Responsive Menu
Add more content here...

Tập 285 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Giảng lần thứ 4)

Phẩm 19: Thọ Dụng Cụ Túc

Hưởng Thụ Đầy Đủ

Tập 285

Chủ giảng: Lão Hoà Thượng Tịnh Không.

Giảng ngày 23/11/2015

Giảng tại Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông

Chuyển ngữ: Ban phiên dịch Hoa Tạng Huyền Môn

Dịch giả: Vũ Văn Trà

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an toạ.

Mời mọi người cùng tôi Quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn; Quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 690, hàng thứ 4 từ trái sang:

受用具足第十九】 “Thọ Dụng Cụ Túc – Đệ Thập Cửu” (Phẩm 19: Hưởng Thụ Đầy Đủ).

Chúng ta xem tiểu chú của Niệm lão,

本品名受用具足。故所有國人皆形貌端嚴,福德無量,智慧明了,神通自在」。“Bổn phẩm danh Thọ Dụng Cụ Túc. Cố sở hữu quốc nhân giai hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại” (Phẩm này tên là Hưởng Thụ Đầy Đủ, bởi vì tất cả người ở trong nước đều [có] hình dáng dung mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại).

          Hôm qua có đồng học hỏi tôi, họ đối với Thế giới Cực Lạc niềm tin không đủ, nguyện không phát ra được, hỏi tôi phải làm sao? Tôi nói với họ, quý vị trở về nhà, đem Kinh Vô Lượng Thọ niệm 1000 lần, thì quý vị liền tin tưởng thôi, nguyện của quý vị liền phát khởi được, đây là sự thật. Nguyện này vì sao phát không được? Vì tín tâm không đủ. Vì sao niềm tin không đủ? Bởi lý giải chưa đủ, cho nên mới bán tín bán nghi. Đọc 1000 biến, chúng ta là dùng phương pháp mà người xưa dạy bảo chúng ta. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh nói với chúng ta, 「離文字相」“ly văn tự tướng” (lìa tướng văn tự). Lúc chúng ta đọc Kinh phải lìa tướng văn tự, chính là không chấp-trước văn chữ; 「離名字相」“ly danh tự tướng” (lìa tướng danh tự). Phật giảng Kinh đã dùng danh từ thuật ngữ: đều là giả thiết thôi, vậy không được chấp-trước; Điều thứ ba, 「離心緣相」 “ly tâm duyên tướng” (lìa tướng tâm duyên), không nên vọng văn sanh nghĩa, thấy được văn đó thì nghĩ đến ý nghĩa là gì, quý vị nghĩ sai hết rồi, Phật và Bồ-tát giảng Kinh nói pháp không có ý nghĩa.

          Kinh do sao mà giảng ra? Là cảm ứng đạo giao với chúng sanh, chúng sanh có cảm, Phật Bồ-tát tự nhiên có ứng, như vậy mà lưu xuất ra, cho nên Kinh không có ý nghĩa. Chính vì không có ý nghĩa, nên có vô lượng nghĩa. Quý ngài gặp được các căn tánh khác nhau, quý ngài có cách giảng không như nhau, đều giúp chúng sanh được khai-ngộ, giúp chúng sanh sáng tỏ. Đây là từ Tự-tánh hiển lộ những điều diệu dụng! Khác với người thường, phàm phu từ trong học tập mới đạt được, thầy giảng cho chúng ta nghe, từ nơi thầy mà nghe nói, như thế mà truyền thừa. Đó là vọng-tâm truyền, không phải Chân-tâm. Phật Bồ-tát là Chân-tâm, Chân-tâm là không sanh không diệt, Chân-tâm không có ý nghĩa, là vô-vi, khi khởi tác dụng thì không gì không làm. Mặc dù không có ý nghĩa, nhưng khởi tác dụng thì sinh vô lượng nghĩa, khi không khởi tác dụng thì không có ý nghĩa.

          Vì vậy chúng ta đọc sách ngàn lần, nhất định phải biết, đó là tu định, đó không phải tu huệ, là tu định. Hy vọng đọc xong 1000 biến này rồi, thì được định, được niệm Phật tam-muội, định khởi tác dụng là trí huệ, là ý nghĩa như thế, nhất định phải tin tưởng. Người chưa tin phải niệm 1000 biến, dùng tâm chân thành đọc, dùng tâm cung kính đọc, thì sẽ khởi tác dụng này.

