài thân rồi, đối lập với người, đối lập với vật, đối lập với sự, Ngài có đối lập với ai không? Đối lập là sai rồi, đối lập chính là Lục đạo luân hồi. Nếu Vô ngã, thì không có đối lập, chính là tìm không thấy Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ, Tà kiến, ở trong đây không có những thứ đó, đó là đường ác, không có tà ác.

自性妙圓,具諸相好 “Tự Tánh diệu viên, cụ chư tướng hảo” (Tự Tánh vi diệu viên mãn, đầy đủ các tướng hảo). Diệu chính là không thể nghĩ bàn, tâm ý, ngôn luận của chúng ta đều không biểu đạt được, không cách nào tưởng tượng. Viên là viên mãn, đầy đủ các tướng hảo, tướng hảo đó hiển thị viên mãn ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, khi đến Thế giới Cực Lạc, muốn tìm một điều tà ác thì cũng tìm không thấy, tất cả vạn sự vạn vật không có gì là không viên mãn. Cho nên Thế giới Cực Lạc đến từ đâu? Ở đây nói với quý vị lời chân thật, là Tự Tánh vốn đủ, A Mi Đà Phật chứng đắc, nên hiển thị ra cho chúng ta xem, không chỉ cho chúng ta xem, mà khiến chúng ta thật sự đạt được thọ dụng. Cho nên người niệm Phật vãng sanh, là có lợi thế rất lớn, quý vị không thể không biết điều này. Thông thường tu hành người tu đến cảnh giới này, ít nhất là Bát địa Bồ-tát, trong kinh Đại thừa thường giảng Bát địa Bồ-tát trở lên, thì quý vị mới có thể hưởng thụ được, bậc trước Bát địa, bao gồm chúng ta, đi vãng sanh mà cũng chưa đoạn một phẩm Phiền não, thì vãng sanh Hạ Hạ phẩm ở Đồng Cư độ, thọ dụng đạt được ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính là chất lượng cuộc sống của quý vị, những gì cuộc sống quý vị thọ dụng, là bình đẳng với Bát địa Bồ-tát, đây là sự ban ơn của A Mi Đà Phật đối với chúng ta, nếu không phải là sự ban ơn của Ngài, thì chính chúng ta tu hành đến chỗ địa vị ấy, phải đến khi nào mới có thể thành tựu? Là vô lượng kiếp, vì không dễ đoạn Phiền não! Cho nên xem ở chỗ này, là Tự Tánh không tịch, Tự Tánh diệu viên.

[21:13]

Tiếp theo自性無礙 “Tự Tánh vô ngại” (Tự Tánh không có chướng ngại), là không có chướng ngại, không có chướng ngại liền hiện sáu loại thần thông. Mắt thấy được, nhìn thấy gì? Khắp Pháp giới Hư không giới: không có gì mà quý vị nhìn không thấy, lớn là Thế giới, nhỏ là Vi trần, Cực vi sắc, đều nhìn thấy tất cả. 現六神通 “Hiện lục Thần thông” (Hiện sáu loại Thần thông), là Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Thần túc, Lậu tận, đầy đủ sáu loại Thần thông, vừa đầy đủ là A-la-hán, tuy có Lục thông, nhưng năng lực của thần thông đó có hạn chế, nên nhìn không được khắp Pháp giới Hư không giới, phải biết điều này. Năng lực của các ngài, chỉ có thể quan sát được Báo độ này của chính chúng ta, nơi mà hiện tại chúng ta cư trú, là Nhân đạo trong Lục đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Năng lực của A-la-hán có thể nhìn thấy, Đại thiên Thế giới này mà Thế Tôn giáo hóa, chính là Tam thiên Đại thiên Thế giới thường được nói, Tam thiên Đại thiên Thế giới này, hiện tại các nhà khoa học nói với chúng ta, là một tỷ hệ Ngân hà, một tỷ hệ Ngân hà, Lục thông của A-la-hán có thể nhìn, có thể nghe, có thể duyên đến được, vậy thì hết sức tuyệt vời rồi. Nhưng nếu so với Thế giới Cực Lạc, vậy thì kém rất xa rồi, Thần thông của Thế giới Cực Lạc là Thần thông của Bát địa Bồ-tát trở lên. Vãng sanh đến nơi đó, đó là được bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, tất cả đều có, tại sao? Vì A Mi Đà Phật cho chúng ta là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, A-duy-Việt-trí là Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát ở Thế giới Cực Lạc: có 41 cấp bậc, đương nhiên đến không được Bát địa, nhưng Thất địa trở xuống thì đều có loại năng lực đó, cho nên các ngài cũng có thể duyên đến, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật. A Mi Đà Phật có thể duyên đến, vãng sanh Thế giới Cực Lạc đại khái có thể duyên đến được, chúng ta phải biết điều này.

Tiếp theo nói, 自性無住,不可斷滅 “Tự Tánh vô trụ, bất khả đoạn diệt” (Tự Tánh không trụ, không thể đoạn diệt). Tự Tánh là vô sanh vô diệt, chúng ta thường giảng là bất sanh bất diệt, Tự Tánh thật sự là chủ tể của tất cả pháp, là Bản thể của tất cả vạn pháp, [là] thanh tịnh tịch diệt, thứ gì cũng không có, có thể sanh vạn pháp, không thể nghĩ bàn. Hiện tượng Lục đạo luân hồi ngày nay của chúng ta, là do Tự Tánh sanh, Tự Tánh biến hiện, Tự Tánh sanh là Tịnh độ, A-lại-da biến đó thành hình trạng này. Bên trong A-lại-da có thiện ác, nếu như tâm hạnh của chúng ta, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều là thiện, tuân thủ sự dạy bảo của đức Phật, tu Tam phước, Lục hòa, Ngũ giới, Thập thiện, thì cảnh giới này của chúng ta liền biến thành Thiên đường. Thì tai nạn tới tấp trên thế giới này: sẽ thay đổi thôi, không có nữa, đó là cảnh tùy tâm chuyển, tất cả pháp sanh từ tâm tưởng, chúng ta cần phải ghi nhớ điều này.

Vậy chúng ta phải tu điều gì? Là đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Tiêu chuẩn của thiện ác rất đơn giản, chính là dùng sự dạy bảo của đức Thế Tôn cho người thông thường chúng ta, Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện thì được rồi. A-la-hán tu viên mãn Thập thiện rồi, thì có được là quả báo gì? Là ba ngàn oai nghi; Bồ-tát, Quyền giáo Bồ-tát, vẫn chưa kiến Tánh, nhưng tu viên mãn Tam quy Thập thiện rồi, thì có được cảnh giới gì? Là tám vạn tế hạnh. Người không thể không đoạn ác, không thể không tu thiện, rất dễ ghi nhớ, không được quên mất, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều phải thoáng chốc liền ứng đối, thoáng chốc đối với nếu là ác, thì không được làm, phải sám hối, phải buông xuống, nếu là thiện thì có thể hoan hoan hỉ hỉ mà làm, quả báo, là Thiên, Nhân, quả báo cõi người cõi trời. Đó là [quả báo] thấp nhất, học Phật cuối cùng học đến tam Ác đạo, vậy thì sai lầm đặc biệt lớn rồi. Có hay không? Có, không những có, mà còn rất nhiều. Vì sao họ đọa đến tam Ác đạo rồi? Do ý niệm bất thiện, ý niệm là gì? Là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi. Ngôn hạnh bất thiện, ngôn hạnh là gì? Là Oán, Hận, Não, Nộ, Phiền. Kết hợp lại với mười chữ này, thì đến Tam đồ tiếp thôi, làm sao có thể làm việc hồ đồ này? Lại huống chi, Phật chế định cho chúng ta Tam tụ Tịnh giới, đây là Giới luật, vì sao? Bởi giúp chúng ta nâng cao. Đây đều là Pháp môn thông thường, Pháp môn Tịnh Độ đặc biệt, Pháp môn Tịnh Độ có liên hệ với bộ phận này của Giới luật, tôi chỉ đã nói cho chư vị về Ngũ khoa.

