Responsive Menu
Add more content here...

Tập 218 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm Thứ 8: Tích Công Luỹ Đức

Tập 218

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 24 tháng 7 năm 2015.

Dịch giả: Diệu Thương.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn”. (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 549, chúng ta xem từ câu thứ 2 của hàng thứ nhất, tôi đọc văn tự: 窮極真如實相之源底曰真實之際。當來一切含靈 。“Cùng cực Chân Như Thật tướng chi nguyên để viết Chân thật Chi tế. “Đương lai nhất thiết hàm linh” (Ngọn nguồn của tận cùng Chân Như Thật tướng gọi là Chân thật Chi tế. Tất cả hàm linh trong tương lai), chính là tất cả chúng sanh, 皆因彌陀一乘願海 “giai nhân Mi Đà Nhất thừa nguyện hải” (đều nương vào biển nguyện Nhất thừa của đức Mi Đà), đây chính là 48 nguyện, 六字洪名 “lục tự hồng danh“ (sáu chữ hồng danh), đây chính là danh hiệu của A Mi Đà Phật, 而得度脫者,真實之利也 。能顯此真實之際,惠此真實之利者,即此真實之慧也 “nhi đắc độ thoát giả, Chân thật Chi lợi dã. Năng hiển thử Chân thật Chi tế, huệ thử Chân thật Chi lợi giả, tức thử Chân thật Chi huệ dã” (mà được độ thoát, là Chân thật Chi lợi. Có thể hiển bày Chân thật Chi tế này, ban cho Lợi ích Chân thật ấy, chính là Chân thật Chi huệ ấy). Đoạn này đã nói rõ về ba điều chân thật trong Kinh này giảng, đó là Chân thật Chi tế, lợi ích Chân thật, và Trí huệ Chân thật, tuy mấy câu rất đơn giản, nhưng nói được vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ.

          Tiếp theo giải thích, 慧者 “Huệ giả” (Huệ là), thế nào là trí huệ,《大乘義章二》云:據行方便觀達名慧 “Đại Thừa Nghĩa Chương nhị vân: cứ hành phương tiện quán đạt danh huệ” (Trong quyển hai của Đại Thừa Nghĩa Chương nói rằng: y cứ vào hành phương tiện mà quán đạt gọi là huệ), cứ là y cứ, hành chính là hành động, hành vi, ở trong điều này, mà quan sát, thông đạt sáng tỏ thì gọi là huệ. 就實以論,真心體明,自性無闇,目之為慧 “Tựu chân dĩ luận, Chân Tâm thể minh, Tự Tánh vô ám, mục chi vi huệ” (Nên thực sự dùng chủ trương: thể của Chân Tâm sáng hiện, Tự Tánh không có tối tăm, gọi đó là Huệ). Đây là ý nghĩa gì? 是乃明自本心,見自本性 “Thị nãi minh tự Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh” (Đó là sáng tỏ Bổn tâm của chính mình, thấy Bổn tánh của chính mình). Đó gọi là trí huệ. Chúng ta thông thường nói là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, điều đó là Huệ, đây là trí huệ. Thời xưa, đặc biệt là Phật giáo, ngoài Phật giáo, thì cổ Thánh tiên Hiền Trung Hoa hết sức giống với phương pháp lí niệm giáo học của Phật giáo, không giống với phương Tây. Mục đích giáo dục của phương Đông là ở đâu? Mục đích là dạy quý vị khai trí huệ, dùng điều này làm mục tiêu. Hễ khai mở trí huệ, thì thấy được Chân thật Chi tế rồi, cũng đạt được Chân thật Chi lợi rồi. Lợi ích Chân thật là lợi ích tất cả chúng sanh, đại từ đại bi, bi là cứu khổ, từ là ban vui. Giúp đỡ chúng sanh thoát khỏi Lục đạo luân hồi, đó là lìa khổ rốt ráo, nếu vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì được niềm vui rốt ráo, trong tất cả pháp không có điều này, còn trong Phật pháp cũng chỉ có Tịnh tông có, 84.000 Pháp môn khác đều không có.

          Giảng về ba điều chân thật này, đều là 84.000 Pháp môn, mỗi một Pháp môn sau cùng đều đạt được mục tiêu này, cho nên nói Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. Tôi tin tưởng cổ Thánh tiên Hiền nước ta, ghi lại từ trong lịch sử của chúng ta, các ngài Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Văn Vũ Châu Công, Khổng tử Mạnh tử, tôi tin tưởng đều là Phật Bồ-tát tái lai, không phải người thường, tại sao những điều các ngài nói: giống với Kinh Phật đến vậy, gần gũi như vậy? Kinh Phật truyền đến Trung Hoa, thực sự đã nâng cao văn hóa bản địa Trung Hoa, đây là lời của Tiến sĩ Arnold J.Toynbee, tâm lượng người Trung Hoa rộng lớn, nên dung nạp văn hóa của dân tộc khác. Đây là nói chúng ta dung nạp văn hóa Phật giáo. Khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, chúng ta không đối lập với Phật giáo. Không hề tiêu diệt Phật giáo, mà hòa lẫn Phật giáo và văn hóa của chính mình thành một thể, giúp đỡ lẫn nhau, hai bên đều nâng cao, đây là thật. Ở nước ngoài tìm không thấy điều này, trong lịch sử nước ngoài không có ghi chép điều này. Cho nên Minh tâm Kiến tánh là trí huệ chân thật. Minh tâm Kiến tánh mới tính là tốt nghiệp Đại thừa. Nếu chưa Minh tâm Kiến tánh thì chưa tốt nghiệp, vẫn là học sinh. Tiểu thừa phải chứng A-la-hán thì tính là tốt nghiệp, bậc A-la-hán đã đoạn sạch năm loại Kiến hoặc, cũng rất tuyệt vời, quý ngài siêu vượt Lục đạo luân hồi, quý ngài không cho rằng thân này là chính mình nữa, thân này không phải là chính mình, mà là giả. Trong Phật pháp nói về tiêu chuẩn của thật hay giả, thì thứ không sanh không diệt là thật, không có thay đổi là thật; Hễ là có thay đổi, có sanh diệt, đều là giả, đều không phải thật. Người có sanh lão bệnh tử, cây cối hoa cỏ có sanh trụ dị diệt, núi sông đất đai có thành trụ hoại không, tất cả đều là pháp sanh diệt, pháp sanh diệt thì đều là giả.

 Nhà Cơ học Lượng tử ngày nay, cũng chỉ là sự việc của hơn 20 năm gần đây, đã làm rõ ràng vật chất là gì rồi. Vật chất do từ đâu mà đến? Trong rất nhiều tôn giáo nói do Thượng đế tạo, do Thần tạo, tôi đồng ý cách nói này. Nhưng, gì là Thượng đế, gì là Thần? Chính là Chân Tâm. Chúng ta có hai tâm: một là Chân Tâm, hai là Vọng tâm. Nói Thần Thánh, nói Chân Như, nói Tự Tánh, đều là nói về Chân Tâm, tại vì sao? Vì Chân Tâm không có ý niệm. Còn Vọng tâm, Vọng tâm có ý niệm. Hiện tại chúng ta khởi tâm động niệm thì tâm này là Vọng tâm, đó không phải Chân Tâm, đây là Tam tế tướng của A-lại-da. Chủng tử mà A-lại-da thức hàm chứa chính là Vọng tưởng, Ý thức Thứ sáu là Phân biệt, Thức thứ bảy là Chấp trước, Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước, đã biến Nhất chân Pháp giới thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo luân hồi. Chúng ta vốn là Phật, tất cả chúng sanh vốn là Phật, biến vị Phật ấy thành phàm phu, do ai biến? Do chính mình biến. Cho nên các ngài được xưng là Thần, các ngài được xưng là Thánh, thì chúng ta liền hiểu được, chính là Tự Tánh mà chúng ta giảng, là Bổn Tánh mà cổ nhân Trung Hoa giảng, Bổn Tánh vốn thiện, còn ghi ở trong câu đầu của Tam Tự Kinh, “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, bổn thiện ấy là Phật, bổn thiện là Pháp thân Bồ-tát.

          Chúng ta quan sát tỉ mỉ, thật sự giảng Bổn tánh là ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta xem Bổn tánh vốn thiện. Tôi còn nhớ, khi lần thứ ba tôi viếng thăm Nhật Bản, tôi đã đi Nhật Bản tám lần, lần thứ ba tôi ở bên đó tham gia một hội nghị, là hội nghị của Liên Hiệp Quốc, có mười mấy hai mươi vị đồng tu thường luôn đi theo tôi, ở cùng một chỗ. Có một ngày, sáng sớm chúng tôi tản bộ ở bên ngoài, thì có một người mẹ trẻ, đang đẩy con của cô ấy, đẩy chiếc xe. Đi đến dọc đường thì tôi đột nhiên nghĩ ra, tôi bảo mọi người dừng lại, mọi người hãy quan sát tỉ mỉ, quan sát điều gì? Là quan sát Tánh người vốn thiện, là nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Tôi nói quý vị nhìn đứa trẻ này, đứa trẻ đó là 4 tháng tuổi, không biết nói chuyện, vẫn chưa nhận ra bố mẹ, chính là không sợ người lạ, mỗi người đến đùa giỡn đứa trẻ, quý vị xem đứa trẻ cười rất ngây thơ, thần sắc đó của đứa trẻ biểu hiện rất vui vẻ, đó chính là vốn thiện. Tại vì sao? Vì đứa trẻ chưa bị ô nhiễm. Đến ngày nào đó, nó biết ai là bố, ai là mẹ, còn ai không phải, thì nó đã bị ô nhiễm rồi. Đứa trẻ không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó chính là Phật.

 Giáo dục của cổ Thánh tiên Hiền Trung Hoa, thì mục đích giáo dục là làm thế nào giữ gìn điều thiên chân này, cả đời đều không thay đổi, mục đích giáo dục là ở chỗ này, điều này quá tốt đẹp rồi. Nhưng giữ gìn không nổi, đã giữ gìn không nổi, thì hi vọng sự thay đổi ấy của họ có thể chậm một chút, không nên quá nhanh, cho nên chú trọng giáo dục. Thì dạy dỗ khi nào? Là dạy lúc mang thai, thai giáo. Khi người mẹ mang thai, thì học mẹ ngài Văn Vương, mắt không nhìn ác sắc, không thể nhìn những sắc ác, đó là không xem những thứ tiêu cực, những thứ dơ bẩn xấu ác, tai không nghe dâm thanh, miệng không nói ra lời kiêu ngạo, tâm địa thanh tịnh, như vậy tương lai đứa trẻ được sinh ra, đứa trẻ thừa hưởng chánh khí của mẹ, thì đứa trẻ đó rất dễ nuôi. Lớn lên, sau khi được sinh ra một ngàn ngày, khi nó vừa mới chào đời, nó mở to mắt, đứa trẻ dựng tai lên, nó đã biết nhìn, biết nghe, đã đang bắt chước, chính là đang học tập. Một ngàn ngày là thời điểm quan trọng nhất. Từ lúc được sinh ra đến ba tuổi, một ngàn ngày đó, thì ai dạy dỗ đứa trẻ? Là người mẹ dạy con. Nếu những điều không phù hợp luân lí đạo đức thì không thể để đứa trẻ nhìn thấy, không thể để nó nghe thấy, không thể để nó tiếp xúc đến; Đứa trẻ nhìn thấy, nghe thấy, tiếp xúc đến toàn bộ là mặt tốt, là Hiếu Đễ Trung Tín, Lễ Nghĩa Liêm Sỉ, Nhân Ái Hòa bình, phải dạy đứa trẻ nhìn điều này, để đứa trẻ ăn sâu bén rễ. Cho nên ngạn ngữ xưa có một câu nói: “ba tuổi thấy tám mươi”, nếu như một ngàn ngày đó mà dạy học được như pháp, thì điều đứa trẻ đạt được chính là chánh niệm, cả đời đều sẽ không mất đi, đó gọi là ba tuổi thấy tám mươi, đến già họ cũng không thay đổi. Họ là một chánh nhân Quân tử, nâng lên cao thì họ là Thánh Hiền, hướng xuống dưới thì họ không mất Quân tử. Thánh Hiền Quân tử là ba học vị dạy học của nhà Nho, cao nhất chính là Thánh nhân, như ngài Khổng tử, cấp bậc thứ hai là Hiền nhân, như ngài Mạnh tử, bậc thứ ba là Quân tử. Quân tử rất nhiều, nếu phục vụ ở trong triều đình đều là Quân tử, thì nền chính trị đó làm sao có thể không tốt chứ? Sự giáo dục của Thánh Hiền Quân tử, xã hội của Thánh Hiền Quân tử, là quốc gia của Thánh Hiền Quân tử, 5 ngàn năm! Nếu quý vị đọc lịch sử, thì quý vị sẽ hiểu được.