          Ở trong phẩm này, nội dung chính là giảng 「受用具足」 “Thọ dụng cụ túc ” (Hưởng thụ đầy đủ), cuộc sống ở Thế giới Cực Lạc, học tập ở Thế giới Cực Lạc, mọi thứ đều không thiếu khuyết. Quả thật những điều cần đến tất cả là: tâm tưởng sự thành, vừa khởi ý niệm thì đã ở ngay trước mặt. Chúng ta đợi chút nữa xem Kinh văn thì biết ngay. Cho nên tất cả Thánh chúng trong nước 「皆」“giai” (đều), từ này rất quan trọng, không phải [một] bộ phận, cũng không phải đa số, mà tất cả người vãng sanh, không có một ngoại lệ nào. Hình dáng, chiều cao, mập gầy, tướng mạo trang nghiêm, hết thảy giống nhau, hình mạo đoan chánh, trang nghiêm.

          「福德無量」“Phước đức vô lượng” (Vô lượng phước đức), tướng thế nào? Phước báo, đức hạnh, vô lượng phước báo, vô lượng đức hạnh. Chúng ta ở thế gian này, phước báo rất hữu hạn, đức hạnh không như nhau, đến Thế giới Cực Lạc liền giống nhau. Vì sao vậy? Bởi quý vị được uy thần Bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, quý vị đạt được rồi, đó không phải là do tu được. Đoan nghiêm, phước đức không phải do tu được. Ở thế gian này là do tu, do đời quá khứ đã tu thành, đời trước lại đời trước nữa, nhiều kiếp tu hành, người có phước báo thật sự ở thế gian này, chúng ta không thấy được người phước báo lớn, vì sao thế? Phước báo lớn thì sanh lên trời, Dục-giới có sáu tầng trời, tầng thấp nhất là trời Tứ Vương, bên trên có trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hoá Lạc, trời Tha Hoá Tự Tại. Mỗi tầng trời phước đức không như nhau, càng đi lên càng lớn, càng cao, cho dù là phước báo của trời Đao Lợi, trong Kinh Phật giảng, chúng ta nghe được rồi, thì đều cảm thấy không thể nghĩ bàn. Huống hồ trời Dạ Ma trở lên! Dạ Ma trở lên là trời không cư, thì không ở trên mặt đất mà ở trên không trung. Trời Tứ Vương ở lưng chừng núi Tu Di, Trời Đao Lợi ở trên đỉnh núi, là trời địa cư, phước báo đều không thể nghĩ bàn. 智慧明了,神通自在“Trí huệ minh liễu, thần thông tự tại” (Trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại), đều đạt được rồi, tất cả những điều này đều là do A Mi Đà Phật gia trì. 

    「如上種種殊勝受用,悉皆具足也」“Như thượng chủng chủng thù thắng thọ dụng, tất giai cụ túc dã” (Đủ loại hưởng thụ thù thắng như trên, tất cả đều đầy đủ). Những hưởng thụ, đãi ngộ này, chúng ta hiện nay nói đãi ngộ, không chia cấp bậc, nhà Phật gọi là phẩm cấp, thượng phẩm, thượng-thượng-phẩm, thượng-trung-phẩm, thượng-hạ-phẩm, đó gọi là đẳng cấp, hạ-hạ-phẩm, hạ-trung-phẩm, hạ-thượng-phẩm, bất luận là cấp bậc nào, hưởng thụ đều viên mãn, không có khác biệt. Đó là điều thù thắng mà 10 phương thế giới không có, những hưởng thụ này ở 10 phương thế giới: thật sự là do chính quý vị tu được, có do quá khứ đã tu và do đời này đã tu được. Nếu có thể tích phước, thì phước báo sẽ tăng thêm, hơn nữa còn kéo dài đến đời sau, đời sau vẫn hưởng không hết. Những sự và lý này, chúng ta đều phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, vì có quan hệ rất lớn với chúng ta.