Trước đây, ở nước Mỹ, ở Canađa, chúng ta tu Ngũ khoa ấy. Ở Los Angeles, khi chúng tôi ở tại đạo tràng của Pháp sư Ấn Hải, ngài thấy được Ngũ khoa của chúng tôi thì vô cùng tán thán, đơn giản then chốt, lại dễ nhớ, mọi lúc dùng để đối chiếu. Tam phước gồm: 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp”, đó là điều thứ nhất, còn điều thứ hai là: 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀 “Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm Oai nghi”, điều thứ ba, 發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者 “phát Bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại thừa, khuyến tấn Hành giả”, câu cuối cùng là khuyến tấn Hành giả, chính là hoan hỉ giúp đỡ người khác, khuyên người khác học Phật, khuyên người khác tín nguyện, khuyên người khác phát tâm cầu sanh Tịnh Độ. Tổng cộng có 11 câu, quý vị xem, trong đó 10 câu là vì chính mình, cuối cùng là khuyến tấn Hành giả. Mục khác gồm: Lục hòa kính, Tam học Giới Định Huệ, Lục độ, Thập nguyện Phổ Hiền, cần phải nghiêm túc, mọi lúc phải đối chiếu với các mục này, tốc độ phải nhanh, khi ý niệm vừa khởi, thì ngay lập tức đè ý niệm xuống, ý niệm đó có thể khởi hay không? Nếu là ác niệm, thì ngay lập tức bỏ đi, không thể khởi, là niệm thiện thì có thể, nếu là ác hạnh, ác khẩu thì không thể khởi. Nếu chúng ta có thể nắm chắc được năm điều cơ bản này, thì có phần vãng sanh.

Tiếp theo, 自性無作,無有限量 “Tự Tánh vô tác, vô hữu hạn lượng” (Tự Tánh không có tạo tác, không có hạn lượng), tâm bao thái hư, lượng châu sa giới, Tự Tánh không có tạo tác, pháp vốn như vậy, bất sanh bất diệt, không đến không đi, chưa từng dao động qua, không có ô nhiễm qua. Khi Đại sư Huệ Năng kiến Tánh, 20 chữ mà ngài đã báo cáo: 本自清淨,本不生滅 “Bổn tự thanh tịnh, bổn bất sanh diệt” (Vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt), không có sanh diệt, 本自具足,本無動搖 “bổn tự cụ túc, bổn vô động dao” (vốn tự đầy đủ, vốn không dao động), vốn không dao động chính là Tự Tánh vốn định. Tự Tánh chính là Chân Tâm, Chân Tâm xưa nay là định, không có động qua. Động, động thì không phải là Châm Tâm, không phải là Tự Tánh. Vậy động là gì? Động là A-lại-da, A-lại-da là ý niệm, niệm trước diệt thì niệm sau sanh, đó là Vọng tâm, không phải Chân tâm. Vọng tâm đến từ đâu? Vọng tâm do từ Tự Tánh biến ra. Đem những thứ do Tự Tánh hiện, [là] Nhất chân Pháp giới được sanh được hiện: biến thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo luân hồi. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói được rất hay, tất cả pháp do Tâm hiện Thức biến, chỉ do Tâm mà hiện, chỉ do Thức mà biến, Chân Tâm và Vọng tâm đó, [là] Tự Tánh và A-lại-da, chúng ta phải làm cho rõ ràng, sáng tỏ điều đó.

Hiện nay, ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, là A-lại-da làm chủ, Tự Tánh thì sao? Tự Tánh đứng sang một bên, nên không làm chủ được, hoàn toàn là A-lại-da làm chủ. Chúng ta là sai ở chỗ này, để Vọng tâm làm chủ, Chân Tâm không làm chủ, Châm Tâm làm chủ là Phật Bồ-tát, là Bồ-tát địa vị nào? Ít nhất là Viên giáo Sơ trụ, Biệt giáo Sơ địa, tại sao? Vì Minh tâm Kiến tánh, Minh tâm Kiến tánh rồi, thì Tự Tánh mới làm chủ. Khi Tự Tánh làm chủ, thì không thấy Lục đạo nữa, cũng không thấy Mười pháp giới nữa, phần gì xuất hiện ở trước mặt, là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thật Báo Trang Nghiêm độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Thế giới Hoa Tạng, Thế giới Hoa Tạng xuất hiện rồi. Thế giới Cực Lạc chính là Thật Báo độ của A Mi Đà Phật, khi chúng ta đến Thế giới Cực Lạc liền nhìn thấy. Thế giới Cực Lạc rất kiệt xuất, vô cùng thù thắng, chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, chưa đoạn một phẩm phiền não, thật sự là phàm phu, nhưng đến Thế giới Cực Lạc, chỗ quý vị sanh là Đồng Cư độ của Thế giới Cực Lạc, Phàm Thánh Đồng Cư độ, hoàn toàn giống với Thật Báo độ. Tại sao? Do uy thần 48 nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, nên thọ dụng mà quý vị đạt được là bình đẳng với Bát địa Bồ-tát, điều này thật đáng giá. Sự việc này, không những phàm phu Lục đạo không thể tin tưởng, gọi là pháp khó tin, mà Thanh văn, Duyên giác, Quyền giáo Bồ-tát cũng không dám tin. Nếu quý vị có thể tin tưởng, thì điều này hiếm có rồi, quá khó được rồi, tại  sao? Vì quý vị có thể tin tưởng thì có thể vãng sanh, quý vị liền có phần. Nếu quý vị không tin tưởng, có hoài nghi, thì quý vị không có phần. Quý vị biết có Tịnh Độ: là kết Pháp duyên với A Mi Đà Phật, đời này quý vị không đạt được thọ dụng của Tịnh Độ. Chúng ta mong được thọ dụng, điều này tốt.

[40:00]

Cho nên Tự Tánh không sanh không diệt, Tự Tánh không có tạo tác, bởi vì không có tạo tác, nên Tự Tánh không có hạn lượng, có tạo tác thì có hạn lượng. Chúng ta nói các nhà Cơ học Lượng tử ngày nay: rất tài ba. Đã khám phá ra bí mật của vũ trụ rồi, chính là những gì hình thành toàn bộ vũ trụ, là ba loại, thứ nhất là vật chất, thứ hai là ý niệm, thứ ba là hiện tượng tự nhiên, ba loại đó hình thành toàn bộ vũ trụ, ngày nay vật chất được khám phá rồi, hiện tại mọi người tập trung ở loại thứ hai, là ý niệm, chính là niệm lực. Quý vị xem, báo cáo nghiên cứu về niệm lực quá nhiều rồi, đến nơi nào của hiệu sách đều có thể nhìn thấy, hiện tại tập trung ở điểm này. Rốt cuộc ý niệm là gì? Do đâu mà đến? Vì sao có thể có? Khởi tác dụng gì? Là ý niệm có thể sanh vạn pháp, sự sanh ra đó, thực ra phải biết là điều chính xác được nói trong kinh Phật, có thể biến ra vạn pháp. Tự Tánh có thể sanh, Đại sư Huệ Năng nói không sai, 何期自性,能生萬法 (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn Pháp), [chỗ] vạn pháp dựa vào chính là Năng sanh chính là Tự Tánh, biến thành Lục đạo, biến thành Mười pháp giới là A-lại-da, Thức, Thức có thể biến, [còn] Tâm, Tánh, Tự Tánh có thể hiện, có thể sanh có thể hiện. Đây là một số điều cơ bản trong Phật pháp, phải làm được rất rõ ràng, rất sáng tỏ, thì chúng ta sẽ không đi đường vòng. Mặc dù chính chúng ta mê hoặc điên đảo, nhưng bên trong mê hoặc điên đảo được rõ ràng, thì không lạc đường hướng đi chính, vậy thì vô cùng khó được.