Ngày nay cả thế giới động loạn, ở nước ngoài tôi gặp ít nhiều đồng tu: đều hết sức quan tâm, đến hỏi tôi chỗ nào là an toàn, đến chỗ nào tốt. Tôi đều bảo họ nước ta an toàn, trở về nước ta. Thì họ hỏi tôi: tại sao như vậy? Quý vị xem lịch sử toàn thế giới, một quốc gia nào mà Tổ tông đời đời, đang thực hiện đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức chưa? Tìm không thấy, chỉ có nước ta, lão Tổ tông nước ta tích đức sâu dày. Chúng ta bất hiếu, vứt bỏ sự dạy dỗ của lão Tổ tông, trong mắt không có lão Tổ tông không quá 200 năm, thời gian không dài. Cho nên lão Tổ tông có trừng phạt chúng ta một chút, nhưng sẽ không mất mạng, phải hiểu được một chút đó. Vậy nơi nào là an toàn? Là nơi ấy an toàn. Quý vị xem, do chúng ta đọc được ở trong sách xưa, ông ngoại của Khổng lão Phu tử (là cha của mẹ ông), gả con gái của ông cho nhà họ Khổng, là dựa vào điều gì? Nhà họ Khổng cũng không giàu có. Nhưng ông thấy được nhà họ Khổng năm đời tích thiện, thì nhận định tương lai gia đình đó nhất định sinh ra nhân tài, nên gả con gái qua đó, sinh ra Khổng tử. Đó là một nhà. Còn lớn hơn, chúng ta xem một đất nước, là dân tộc này của chúng ta, đời đời Tổ tông đều tích đức.

          Chúng ta vứt bỏ văn hóa truyền thống không quá 200 năm, 100 năm trước thì sơ xuất, 100 năm sau thì thật sự mất rồi. Một trăm năm sau là thời Dân quốc, sau  khi triều Mãn Thanh mất nước thì thật mất rồi. Một trăm năm cuối cùng của triều Mãn Thanh là Thái hậu Từ Hy, bà không tôn trọng, nên khiến cho chúng ta đối với Cổ Thánh Tiên Hiền, đối với Tổ tông, đã phai nhạt tình cảm đó rồi, nhưng chưa vứt bỏ hoàn toàn. Tuổi này của tôi vẫn còn tiếp xúc được một chút bên lề. Quê hương của chúng tôi, là chiếc nôi của phái Đồng Thành. Ở trong thành thị vứt bỏ sớm hơn chúng tôi, có lẽ khoảng 10 năm, chúng tôi sống ở nông thôn, người nông thôn đều hết sức giữ bổn phận, Ngũ luân Ngũ thường, Tứ duy Bát đức, ở nông thôn đều nhìn thấy, tôi có ấn tượng ấy. Lúc nhỏ thật sự hưởng được một chút giáo dục ấy, sau khi lớn lên thì đạt được rất nhiều thuận lợi. Tôi dựa vào điều gì để thân cận ba vị thầy? Chỉ bằng do lúc nhỏ được thế hệ cha mẹ, trưởng bối dạy dỗ. Dạy điều gì? Là hiếu thân tôn sư. Tôn trọng, yêu thương gìn giữ đối với kinh điển mà cổ Thánh tiên Hiền lưu lại, mặc dù không có người giảng, không có người dạy, nhưng chúng tôi không chà đạp kinh điển, không dám vứt bỏ kinh điển. Chính là từng chút từng chút ấy, không nhiều. Con đường cả đời này là do Tổ tông trải tốt, thuận cảnh nghịch cảnh đều là rèn luyện chính mình, Phật pháp giảng về tu hành. Là thuận cảnh thiện duyên thì không khởi tâm tham, không có tham luyến; Còn nghịch cảnh ác duyên, thì không có sân khuể, mãi mãi giữ gìn tâm địa thanh tịnh bình đẳng, chính là trí huệ mà chỗ này giảng. Mỗi ngày trí huệ tăng, còn mỗi ngày phiền não giảm, thì họ làm sao không vui cơ chứ? Những bảo vật quý hiếm của nước ta, mà lão Tổ tông truyền lại, không phải là những văn minh vật chất đó, mà là văn minh tinh thần, là giúp đỡ chúng ta đi đến con đường của Thánh Hiền. Phật Bồ-tát không khác cổ Thánh tiên Hiền nước ta, chỉ là tên gọi không giống nhau, người nước ta gọi là Thánh nhân, còn người Ấn Độ gọi là Phật Đà; người Ấn Độ gọi là Bồ-tát, người nước ta gọi là Hiền nhân; người Ấn Độ gọi là La-hán, người nước ta gọi là Quân tử. Danh xưng học vị, không có khác nhau, nên không thể không học. Từ nay về sau sẽ thế nào? Là từ nay về sau không có người học nữa, đây là việc mà chúng ta lo lắng. Làm sao để bồi dưỡng một nhóm vị thầy, điều đó đều quan trọng hơn bất cứ thứ gì, chúng ta phải toàn tâm toàn lực thực hiện việc này. 

          Tiếp theo giảng cho chúng ta về 真實 “Chân thật”, điều gì gọi là chân thật, quyển thứ hai của Đại Thừa Nghĩa Chương nói, quý vị xem nói được rất hay, 法絕情妄,名為真實 。故即離妄之本真,亦即自性清淨心 “pháp tuyệt Tình Vọng, danh vi Chân thật. Cố tức li vọng chi bổn chân, diệc tức Tự Tánh thanh tịnh tâm” (pháp dứt hết Tình và Vọng, gọi là Chân thật. Nên chính là xa rời vọng đến bổn chân, cũng chính là tâm thanh tịnh của Tự Tánh). Vọng là giả, nếu quý vị có thể buông xuống vọng, thì Chân Tâm của quý vị sẽ hiện tiền. Tôi giảng kinh rất nhiều, thường xuyên nhắc nhở mọi người, [nhưng] người tu rất ít. Là thật tu, cách tu thế nào? Là mắt chúng ta nhìn sắc, nhìn được vô cùng rõ ràng sáng tỏ; Tai nghe âm thanh, nghe được rõ ràng; Mũi ngửi hương, ngửi được thông suốt; Lưỡi nếm vị, tiếp xúc của thân, còn có sự biết của Ý thức Thứ sáu (Ý thức Thứ sáu là phân biệt), là vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, là trí huệ vốn có của Tự Tánh, là niệm thứ nhất. Niệm thứ hai đã thay đổi rồi, niệm thứ hai là gì? Là khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là A-lại-da, thì mê rồi. Khi khởi tâm động niệm liền mê rồi, thì lại phân biệt chấp trước, vậy thì mê hoặc nghiêm trọng. Đức Phật dạy chúng ta, đức Phật khác biệt với chúng ta ở chỗ nào? Là đức Phật nhìn sắc nghe âm thanh, nhưng không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, cho nên là dùng Châm Tâm, đó chính là Chân Tâm. Bồ-tát có Khởi tâm Động niệm, nhưng không có Phân biệt Chấp trước, vậy thì rất cao minh. Khởi tâm Động niệm vô cùng vi tế, quý ngài không có phát hiện được, nhưng quý ngài không phân biệt, quý ngài không chấp trước. Nếu không phân biệt, thì tâm bình đẳng; Nếu không chấp trước, thì tâm thanh tịnh, quý ngài không có ô nhiễm, là Bồ-tát. Bậc A-la-hán có Phân biệt, không có Chấp trước, A-la-hán có tâm phân biệt, nhưng quý ngài không có ô nhiễm. Có Phân biệt chính là quý ngài không bình, tuy tâm A-la-hán là không bình đẳng, nhưng quý ngài thanh tịnh, quý ngài không có ô nhiễm. Là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác trên đề Kinh này của chúng ta, thanh tịnh là A-la-hán, chính là không có Chấp trước; Còn bình đẳng là Bồ-tát, không có Phân biệt; Điều Giác phía sau, giác là không có Khởi tâm Động niệm, khởi tâm động niệm thì mê rồi. Cho nên đức Phật nói tất cả chúng sanh vốn là Phật. Nếu quý vị có thể buông xuống Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước của mình, vậy chính là Phật. Khi nào buông xuống, thì khi đó quý vị sẽ thành Phật. Đức Phật nói là do mỗi người vốn có, chứ không phải đến từ bên ngoài. Cho nên Phật không phải Thần tiên, Phật Bồ-tát không phải là mê tín, mà là danh xưng học vị.

          Chúng ta buông xuống được càng nhiều, thì tâm càng thanh tịnh, không cần đặt ở trong tâm. Ngày nay mỗi ngày trên thế giới xảy ra chuyện gì, chúng ta không biết, cuộc sống cũng rất dễ chịu, cớ sao cần phải biết? Không có việc [lại] tìm việc, là ai đã tìm việc, quý vị xem báo chí là tìm việc, quý vị xem tạp chí là kiếm chuyện, quý vị xem tivi là kiếm chuyện. Không có việc gì, tôi hơn 50 năm không xem tivi, không nghe đài phát thanh, đều rời xa tất cả báo chí và tạp chí, tôi không cần biết những tin ấy. Có người hỏi tôi, vậy có việc cần thiết thì sao? Tôi nói việc cần thiết, thì có đồng học, họ trích dẫn lại, có đồng học rất ít thấy, mỗi tuần đưa một bản tiêu đề tin tức, cầm đến đưa cho tôi xem, tôi liền xem bản tin đó, nên sự việc trong một tuần, tôi chỉ cần tốn nửa giờ đồng hồ thì xem xong rồi. Biết ít việc thì phiền não ít, quen nhiều người thì chắc chắc thị phi nhiều. Còn tôi, nếu không phải người khác đến tìm tôi, thì tôi tuyệt đối không tìm họ, vì sao? Vì thanh tịnh. Đó chính là thọ dụng chân chánh, thọ dụng đó là Chân thật Trí huệ, Chân thật Chi tế, Chân thật Lợi ích. Nếu chư vị muốn khỏe mạnh trường thọ, thì đây là bí quyết, ở ngay chỗ này.

          Lần đó tôi ở nước Anh, tiếp xúc với các Nghị sĩ ở Thượng nghị viện, họ không quan tâm điều khác, mà hỏi tôi về sức khỏe, họ hỏi ngài chăm sóc sức khỏe thế nào, rất quan tâm đến điều này, tôi nói với họ là tâm thanh tịnh, ít phiền não, cố gắng hết sức ít biết, nếu không phải là điều mình nhất định phải biết thì đừng đi nghe ngóng, để nuôi dưỡng tâm thanh tịnh, nuôi dưỡng tâm bình đẳng. Thêm nữa, hãy ăn chay, thức ăn chay là thực phẩm khỏe mạnh nhất, tôi ăn chay đã 64 năm rồi, thân tâm khỏe mạnh, là đức Phật dạy chúng ta. Cho nên tâm ấy chính là tâm thanh tịnh của Tự Tánh. Quý vị xem trẻ sơ sinh, vừa mới được sinh ra 100 ngày, thật sự là tâm thanh tịnh của Tự Tánh. Khi đứa trẻ biểu hiện ra bên ngoài, thì quý vị xem nó thanh tịnh, nó vui vẻ, vì đứa trẻ dùng Chân tâm, không dùng Vọng tâm, đối đãi với mỗi người đều là sự đối đãi bởi tâm thanh tịnh của Tự Tánh, không có phân biệt, không có chấp trước. Xem được từ trên thân trẻ nhỏ, không phải xem không được. Quý vị đọc Tam Tự Kinh, quý vị ngẫm lại “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, quý vị xem từ điều này, thì quý vị liền nhìn thấy thôi. Phía sau nói rõ, “tánh tương cận, tập tương viễn”, đây là lý, đây là sự thật. Bởi vì tâm thanh tịnh của Tự Tánh hoàn toàn tương đồng, mỗi người đều có, vĩnh viễn không thay đổi, cho nên đó là thật. Còn ô nhiễm kia là giả, nếu có thể buông xuống ô nhiễm, thì hồi phục Chân Tâm, nếu quý vị không buông xuống thì không được, cần phải buông xuống. Cho nên làm rõ ràng thật giả, thì nắm lấy thật, còn giả thì không cần. Không cần chính là thế nào? Là không đặt ở trong tâm, khiến cho tâm được thanh tịnh.