          Tiếp theo Niệm lão nói, 「是乃總顯正報之身心,依報之勝福」“Thị nãi tổng hiển chánh báo chi thân tâm, y báo chi thắng phước”  (Đây là hiển thị toàn bộ thân tâm của chánh-báo, phước báo thù thắng của y-báo). Thân tâm là chánh-báo, thắng phước là y-báo, chính là cảnh giới sinh hoạt, môi trường học tập của chúng ta. Tất cả đều là 「超世希有」 “siêu thế hy hữu” (hiếm có siêu vượt [tất cả] thế giới), thế là thế giới, bao gồm tất cả thế giới chư Phật, khác biệt rất lớn so với Thế giới Cực Lạc, hưởng thụ ở Thế giới Cực Lạc đó là viên mãn.

          「但本品中列顯福德無量,衣食宮殿」 “Đãn bổn phẩm trung liệt hiển phước đức vô lượng, y thực cung điện” (Chỉ trong phẩm này nêu ra vô lượng phước đức, y phục cung điện). Ăn, mặc, nơi ở cung điện,「悉皆應念現前,無不具足」“Tất giai ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc” (Tất cả đều theo niệm liền hiện, không gì chẳng đầy đủ). Hai câu này quan trọng, chúng ta vừa nghĩ liền hiện ngay, không cần xây dựng, không phải kinh doanh, xây dựng, không cần. Ưa thích điều gì thì hiện điều đó, xứng tâm như ý, tuỳ niệm liền hiện, điều này đi nơi đâu để tìm? Nêu ví dụ Thế giới Cực Lạc, thường thì người ở Thế giới Cực Lạc, không có ý niệm đó, ý niệm ăn đó không có. Những người ấy có ý niệm gì? Những vị trời người vừa vãng sanh này, trời người cõi Phàm-thánh-đồng-cư: có thói quen ăn uống từ rất lâu, đến lúc đó nghĩ lâu rồi chưa ăn cơm, ý nghĩ này vừa động, đồ ăn liền bày ra trước mặt quý vị, quý vị liền được thưởng thức. Nếu thấy đồ ăn bày ở trước mặt, trong tâm nghĩ rằng đây là Thế giới Cực Lạc, thì không cần nữa, thân thể này không cần ăn uống, lập tức liền không có nữa,  không cần cất dọn, tự nhiên liền không có nữa. Chỗ này, quý vị cần làm thật rõ ràng, sáng tỏ, quý vị có thể không đến sao? Sống ở thế giới Ta Bà, dù là ăn mặc, ở, hiện nay còn có đi lại, đi lại bây giờ là xe cộ, phương tiện giao thông, vì bốn sự việc này: cũng đã tạo không biết bao nhiêu nghiệp, mọi thứ đều không đơn giản. Hôm nay đi đâu thì ra cửa có xe, xe tiêu hao năng lượng, họ đang tổn phước, không phải đang tu phước, cũng không phải đang tích phước. Chúng ta đối với y chánh trang nghiêm: đều phải rõ ràng, phải sáng tỏ, tuỳ ý liền hiện, cảnh tuỳ tâm chuyển, tướng do tâm sanh, chứng tỏ khởi tâm động niệm không thể nghĩ bàn. Khởi tâm động niệm là cảm, trong tâm quý vị nghĩ đến những điều đó hiện ra là ứng, cảm ứng, tất cả là cảm ứng.

[20:25]

          Chúng ta xem Kinh văn, từng câu tiếp theo trong Kinh là lời thật. Chỗ này chúng ta nhất định phải biết. Học Phật, Phật là nhất định không có vọng ngữ, từng câu từng chữ trong Kinh điển đều là lời thật, không có một chữ nào gạt người. Bởi vì Kinh Phật gọi là Thánh-ngôn, Thánh nhân nói nào có gạt người chứ? Đoạn này 「能受用」“năng thọ dụng” (có thể hưởng thụ sử dụng). Là người có thể hưởng thụ. Chúng ta xem Kinh văn:

    【復次極樂世界。所有眾生。】 “Phục thứ Cực Lạc thế giới, sở hữu chúng sanh” (Lại nữa tất cả chúng sanh ở Thế giới Cực Lạc).