Lão Tổ tông cổ Thánh tiên Hiền nước ta, dạy chúng ta luân lý, đạo đức, nhân quả, thật tốt! Khiến chúng ta ở trên con đường nhân sinh: có quỹ đạo, không đến nỗi lệch về phía tà, căn cứ vào Thánh nhân chỉ đạo chúng ta, đó là đại đạo của nhân thiên, là thù thắng nhất trong Lục đạo, nếu quý vị đi lệch về phía tà rồi, vậy thì sẽ đi đến ba đường ác. Trong thời gian trước kia, khi Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa, nhưng lão Tổ tông Trung Hoa đã biết, đã chỉ Ngũ thường cho chúng ta, Ngũ thường là đức, chính là Giới luật, Giới luật của nhà Phật, cũng cần phải tuân thủ, Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, người Nhân từ yêu thương người, phải bồi dưỡng một ái tâm, hễ là người, đều nên thương yêu, nhân từ với nhân dân đến vật, không những yêu người, mà ngay cả vạn vật đều yêu, thì ái tâm đó mở rộng rồi. Về Nghĩa, là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác: hợp tình, hợp pháp, hợp lý, đây gọi là Nghĩa. Tiếp theo là Trí huệ, Lý trí, không phải xử trí theo tình cảm, dùng Trí huệ để xử lý công việc, không dùng tình cảm. Có Lễ, có Tín. Đây chính là Ngũ giới, ở trong Ngũ giới, không sát sanh là Nhân, không trộm cắp là Nghĩa, không tà dâm là Lễ, không uống rượu là Trí, không vọng ngữ là Tín. Quý vị xem, nhà Phật đã lập giới căn bản, hoàn toàn giống với điều mà cổ Thánh tiên Hiền của chúng ta dạy dỗ, đây gọi là đại đạo, Tự Tánh vốn có, không phải đến từ bên ngoài.

Ngũ giới Thập thiện, nhà Nho có, nhà Đạo cũng có, lại xem toàn bộ các tôn giáo trên thế giới, tất cả đều có. Hoàn toàn không phải là sao chép mà đến, là vị giáo chủ ấy, là đức giáo chủ khai sáng tôn giáo, dùng Phật pháp để nói, tất cả đều là người Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ. Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, trong nhà Phật giảng chính là Phật, Kiến tánh thành Phật. Phật ở trong các Tôn giáo khác nhau, hiện các thân khác nhau, điều này giảng được thông, 32 ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, thích hợp dùng thân nào để độ được liền hiện thân đó, thân hiện không giống nhau, nhưng nói pháp giống nhau. Những năm trở lại đây chúng tôi tiếp xúc rất nhiều Tôn giáo, đọc kinh điển của họ, tất cả đều có Ngũ giới Thập thiện, nhà nhà đều giảng hiếu thân tôn sư, không có không giảng, quý vị xem được thật hoan hỉ. Cho nên chúng tôi đề xuất: chúng Thần là nhất thể, Tôn giáo là một nhà. Lần này tôi tham quan nước Anh, có duyên tiếp xúc với giới Tôn giáo nước Anh, đề xuất hai câu nói này, hi vọng Tôn giáo quay về giáo dục, Tôn giáo cần phải học tập lẫn nhau, Tôn giáo cần phải hóa giải hiểu lầm, để giúp đỡ xã hội, thúc đẩy xã hội an định hài hòa. Tôn giáo đã làm ra cống hiến thật sự đối với nhân loại.

Giáo dục của Tôn giáo là giáo dục của Thần Thánh, ý nghĩa của hai chữ của Tôn giáo này của Trung Hoa quá hay rồi. Hai chữ “Tôn giáo” này, căn cứ vào giải thích của người Trung Hoa, thứ nhất là giáo dục chủ yếu của nhân loại, thứ hai là giáo dục quan trọng của nhân loại, thứ ba là sự giáo hóa tôn sùng của nhân loại, đó gọi là Tôn giáo. Cho nên, thời xưa Đế vương các triều đại, mãi cho đến nhà Thanh, thì Tôn giáo do ai quản? Do đích thân Hoàng thượng quản, Tôn giáo không thuộc về Tể tướng, Tể tướng chỉ quản nhà Nho. Thành thật mà nói, giáo dục của nhà Nho, là mỗi gia đình tự mình quản, quý vị xem, nhà có gia quy, có gia học, có gia miếu, từ đường, xuân thu tế tổ, đề xướng hiếu đạo, một năm thực hiện hoạt động hai lần, làm cho quý vị không được quên. Hiện tại tôi chủ trương là thực hiện ba lần, tại sao? Vì thời gian mất đi quá lâu rồi, mọi người quên mất rồi, nên hai lần vẫn không được, phải ba lần. Vào Thanh minh, Trung nguyên, Đông chí, ba lần đó đều thực hiện, một năm nhắc nhở ba lần, hi vọng mọi người giác ngộ trở lại.

Người không thể không hiếu thảo với cha mẹ, quý vị hãy tỉ mỉ xem cha mẹ dìu dắt con nhỏ vô cùng vất vả, con nhỏ lớn lên: không hiếu thảo với cha mẹ thì còn có thể tính là người sao? Hiện tại người trưởng thành không hiếu thảo với cha mẹ rất nhiều, nguyên nhân là gì? Là không có người dạy họ. Thời xưa ở Trung Hoa, trẻ nhỏ sinh ra. Giáo dục quan trọng nhất chính là dạy hiếu, dạy kính, hiếu với cha mẹ, với sư trưởng, kính với người cùng vai vế, với người thông thường, người đại diện là thầy giáo, hiếu thân tôn sư, là gia giáo, nhà là nơi cắm rễ của trẻ nhỏ, trẻ nhỏ hiểu được, từ nhỏ dưỡng thành thói quen, đến 6, 7 tuổi đi học, thầy giáo dạy, tiếp tục dạy, đến 15, 16 tuổi, thì cắm rễ chắc chắn rồi. Gốc rễ đó cắm vững vàng rồi, thì cả đời sẽ không thay đổi, ngạn ngữ xưa gọi là三歲看八十 (nhìn ba tuổi thấy 80), không sai chút nào. Hiện tại không còn nữa rồi, vậy làm sao? Vẫn là phải khởi bước từ đầu, nếu không cắm rễ từ đầu, giữa chừng đến học, đến khi 20, 30 tuổi, lại đến học, thì không vững chắc, được gọi là: trước danh cao lợi lớn, người ấy sẽ thay đổi khí tiết, nguyên nhân là gì? Là gốc không bền chắc. Thời xưa, người tuân thủ rất nhiều, quý vị xem trong Nhị Thập Ngũ Sử, quý vị liền thấy được rất nhiều người, đây là những bậc điển hình. Vì sao họ có thể tuân thủ? Không bị tài sắc danh lợi làm động tâm, không dao động, thật có thể tuân thủ được, có nền tảng vững chắc, chúng ta không thể không biết.

Ở đây giảng Tự Tánh không có tạo tác, chúng ta đọc đến chỗ này, không có hạn lượng. 自性無外,如風廣被 “Tự Tánh vô ngoại, như phong quảng bị” (Tự Tánh không có bên ngoài, như gió trùm khắp), không ngoài cũng không trong, phía dưới có, phía dưới tiếp theo, 自性無內,如鏡普現 “Tự Tánh vô nội, như kính phổ hiện” (Tự Tánh không có bên trong, như kính rộng hiện), Tự Tánh không có đối lập, những gì ở đây giảng tất cả đều là đối lập, đối lập chính là Biên kiến. 自性光明,如日普照 “Tự Tánh quang minh, như nhật phổ chiếu” (Tự Tánh quang minh, như mặt trời chiếu khắp), Tự Tánh là quang minh, trong kinh Phật gọi là Đại Quang Minh Tạng, chính là Tự Tánh. Ở trong Tịnh Độ tông, Thường Tịch Quang độ chính là Tự Tánh Quang Minh. Tự Tánh ở đâu? Không chỗ nào không có, không lúc nào không có, chúng ta đời đời kiếp kiếp, toàn bộ tất cả hoạt động không có rời khỏi Tự Tánh. 自性平等,如香普熏 “Tự Tánh bình đẳng, như hương phổ huân” (Tự Tánh bình đẳng, như hương xông khắp), không có cao thấp, cho nên đề Kinh của chúng ta để Tự Tánh ở bên trong, phía sau đề Kinh là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, chính là Tự Tánh, Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác cũng là danh hiệu của A Mi Đà Phật, Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác là Chân Tâm của chúng ta, Chân Tâm là hình dáng thế nào? Không có ô nhiễm, là thanh tịnh; không có phân biệt, là bình đẳng; không có dao động, cũng chính là nói Tự Tánh không có Vô minh, còn A-lại-da có Vô minh, nhưng Tự Tánh không có Vô minh, cho nên luận về Chân Tánh, thì chúng ta bình đẳng với Phật, khi nào thì bình đẳng? Bình đẳng ngay lúc này, hiện tại là bình đẳng. Vì sao các Ngài thành Phật, còn ta làm phàm phu ở trong Lục đạo? Vì các Ngài giác ngộ rồi, còn ta thì mê hoặc, nguyên nhân ở chỗ này, Phật Bồ-tát đã giác ngộ, không còn mê nữa, còn chúng ta mê thì không giác, phiền phức ngay tại chỗ này, không thể không biết.