          Điều không đặt trong tâm này cũng không dễ dàng, tuy nói dễ nhưng bắt đầu làm rất khó, nếu không đặt ở trong tâm thì thành Phật rồi. Vậy chúng ta làm thế nào? Tập khí này của chúng ta quá nặng, tuy không đặt ở trong tâm, nhưng tạp niệm trong tâm vẫn trổ ra ngoài, chính là dừng không được Vọng tưởng, niệm trước diệt thì niệm sau đã sanh rồi. Đức Phật dạy cho chúng ta một phương pháp, là sáu chữ hồng danh. Quý vị khởi ý niệm chính là A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì không có bất kỳ ý niệm gì, đây là pháp phương tiện thù thắng không gì sánh được của Tịnh tông, phương pháp này quá tốt rồi. “A Mi Đà Phật”, bốn chữ này là tiếng Ấn Độ, có ý nghĩa thế nào? Có thể phiên dịch, chữ A dịch thành tiếng nước ta là Vô, chữ Mi Đà dịch là Lượng, chữ Phật dịch là Giác, cho nên ý nghĩa của A Mi Đà Phật là Vô Lượng Giác. Vô Lượng Giác là Tự Tánh, chính là trí huệ chân thật, Vô Lượng Giác. Quý vị hãy đặt danh hiệu này ở trong tâm, ngoài A Mi Đà Phật ra, thì buông xuống tất cả, buông lâu rồi, thật sự sẽ Đại triệt Đại ngộ, sẽ Minh tâm Kiến tánh, chỉ cần thật làm, kiên trì bền bỉ. Cho nên trên kinh, đức Phật dạy chúng ta, giảng được vô cùng nhiều, điều gì là giả, điều gì là thật, sau khi quý vị làm rõ ràng điều đó, thì không cần điều giả, mà cần điều thật, là điều thật, Chân Tâm sanh trí huệ không sanh phiền não, còn Vọng tâm sanh phiền não không sanh trí huệ. Kinh Kim Cang là bộ Kinh để giúp chúng ta quán chiếu tốt nhất, cho nên số lượng lưu thông là lớn nhất ở Trung Hoa, người đọc sách không có ai không đọc Kinh Kim Cang. Trong Kinh Kim Cang có mấy câu nói rất hay, 凡所有相皆是虛妄“phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, ngày nay điều đó đã được nhà Cơ học Lượng tử chứng minh là đúng rồi. Toàn bộ tất cả hiện tượng đều là giả tướng, đều không phải thật, giống với điều đức Phật giảng trong kinh. Cho nên đức Phật nói一切法畢竟空,無所有,不可得 “nhất thiết pháp tất cánh không, vô sở hữu, bất khả đắc”, không thể được nhưng quý vị muốn được, vậy đó không phải là phiền não sao? Không thể được thì tùy duyên, có thì rất tốt, không có cũng rất tốt, vậy thì tốt, tùy duyên mà không phan duyên, tôi nói quý vị vô cùng tự tại.

          Trí huệ là phản ứng tự nhiên từ trong tâm, không phải dựa vào suy nghĩ. Người khác đưa ra câu hỏi, nếu tôi suy nghĩ làm sao để trả lời cho quý vị, thì rơi vào trong ý thức rồi, ý thức là phiền não, không có trí huệ. Người khác đến hỏi, chúng ta thuận miệng liền trả lời ra, không có khởi tâm động niệm, đó chính là trí huệ. Chúng ta nghe mọi thứ, xem mọi thứ, vừa xem liền sáng tỏ, vừa nghe liền rõ ràng. Không thể không biết điều này. Cổ Thánh tiên Hiền tuyệt đối không gạt người, phải tin tưởng điều này. Mỗi câu mỗi chữ tất cả trên kinh điển đều là vô lượng nghĩa, trình độ của chúng ta cạn thì giải được cạn, trình độ chúng ta sâu thì giải được sâu. Cho nên sách xưa thì đọc không chán, càng đọc càng có đạo vị, tại vì sao? Vì tầng sau sâu hơn tầng trước, năm sau xem được sâu, xem được rộng hơn năm trước, đạo vị ấy là vô tận. Tại vì sao? Vì đó là do lưu xuất ra từ Tự Tánh, đó không liên quan với A-lại-da, chính là chịu được khảo nghiệm, là trí huệ chân thật. Hễ là kinh Phật, hễ là Kinh, Sử, Tử do cổ Thánh tiên Hiền Trung Hoa lưu lại, trong ba loại ấy có trí huệ; Tử, hiện nay chúng ta gọi là Triết học, đều là Nhà tư tưởng. Quan trọng nhất chính là kinh. Kinh, những vị sáng tác Kinh thư, nhất định là người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó không phải người thường. Trong Tử thì không hẳn, không hẳn là Minh tâm Kiến tánh, các ngài có thông minh tài trí của thế gian, trong đó cũng có không ít vị là Minh tâm Kiến tánh, chúng ta có thể nhìn ra. Là thứ tốt, quá tốt rồi! Lão Tổ tông lưu lại không chỉ là cho người nước ta, mà cho cả nhân loại, thật sự là trân bảo, bất cứ báu vật gì đều không thể sánh với trân bảo ấy, vì có thể chỉ dạy quý vị khai trí huệ, đời này của quý vị không còn mê hoặc.

          Tiếp theo, quý vị xem Niệm lão trích dẫn một đoạn văn trong Đại Thừa Chỉ Quán để nói, 此心即自性清淨心,又名真如,亦名佛性,亦名法身,亦名如來藏,亦名法界,亦名法性 “thử tâm tức Tự Tánh thanh tịnh tâm, hựu danh Chân Như, diệc danh Phật tánh, diệc danh Pháp thân, diệc danh Như Lai Tạng, diệc danh Pháp giới, diệc danh Pháp tánh” (Tâm này chính là tâm thanh tịnh của Tự Tánh, cũng gọi là Chân Như, cũng gọi là Phật tánh, cũng gọi là Pháp thân, cũng gọi là Như Lai Tạng, cũng gọi là Pháp giới, cũng gọi là Pháp tánh). Sự việc này, vì sao đức Phật nói nhiều danh xưng như vậy? Vì đây đều là 49 năm ngài tùy nghi mà thuyết, nói cho chúng ta không nên chấp trước đối với những danh từ thuật ngữ đó, chỉ cần giảng được là việc này, nói thế nào cũng được. Điều này chính là trí huệ chân thật trong dạy học, phá Chấp trước của quý vị, nói thế nào cũng được. Thì chúng ta hiểu rồi, ở trong mắt của Phật Bồ-tát xem thấy, tất cả Tôn giáo là một nhà, tất cả chúng thần đều là Tự Tánh, những vị Chúng thần đó có thể giảng ra kinh điển, quý vị xem giống như đức Muhammad, của Hồi giáo, Kinh Koran là do ngài thuyết ra. Ngài không biết chữ, cũng chưa từng đi học, nhưng có thể thuyết ra một bộ Kinh Koran, người bên cạnh ghi chép, viết lại cho ngài. Nội dung Kinh Koran có nhiều chỗ rất giống kinh Phật, rất nhiều chỗ tương đồng. Người khai ngộ, nếu không biết chữ mà có thể khai ngộ, thì điều gì cũng đều biết.

          Ở Trung Hoa có một vị là Lục tổ Đại sư Huệ Năng, ngài không biết chữ, chưa từng đi học, khi khai ngộ rồi thì điều gì cũng biết. Khai ngộ thì ai chứng minh cho ngài? Là Ngũ tổ chứng minh cho ngài, Hòa thượng Hoằng Nhẫn, Pháp sư Hoằng Nhẫn chứng minh cho ngài. Ngũ tổ giảng Kinh Kim Cang cho ngài, đại khái chỉ giảng một phần ba, chưa giảng xong (giảng đại ý, vì ngài không biết chữ, nên không cần sách, chỉ giảng đại ý), giảng đến應無所住而生其心 “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, thì ngài đã khai ngộ, hoàn toàn sáng tỏ rồi. Sáng tỏ, ngài nói ra báo cáo của mình, báo cáo của ngài chỉ có 20 chữ. Ngũ tổ vừa nghe thì đạt yêu cầu rồi, liền truyền y bát cho ngài. 20 chữ đó, nói Bổn tánh là hình dáng thế nào, quý vị kiến Tánh rồi, hình dáng của Tánh ra sao? Thứ nhất là本自清淨 “bổn tự thanh tịnh” (vốn tự thanh tịnh). Chân Tâm Bổn tánh từ trước đến nay chưa có ô nhiễm. Hiện tại chúng ta có hay không? Không có. Hiện nay chúng ta ô nhiễm chính là Ý thức Thứ sáu, là Thức thứ 7, là A-lại-da, Tam tế tướng của A-lại-da là bị ô nhiễm. Còn Chân Tâm Bổn tánh của chúng ta không có ô nhiễm, vẫn là thanh tịnh, chỉ cần buông xuống những ô nhiễm đó, thì tâm thanh tịnh của chúng ta liền khôi phục, liền hiện tiền thôi. Vậy chính là nói rõ, tâm thanh tịnh của Đại sư Huệ Năng hiện tiền rồi. Thứ hai là不生不滅 “bất sanh bất diệt” (không sanh không diệt). Ý niệm là có sanh có diệt, hiện tượng vật chất cũng là có sanh có diệt, còn Bổn tánh không sanh không diệt.

          Điều thứ ba本自具足 “bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ), nhất định phải thừa nhận điều này. Bổn tánh đầy đủ điều gì? Là đầy đủ vô lượng trí huệ, cho nên đây không phải là do đến từ bên ngoài. Quá khứ hiện tại vị lai, Thế giới này hay phương khác, không chỗ nào không biết, không điều nào không đạt đến, điều đó là lời nói mà thông thường Tôn giáo ca ngợi Thần, là toàn tri toàn năng. Đức Phật nói với chúng ta, Tự Tánh của mỗi người đều là toàn tri toàn năng, đức Phật dẫn dắt chúng ta trở về Tự Tánh, khôi phục Tự Tánh, điều chúng ta làm chính là học vấn này. Cho nên không có thầy mà tự thông. 讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến”, tự kiến chính là tự mình thông đạt, không có thầy dạy. Thời xưa có thầy dạy học trò, thầy không giảng sách cho học trò, mà thầy chỉ dạy học trò đọc sách, không đọc sai chữ, không đọc sai câu, không đọc sót, đọc từng lần từng lần, đọc hết một ngàn lần, hai ngàn lần, ba ngàn lần, thì ý nghĩa liền hiện ra, sau khi hiện ra thì giảng cho thầy nghe, thầy gật đầu chứng minh cho họ, họ giảng được không sai, thì họ khai ngộ rồi. Sự việc như vậy. Ở trong Phật giáo Đại sư Huệ Năng làm ra sự biểu diễn ấy, thật sự tin tưởng có không có thầy mà tự thông, có kỳ nghĩa tự kiến. Thật sự tin tưởng, đây là thật, không phải giả. Tại vì sao? Bởi đó là bản năng trong Tự Tánh, là Tự Tánh đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo.