          Nhấn mạnh chữ 『所有』“sở hữu” (tất cả), đó chính là cấp bậc ở Thế giới Cực Lạc, từ thượng-thượng-phẩm đến hạ-hạ-phẩm, tất cả chúng sanh. Từ mười phương thế giới đến, căn tánh của chúng ta rất khác nhau, trong 48 nguyện đã thấy được, cao nhất có Đẳng-giác Bồ-tát, có Pháp-thân Đại-sĩ, thấp nhất có chúng sanh Địa Ngục. Nguyện lực của A Mi Đà Phật thật lớn! Đối tượng mà Ngài tiếp dẫn, đối tượng được Ngài giúp đỡ thành tựu, từ chúng sanh Địa Ngục đến Đẳng-giác Bồ-tát, tất cả chúng sanh. Chúng sanh Địa Ngục được sanh Thế giới Cực Lạc sao? Được. Vì sao? Bởi đời trước tu hành được không tệ, tu hành rất tốt, lúc mạng sắp hết có ý niệm sai lầm, họ đã đoạ Địa Ngục. Loại tình hình này có thể có, chẳng những có thể có, chúng ta cảm thấy không ít, vì sao vậy? Lúc mạng sắp hết, khi sự việc không như ý, có chút không vui, họ liền đọa đến Địa Ngục, sân hận thì đoạ Địa Ngục. Ý niệm cuối cùng, ý nghĩ sau cùng của người mất, ý niệm cuối cùng một tiếng đó, là niệm A Mi Đà Phật, nhất định được sanh. Một đời đều làm việc xấu, mất rồi nhất định đoạ Địa Ngục, nhưng lúc mạng họ sắp hết, niệm sau cùng là A Mi Đà Phật, thì họ vãng sanh rồi. Người đoạ ở trong Địa Ngục, biết đã sai rồi, hiểu rõ rồi, họ có một niệm tín nguyện trì danh, cũng được vãng sanh.

          Điều kiện của vãng sanh, cũng không phải nói nhất định là ba đường thiện, mà đều bao gồm: Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục. Cho dù bất luận ở đường nào, nhân tố quyết định ở thiện căn, phước đức, nhân duyên. Trong tiểu bản Kinh A Mi Đà nói: 「不可以少善根福德因緣,得生彼國」 “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước đó). Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, thiện căn, phước đức, nhân duyên của họ, không phải tu ở đời này, do trong đời quá khứ tu được, cũng có khi ở trong đời này tu được, không nhất định. Họ đã từng tu qua, lúc mạng sắp hết ý niệm thiện này khởi lên, không nghĩ gì khác mà nghĩ A Mi Đà Phật, mong vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì họ liền vãng sanh. Quý vị xem tiếp điều được nói :

          【或已生。】“Hoặc dĩ sanh” (Hoặc đã sanh). Là người đã vãng sanh.

    【或現生。】  “Hoặc hiện sanh” (Hoặc hiện tại sanh). “Hiện sanh” là hiện tại, nhất định sẽ vãng sanh. Điều kiện vãng sanh phải nhớ kỹ, là tin có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, và có A Mi Đà Phật, chính là tin tưởng có hai điều, một chút nghi ngờ cũng không có, thật tin, là điều kiện thứ nhất; Điều kiện thứ hai là nguyện, tôi hy vọng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, tôi muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, chính là hai điều kiện như vậy. Quý vị có những điều kiện này, Phật liền đến tiếp dẫn quý vị. Đến như công phu niệm Phật sâu hay cạn, lại không liên quan với điều kiện vãng sanh, nhưng đối với quý vị vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, phẩm vị thế nào thì có liên hệ. Công phu niệm Phật tốt, niệm được nhiều thì phẩm vị cao; Niệm được rất ít, thậm chí trong đời, một câu Phật hiệu cũng chưa niệm qua, lúc mạng sắp hết niệm một niệm hai niệm như vậy, được vãng sanh không? Được, sanh đến Thế giới Cực Lạc, vãng sanh hạ-hạ-phẩm ở Phàm-thánh-đồng-cư-độ. mặc dù là hạ-hạ-phẩm, nhưng hưởng thụ ở Thế giới Cực Lạc là bình đẳng, đãi ngộ là bình đẳng, không có khác nhau.

 【或當生。】“Hoặc đương sanh” (Hoặc tương lai sanh). “Đương sanh” là tương lai, sau này có người y theo phương pháp đó tu hành, họ nhất định sẽ vãng sanh, đây là đương lai. Quá khứ, hiện tại, tương lai, đã sanh là quá khứ, đương sanh là tương lai.