菩薩即順眾生自性本具之空寂心、妙圓心、無礙心、無住心、無作心、無外心、無內心、光明心、平等心 “Bồ-tát tức thuận chúng sanh Tự Tánh bổn cụ chi không tịch tâm, diệu viên tâm, vô ngại tâm, vô trụ tâm, vô tác tâm, vô ngoại tâm, vô nội tâm, quang minh tâm, bình đẳng tâm” (Bồ-tát là thuận theo tâm không tịch tĩnh, tâm vi diệu viên mãn, tâm không chướng ngại, tâm vô trụ, tâm vô tác, tâm vô ngoại, tâm vô nội, tâm quang minh, tâm bình đẳng vốn có trong Tự Tánh của chúng sanh), tổng cộng đã giảng chín câu, chín câu có chữ tâm, chỉ là một niệm tâm, A Mi Đà Phật của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, dùng chín câu có chữ tâm này, 莊嚴佛土 “trang nghiêm Phật độ” (trang nghiêm cõi Phật). 是以四十八願 “Thị dĩ tứ thập bát nguyện” (Là dùng 48 nguyện). 48 nguyện là gì? Là 48 nguyện, 一一願即眾生本具之心 “nhất nhất nguyện tức chúng sanh bổn cụ chi tâm” (mỗi nguyện là tâm vốn có của chúng sanh). Nói rất hay! Là tâm vốn có, 即以自心,莊嚴自土 “tức dĩ tự tâm, trang nghiêm tự độ” (chính là dùng tâm mình, trang nghiêm cõi nước chính mình). Không giả chút nào. Cho nên Thiền sư Trung Phong ở trong Tam Thời Hệ Niệm nói với chúng ta: 自性彌陀,唯心淨土 “Tự Tánh Mi Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Đức Mi Đà là ai? Chúng ta là một thể với đức Mi Đà, không thể phân chia. Nguyện mà đức Mi Đà phát là lưu lộ ra từ Chân Tâm, lưu xuất ra từ Tự Tánh, không phải từ A-lại-da. Phàm phu chúng ta khởi tâm động niệm không rời khỏi sự phân biệt của Ý thức Thứ 6, sự chấp trước của Thức thứ 7, sự biến của thức Mạt-na thoát ly không nổi A-lại-da. Tam tế tướng của A-lại-da là Vọng tâm của chúng ta. Nhưng Tam tế tướng của A-lại-da là được biến ra từ trong Chân Như Tự Tánh, đây là chân tướng sự thật.

[1:02:39]

Cư sĩ Bành Tế Thanh giảng về tâm vốn có của chúng sanh, chính là dùng tâm chính mình, để trang nghiêm cõi nước mình. 如水歸海,如響應聲。心土不二,因果同時。是故法藏發願畢,空中即讚言決定必成無上正覺 “Như thủy quy hải, như hưởng ứng thanh. Tâm độ bất nhị, nhân quả đồng thời. Thị cố Pháp Tạng phát nguyện tất, không trung tức tán ngôn quyết định tất thành Vô thượng Chánh giác” (Như nước quay về biển, như tiếng vang đáp lại âm thanh. Tâm và cõi nước không hai, nhân quả đồng thời. Cho nên ngài Pháp Tạng phát nguyện xong, không trung liền khen ngợi: nhất định chắc chắn thành tựu Vô thượng Chánh giác). Là cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn, tại sao? Vì đó là một thể, lòng tin của chúng ta phải kiến lập từ chỗ này, đây là thật sự tin tưởng rồi. Nếu không phải là một thể, A Mi Đà Phật thành lập Thế giới Cực Lạc, thì một thân tội nghiệp mà ta đã tạo, ta có thể đến hay sao? Ngài có thể không cần ta hay không? Có nhiều nghi vấn tồn tại như vậy. Hiện tại biết là một thể của chúng ta, liền không có nghi ngờ đó nữa, không có hoài nghi, băn khoăn nữa, chính mình quyết chắc chính mình nhất định được sanh Tịnh Độ, chúng ta chỉ cần tương ứng với điều mà A Mi Đà Phật dạy bảo, A Mi Đà Phật dạy chúng ta thật tin, không có một chút hoài nghi, có Thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, chúng ta thật tin, thật nguyện, ta mong muốn đến Thế giới Cực Lạc, thay đổi một hoàn cảnh, ta đến nơi đó thành Phật. Vì sao thành Phật? Là vì độ chúng sanh.

Cho nên quý vị phải biết, đến Thế giới Cực Lạc không phải là đi hưởng vui, nếu quý vị là có tâm hưởng vui đó, thì đi không được. Tại sao? Vì nơi đó là Đại thừa, quý vị không tương ưng với Đại thừa. Đại thừa là đại Bồ-tát, đại Bồ-tát là lấy Đại từ Đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh khổ nạn, là ở đâu? Ở khắp Pháp giới Hư không giới, tất cả chúng sanh Lục đạo, chúng sanh của Mười pháp giới trong cõi nước của Chư Phật. Là vì sự việc này, hoàn toàn giống với Đại thừa, với bổn nguyện của đức Phật, thì đặc biệt hoan nghênh quý vị đến, là cùng đồng chí hướng. Cho nên, không có liên quan với niệm Phật bao nhiêu, khi cùng đồng chí hướng, thì các ngài lập tức liền tìm quý vị, nếu quý vị không đi thì các ngài cũng mời quý vị đi. Tại sao? Vì chúng ta ở thế gian này, là cùng một phương hướng, cùng một mục tiêu, làm cùng một sự việc, nào có đạo lý không cảm ứng? Nếu sống được lâu hơn ở thế gian này, thì nơi đến sau cùng nhất định sẽ là Thế giới Cực Lạc.

Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm một tấm gương cho chúng ta, ngài [có] thọ mạng dài như vậy, tôi cho rằng đó là do A Mi Đà Phật gia trì cho ngài, không phải chính ngài có được. Tại sao A Mi Đà Phật gia trì cho ngài, vì thế gian này có khổ nạn, rất nhiều người học Phật đã học sai rồi, người niệm Phật cũng niệm sai rồi, nên ngài đến làm một tấm gương tốt. Ở thời đại này, muốn học Phật thật sự thành tựu, thì nên học ngài, muốn niệm Phật thật sự vãng sanh, cũng nên học ngài, nhất định phải làm ra tấm gương tốt nhất cho người thế gian, tấm gương đó chính là: trì giới thủ pháp, nghe lời, thật thà, trong xã hội đều hoan nghênh người như vậy. Mặc dù không phải rất coi trọng ngài, có lẽ có xem thường ngài, nhưng hai bên ở thế gian này không phát sinh xung đột, là gia hòa vạn sự hưng, đó chính là cống hiến lớn lao với xã hội, chúng ta phải hiểu được.