          Câu thứ tư là nói 本無動搖 “bổn vô động dao” (vốn không dao động), liền hiểu được nhà Phật tu hành chú trọng Thiền định, cho dù đọc sách cũng là tu Thiền định. Tại sao bảo quý vị đọc sách ngàn lần? Vì để niệm sạch vọng tưởng của quý vị, niệm sạch tạp niệm của quý vị, sau đó thì tự kiến, lúc đó quý vị đã sáng tỏ ý nghĩa của Kinh rồi. Vì sao trước đây không sáng tỏ? Là bởi quý vị có Vọng niệm, có Phân biệt, có Chấp trước, chúng chướng ngại quý vị, quý vị phải nghe thầy dạy thì quý vị mới hiểu được. Nếu đi con đường của Phật giáo mà không cần thầy chỉ dạy, thì sau cùng thầy là làm chứng minh, quý vị khai ngộ rồi thì giảng cho tôi nghe. Không cần giảng quá nhiều, thậm chí dựa vào giảng mấy câu, quý vị xem Đại sư Huệ Năng chỉ giảng năm câu. Vốn không dao động, vốn không dao động là Tự Tánh vốn định, nói cách khác: Chân Tâm vốn định, Chân Tâm từ trước đến nay chưa từng dao động, chưa từng dao động qua, đó là Chân Tâm. Cho nên Chân Tâm, nên nhớ kỹ, là thanh tịnh không có ô nhiễm; Thứ hai Chân Tâm không có sanh diệt, là không sanh không diệt; Thứ ba Chân Tâm đầy đủ tất cả; Thứ tư là Tự Tánh vốn định, cho nên nhất định cần phải tu định. Đọc sách ngàn lần thì sao? Ngàn lần là dùng phương pháp đọc sách để tu định. Đọc sách thì quý vị chỉ cần rõ ràng từng chữ, không đọc sót câu, không cần suy nghĩ đó là ý nghĩa gì. Vừa suy nghĩ ý nghĩa gì, thì quý vị liền rơi vào trong Ý thức, quý vị liền bị ô nhiễm, không thể được, đó là bảo quý vị tu định. Cho nên đọc sách đắc Tam-muội chính là ý nghĩa này, Tam-muội chính là định, chính là Thiền định, Ấn Độ gọi là Tam-muội. Định, định đến trình độ nhất định thì khai ngộ, trí huệ liền hiện ra.

          Phương pháp dạy học đó, tôi ở nước ngoài, lần trước tôi ở Luân Đôn, đàm luận về lý niệm và phương pháp của giáo học Trung Hoa cùng hiệu trưởng [trường Đại học] Xứ Wales, họ không có cách nào tiếp nhận. Đây là thật, không phải giả. Cho nên tôi liền nghĩ đến một phương pháp, chúng ta xây trường học thí nghiệm, thời gian 3 năm đến 5 năm, chúng ta xây dựng trường học thí nghiệm, học sinh của chúng ta sẽ dùng phương pháp này, độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến. Là dùng phương pháp này, nếu thật sự, khi được 3-5 năm, có mấy người thật sự khai ngộ, thì họ liền tin tưởng thôi, liền có thể tiếp nhận. Đây là trí huệ phương Đông, là bí quyết trong Phật học. Đó không phải là bí mật, mà là thâm mật. Bí mật là không bằng lòng để người khác biết, còn điều này là công khai, là có thể truyền thụ cho người khác, ai cũng có thể thành Thánh thành Hiền, ai cũng có thể thành Bồ-tát thành Phật, vấn đề chính là quý vị có chịu làm hay không. Bằng lòng y theo như vậy mà làm, bộ kinh này, quý vị vừa xem thì hoàn toàn thông rồi, quý vị giảng cho những vị Tổ sư Đại đức, mời các ngài đến nghe một chút, nếu các ngài nghe xong mà gật đầu thì tốt nghiệp rồi. Phương pháp của phương Đông tuyệt vời. Còn phương Tây là làm khoa học, khoa học là dùng Vọng tâm, không phải dùng Chân Tâm, dùng A-lại-da, dùng Mạt-na, dùng Ý thức. Cho nên đó là dùng Phân biệt, dùng Chấp trước, vậy không liên quan, đó là khoa học. Khoa học là giả, không phải là thật, vì sao vậy? Bởi điều đó không thể không sanh không diệt, điều đó vẫn là có sanh có diệt, không phải rốt ráo, Phật và Nho Thích Đạo của Trung Hoa, Đạo là đã chấp tướng, nhưng cũng có khai ngộ, tôi thấy Lão tử, thấy Trang tử, đó chính là bậc giác ngộ, nếu các ngài không giác ngộ thì các ngài nói không ra được. Quý vị xem ngài Trang tử nói, 天地與我同根,萬物與我一體 “thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể”, nếu không phải là người khai ngộ thì nói không ra được, đó ít nhất là Pháp thân Bồ-tát, Pháp thân Đại sĩ ở trong Phật pháp, không phải là Bồ-tát thông thường, mà là Bồ-tát Triệt ngộ, cho nên đó đều là bậc Thánh nhân.

          Trong Đại Thừa Chỉ Quán nói ra nhiều danh tướng như vậy, đều là do đức Thế Tôn thường nói ở ngay trong sự dạy học hàng ngày, nói nhiều như vậy, dụng ý chủ yếu là bảo chúng ta không nên chấp trước. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận dạy phương pháp tu học cho chúng ta, giảng được rất trọng yếu, đọc kinh cần đọc như thế nào, nghe kinh cần nghe thế nào. Điều thứ nhất, 離言說相 “li ngôn thuyết tướng” (lìa tướng ngôn thuyết), chúng ta cần nghe đạo lý trong kinh, ngôn ngữ không có liên quan, thuyết nhiều thuyết ít đều không sao cả, chúng ta cần rõ ràng hàm ý trong kinh, quý vị xem lìa ngôn thuyết, không chấp trước ngôn thuyết. 離名字相 “Li danh tự tướng” (Lìa tướng danh tự), là danh từ thuật ngữ, đây cũng là giả thiết, vì để thuận tiện truyền bá nên lập ra những danh tướng ấy, danh tướng không phải thật, quý vị xem lìa tướng danh tự. Sau cùng, 離心緣相 ”li tâm duyên tướng” (lìa tướng tâm duyên), quý vị không thể nghĩ, quý vị không thể xem quyển sách này thì tôi nghĩ là ý nghĩa gì, đó là ý nghĩa của quý vị, là ý nghĩa của Vọng tâm, không phải là nghĩa chân thật mà Chân Tâm xem thấy được. Cho nên dạy cho chúng ta nghe kinh không được chấp trước ngôn thuyết, đọc kinh không được chấp trước danh tự, không được chấp trước danh từ thuật ngữ, đều là giả thuyết. Quan trọng nhất là không nên khởi tâm động niệm, đó chính là tướng tâm duyên. Không nên khởi tâm động niệm, cứ một mạch mà niệm, cho nên đó là tu định. Bởi vì người đọc sách, tầng lớp trí thức thích đọc sách, thích đọc sách thì dùng phương pháp đọc sách để tu định. Quý vị xem phương tiện thiện xảo của đức Phật tuyệt diệu biết bao, quý vị thích thứ gì, thì dùng thứ ấy để dạy quý vị tu định, dạy quý vị tu pháp xuất thế gian, chính là dạy quý vị đắc định. Sau cùng sẽ giúp quý vị Minh tâm Kiến tánh. Toàn bộ là tự mình, không liên quan chút nào với bên ngoài. Chỗ hiểu đến của quý vị thông rồi. Thì Tam tạng mười hai bộ kinh mà đức Phật giảng, quý vị không có chút vấn đề nào, quý vị cũng học được rõ ràng hợp lý là đạo, giảng được rõ ràng hợp lý là đạo. Trí huệ đến từ đâu? Là do Tự Tánh của chính mình mở ra, Tự Tánh của quý vị và Tự Tánh của Phật là một Tự Tánh.

          Tiếp theo Đại sư Huệ Năng còn có một câu nói, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Vạn pháp là gì? Là toàn bộ vũ trụ. Toàn bộ vụ trụ do từ đâu đến? Là sanh từ Tâm của chúng ta, chính là Chân Tâm, Chân Tâm có thể sanh vạn pháp, còn Vọng tâm có thể biến vạn pháp. Vạn pháp do Chân Tâm sanh, thì vạn pháp đó không thay đổi, giống như Thế giới Cực Lạc, do Chân Tâm sanh, người thì vô lượng thọ, cây cối hoa cỏ đều vô lượng thọ, hoa nở không có héo tàn. Đó là gì? Là do Tự Tánh biến hiện. Nhưng mà thêm A-lại-da nữa, nó liền sinh ra biến hóa, trong Kinh Hoa Nghiêm giảng, Mười pháp giới, Lục đạo là Tâm hiện Thức biến, trước có Tâm hiện, sau mới có Thức biến. Phải làm rõ ràng điều này, thì quý vị mới biết nên đặt điều gì ở trong tâm, nên buông xuống điều gì, đừng đặt ở trong tâm, trong tâm quý vị không có gánh nặng, trong tâm thanh tịnh, trong tâm tràn đầy trí huệ. Trí huệ không phải do học được, mà do vốn có, do học được thì không phải là trí huệ, mà là tri thức. Cho nên việc người phương Tây làm là tri thức, còn việc thời xưa phương Đông chúng ta làm chính là trí huệ. Bây giờ chúng ta hạ xuống một bậc, học tri thức với người phương Tây, điều này rất khổ, điều này sai rồi. Người phương Tây nên nâng lên cùng chúng ta, mà chúng ta lại hạ xuống cùng họ. Phật pháp của Ấn Độ đến là giúp đỡ chúng ta nâng cao với phạm vi lớn, phải biết điều này. Nếu quý vị thông đạt Phật pháp, nếu đã giác ngộ, thì giảng Tứ Thư Ngũ Kinh cũng không khác với Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, thật sự tuyệt vời.

          Tiếp theo, sách Giáo Hành Tín Chứng, đây là tên của một quyển sách, do Tổ sư Tịnh tông của Nhật Bản biên soạn, biên soạn rất hay, trong đó cũng đã nói, 無為法身即是實相 “Vô vi Pháp thân tức thị Thật tướng” (Pháp thân Vô vi chính là Thật tướng), Thật tướng chính là tướng chân thật, không phải là giả, không phải là giả tướng, là tướng chân thật. Tất cả pháp đều có hai mặt chân giả, chúng ta dùng Vọng tâm thì thấy được chính là mặt này giả, chúng ta dùng Chân Tâm liền nhìn thấy được mặt kia chân thật. Tôi thường dùng tivi, bởi vì hiện nay mọi người đều xem tivi, tôi dùng tivi làm ví dụ. Thật tướng là gì? Thật tướng là màn hình tivi, chúng ta mở tivi, màn hình là một vùng trắng, trong đó không có thứ gì, đó chính là Thật tướng. Sau khi bấm kênh, trên màn hình đó đã có âm thanh, đã có sắc tướng. Âm thanh, sắc tướng là giả, tại vì sao? Vì đang thay đổi trong từng sát-na. Màn hình thì sao? Là không thay đổi. Thì quý vị liền hiểu được, màn hình và sắc tướng đó là một thể, không phải hai, điều đó chính là trí huệ. Sắc tướng không có rời khỏi màn hình, màn hình cũng không có rời khỏi sắc tướng, mỗi thứ là của riêng nó, không liên quan lẫn nhau, nhưng lại dung hòa thành một thể, không có chướng ngại, Lý sự Vô ngại, Sự sự Vô ngại. Có chướng ngại là thế nào? Là quý vị khởi phân biệt, khởi chấp trước, mới có chướng ngại, nếu quý vị không có Phân biệt, không có Chấp trước, thì chướng ngại gì cũng không có, nếu buông xuống Phân biệt Chấp trước rồi, hóa giải tất cả chướng ngại rồi, thì thiên hạ liền thái bình. Bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ ta, ta cần phải thái bình rồi, thì ta mới có thể giúp đỡ người khác, mang thái bình cho người khác. Khi vấn đề của mình giải quyết rồi, thì mới có thể giúp đỡ người khác giải quyết vấn đề. Nếu chưa có giải quyết vấn đề của chính mình, thì làm sao có thể giúp đỡ người khác giải quyết vấn đề?