          【皆得如是諸妙色身。】 “Giai đắc như thị chư diệu sắc thân” (Đều được các sắc thân vi diệu như vậy). 『如是』“như thị” (như vậy) giống như được nói trong Kinh, quý vị nhất định sẽ đạt được, như Kinh nói: 『妙色身』“diệu sắc thân” (sắc thân vi diệu). Không phải thân xác thịt, thân xác thịt là vật chất, vật chất là cảnh-giới-tướng của A-lại-da, hoặc nói là tướng-phần của bát thức, bát thức có sanh có diệt. Thân đó không thanh tịnh, có ô nhiễm, có vọng tưởng, có tạp niệm, nếu còn có dục vọng, còn có tình chấp, vậy thì trong một đời: họ tạo tội nghiệp nhiều thiện nghiệp ít. Cũng không thể không biết những điều này.

          【形貌端嚴。】  “Hình mạo đoan nghiêm.” (Thân hình tướng mạo đoan nghiêm). Thân hình tướng mạo đoan chánh trang nghiêm.

    【福德無量。智慧明了。神通自在。】“Phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại” (Vô lượng phước đức, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại). Quý vị xem, tiếp theo Niệm lão giải thích tường tận cho chúng ta, mời xem Chú Giải. 「首數句」“Thủ số cú” (Mấy câu đầu). Mấy câu mở đầu của phẩm Kinh này, 「承上品」“thừa thượng phẩm” (tiếp nối phẩm trước), phẩm trên nói: 「中彼土眾生容色微妙」“trung bỉ độ chúng sanh dung sắc vi diệu” (chúng sanh trong cõi nước đó dung sắc vi diệu). Câu tiếp này để giải thích chi tiết hơn: 「故云,所有眾生,過去已往生者,現在生者,將來生者,皆得如是諸妙色身,形貌端嚴」“Cố vân, sở hữu chúng sanh, quá khứ dĩ vãng sanh giả, hiện tại sanh giả, tương lai sanh giả, giai đắc như thị chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm” (Cho nên nói, tất cả chúng sanh, người quá khứ đã vãng sanh, người hiện tại sanh, người tương lai sanh, đều được các thân sắc vi diệu, hình mạo đoan chánh trang nghiêm). Đoan chánh trang nghiêm, hết thảy đều được. Đoan chánh trang nghiêm đến mức độ nào? Chúng ta không cách nào tưởng tượng, phẩm trước có nêu ra mấy ví dụ, 「如是二字,即指上品遠勝第六天王,千萬億倍」“Như thị nhị tự, tức chỉ thượng phẩm viễn thắng đệ lục thiên vương, thiên vạn ức bội” (Hai chữ “như vậy” chỉ sự thù thắng vượt xa vua  trời thứ sau ngàn vạn ức lần [đã nói] ở phẩm trước). Tiếp theo nói: 「顯受用具足」“Hiển thụ dụng cụ túc” (Hiển bày hưởng thụ đầy đủ). 『福德無量』“Phước đức vô lượng” (Vô lượng phước đức). Trong Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: 「由彼界中諸有情類,無有一切身心憂苦,唯有無量清淨喜樂。」 “Do bỉ giới trung chư hữu tình loại, vô hữu nhất thiết thân tâm ưu khổ, duy hữu vô lượng thanh tịnh hỉ lạc” (Bởi các loài hữu tình trong thế giới ấy, tất cả thân tâm không có lo buồn khổ não, chỉ có vô lượng thanh tịnh vui thích). Thế giới đó tốt biết bao! Phải nhớ kỹ, Phật giảng cho chúng ta là thật không phải giả đâu.