Cả đời lão Hòa thượng chưa từng nổi nóng, cả đời chưa từng nổi giận với người nào, không có không vui, không có. Lão Hòa thượng không phê bình người khác, lão Hòa thượng không đố kị người khác. Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, Tam học, Lục độ, Thập nguyện Phổ Hiền, chúng ta đem đến so sánh với lão Hòa thượng xem, ngài hoàn toàn làm được rồi. Mỗi ngày chúng ta đang học nhưng không làm được, còn ngài hoàn toàn làm được rồi, ngài không biết chữ, ngài chưa từng có học, ngài làm sao biết được? Thực ra, nếu khai ngộ thì hoàn toàn rõ ràng rồi. Mặc dù khai ngộ rồi, nhưng giả bộ giống như dáng vẻ chưa khai ngộ, quý vị hoàn toàn nhìn không ra. Chúng ta phải hiểu đạo lý này, thì chúng ta mới có thể học. Học chịu thiệt thòi, phải tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, khi người khác hủy báng ta, có thể tiếp nhận, nghe được còn rất hoan hỉ, rất cung kính với người hủy báng ta, còn cảm ơn họ. Tại sao? Vì họ đã thay ta tiêu nghiệp chướng, ra đề thi để kiểm tra ta, ta thông qua rồi, làm sao có thể không hoan hỉ? Nếu bị lừa, bị ức hiếp, bị sỉ nhục rồi, thì cũng không lưu tâm, không để ở trong tâm. Thậm chí với sự hãm hại ta, sỉ nhục ta, đều không nên để ở trong tâm, đều giữ gìn một tâm niệm cảm ơn, thật sự là đến kiểm tra ta. Rất khó được, họ ra những đề thi đó, ta đều có thể thông qua, không để ở trong tâm thì đều thông qua rồi, nên có tâm cảm ân với họ. Hiện tại họ không biết, thì tương lai họ sẽ biết, khi họ học Phật, nhập cảnh giới Phật, thì họ sẽ biết thôi. Cho nên học Phật thì học chỗ nào? Đặc biệt là ở hoàn cảnh nhân sự, người với người khó hòa thuận nhất, là ở trong hoàn cảnh nhân sự, sửa chữa sạch sẽ tất cả phiền não, tật xấu, tập khí của chính chúng ta. Nguyên tắc chung, chính là cùng tất cả mọi người không phát sinh xung đột lợi hại. Muốn làm cũng rất đơn giản, [điều] họ muốn ta không muốn, còn [điều] ta muốn thì họ không muốn, thì sẽ không xung đột thôi. Điều ta muốn là gì? Là mỗi ngày tăng trưởng tín nguyện của ta, là mỗi ngày không gián đoạn Phật hiệu. Đây là điều ta muốn, còn họ không muốn. Họ muốn là danh văn lợi dưỡng, Ngũ dục Lục trần, danh cao lợi lớn, họ muốn những thứ ấy, còn ta không muốn những thứ ấy. Cho nên chúng ta nhất định phải biết, trong học Phật, vào năm xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Đức Phật cả đời không có xây dựng chùa, tại sao? Vì xây chùa liền có cạnh tranh với người, lúc không có chùa thì không cạnh tranh với người. Không lôi kéo những tín đồ của người khác, tín đồ cả đời của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, mở kinh điển ra xem, 1255 người, là chúng thường tùy. 49 năm giảng kinh thuyết pháp, cho những người nào? Chính là những người ấy, quý vị chưa thấy người khác, không lôi kéo tín chúng. Không tranh danh, không đoạt lợi, cho nên mọi người bình an vô sự. Ngày nay xã hội vì sao loạn đến như vậy? Vì sao người xuất gia đều phạm vào một giới, là tự khen mình chê người, đều thích phê bình người khác, chỉ trích người khác, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ trước tới giờ chưa từng có. Chúng ta điều gì cũng không yêu cầu nữa, thì sẽ không chỉ trích người khác.

Đối đãi người nào cũng đều tốt, tại sao? Vì Bồ-tát Phổ Hiền dạy cho chúng ta, tất cả chúng sanh vốn là Phật, nên chúng ta phải lễ kính chư Phật, phải xưng tán Như Lai. Tại sao lễ kính thì dùng chư Phật, còn xưng tán thì không dùng chư Phật, mà phải đổi thành Như Lai, điều đó có ý nghĩa gì? Phật, tất cả chúng sanh vốn là Phật, nên phải bình đẳng lễ kính. Còn Như Lai là Tánh đức, họ làm trái với Tánh đức, thì không tán thán, họ làm giết trộm dâm dối, vậy làm sao có thể tán thán? Nên không tán thán, không phê bình, không tán thán. Việc tốt mà họ làm, làm được chính là việc tốt, thì tán thán. Còn việc lễ kính, bất luận là thiện hay ác, thì lễ kính là bình đẳng, không có phân biệt, xưng tán là có phân biệt, điều này phải hiểu. Nếu làm ra việc ác mà xưng tán thì sai rồi. Việc đó không nên xưng tán. Cho nên ngài Đồng tử Thiện Tài, quý vị xem, trong 53 lần tham học, ngài gặp Bà-la-môn Thắng Nhiệt, ngài gặp Cam Lồ Hỏa Vương, có lễ kính, nhưng không có tán thán, làm cho chúng ta xem. Ngoài ra không có tán thán, ngài cũng tham quan đạo tràng của họ, xem họ làm những sự việc không như pháp, không nói một câu, thấy được làm ra là sự việc lợi ích chúng sanh, sự việc khai ngộ chúng sanh, thì phải tán thán, nên học tập theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nên học tập theo ngài Đồng tử Thiện Tài, thì đúng rồi, cả đời không kết oán thù với người khác, đó là người thông minh. Tại sao? Vì sau khi oán thù đã kết rồi, thì đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo không ngừng không dứt, vậy khổ không nói nên lời, cần gì phải như vậy? Nếu nhẫn được một chút thì tốt rồi, sẽ thành tựu Nhẫn nhục Ba-la-mật của quý vị.

Thứ gì của thế gian này cũng đều là giả, tài sản của chúng ta bị người khác chiếm đoạt, bị người khác đoạt lấy rồi, thì như không có chuyện gì xảy ra, không nên để ở trong tâm, danh dự của chúng ta, người khác tạo tin đồn sanh sự phá hoại quý vị, chướng ngại quý vị, thì cũng như không có chuyện gì. Khi họ chướng ngại ta, thì ta liền lui tránh, thỏa mãn tâm nguyện của họ, nơi nơi học lui nhường, không cạnh tranh với người. Khiến cho tín nguyện chúng ta đối với Thế giới Cực Lạc mỗi ngày càng sâu, khiến công phu niệm Phật của chúng ta mỗi ngày càng tinh tấn, con đường mà chúng ta đi là Thế giới Tây Phương Cực Lạc, còn họ vẫn còn tiếp tục tạo luân hồi. Nếu chúng ta không có đức hạnh, không có trí huệ, thì không thể giúp họ tỉnh ngộ trở lại, không phê bình, không tán thán họ, nhưng phải cung kính, phải cúng dường. Khi họ có khó khăn, thiếu lương thực, thiếu quần áo, chúng ta có dư, thì phải cúng dường họ, phải quan tâm họ, vậy thì được rồi. Chỉ nhìn mặt thiện của người khác, không được nhìn đến mặt ác của họ, không phải quý không có nhìn thấy, không có nghe thấy, mà nhìn thấy, nghe thấy, nhưng không được để trong tâm, trong tâm không có bị ô nhiễm, luôn luôn là thanh tịnh, vậy thì đúng rồi.