          Trong quyển sách ấy nói, Pháp thân Vô vi chính là Thật tướng, Thật tướng chính là Pháp thân Vô vi, là một không phải hai. 實相即是法性,法性即是真如,真如即是一如。然則彌陀從如來生,示現報應化種種身也。故知真實慧者,即真如、實相、自性、佛性、自性清淨心等 “Thật tướng tức thị Pháp tánh, Pháp tánh tức thị Chân Như, Chân Như tức thị Nhất như. Nhiên tắc Mi Đà tùng Như Lai sanh, thị hiện Báo Ứng Hóa chủng chủng thân dã. Cố tri Chân thật huệ giả, tức Chân Như, Thật tướng, Tự Tánh, Phật tánh, Tự Tánh thanh tịnh tâm đẳng”(Thật tướng chính là Pháp tánh, Pháp tánh chính là Chân Như, Chân Như tức là Nhất như. Vậy thì đức Mi Đà sanh từ Như Lai, là thị hiện các loại thân như Báo thân, Ứng thân, Hóa thân. Cho nên biết rằng Chân thật huệ, chính là Chân Như, là Thật tướng, Tự Tánh, Phật tánh, tâm thanh tịnh của Tự Tánh…), chung quy có mấy chục danh từ, đều nói về việc này. Tâm thanh tịnh của Tự Tánh … 所詮理體之照用 “Sở thuyên lý thể chi chiếu dụng” (Đã giải thích kỹ càng sự chiếu dụng của Lý thể), chiếu chính là trí huệ, dụng chính là phương tiện. Nếu quý vị khế nhập cảnh giới ấy, thì đắc đại tự tại, giống như Phật Bồ-tát, có thể hiện vô lượng vô biên thân, có thể khởi tác dụng không thể nghĩ bàn. Điều này tu Pháp môn khác (chính là 84 ngàn Pháp môn) thì có thể chứng đắc, nhưng cần thời gian rất dài, không phải dễ dàng như vậy. Nhưng tu Tịnh Độ thì rất dễ dàng, một đời nhất định làm được. Cho nên bộ Kinh này là Kinh bậc nhất trong tất cả các kinh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết trong 49 năm, chúng ta phải biết điều này! Khi tại thế, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng Kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần, đất nước chúng ta, được truyền đến nước ta có 12 bản, đối chiếu tỉ mỉ, thì có khác biệt rất lớn. Nói cách khác, nhất định không phải được giảng một lần. Cổ Thánh tiên Hiền nước ta phán định bộ Kinh này, là đức Phật Thích Ca Mâu Mi đã giảng ít nhất ba lần trở lên, tất nhiên không chỉ ba lần. Trong Đại Tạng Kinh của Mông Cổ, Giáo thọ Kim của Nội Mông nói với tôi rằng, trong bộ Tạng Kinh đó, thì Kinh Vô Lượng Thọ có hai-ba mươi loại. Tôi kính nhờ ông ấy, do nhiều bản không giống nhau như thế, nên trước tiên đem phiên dịch thành Hán Văn, để chúng tôi xem. Chúng ta mới biết, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối với bộ Kinh này, chính là dốc hết sức lực giới thiệu Thế giới Cực Lạc, thường xuyên thuyết. Lúc đang giảng kinh thì giảng thêm vào, là đại khái tổng có 200 bộ kinh luận đề cập đến. Là thật sự thường xuyên thuyết, khuyên bảo khích lệ chúng ta coi trọng Pháp môn này.

          Pháp môn này gọi là pháp khó tin. Khó tin, vì việc này quá kỳ diệu rồi, đều cho rằng là không thể nào, nhưng các ngài thật làm được. Bởi vì chúng ta chưa kiến Tánh, người kiến Tánh vừa nhìn thấy bộ Kinh này, lập tức liền thọ trì, tại vì sao? Vì các ngài không có nghi ngờ. Còn phàm phu chúng ta nhìn thấy bộ Kinh này có nghi hoặc, không có tín tâm đầy đủ với đức Phật. Cho nên bộ Kinh này, ai có thể vãng sanh Tây Phương? Là thật sự tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, thật sự tin tưởng có A Mi Đà Phật, có hai điều tin tưởng này, không có chút hoài nghi nào, thì được nhận vào Thế giới Cực Lạc rồi. Vậy niệm Phật thì sao? Niệm Phật rất quan trọng. Thế giới Cực Lạc là trường học, quý vị đến Thế giới Cực Lạc để xếp lớp mà được xếp vào lớp nào, là do xem công phu niệm Phật của quý vị sâu hay cạn, công phu niệm Phật sâu thì vào lớp cao, còn công phu cạn thì vào lớp thấp, không có công phu thì học từ đầu, tốt, cũng tốt! Vãng sanh Hạ hạ phẩm chính là không có công phu, không có công phu chính là vào lúc sắp mạng chung, một niệm, mười niệm được vãng sanh, bình thường chưa từng niệm Phật. Chính là lúc mạng chung sau cùng, hơi thở còn chưa dứt, niệm một tiếng đến mười tiếng, đó là chưa có công phu, vãng sanh Hạ hạ phẩm, họ có tín, họ có nguyện.

          Chúng ta cần sanh khởi tín tâm với bộ Kinh này. Sanh khởi tín tâm thật khó, nhưng tôi tin tưởng, tại vì sao? Tôi học Phật 64 năm, tôi tin tưởng Tịnh Độ 30 năm. 30 năm đầu không tin tưởng, nhưng tôi không hủy báng, tôi có chỗ tốt này. Tôi cũng tán thán, nhưng tôi không học. 30 năm mới làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Cả đời này của tôi không rời xa kinh giáo, mỗi ngày tôi đọc sách, giảng kinh không gián đoạn, giảng kinh 57 năm. Cho nên pháp khó tin, cảm nhận của tôi rất sâu, thật khó tin. Thầy giới thiệu cho tôi Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Hợp Luận, thì tôi lập tức liền tiếp nhận, không có hoài nghi. Còn đối với bộ Kinh này, Pháp sư Sám Vân khuyên tôi, tuy tôi không phê bình, tôi không có phê bình, nhưng tôi không học. 10 năm ở Đài Trung cùng thầy Lý, thầy ít nhất khuyên tôi sáu-bảy lần, tôi cũng vào tai này ra tai kia, không nghiêm túc học. Đang lúc tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm, giảng 53 lần tham học, xem đến đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, Đồng tử Thiện Tài, thì tôi mới thật sự tin tưởng. Tầng lớp trí thức thông thường tôn sùng nhất đối với ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền, trí huệ của đức Văn Thù, thực hành của đức Phổ Hiền, làm sao dùng Phật pháp thực hiện trong cuộc sống, thực hiện đến công việc, thực hiện đến xử sự đối người tiếp vật, vận dụng linh hoạt, thật có chỗ tốt. Thật không ngờ, hai vị đại Bồ-tát ấy cũng là niệm Phật, thành tựu ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, điều này vượt ra ngoài dự đoán. Lại xem đến ngài Thiện Tài, biểu pháp ấy rất tốt, chúng tôi thật sự thấy rõ ràng rồi. Trước đây đã xem rất nhiều lần, nhưng đều không xem thấy, lần ấy xem thấy rồi. Quý vị xem Thiện tri thức mà ngài tham phỏng trước nhất, là Tỳ-kheo Đức Vân, trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm gọi là Kiết Tường Vân, là một người. Ngài ấy tu gì? Ngài ấy tu Bát-chu Tam-muội, chuyên tu Pháp môn Niệm Phật, giảng khai thị cho ngài Đồng tử Thiện Tài, đã giảng 21 Pháp môn Niệm Phật. 21 ấy không phải là chữ số, mà là biểu pháp của Mật tông, biểu thị vô lượng, biểu thị viên mãn. Đó chính là nói rõ: các môn đều không thể tách rời liên hệ với Tịnh Độ, bất kể học gì, chỉ cần nếu vừa quay đầu đầu đều thành tựu, không có mâu thuẫn, không có xung đột. Nếu phương pháp này của tôi có xung đột, vậy thì không đúng rồi, không có. Tôi trong mười mấy năm gần đây, trong việc đoàn kết Tôn giáo trên quốc tế, hơn mười Tôn giáo, không giống với Phật giáo, có mâu thuẫn hay không? Có xung đột hay không? Không có. Vậy xung đột, mâu thuẫn đến từ đâu? Là quý vị không hiểu rõ, hai bên không hiểu rõ, do chính mình ở chỗ đó mà sanh những phiền não ấy, một chút xung đột cũng không có. Đặc biệt là văn hóa truyền thống nước ta, không xung đột với Phật pháp, không xung đột với Đạo giáo, nói cách khác, đều không xung đột với tất cả tôn giáo. Tất cả tôn giáo đều nên học Phật, tại vì sao? Bởi kinh Phật giảng được thấu triệt, giảng được thấu triệt hơn các tôn giáo khác, trong kinh Phật không có sắc thái mê tín, thật sự đã giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ vấn đề cho quý vị, quý vị không thể không tin tưởng, chỗ tốt của Phật giáo ở chỗ này, là đại học vấn!

Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật giáo cho tôi, khi chúng tôi còn trẻ không tin tôn giáo, cho rằng là mê tín, tôi học Triết học với thầy Phương, tôi cũng không ngờ đến, tôi vốn là muốn dự thính chương trình học của thầy, sau cùng thầy không để tôi đi dự thính, muốn tôi đến nhà thầy để học. Giờ học của chúng tôi là bắt đầu vào chủ nhật, vào 9 giờ 30 đến 11 giờ 30 mỗi sáng chủ nhật, 2 tiếng đồng hồ, thầy giảng Triết Học Khái Luận cho tôi. Mục cuối cùng là giảng Triết Học Kinh Phật, tôi cũng rất kinh ngạc, tôi nói Phật là mê tín, đa thần giáo, đa thần giáo chính là Tôn giáo cấp thấp, vậy làm sao có thể có Triết học? Năm đó tôi 26 tuổi, thầy nói với tôi, anh còn trẻ tuổi, anh không biết, thầy nói Thích Ca Mâu Ni là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, Triết học Kinh Phật, đặc biệt là Đại thừa, là đạt tới đỉnh cao trong Triết học, là đỉnh cao nhất. Học Phật là hưởng thụ cao nhất của đời người. Tôi đã sáng tỏ từ trong bài mục đó, quay đầu lại không dám xem thường nữa. Khi đó thầy giới thiệu cho tôi chính là Kinh Hoa Nghiêm, bảo tôi đọc Kinh Hoa Nghiêm, xem Sớ Sao của Đại sư Thanh Lương, Hợp Luận của Trưởng giả Lý, đây là hai bản chú giải quyền uy của Hoa Nghiêm. Tôi đã hạ không ít công phu ở trong đó, là 4-5 mươi năm, đã giảng hơn 4000 giờ, là lần thứ hai, còn lần trước không tính, thời gian của lần sau, lần sau lưu lại có ghi âm, có thu hình lại, là hơn 4000 giờ. Đã giảng xong chưa? Mới giảng xong 1/5. Nếu theo cách giảng của tôi, theo tốc độ đó của tôi, thì cần giảng bao nhiêu giờ? Tôi đoán chừng cần 20 ngàn giờ. Trong trường đại học nào có khóa trình 20 ngàn giờ? Cho nên Hoa Nghiêm nên mở một trường đại học, chính là một môn này.

          Thật sự, sau này có khả năng không có người giảng bộ sách này nữa. Tôi ở Đài Loan, trước đây có một lão Hòa thượng, mỗi lần nhìn thấy tôi liền khuyên tôi giảng Hoa Nghiêm, ngài ấy nói: Pháp sư! Nếu thầy không giảng thì sau này không có người giảng nữa, cho nên tôi nhận được khích lệ của mấy người. Lão Hòa thượng Minh Sơn ở Đại lục Trung Quốc, đó là hộ pháp của tôi, là lão Hòa thượng rất có uy tín, có địa vị, ngài ấy cũng khuyên tôi, phải giảng viên mãn Hoa Nghiêm, lưu lại một bộ băng ghi hình làm tham khảo cho người đời sau. Là tốt, Kinh Hoa Nghiêm là đại bản của Kinh Vô Lượng Thọ, cho nên tu Tịnh Độ, tốt nhất là sau khi học xong Hoa Nghiêm lại tu Tịnh Độ, vậy thì sẽ khác. Cũng chính là nói, giảng được thấu triệt nhất về vũ trụ nhân sinh, Thật tướng các pháp chính là Hoa Nghiêm. Kinh văn trong Kinh Vô Lượng Thọ ít, chỉ có một quyển, còn Kinh Hoa Nghiêm là 99 quyển, văn chữ của Hoa Nghiêm nhiều, giảng kỹ càng tỉ mỉ. Đọc Hoa Nghiêm, để giảng Kinh Vô Lượng Thọ thì rất thuận tiện, giống như điểm tâm sau bữa ăn, sau khi ăn yến tiệc xong thì ăn điểm tâm. Hi vọng của chúng tôi: người trẻ tuổi phải thật sự phát đại tâm, không có người dạy không quan trọng, đi con đường của người xưa, là kỳ nghĩa tự kiến. Đọc tụng rất quan trọng, đọc tụng không cần buông bỏ, đọc 10 năm, đọc 20 năm, có lẽ quý vị sẽ khai ngộ thôi. Nhưng phải cần nhớ kỹ, phải hiểu được buông xuống, không buông xuống Tập khí Phiền não thì không được, đó là chướng ngại. Nếu buông xuống tất cả Tập khí Phiền não, thì không có chướng ngại nữa, quý vị mới có thể kiến Tánh, quý vị mới có thể khôi phục Tự Tánh.