          Thân tướng, tướng tốt quang minh. Trời thứ sáu trong Dục-giới, là có thân tướng thù thắng nhất trong sáu đường luân hồi, phước báo rất lớn. Vua trời thứ sáu là Ma vương Ba Tuần, chính là ông ấy. Ông ấy tu phước báo lớn như vậy, ông không thoát được khỏi lục đạo luân hồi, cũng không cách nào lên trời Sắc-giới. Phước báo hết rồi, tuổi thọ hết rồi, ông không thể thăng lên, vậy thì nhất định đoạ lạc xuống. Đoạ đến nơi nào vậy? Bởi vì ông chướng ngại Phật Pháp nên khẳng định ở Địa Ngục. Chúng ta phải biết điều này, ông không có khuyết điểm gì khác. Vì sao ông chướng ngại Phật Pháp? Bởi người học Phật tu thành công rồi, sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi, ông thấy được thì trong tâm khó chịu, tại vì lục đạo, như Dục-giới này của chúng ta, ông là lớn nhất, là chủ quản, là tổng thống, người chúng ta ở đây rời bỏ ông, đi đến thế giới khác, ông cảm thấy dân số của mình ít đi, ông liền rất không thoải mái, muốn dùng mọi cách chướng ngại. Quý vị thật sự có sức định, quý vị có trí huệ, thì không chướng ngại được,  ông cũng bội phục quý vị, thậm chí ông còn đến hộ pháp cho quý vị. Là giống như đối với đức Thích Ca Mâu Ni Phật vậy, điều này chúng ta đã thấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trong tám tướng thành đạo có hàng ma, vậy ma là ai? Chính là Ma vương Ba Tuần vua trời thứ sáu. Ông chướng ngại đức Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật không bị ông lay động, bị uy hiếp, dụ dỗ, vẫn như như bất động, ông không có cách nào. Sau này, ông muốn hộ trì đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trở thành hộ pháp. Nhưng mà tập khí rất khó sửa, mặc dù hộ pháp, nhưng gặp được những người không dụng công, lười biếng, vẫn còn tình chấp, còn phiền não, ông sẽ nhiễu loạn những người đó, khiến quý vị không thể được định, không thể khai trí huệ, không được vãng sanh, ông vẫn làm những điều này.

          Đây là chúng ta đối với xã hội trước mắt này, quá nhiều dụ hoặc, quá phức tạp rồi, đều khiến cho quý vị khởi tâm động niệm, đều là bảo quý vị làm việc ác. Đặc biệt là TV, Internet, trong đó truyền bá điều gì? Sắc tình, trò trơi chiến tranh, trờ chơi giết người, tuyên truyền những thứ này. Các bạn nhỏ thanh niên, tất cả say mê ở trong đó, cha mẹ không có cách nào dạy, thầy cô không cách gì dạy học sinh, vì nguyên nhân gì? Bởi ma đang nhiễu loạn. Xã hội này lơ là giáo dục cắm rễ rồi, biến thành tình hình này. Nước ta mấy nghìn năm nay, ngay cả đến thời đại cuối của triều Thanh, xã hội cũng coi trọng giáo dục. Đến thời điểm nào? Có thể nói mãi cho đến: trước khi Nhật Bản xâm lược Trung Hoa. Trước khi chiến tranh đó kết thúc, độ tuổi chúng tôi này đã gặp phải, ở trong khoảng thời gian chạy nạn, người Nhật Bản đuổi ngay phía sau, chúng tôi chạy ngay đằng trước. Chúng tôi đã chạy qua 10 tỉnh, nông dân lúc đó, người dân ở quê, rất là thật thà, vô cùng hiền hậu, đối với những người chạy nạn chúng tôi: đều toàn tâm toàn lực chăm sóc. Không có mặc thì đưa y phục cho quý vị, không có thức ăn thì đưa lương thực cho quý vị, giúp đỡ quý vị chạy trốn đến hậu phương. Nếp sống xã hội còn rất tốt, so với ngày nay hoàn toàn không như nhau, người bây giờ tự tư tự lợi, không còn luân thường nữa. Ở thời đại đó chúng tôi thấy được luân thường, thấy được Tứ-duy Bát-đức, chúng tôi chính mình cũng giữ đúng, vẫn còn một chút nền tảng tính cách như vậy.