[1:21:22]

Cho nên, tiếp theo đó giảng được rất hay, tâm và cõi nước không hai, tâm là có thể sanh có thể hiện có thể biến, cõi nước là được sanh được hiện được biến, đều không tách rời Chân Tâm và Vọng tâm; Chân Tâm có thể sanh, có thể hiện; Vọng tâm có thể biến. Nhân quả đồng thời, trong nhân có quả, trong quả có nhân. Giáo dục nhân quả nhất định phải hiểu rõ, đời này của chúng ta có duyên tu nhân thiện, thì tương lai cảm ứng quả thiện. Cho nên nhất định không thể tạo nhân ác, nhân ác sau này có ác báo, thì phiền phức! Hiện tại chịu một chút oan ức thì tốt, chúng ta có tội nghiệp thì báo hết rồi. Cho nên phải cảm ơn, không phải là chuyện xấu. Phải nhìn rõ ràng, nhìn được sâu, nhìn được xa. Nếu như nhìn bên ngoài, thì quý vị có oán, liền có hận, vậy  phiền phức đó lớn rồi. Nếu quý vị có oán hận, thì đời sau gặp lại muốn báo thù, quý vị muốn báo thù họ, họ cũng không hiểu rõ, trong tâm cũng oán hận, tiếp tục đời sau họ lại báo thù quý vị. Oan oan tương báo như vậy, đời đời kiếp kiếp, thật đáng thương, vô cùng đáng thương. Đây là đức Phật dạy chúng ta, oán phải cởi mở, phải hóa giải, hóa giải không ở bên phía họ, mà ở phía ta, bên ta hóa giải rồi, thì họ sẽ không có việc gì nữa. Thật sự học Phật, chính là điều này, mang lợi ích cho quý vị, mang chỗ tốt cho quý vị, thì nói không hết, là giải trừ báo ứng nhân quả đời đời kiếp kiếp của quý vị, quý vị đều được giải trừ rồi. Hiểu được đạo lý này, cho nên ngài Pháp Tạng phát nguyện xong, không trung liền khen ngợi rằng: 決定必成無上正覺 “Quyết định tất thành Vô thượng Chánh giác” (Nhất định chắc chắn thành tựu Vô thượng Chánh giác). Đó là gì? Là以不可思議之因,起不可思議之果。當知不可思議之因,即不可思議之果。有志淨土者,須從此信入 “dĩ bất khả tư nghì chi nhân, khởi bất khả tư nghì chi quả. Đương tri bất khả tư nghì chi nhân, tức bất khả tư nghì chi quả. Hữu chí Tịnh Độ giả, tu tùng thử tín nhập” (lấy nhân không thể nghĩ bàn, lập nên quả không thể nghĩ bàn. Nên biết: Nhân không thể nghĩ bàn, chính là quả không thể nghĩ bàn. Người có chí [về] Tịnh Độ, nên từ đây mà tin nhập). Hai câu này là Cư sĩ Bành Tế Thanh khuyên chúng ta, giải thích được rất rõ ràng nhân quả, chúng ta mới thật sự hiểu được, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác báo.

Phía sau là câu cuối cùng, 此論 “thử Luận” (Luận này), chính là lời của đoạn này, 宜深參究 “nghi thâm tham cứu” (nên tham cứu sâu). Không phải nghiên cứu, mà là tham cứu, nghiên cứu là sự việc mà người bây giờ làm, còn tham cứu là điều trước đây được Thiền tông làm. Thế nào gọi là tham cứu? Thế nào gọi là nghiên cứu? Bây giờ nhà khoa học đều dùng nghiên cứu, nghiên cứu là dùng A-lại-da, còn tham cứu là dùng Chân Tâm. Rời khỏi Tâm Ý Thức thì gọi là tham cứu, Tâm chính là A-lại-da, Ý chính là Mạt-na, Thức chính là Ý thức Thứ 6, chính là nói quý vị có thể không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, đó là tham cứu. Vấn đề mở ra ở trước mắt quý vị, không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, bỗng nhiên liền sáng tỏ rồi, đó gọi là Ngộ. Ngộ có Đại ngộ, Tiểu ngộ, Triệt ngộ. Triệt ngộ tương đối khó, còn Tiểu ngộ rất dễ dàng, chỉ cần thu lại một chút, thu lấy tâm, khiến cho tâm không có ý niệm, không có vọng tưởng, không có phân biệt chấp trước, đó là tham, đó là tham thiền. Khởi tâm động niệm vậy thì không phải là tham thiền. Thiền là Thiền định, Thiền định không nhất định là ngồi thiền, mà đi bộ cũng có thể nhập định, đi đứng ngồi nằm đều có thể nhập định. Khi định công sâu, thì làm việc gì đều ở trong định, vậy thì cao rồi.

Điều đó phải học từ từ, rất có thọ dụng. Những lời mà chúng ta vừa mới giảng này, nếu dùng đến tất cả ở trong sinh hoạt hàng ngày, thì tâm sẽ như thế nào? Tâm sẽ là thanh tịnh, gặp phải cảnh duyên thiện ác, nghịch thuận: đều có thể không để trong tâm, rất rõ ràng rất sáng tỏ, là trí huệ, sanh trí huệ. Thấy rõ, thấy rõ chính là thông thường chúng ta giảng là thâm cứu, thâm nhập, là làm cho rõ ràng, sáng tỏ rốt ráo, thì trí huệ liền hiện tiền.

Phẩm thứ 7 chúng ta học đến chỗ này. Tiếp theo chúng ta xem phẩm 8, phẩm này rất đặc sắc.

【積功累德第八】“Tích Công Lũy Đức Đệ Bát” (Phẩm thứ 8: Tích Lũy Công Đức).

Phía trước là phần giới thiệu phẩm đề, văn tự không nhiều, chỉ có hai hàng. 本品 “Bổn phẩm” (Phẩm này). Trong phẩm này, 法藏菩薩發大願已 “Pháp Tạng Bồ-tát phát đại nguyện dĩ” (Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện lớn xong), phía trước giảng đã phát 48 nguyện, 從願起行 “tùng nguyện khởi hạnh” (từ nguyện khởi hạnh). Sau khi đã phát nguyện phải thực hiện, phải có làm, nếu không có làm thì nguyện ấy là giả rồi, không phải là thật. Cho nên Ngài phải thực thi 48 nguyện, đó là khởi hạnh. 於無量劫 “Ư vô lượng kiếp” (Ở trong vô lượng kiếp), Bồ-tát, đó chính là A Mi Đà Phật, lúc A Mi Đà Phật chưa có thành Phật gọi là Bồ-tát Pháp Tạng, Ngài từ kiếp lâu xa trước làm Bồ-tát, thời gian rất lâu rồi, cũng không phải là [điều mà] chúng ta có thể tưởng tượng được, 住真實慧 “trụ chân thật huệ” (trụ vào trí huệ chân thật), là dùng Chân Tâm. Huệ chân thật: là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, tự nhiên thông đạt hiểu rõ tất cả Pháp, đó là huệ chân thật. Huệ chân thật mới có thể: 植眾德本 “Thực chúng đức bổn” ( Vun trồng tất cả gốc rễ của đức hạnh), vô lượng đức hạnh, có trí huệ chân thật, có vô lượng đức hạnh, mới có thể giúp đỡ chúng sanh. Vô lượng vô biên chúng sanh, [với] khuyết điểm tập khí của họ, quý vị mới có phương pháp đối trị, quý vị mới có năng lực chỉ dẫn họ. Nếu quý vị không có trí huệ, nếu quý vị không có đức hạnh, thì lấy gì ra để chỉ dẫn chúng sanh? Cần phải biết điều này.

教化無量眾生,住於無上之道,皆發阿耨多羅三藐三菩提心 “Giáo hóa vô lượng chúng sanh, trụ ư Vô thượng chi đạo, giai phát A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm” (Giáo hóa vô lượng chúng sanh, trụ ở trong đạo Vô thượng, đều phát tâm A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề). Trong lời này hàm chứa ý nghĩa gì, chúng ta cần phải hiểu được, đây chính là Tịnh Độ tông, nếu không phải là huệ chân thật thì không thể tin tưởng, sẽ không cầu sanh, có huệ chân thật mới tin tưởng, mới có thể cầu sanh Tịnh Độ. Nếu không có gốc đức, thì phẩm vị không cao, muốn cao phẩm vị, vậy thì phải tu gốc đức, vậy mới có thể giáo hóa vô lượng chúng sanh. Ý nghĩa hai câu nói này rất sâu rồi, chúng ta học thế nào? Là thật sự tin tưởng, thật sự tin có Thế giới Cực Lạc, thật sự tin tưởng có A Mi Đà Phật, đây chính là trí huệ chân thật; nhất hướng chuyên niệm A Mi Đà Phật, đó chính là vun trồng tất cả gốc đức hạnh. Đó là thế nào? Đời này của chúng ta nhất định vãng sanh Thế giới Cực Lạc, vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là trụ ở đạo Vô thượng, vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là phát tâm Vô thượng Bồ-đề. 如是功德,說不能盡 “Như thị công đức, thuyết bất năng tận” (Công đức như vậy, không thể nói hết). Quý vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thành Phật ở nơi đó, quý vị giống như A Mi Đà Phật, ở thế giới mười phương rộng độ chúng sanh. 是故 “Thị cố” (Cho nên), tựa đề của phẩm này gọi là積功累德 “Tích Công Lũy Đức” (Tích Lũy Công Đức).