          Chúng ta hãy xem phần tiếp theo, tâm thanh tịnh của Tự Tánh v.v.. Đã giải thích chiếu dụng của Lý Thể. Tiếp theo giảng, 簡言之,明心見性是明本體也 “giản ngôn chi, Minh tâm Kiến tánh thị minh Bản thể” (nói ngắn gọn những điều trên, Minh tâm Kiến tánh là sáng tỏ Bản thể). Bản thể của vũ trụ vạn vật, trên thực tế chính là Tự Tánh. 於此徹透,安住如如,從體起用,即為住真實慧 “Ư thử triệt thấu, an trụ như như, tùng Thể khởi dụng, tức vi trụ Chân thật huệ”(Nhờ thấu triệt điều này, [mà] an trụ như như, từ Thể khởi dụng, tức là trụ Chân thật Huệ). Đoạn văn hiện tại này rất quan trọng, là trung tâm của Phật giáo, trung tâm của Đại thừa, bởi vì ba điều chân thật này rất ít gặp được giảng đồng thời, rất khó được, vậy ở trong đây, ba điều Chân thật đều nói thấu triệt cho chúng ta rồi. 又真實際者,法身德也。真實利者,解脫德也。真實慧者,般若德也 “Hựu Chân thật tế giả, Pháp thân đức dã. Chân thật lợi giả, Giải thoát đức dã. Chân thật huệ giả, Bát-nhã đức dã” (Thêm nữa, Chân thật tế, là Pháp thân đức. Chân thật lợi, là Giải thoát đức. Chân thật huệ, là Bát-nhã đức). Điều này do Hoàng Niệm lão giảng, thật tuyệt vời, nếu ngài chưa khai ngộ, thì làm sao có thể nói được ra lời ấy. Gần đây tôi đang nghe Báo Ân Đàm của ngài, càng nghe càng hoan hỉ, tôi đã nghe mấy chục lần. Đó là báo cáo tâm đắc sau cùng trong cả đời học Phật của ngài, thật khó được, trong 9000 năm Mạt pháp, báo cáo ấy độ vô lượng chúng sanh, chúng ta phải nghiêm túc học tập. Cho nên đoạn này do ngài nói, hợp ba điều lại để giảng đồng thời, Chân thật Chi tế chính là Pháp thân, giảng được quá hay rồi. Pháp thân chính là Chân Như, chính là Thật tướng, chính là Tự Tánh, phía trước đã nói khá nhiều, chúng ta sẽ không nhắc lại nữa.

          Chân thật lợi, lợi là giải thoát, giải thoát là thế nào? Là đắc đại tự tại, đắc đại viên mãn. Giải là giải trừ, thoát là thoát ly. Giải trừ điều gì? Là giải trừ sự trói buộc, giống như thân thể chúng ta bị dây thừng buộc chặt, cởi mở dây rồi. Còn thoát là thoát khỏi Lục đạo luân hồi, thoát khỏi Thập pháp giới, sống ở trong cõi nước Phật. Kinh này chính là trụ ở Thế giới Cực Lạc, cõi Thật Báo của Thế giới Cực Lạc, đây là Lợi ích Chân thật. Giải chính là đoạn Phiền não, đoạn Vô minh, đoạn Tập khí, thoát là thoát ly Thập pháp giới, đó là Lợi ích Chân thật. Thoát ly Mười pháp giới là ai? Là Pháp thân Bồ-tát, Đại thừa giáo thường giảng là bậc Bát địa trở lên, khoảng cách với thành Phật không xa. Bậc Bát địa trở lên, thì trí huệ đức năng tướng hảo gần giống với Phật, rất gần. Trong Kinh Hoa Nghiêm chia địa vị Bồ-tát thành 52 cấp bậc, giống như đi học, năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba, là 52 lớp. Trong đó chia Thập Tín, giống như là Tiểu học, có mười lớp, Thập Trụ giống như là Trung học Cơ sở, còn Thập Hạnh giống như là Trung học Phổ thông, Thập Hồi Hướng giống như Đại học, Thập Địa giống như là Viện nghiên cứu, Đẳng giác giống như lớp Tiến sĩ. Khi tốt nghiệp lớp Tiến sĩ thì thành Phật rồi, tổng cộng là 52 cấp bậc. Bát địa là ở trong năm cấp bậc cao nhất, cấp bậc thứ năm, từ phía trên, phía cao nhất xuống cấp bậc thứ năm, là Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, thành Phật, cho nên cấp bậc này cao. Bồ-tát Bát địa trở lên, bất luận ở phương diện nào, quý vị quan sát tỉ mỉ, gần giống Phật, rất giống nhau.

          Cho nên Trí huệ Chân thật là Bát-nhã. Bát-nhã là gì? Bát-nhã là trung tâm cả đời giảng kinh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã giảng 22 năm, là môn khóa này. 12 năm A Hàm là Tiểu học; 8 năm Phương Đẳng, là Trung học; 22 năm Bát-nhã, là Đại học; Sau cùng là 8 năm Pháp Hoa, đó là Viện nghiên cứu. Cả đời Ngài không có hình thức, không có trường học. Trên thực tế điều đó là có trình tự, từ từ dẫn khởi quý vị, làm tấm gương cho người đời sau. Vì sao đức Phật không xây dựng đạo tràng, cả đời trải qua cuộc sống lưu lạc? Vì học trò, chúng tôi đoán gần giống với đức Khổng tử, học trò của Khổng tử là ba ngàn người. Học trò thường tùy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chính là cả đời không rời xa thầy, đã tiếp nhận sự dạy dỗ hoàn toàn, là 1.250 người, học ở đó một khoảng thời gian thì đi rồi, học mấy tháng, học mấy năm, học mười mấy năm, rồi đi, tính tất cả vào, tôi tin tưởng ít nhất cũng có 2.500 người, chính là hợp lại là 3.000 người. Một đoàn thể lớn như vậy, sống ở ngoài thành, ngủ một đêm dưới gốc cây, giữa ngày ăn một bữa, cả đời không thay đổi. Trước đây chúng tôi không hiểu, nghĩ không thông, trong thời kỳ hiện nay thì bỗng nhiên đại ngộ, sáng tỏ rồi. Tại vì sao? Bởi xây dựng đạo tràng lớn rồi, có một số người đến xuất gia, vì sao xuất gia? Vì muốn đến chiếm đạo tràng, nếu là tâm ấy đến xuất gia, thì không phải thật, nơi đây có chùa miếu lớn như vậy, sống được thoải mái hơn nhiều so với trong nhà. Cho nên đức Phật không xây dựng đạo tràng, cả đời khổ hạnh, là tấm gương tốt nhất cho chúng ta.

          Đại sư Ấn Quang khuyên chúng ta, đây là vị Tổ sư Cận đại, thầy của tôi là Cư sĩ Lý Bỉnh Nam: học Tịnh Độ với ngài, cho nên cũng là Sư thừa của chúng ta, Tổ sư, ngài nói với chúng ta, vào thời đại hiện nay, xây dựng đạo tràng, đạo tràng nhỏ, chúng ở không nên vượt quá 20 người, chân chánh tu hành đều có thể thành tựu. Đạo tràng lớn hơn, lớn hơn thì thế nào? Quý vị phải cần tiền, mỗi ngày quý vị suy nghĩ đến nơi nào để kiếm tiền, đi tìm những Cư sĩ ấy để được cúng dường, tìm những vị hộ pháp đó, điều này cũng rất lao tâm khổ trí. Trong tâm có những thứ ấy. Thì không có Đạo, thì không còn tâm thanh tịnh nữa, không còn tâm bình đẳng nữa, nói cách khác, là hoàn toàn phá bỏ con đường đức Phật đã giảng rồi. Cần phải hiểu điều này, nhất định phải hiểu được. Nếu chúng ta muốn thành tựu thật sự, thì phải đi con đường xưa của Phật Bồ-tát. Phải thoát khỏi tất cả những thứ ấy. Hiện nay chúng ta nói lời chân thật, thân thể chúng ta thua kém người của thời kỳ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các ngài ngồi thiền ở bên ngoài đồng dưới gốc cây, sức khỏe tốt, các ngài đều không sợ gió táp mưa sa, ban ngày nắng chiếu, còn bây giờ chúng ta ra ngoài, trải qua một đêm, đến ngày thứ hai liền vào phòng bệnh, thể lực không tốt. Các ngài thật sự là thân kim cang bất hoại, đó là do luyện mà ra. Cho nên ngày nay chúng ta tìm Tổ sư của chúng ta, dạy chúng ta xây dựng chùa nhỏ, đạo tràng nhỏ, không vượt quá 20 người, là chính xác! Mỗi người đều có thành tựu, đó chính là công đức viên mãn. Đạo tràng lớn hơn, mà không có người thành tựu, thì đó không gọi là đạo tràng. Đây đều là điều chúng ta phải biết.

          Cho nên về dạy học, thời xưa không có Viện Phật học, cũng không có lớp Phật học? Vậy làm sao dạy ra? Đi chọn người thật thà, nghe lời, thật làm, người như vậy chính là nhân tài, người như vậy chính là đương cơ, tìm kiểu người ấy. Sau khi tìm được kiểu người ấy, rồi xem họ thích gì, thì dạy họ đọc sách, dạy họ biết chữ. Chúng ta bắt đầu từ văn tự trước, văn tự có nền móng ba năm, 3 năm đến 5 năm, thì được rồi, liền dạy họ đọc kinh. Đọc kinh thế nào? Đọc một bộ kinh, cách đọc ngược lại, mỗi ngày đọc, chính là đọc một bộ kinh. Đọc trên ngàn lần, đọc trên 2000 lần, 3000 ngàn lần thì khai ngộ rồi, không có thầy mà tự thông, thì họ có thể giảng kinh dạy học. Họ dạy học trò cũng là chọn thật thà, nghe lời, thật làm, không có học trò như vậy thì dạy không ra. Đặc biệt là học trò rất nhiều chủ kiến thì càng phiền phức, người thông thường xem thấy họ thông minh, nhưng họ thế nào? Là họ nhiều vọng tưởng, nhiều chủ kiến, đó đều là không thích hợp, tâm họ rất khó định xuống. Cho nên cả đời một vị thầy, học trò thật sự thành nghề, có hai-ba người thì không tệ rồi. Ở trong lịch sử Trung Hoa, chỉ có Lục tổ Đại sư Huệ Năng, người khai ngộ ở trong tay ngài nhiều, là 43 người, là nhiều nhất, là 空前絕後 ‘không tiền tuyệt hậu’, nghĩa là trước đó không có, sau đó cũng không có. Sau Lục tổ, có người khai ngộ trên tay Tổ sư, bốn-năm vị thì rất nhiều rồi, phần lớn đều là một vị, hai vị. Chúng ta phải dùng phương pháp xưa để làm thí nghiệm, nếu thí nghiệm thành công, thì mọi người tin tưởng thôi. Chúng ta cần dùng lại phương pháp này để bồi dưỡng nhân tài thật sự, bồi dưỡng Tổ sư Đại đức. Tổ sư Đại đức đều không có nữa, thì bồi dưỡng từ đầu, được, chúng ta noi theo phương pháp này có thể làm được, chính là tìm người không dễ, tìm thực sự nghe lời, thật thà, thật làm, không bị danh văn lợi dưỡng quấy nhiễu mới được. Tâm danh lợi, tâm được mất, còn có ý niệm đó, thì họ không được, vì không tương ưng với Đạo, với Chân Tâm. Họ vẫn là dùng Vọng tâm. Dùng Vọng không quay về được Chân Tâm, nhất định phải xả bỏ hết Vọng tâm, thì Chân Tâm mới có thể hiện tiền. Chân Tâm đầy đủ tất cả, cho nên Bát-nhã đức.