Chúng ta xem đoạn văn tiếp theo, ở trong phân khoa lớn:丁九、如願修行 “Đinh Cửu, Như Nguyện Tu Hành” (D9. Tu Hành Giống Như Nguyện [Đã Phát]). Trong đây có ba đoạn, đoạn thứ nhất là, 結前啟後 “Kết Tiền Khải Hậu” (Tổng Kết Phía Trước Mở Ra Phía Sau). Mời xem Kinh văn:

【阿難。法藏比丘。於世自在王如來前。及諸天人大眾之中。發斯弘誓願已。住真實慧。勇猛精進。一向專志莊嚴妙土。】

“A Nan! Pháp Tạng Tỳ-kheo. Ư Thế Tự Tại Vương Như Lai tiền, cập chư thiên nhân đại chúng chi trung, phát tư hoằng thệ nguyện dĩ, trụ chân thật huệ, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm Diệu độ” (Này A Nan! Tỳ-kheo Pháp Tạng ở trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai và trong đại chúng trời người, phát hoằng thệ nguyện đó rồi, thì trụ trong trí huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn, một hướng chuyên chí trang nghiêm cõi nước vi diệu).

Ngài Pháp Tạng nói lời thì giữ lời, thật sự thực hiện rồi. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 法藏菩薩於佛 “Pháp Tạng Bồ-tát ư Phật” (Bồ-tát Pháp Tạng ở trước Phật). Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai là thầy của Ngài, ở trước mặt của thầy, còn có天人大眾中,宣發以上之弘誓願 “thiên nhân đại chúng trung, tuyên phát dĩ thượng chi hoằng thệ nguyện” (trong đại chúng trời người, tuyên phát hoằng thệ nguyện ở trên). Hoằng có ý nghĩa là lớn, có ý nghĩa là rộng, chính là chỉ 48 nguyện. Tiếp theo có giải thích như sau, 弘者,廣也。《法界次第》釋曰:廣普之緣,謂之為弘。自制其心,名之曰誓 “hoằng giả, quảng dã. Pháp Giới Thứ Đệ thích viết: quảng phổ chi duyên, vị chi vi hoằng. Tự chế kỳ tâm, danh chi viết thệ” (hoằng: là rộng. Trong sách Pháp Giới Thứ Đệ chú thích rằng: duyên của rộng khắp, được gọi là hoằng. Tự khắc chế tâm ấy, gọi đó là thệ). Chính mình quản lấy ý niệm của mình, đó gọi là thệ. 志求滿足,故云願也 “Chí cầu mãn túc, cố vân nguyện dã” (chí hướng cầu viên mãn đầy đủ, nên gọi là nguyện). Ngài hi vọng 48 nguyện mà Ngài đã phát, mỗi nguyện đều viên mãn, mỗi nguyện đều không uổng công, đều được thực hiện, thì Ngài mới thành Phật. Nếu có một nguyện không thể viên mãn, không thể thực hiện, thì Ngài thề không thành Phật. Hiện tại ngài Pháp Tạng đã thành Phật ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc được mười kiếp rồi, mười kiếp ở trong vũ trụ không tính là rất lâu, nhưng ở nhân gian của chúng ta là thời gian vô cùng lâu.

Chúng ta xem phần giải thích phía sau, 弘誓願者,泛指佛菩薩弘大之誓願 “hoằng thệ nguyện giả, phiếm chỉ Phật Bồ-tát hoằng đại chi thệ nguyện” (hoằng thệ nguyện: là nói về thệ nguyện rộng lớn của Phật Bồ-tát). Đây là được tất cả Phật Bồ-tát đều dùng, là hoằng thệ nguyện. Trên thực tế, hoằng thệ nguyện chính là hai câu: thành Phật, độ chúng sanh, chính mình thành Phật, rộng độ chúng sanh, đó gọi là hoằng thệ nguyện. 今言斯弘誓願,則專指法藏菩薩之四十八願也 “Kim ngôn tư hoằng thệ nguyện, tắc chuyên chỉ Pháp Tạng Bồ-tát chi tứ thập bát nguyện dã” (hoằng thệ nguyện [được] nói ở đây, là chuyên chỉ 48 nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng). Hoằng thệ nguyện được nói ở chỗ này, chuyên chỉ 48 nguyện được nói ở phía trước. 發斯願已 “Phát tư nguyện dĩ” (Phát nguyện đó rồi). Phát nguyện ấy rồi, 由願生起無邊殊勝妙行 “do nguyện sanh khởi vô biên thù thắng diệu hạnh” (từ nguyện sanh khởi vô biên hạnh vi diệu thù thắng). Tại sao, vì ngài muốn thực hiện, ngài muốn làm được nguyện đã phát, đó chính là vô lượng vô biên tu hành.

[1:40:41]

Chúng ta tiếp tục xem đoạn phía sau, 本品開章明義,其第一句,直曰:住真實慧 “bổn phẩm Khai Chương Minh Nghĩa, kì đệ nhất cú, trực viết: trụ chân thật huệ” (phần Khai Chương Minh Nghĩa của phẩm này, câu thứ nhất của phần ấy, thẳng nói rằng: trụ ở trí huệ chân thật), câu nói thứ nhất này. 此一句子 “Thử nhất cú tử” (Một câu này), câu nói này, 乃一切妙行之大本,為無量人天開正眼 “nãi nhất thiết diệu hạnh chi đại bổn, vị vô lượng nhân thiên khai Chánh nhãn” (là gốc lớn của tất cả hạnh vi diệu, vì vô lượng trời người mà khai mở mắt Chánh pháp). Nếu không có trí huệ chân thật, thì sẽ không có hạnh, mỗi một nguyện trong 48 nguyện: đều cần trí huệ chân thật mới có thể thực hiện, nếu không có trí huệ chân thật, thì không thể thực hiện. Trí huệ chân thật là gì? Là thật tin thật nguyện đối với Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính là chân trí huệ. Tại sao? Vì nếu thật tin thật nguyện, thì A Mi Đà Phật sẽ tiếp dẫn quý vị vãng sanh, đây là trí huệ chân thật. Cho nên điều kiện để Tây Phương tiếp nhận vãng sanh, thì thật tin thật nguyện là thứ nhất. Đại sư Ngẫu Ích nói, có thể vãng sanh hay không, quyết định ở có tín có nguyện hay không, tiếp theo đã nói, phẩm vị cao hay thấp, quyết định ở công phu niệm Phật sâu cạn. Thế giới Cực Lạc chính là hai sự việc này, một việc là nắm được điều kiện vãng sanh, một việc nữa là cách thực hiện phẩm vị cao hay thấp, làm thế nào để chúng ta đến Thế giới Cực Lạc có thể tăng cao phẩm vị. Nhưng tăng cao là sự việc thứ hai, không phải việc thứ nhất, phẩm vị của quý vị tu được cao hơn, mà không thể đi vãng sanh, đó là uổng công. Vậy thì biến thành phước báo rồi, biến thành phước báo trời người, quý vị không thể vãng sanh. Cho nên phải đặt vãng sanh ở vị trí thứ nhất, đặt vãng sanh ở vị trí thứ nhất, chính là tín nguyện. Thành lập tín nguyện thế nào? Là ở ngay trong bộ Kinh này, bộ Kinh này giới thiệu cho quý vị Thế giới Cực Lạc, giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ rồi, giảng thấu triệt rồi, quý vị mới tin tưởng. Cho nên kinh điển giúp chúng ta sanh khởi niềm tin, chính là ý nghĩa này.

Công phu niệm Phật sâu hay cạn, cạn hơn cũng không sợ, đều được, thậm chí không có chút công phu nào, chưa niệm qua Phật hiệu, sau cùng vãng sanh niệm một câu Phật hiệu, thì A Mi Đà Phật cũng sẽ tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Quý vị không có công phu niệm Phật, thì vãng sanh Hạ hạ phẩm ở Phàm Thánh Đồng Cư độ, rất tốt, đã vãng sanh rồi. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, người Hạ hạ phẩm cũng được đức Mi Đà gia trì, làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Hạ hạ phẩm, là đãi ngộ gì? Là đãi ngộ của A-duy-Việt-trí Bồ-tát. A-duy-Việt-trí là bậc thế nào? Là Minh tâm Kiến Tánh, Đại triệt Đại ngộ, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, địa vị cao như vậy. Các ngài trụ bao lâu ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm? Trụ ở đó ba a-tăng-kỳ kiếp, để làm gì? Để loại bỏ Tập khí Vô thỉ Vô minh, không dễ đoạn Tập khí, cũng không có phương pháp đoạn, chỉ có cách gì? Là không để ý đến Tập khí, thời gian lâu rồi tự nhiên đoạn được. Cho nên những vị Bồ-tát ấy ở Thật Báo độ của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đợi đoạn hết Tập khí Vô minh, khi đoạn hết thì các ngài liền nhập Thường Tịch Quang rồi, liền chứng đắc rốt ráo viên mãn.

Ở trong Tam thiên Đại thiên Thế giới này, ngài trụ ở trong đó để làm gì? Để nghe kinh, nghe pháp, dạy học, độ hóa chúng sanh, các ngài làm việc này, bởi vì Thế giới Cực Lạc có bốn độ, trình độ đồng học của bốn độ đó không giống nhau, hàng lợi căn nghe Phật giảng kinh liền khai ngộ rồi, còn hàng độn căn, vậy chính là những vị Bồ-tát ấy giúp đỡ họ, Pháp thân Bồ-tát giúp đỡ A Mi Đà Phật dạy những bậc sơ học, đặc biệt là Phàm Thánh Đồng Cư độ, các ngài sẽ đến dạy. Đồng thời các ngài có năng lực hóa thân, phân thân, phân vô lượng vô biên thân đến thế giới mười phương: để cúng dường Phật, cúng dường Phật là tu phước, nghe kinh nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Là bổ sung thêm, còn có những chúng sanh có duyên trong Lục đạo của cõi nước chư Phật ở Thế giới Mười phương, các ngài sẽ phân thân đi độ hóa họ, Phật độ người có duyên. Cho nên các ngài cũng hết sức bận rộn, nhưng cũng hết sức vui vẻ, chứ không phải si mê ngồi ở đó đợi, không phải vậy, các ngài có làm việc. Các ngài nhất định không mê hoặc thêm nữa, tại sao? Vì đoạn Vô minh rồi, nên viên chứng Tam bất thoái: Vị bất thoái, Hạnh bất thoái, Niệm bất thoái, gọi là A-duy-Việt-trí. Cho nên do nguyện mà sanh khởi vô lượng vô biên diệu hạnh thù thắng, Ngài Bồ-tát Pháp Tạng [thật] không dễ dàng.

Câu trụ chân thật huệ này, là gốc lớn của tất cả hạnh vi diệu, vì vô lượng trời người mà khai mở mắt chánh pháp. Chúng ta rõ ràng rồi, trí huệ là quan trọng, điều khác không quan trọng. Trí huệ là gì? Là vốn có của Tự Tánh. Đại sư Huệ Năng nói rằng, Tự Tánh xưa nay đầy đủ, đầy đủ điều gì? Thứ nhất chính là trí huệ, vô lượng trí huệ, là Tự Tánh vốn đủ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ. Thật sự tất cả vô lượng vô biên, là Tự Tánh vốn đủ, không phải là đến từ bên ngoài, nhất định phải biết điều này. Chúng ta tại sao lại để mất trí huệ rồi? Vì một niệm không giác liền khởi Vô minh, không giác chính là Vô minh, Vô minh chính là A-lại-da, chính là Vọng tâm. Vọng tâm tiếp nối, thì không quay đầu lại được nữa, tần suất của Vọng tâm quá cao, nên chúng ta cũng nắm giữ không được, cho nên càng mê càng sâu. Càng sâu càng mê, khởi tâm động niệm đều đang tạo nghiệp, trong Lục đạo luân hồi, nghiệp có thiện ác, tạo nghiệp thiện sẽ cảm ba đường thiện, tạo nghiệp ác thì cảm ba đường ác, nói cách khác, ra không nổi Lục đạo luân hồi. Đọa đến chỗ ấy thật quá đáng sợ, khi đọa xuống thì không giác được, sau khi đọa xuống thì ra không được, đây mới là phiền phức.

Chư Phật Bồ-tát có phương pháp, 84 ngàn Pháp môn độ chúng sanh, cần gặp được duyên, duyên gặp được này khó như trúng số, quá khó quá khó rồi! Vì nhân duyên cần phải tụ hợp, tốt, thật đúng lúc đang thích hợp với duyên của quý vị, khế hợp căn cơ của quý vị, thì rất dễ dàng giải thoát và tu hành chứng quả. Nếu giảng bộ kinh giáo này, mà không thích hợp với duyên của quý vị, thì dạy uổng rồi, vì quý vị không thể tiếp nhận, quý vị tu hành tu không được, không phải do quý vị tu. Cho nên chỉ có pháp môn Tịnh Độ này, thì căn tánh thế nào cũng đều thích hợp, trên từ Đẳng giác Bồ-tát, dưới đến chúng sanh Địa ngục, đều rộng độ. Nhưng duyên này khó tin, tuy rất dễ tu, nhưng khó chính là khó ở tin, nếu quý vị không tin tưởng Pháp môn này, quý vị có một chút hoài nghi đối với Pháp môn này, thì khi mạng sắp hết sẽ chướng ngại quý vị vãng sanh, không thể vãng sanh, phiền phức này liền lớn rồi. Cho nên bây giờ chúng ta phải coi trọng, chúng ta gặp được bộ Kinh này, bộ Kinh này đã giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ vấn đề ấy, thì đời này của chúng ta có thể được cứu rồi.

Phải thật làm rõ ràng, ta vẫn còn hoài nghi, ta vẫn có lưu luyến với nơi này, đó chính là nguyện tâm tín tâm của quý vị không đủ, chưa đủ, không đủ thì không thể vãng sanh. Nên nhất định phải đủ, đủ như thế nào? Là triệt để buông xuống, không có một chút lưu luyến với Thế giới Ta Bà, là thật sự buông xuống rồi, thì tín nguyện của quý vị mới đủ đạt được tiêu chuẩn, mới được, không phải là lúc như vậy, thì khó vãng sanh. Cho nên người niệm Phật nhiều, mà người vãng sanh ít, đây là chân tướng sự thật, tất cả là do tín nguyện không đủ. Không thể nói không có tín nguyện, nếu quý vị không có tín nguyện quý vị sẽ không nghe Kinh Vô Lượng Thọ, quý vị sẽ không niệm A Mi Đà Phật, quý vị có tín tâm, nhưng tín tâm không đủ, giống như điểm số đó không đủ, người ta cần 60 điểm thì đạt tiêu chuẩn, quý vị chỉ có 3 điểm 5 điểm, 10 điểm, 8 điểm, cách tiêu chuẩn ấy rất xa. Cho nên quý vị sẽ không được trúng tuyển, đức Phật sẽ không cảm ứng cùng quý vị, đạo lý là ở chỗ này.

Chúng ta học kinh giáo, không gì không phải là củng cố thêm kiến thức, mục đích của củng cố thêm kiến thức: chính là không hoài nghi đối với Pháp môn này, thật sự tin tưởng rồi, nắm được duyên phận vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, phải nắm được điều này trước, vì điều này quan trọng. Mọi lúc mọi nơi đề khởi lên câu Phật hiệu, không được quên mất, câu Phật hiệu này là vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, tác dụng của phẩm vị cao hay thấp, [là] đến Thế giới Cực Lạc để chia lớp, chia quý vị đến chỗ nào, là dựa vào điều này. Có thể đi hay không? Là dựa vào tín nguyện. Phải làm rõ ràng, làm cho sáng tỏ toàn bộ điều này, không thể mơ hồ.

Được rồi, thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây.

(Hết tập 216)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A  Mi Đà Phật.