          Pháp thân, Giải thoát, Bát-nhã, ba đức này đều đầy đủ gọi là Tam đức của Niết-Bàn, đầy đủ tất cả. Phần tiếp theo giảng, 今三真實,亦即涅槃三德,如伊字(∴)三點 “kim tam Chân thật, diệc tức Niết-Bàn tam đức, như y tự tam điểm” (Ba điều Chân thật này, cũng chính là ba đức của Niết-Bàn, giống như ba điểm của chữ Y), ba điểm này là tiếng Phạn, là một chữ trong tiếng Phạn, phát âm đọc là伊 “y”. Ba điểm này là ba góc bằng nhau trong hình tam giác, nói rõ đó là một thể. Quý vị xem非並 “phi tịnh” (chẳng phải song song), không phải song song, 非列,不縱不橫,即一即三,即三即一 “phi liệt, bất tung bất hoành, tức nhất tức tam, tức tam tức nhất” (chẳng phải chia ra, không dọc không ngang, chính là một là ba, chính là ba là một), một mà ba, ba mà một. Dùng điều này để ví dụ cho Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát, cũng chính là Chân thật Chi tế, Chân thật Chi lợi, Chân thật trí huệ được giảng trên kinh, nói rõ quan hệ của ba điều ấy là một mà ba, ba mà một. 今經於妙行之先,首曰住真實慧 “Kim Kinh ư diệu hạnh chi tiên, thủ viết trụ Chân thật huệ” (Kinh này nương vào việc quan trọng nhất của diệu hạnh, đầu tiên nói: trụ Chân thật huệ), Kinh này là chỉ bộ Kinh Vô Lượng Thọ đây, Kinh Vô Lượng Thọ xem việc quan trọng nhất của diệu hạnh, diệu hạnh là tín nguyện trì danh, ở phía trước phần này giảng trụ Chân thật huệ, 此誠畫龍點睛之語 “thử thành họa long điểm tình chi ngữ”(đây quả thật là lời văn vẽ rồng điểm mắt), nếu chúng ta đối với điều này mà hiểu rõ thông suốt rồi, thật sự có thể lý giải, hiểu rõ thông suốt rồi, thì chúng ta mới thật sự rõ ràng: nghĩa chân thật của bộ Kinh này, không còn hoài nghi nữa, không còn do dự nữa, mà hoàn toàn tiếp nhận, tin sâu có Thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, tin sâu niệm Phật nhất định có thể được thành tựu viên mãn. Thật tin thật nguyện, sẽ đạt được tư cách vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì một đời viên mãn thành tựu. Thành tựu có nhanh có chậm, vậy chính là do sự siêng năng hay biếng nhác của chính mình, nếu rất chăm chỉ, thì nâng lên rất nhanh, nếu là biếng nhác, thì quý vị nâng lên tương đối chậm. Quý ngài sẽ không thoái chuyển, quý ngài chỉ có nâng lên, sẽ không hạ xuống, có nhanh chậm khác nhau. Cho nên trong hành môn, hành môn ấy trước là trụ Chân thật huệ, câu nói này quan trọng, tại vì sao? Vì không có trí huệ thì quý vị không tin tưởng. Thật tin thật nguyện chính là Chân thật huệ, nếu không có Chân thật huệ thì các ngài sẽ không tin tưởng.

          Cho nên phần tiếp theo nói, 住真實慧,即入一法句 “trụ Chân thật huệ, tức nhập nhất pháp cú” (trụ Chân thật huệ, tức là nhập vào một câu pháp), một câu pháp là gì? Là真實智慧無為法身 “Chân thật Trí huệ Vô vi Pháp thân” (Trí huệ Chân thật là Pháp thân Vô vi), giảng quá hay rồi. Pháp thân Vô vi chính là Thường Tịch Quang, có tướng hay không? Không có tướng, đó là Quang. Tịnh Độ, Tịnh Độ ở Tây Phương phân thành bốn loại, cao nhất là Thường Tịch Quang Tịnh độ, phía dưới là Thật Báo Trang Nghiêm độ, Phương Tiện Hữu Dư độ, Phàm Thánh Đồng Cư độ. Giống như chúng ta vãng sanh, ngay cả công phu sơ đẳng cũng chưa có, vậy sanh đến nơi nào? Sanh đến Phàm Thánh Đồng Cư độ. Mặc dù là Phàm Thánh Đồng Cư độ, Thế giới Cực Lạc có bốn cõi ba bậc chín phẩm, thứ bậc đó khác nhau, nhưng đãi ngộ giống nhau. Điều này là không thể nghĩ bàn, trên kinh thuyết được rõ ràng, nguyện thứ 20, là nguyện thứ 20 trong bản này của chúng ta, 作阿惟越致菩薩 “tác A-duy-Việt-trí Bồ-tát” (làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát), mỗi người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, tất cả làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Bậc A-duy-Việt-trí là thế nào? Là Bồ-tát chứng đắc viên mãn ba loại bất thoái chuyển. Thứ nhất “Vị bất thoái”, là A-la-hán; Thứ hai “Hạnh bất thoái”, là Bồ-tát; Thứ ba “Niệm bất thoái”, chính là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, là cao nhất, giống đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, đức Quán Âm, đức Thế Chí, các ngài là Bồ-tát viên chứng tam bất thoái. Đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc là đãi ngộ gì. Thì vãng sanh Hạ hạ phẩm Phàm Thánh Đồng Cư độ đều là đãi ngộ ấy, là bình đẳng.

          Quý vị đi quan sát tỉ mỉ Thế giới Cực Lạc, đó là một đạo tràng, nơi đó không phải là một cõi nước. Tại vì sao? Vì cõi nước ấy không có nói về Quốc vương, không có nói về Thượng đế, không có, cũng không có Đại thần, cũng không có Chính phủ, trong đó không có Sĩ Nông Công Thương, chỉ có một đức A Mi Đà Phật, tất cả người khác đều là Bồ-tát. A Mi Đà Phật là thầy, còn người khác là học trò, giống như một trường học, rất đơn giản. Thầy và học trò trong trường học ấy đều không thể nghĩ bàn, thần thông quảng đại, các ngài tùy lúc tùy nơi hiện vô lượng vô biên thân. Để làm gì? A Mi Đà Phật hiện vô lượng vô biên thân, là để tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh, mỗi người niệm Phật vãng sanh, Ngài đều phải đi nghênh đón, là Hóa thân đi. Thân thật sự thì ở Thế giới Cực Lạc không chuyển động, ở trong giảng đường giảng kinh dạy học như cũ, là không chuyển động, mà phân thân đi tiếp dẫn, là vô lượng công đức. Cho nên học trò, học trò là học trò như thế nào? Là vừa đến Thế giới Cực Lạc. Có địa vị gì? Là năm thứ nhất Tiểu học, chính là học trò của Hạ hạ phẩm vãng sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư độ. Các ngài cũng có năng lực giống như A Mi Đà Phật, phân thân là vô lượng vô biên. Các ngài đi làm gì? Quý ngài đến Thế giới chư Phật mười phương để bái Phật, cúng dường Phật. Cúng dường Phật, bái Phật, là phước báu, là tu phước. Nghe Phật giảng kinh thuyết pháp, kinh mà mỗi tôn Phật giảng không giống nhau, nghe giảng kinh thuyết pháp thì khai trí huệ, là phước huệ song tu. Không chỉ là chính mình không có rời khỏi A Mi Đà Phật, mà nghe giảng kinh thuyết pháp ở giảng đường của A Mi Đà Phật, có năng lực lớn như vậy, đồng thời có thể đến mười phương Thế giới thân cận chư Phật Như Lai, điều này tuyệt vời, không thể nghĩ bàn! Ngoài điều này ra, trước đây đều đã từng đến mười phương Thế giới bên đó du lịch, sinh sống, người có duyên với chúng sanh bên đó vẫn không ít, đức Phật độ người có duyên, phân thân, hóa thân rất tự nhiên, đi giúp đỡ những người cần giúp đỡ ấy, là tự hành hóa tha.

         Cho nên vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc không vắng lặng, mà rất náo nhiệt, vô cùng tốt, đến đâu để tìm nơi như vậy? Chúng ta gặp được liền có thể đi, không phải không thể đi, mọi người đều có thể đi, không có chướng ngại. Cho nên, vào năm tôi 85 tuổi, tết Thanh minh năm đó, tôi đã buông xuống Hoa Nghiêm, không giảng nữa, tôi chuyên giảng bộ Kinh này, tại vì sao? Vì tôi quyết tâm phải đi. Còn Hoa Nghiêm, Kinh này là trung bản Hoa Nghiêm, tôi không giảng đại bản Hoa Nghiêm, mà tôi đổi thành trung bản Hoa Nghiêm để giảng. Nhất định phải đi, nếu không đi, vậy thì thật sự là để vuột mất cơ hội, bỏ qua điều này là thật sự sai rồi! Đó là thật sự quay trở lại từ Hoa Nghiêm, quyết trọn một lòng cầu sanh Tịnh Độ, sẽ không làm điều khác nữa.

          Chúng ta lại tiếp tục xem, lật qua tiếp tục xem, 「繼云」: 『勇猛精進,一向專志莊嚴妙土』 kế vân’: “Dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ” (tiếp theo ghi: dũng mãnh tinh tấn, một hướng chuyên chí trang nghiêm cõi nước vi diệu), câu này nói được hay. 一向 “Nhất hướng” (Một hướng), một phương hướng, chính là Thế giới Tây Phương Cực Lạc. 專志 “Chuyên chí”, là chuyên môn làm một sự việc, chí chính là nguyện vọng của quý vị. Chuyên chí làm gì? 莊嚴妙土 “trang nghiêm diệu độ” (trang nghiêm cõi nước vi diệu). Trang nghiêm như thế nào? Là thật sự tin tưởng, chân tín, thiết nguyện, quyết định cầu sanh, không có ý niệm thứ hai, đời này của tôi đến chính là phải đến Thế giới Cực Lạc. Trong kinh văn đức Phật dạy cho chúng ta, một hướng chuyên niệm A Mi Đà Phật chính là trang nghiêm diệu độ.

          Thế gian này tai nạn rất nhiều. Vào 30 năm trước, chúng tôi đã xem một Nhà tiên tri của nước Pháp, lời tiên đoán của Nostredame, đó là Nhà tiên tri vô cùng nổi tiếng của Châu Âu, những gì do ông ấy nói hầu như đều thành hiện thực rồi. Ông ấy nói năm 1999 là ngày tận thế của thế giới, thời kỳ ấy sẽ có phát sinh tai nạn, cho nên vào khoảng thời kỳ đó, tất cả tín đồ Tôn giáo đều cầu nguyện, thì lời cầu nguyện đó có sức mạnh, trì hoãn tai nạn đó lại, năm 2000 vượt qua bình an. Thì lại gặp một lời tiên đoán tai nạn của người Maya, năm 2012, cũng là người toàn thế giới đều biết, mọi người ra sức cầu nguyện, tốt, lại trì hoãn rồi. Kéo dài đến bao lâu thì chúng ta không biết, nhưng chúng ta luôn cảm thấy có Thượng đế, Thượng đế từ bi, Phật Bồ-tát từ bi. Tiến sĩ Gregg Braden của nước Mỹ, ông ấy nói được hay, vào năm 2010 họ mở cuộc họp ở Sydney, cũng đã tìm tôi. Tôi ở Hồng Kông, tôi không qua đó, nhưng tôi đã cử 8 người, thầy Định Hoằng, có thầy ấy, đi tham gia hoạt động đó của họ. Ngày thứ nhất họ báo cáo về sự phát triển gần đây của Cơ học Lượng tử, tôi nghe rồi rất hoan hỉ, càng ngày càng gần với Phật giáo rồi. Ngày thứ hai đặc biệt thảo luận về tiên đoán của người Maya, có cách nhìn thế nào đối vời lời tiên đoán đó, có một nửa số người cho rằng có, rất có khả năng, còn có phân nửa số người cho rằng chưa hẳn, chuyện của mấy chục ngàn năm đó, thế nào cũng sẽ có sai lầm, không thể chính xác. Do ông Gregg Braden đề xuất, làm ra kết luận (chúng tôi đều có tài liệu kết luận ấy), ông ấy đã nói ba câu, chỉ cần cư dân trên trái đất: đoạn ác dương thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm, thì chẳng những có thể trì hoãn tai nạn ấy, mà còn có thể hóa giải hết. Chúng tôi tin tưởng điều này, tại vì sao? Vì tất cả pháp sanh từ tâm tưởng, vì tâm tưởng của chúng ta bất thiện, nên dẫn tới tai nạn, tâm tưởng của chúng ta trở nên thiện, thì tai nạn sẽ không có nữa.

          Cho nên Thế giới Cực Lạc được hình thành như thế nào? Người ở Thế giới Cực Lạc, tâm mỗi người đều là thuần tịnh thuần thiện, là được hình thành như vậy. Thế giới ngày nay của chúng ta, tâm người bất thiện là mỗi năm một nghiêm trọng, cho nên rất phiền phức. Lời tiên đoán của mấy lần tai nạn đó đều chưa thành hiện thực, nên mọi người lơ là với tai nạn đó rồi, cho rằng là giả, đó là gạt người, không có liên quan với tạo ác, không có báo ứng, nếu có ý niệm đó thì hỏng rồi, có ý niệm đó liền phiền phức rồi, đó là hoàn toàn trái ngược với Tánh đức. Cho nên chúng ta nhất định phải tu Tịnh Độ, phải trang nghiêm cõi nước vi diệu, tâm hạnh nhất như, chúng ta phải làm việc này. Thường xuyên đọc bộ Kinh điển này, văn tự kinh điển cũng hay, mỗi chữ đều là do đức Phật thuyết. Hạ lão hội tập bản này, không có thay đổi một chữ, đây là ngài trung thành với hội tập, không dám thay đổi chữ nào, chỉ là đem năm bản ấy tổ hợp lại lần nữa, không có thay đổi. Cho nên mỗi chữ của bộ Kinh này đều là chân kinh, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết. Còn Chú Giải, thì lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là ngài trích dẫn 83 kinh luận, 110 chú sớ của Tổ sư Đại đức để chú giải bộ Kinh này, cũng là mỗi câu đều có xuất xứ, Chánh tri Chánh kiến, bản này quá khó được! Người ở thế hệ trước của chúng ta, rất nhiều người đều chưa nhìn thấy qua, tại vì sao? Vì bản này, bản Kinh xuất hiện là sau chiến tranh Thế giới thứ II, thời gian đó phân lượng rất ít, đất nước ta lớn như vậy, chính là cũng không vượt quá hai-ba ngàn quyển, cho nên người biết rất ít. Bản Chú Giải này của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là vào những năm 1980 mới xuất hiện. Năm 1984 tôi ở nước Mỹ, ngài cũng ở nước Mỹ, chúng tôi quen biết là do gặp nhau ở nước Mỹ. Lúc đó đưa ra là bản phác thảo, còn chưa có bản hiệu đính, là dùng in rô-nê-ô. Người hiện nay đều không hiểu in rô-nê-ô nữa, lúc đó dùng in rô-nê-ô. In rô-nê-ô đại khái nhiều nhất chỉ có thể in 100 bộ, ngài đã mang một bộ đến nước Mỹ, tặng cho tôi. Tôi cũng là vào cùng năm đó, năm 1984, đến Bắc Kinh thăm ngài. Lần đầu đến Bắc Kinh đã quen Triệu Phác lão, lần đó đi cùng tôi là hơn 20 người, chúng tôi tổ chức đoàn ở Hương Cảng về Đại Lục. Ngài Triệu lão khoảng hơn 80 tuổi, thông thường ngài ấy tiếp khách là nửa tiếng đồng hồ. Vậy chúng tôi thì sao? Đồng hương chúng tôi, nói chuyện rất hợp ý, hôm đó tôi cùng ngài ấy đã nói chuyện bốn giờ đồng hồ, buổi tối giữ chúng tôi ăn cơm, đã bày ba bàn, vô cùng khó được. Cho nên phải đọc thuộc lòng bộ Kinh này, Chú Giải này cần phải xem nhiều. Đó chính là trang nghiêm Diệu độ. Nhất hướng chuyên chí chính là ngày nay chúng ta nói nhất tâm nhất ý, toàn tâm toàn ý, chính là ý nghĩa này.

          妙土者,精美絕倫,不可思議之國土也  “Diệu độ giả, tinh mỹ tuyệt luân, bất khả tư nghì chi Quốc độ dã” (Diệu độ, là tinh mỹ tuyệt luân, là cõi nước không thể nghĩ bàn). Nếu chúng ta đến Thế giới Cực Lạc thì mới bỗng nhiên đại ngộ, vượt qua ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, chúng ta tưởng tượng không được. 莊者 “Trang giả” (Trang là), cung kính, có ý nghĩa cung kính, có ý nghĩa chánh, có ý nghĩa ra sức tô điểm. 嚴,尊也 “Nghiêm, tôn dã” (Nghiêm: là tôn), có ý nghĩa tôn trọng, tôn nghiêm, có ý nghĩa nghiêm túc, cũng có ý nghĩa trang nghiêm. Có thể thấy hai chữ trang nghiêm, 可以俗語解為以尊重、恭敬、正肅等等善美而裝飾之 “khả dĩ tục ngữ giải vi dĩ tôn trọng, cung kính, chính túc đẳng đẳng thiện mỹ nhi trang sức chi” (có thể dùng ngôn ngữ đời thường để giải thích là: tôn trọng, cung kính, ngay thẳng nghiêm túc… những sự thiện mỹ mà trang trí tô điểm cõi nước), đây là dùng ngôn ngữ đời thường để giải thích. Còn dùng Phật pháp thì sao? 今大士妙德 “Kim Đại sĩ diệu đức” (Diệu đức của những vị Đại sĩ ấy), Đại sĩ là những vị Bồ-tát tu hành ấy, hàng xuất gia là đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, đức Di Lặc, đây là có ở trên kinh, ngài Quán Âm, ngài Thế Chí, đó là hàng xuất gia, còn có hàng tại gia, Đẳng giác Bồ-tát, địa vị của các ngài là cùng một cấp bậc với ngài Quán Âm, ngài Thế Chí, ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền, có 16 vị, 16 Chánh sĩ, tại gia xưng là Chánh sĩ. Những vị Bồ-tát đạt trình độ cao nhất ấy, là tại gia hay xuất gia, thì diệu đức của các ngài, đó là 能莊嚴 “năng trang nghiêm” (có thể trang nghiêm).  Thế giới Cực Lạc là được trang nghiêm, 妙土是所莊嚴,以萬德融成妙土,是謂莊嚴妙土 “Diệu độ thị sở trang nghiêm, dĩ vạn đức dung thành Diệu độ, thị vị trang nghiêm Diệu độ” (cõi nước vi diệu là được trang nghiêm, là dùng vạn đức dung thành cõi nước vi diệu, đó gọi là trang nghiêm Diệu độ).

          Bức tranh phía sau chúng ta là do Cư sĩ Giang Dật Tử vẽ, chúng tôi là đồng học, ông ấy học thơ với thầy Lý, còn tôi học giảng kinh với thầy Lý, chúng tôi là cùng một vị thầy. Hiện nay ông ấy là Họa sĩ lớn đương đại, đã vẽ một bộ Địa Ngục Biến Tướng Đồ, sau khi vẽ xong Địa Ngục Biến Tướng Đồ, chúng tôi cũng đã in lại rất nhiều, vẽ được vô cùng tuyệt vời! Một năm thì vẽ xong, đưa cho tôi xem, sau khi tôi xem xong, tôi nói đây không phải là do ông vẽ, thì ông ấy rất ngạc nhiên. Tôi nói đây là Địa chủ, chúng tôi nói là Thành hoàng, do Thành hoàng cầm bút cho ông vẽ ra. Tại vì sao? Vì số trang lớn như vậy, không có một bút nào là nét bút hỏng, điều ấy không dễ dàng, điều đó đến đâu tìm? Là nét bút như thần, tôi nói do Thành hoàng cầm bút của ông để vẽ. Tôi nói điều này cũng có căn cứ, bức tranh này, trước đây ông ấy nói với tôi, thầy có ý nguyện muốn ông ấy vẽ, ông ấy chưa hưng khởi ý niệm ấy. Tôi là do Thành hoàng đến tìm tôi, Thành hoàng ở quê hương chúng tôi, là Thành hoàng của huyện Lô Giang đến tìm tôi, do dựa thân. Tìm tôi là chuyện gì? Là yêu cầu tôi giúp đỡ ông ấy khôi phục miếu Thành hoàng. Tôi liền nói với ông ấy: việc này khó, chính sách quốc gia, không thể khôi phục miếu thần, chùa Phật, trước đây có thì có thể khôi phục, tôi nói điều này tôi không có cách nào giúp ông. Ông liền nói, tác dụng lớn nhất của miếu Thành hoàng là điện Diêm Vương, Thập Điện Diêm Vương, đó là gì? Là giáo dục nhân quả, ông ấy nói: ngài có thể giúp đỡ vấn đề này không? Lúc đó tôi đúng lúc ở Singapore, tu sửa hàng rào bên ngoài của Cư Sĩ Lâm Singapore, tôi nói có thể, chúng tôi có thể làm thành phù điêu, từng khối từng khối nạm ở trên tường rào, diện tích tường rào đó rất lớn. Tôi vừa đề cập điều này, ông ấy liền nói: vậy thì không bằng vẽ tranh. Tôi nói vẽ tranh thì càng đơn giản rồi, tôi có một người bạn là họa sĩ, điều này tôi có thể làm được. Ông ấy liền bảo tôi vẽ, vẽ tranh, sau khi vẽ ra, muốn tôi tái bản hàng loạt, trước tiên đưa đến quốc gia khác trên toàn thế giới, có đạo tràng Tịnh tông thì tặng tất cả, chúng tôi nghe theo điều này, làm được rồi. Cho nên tôi đến Đài Trung tìm ông ấy, tôi nói: Thành Hoàng huyện Lô Giang quê nhà chúng tôi đến tìm tôi, ông ấy đã đồng ý.

          Vẽ ra bức tranh đó, sau khi vẽ ra, tôi nói tương đối rồi, ông có thể vẽ bức Cực Lạc Thế giới đồ chăng? Thế giới Cực Lạc quá tuyệt diệu, tuyệt diệu trang nghiêm, nên vẽ không ra. Vậy làm thế nào? Thì dùng cách vẽ tranh thủy mặc, cũng không thể thêm màu sắc, chỉ dùng phép vẽ tranh thủy mặc vẽ ra bức tranh này. Ông ấy đưa đến chỗ của tôi, tôi đã in rất nhiều, tôi dùng bức này làm bối cảnh giảng kinh. Trước đây tôi giảng Hoa Nghiêm, bối cảnh là Hoa Nghiêm Tam Thánh, sau này chúng tôi chuyên giảng Tịnh Độ, thì chúng tôi dùng bức tranh đó của ông Dật Tử. Vẽ được đẹp, cũng là đều không có nét bút nào hỏng, thật khó được! Trong thời đại hiện nay, có thể nói nét vẽ của ông ấy là nhân tài bậc nhất. Là Phật tử thuần thành, thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Cho nên đây là vạn đức dung thành cõi nước vi diệu, là trang nghiêm Diệu độ. Cõi nước vi diệu trang nghiêm đó là không cách nào nói ra, dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành, ngay cả hàng phàm phu chúng ta lĩnh hội thì cũng lĩnh hội không tới. Cần có gốc rễ tu hành, chân chánh niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, tôi tin tưởng liền có thể nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, có thể nhìn thấy A Mi Đà Phật.

          Lão Hòa thượng Hải Hiền niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn, ngài dùng bao nhiêu thời gian? Tôi đoán chừng 20 năm. Thọ mạng của ngài vốn dĩ sẽ không dài như vậy, chính là nhiều nhất cũng không quá bảy-tám mươi tuổi, thọ mạng kéo dài là do A Mi Đà Phật giúp ngài kéo dài, nói ngài tu hành tốt, để ngài trụ ở thế gian thêm mấy năm biểu pháp, chính là làm một tấm gương cho người niệm Phật xem, cho người tu Tịnh Độ xem. Cho nên ngày nay chúng ta, bất luận hàng Xuất gia hay Tại gia học Phật, nên lấy ngài làm tấm gương, thì chúng ta mới có thể có thành tựu, chúng ta in hành trạng của ngài thành một quyển sách nhỏ, tên là Lai Phật Tam Thánh Vĩnh Tư Tập, ở phía sau kèm thêm đĩa CD, video về ngài, cần nên xem nhiều, học nhiều, là tấm gương tốt vô cùng khó được. Cũng cho chúng ta [thấy]: những năm đó, đã chịu khổ nhiều như vậy, đã làm một giải đáp, nói rõ con đường mà chúng ta đi không có đi sai lầm, Kinh là chân Kinh, nên không cần hoài nghi, Chú Giải là Chánh tri Chánh kiến, cũng không cần hoài nghi. Chăm chỉ học, nghiêm túc học, thực hiện những điều đã học đến trong cuộc sống, thực hiện đến trong công việc, thực hiện đến trong xử sự đãi người tiếp vật, đó chính là cống hiến của Đệ tử nhà Phật đối với xã hội, đối với giáo dục xã hội, thân hành ngôn giáo, vậy thì đúng rồi. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây.

(Hết tập 218)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A  Mi Đà Phật.