          Hiện tại, trẻ nhỏ sinh ra sau thế chiến thứ hai không có rồi, họ chưa thấy qua, chưa từng nghe nói qua, điều họ thấy được, nghe được: đều là những phương tiện truyền thông hiện đại hoá này. Điều mà truyền thông này truyền bá: toàn là mặt trái, những mặt tốt không có nữa, cho nên hiện tại xã hội này, quý vị giảng luân lý đạo đức cho người trẻ tuổi, họ không tin, họ không thể tiếp nhận, từ lúc họ sinh ra, điều họ thấy, họ nghe, họ biết là mặt trái. Hiện nay làm cha mẹ: cũng không hiểu được hiếu thuận cha mẹ, con cái xem thấy cha mẹ họ, quý vị đối với cha mẹ của quý vị không hiếu thuận, làm sao con cái có thể hiếu thảo với quý vị được? Không có đạo lý này, kiểu dáng trong mỗi một động thái của quý vị: con cái đều học được rồi. Thầy không làm tấm gương tốt cho học sinh, trong suy nghĩ của học sinh, làm sao có thể tôn sư trọng đạo? Khái niệm cũng không có. Thế giới này thật sự hỗn loạn chẳng ra thể thống gì!

          Văn hoá nước ta hơn 5000 năm, tóm lại là gì? Chính là Ngũ-luân, Ngũ-thường, Tứ-duy, Bát-đức, đây là cội rễ của văn hoá nước ta, gốc lớn rễ lớn. Nhổ cả gốc rồi, điều này thật đáng sợ! Cũng may sách xưa vẫn còn, những sách cổ này chính là Tứ Khố Toàn Thư mà: Hoàng đế Càn Long biên soạn, đem những tác phẩm hay: trong mỗi triều đại nước ta từ xưa đến nay, chỉnh lý lại một lần nữa, tuyển chọn tinh hoa, mà mỗi người ở trong đời này, cần phải nên học tập, soạn thành một bộ Tùng thư, gọi là Tứ Khố Toàn Thư. Viết bằng Hán cổ, viết bằng chữ Hán thể văn-ngôn, Đài Loan, Đại Lục cũng in ấn xuất bản, những sách quý này không thể thất truyền. Nhưng mà thế nào? Không có người đọc, vậy thì vẫn là uổng phí. Ai có năng lực đọc sách đó, ai có thể đem những sách cổ này giảng cho mọi người nghe một chút? Trung Hoa vẫn còn có nhiều thứ tốt như thế! Có thể đem những thể văn-ngôn này phiên dịch thành văn bạch thoại, lưu thông rộng khắp, lại đem những điều này, từ văn bạch thoại dịch thành văn ngoại ngữ, khiến nhân dân toàn thế giới đều có thể hưởng lợi ích, người thế giới này có thể quay đầu, thế giới này sẽ hình thành thái bình thịnh thế. Sự hưng thịnh này không phải một đất nước, không phải cục bộ, mà là toàn bộ trái đất, thái bình thịnh thế trên toàn thể địa cầu. Có thể thực hiện được hay không? Có thể. Nhất định cần chữ Hán, thể văn cổ, điều này quan trọng! Ngày nay người trẻ tuổi: thật sự có trí huệ, có phước báo, người trẻ tuổi như thế có đầy đủ phước huệ, hãy phát tâm lớn, Phật giáo gọi là phát tâm Bồ-đề, tâm lớn đó là thế nào? Cứu Văn hoá truyền thống, chính là cứu thể văn cổ, cứu Tứ Khố Toàn Thư. Chúng ta thật sự nỗ lực học tập, sau khi học được giỏi, đem truyền bá toàn thế giới.

          Chủ tịch Tập người lãnh đạo nước ta, chúng ta thấy ông là sau khi nhận chức Chủ tịch, khoảng thời gian này, ông liền thúc đẩy, là việc tốt! Có thể thúc đẩy Văn hoá truyền thống, là thật sự cứu quốc gia, cứu dân tộc, cứu toàn thế giới, cứu toàn nhân loại, là việc tốt. Thế nhưng cần nhiều thầy cô, thầy cô Hán học, làm thầy cô Hán học là chính mình thực hành, hạng người này thật quan trọng! Người như thế càng nhiều càng tốt, cả thế giới cần họ, cần thầy cô Hán học. Cho nên ngày nay phải lấy: bồi dưỡng thầy cô Hán học đặt ở hàng đầu, đây là việc lớn hàng đầu, việc gì cũng không quan trọng bằng.

          Phổ biến truyền bá Hán học, động loạn của xã hội liền có thể ngừng lại, có thể hoá giải tai nạn trên địa cầu, xã hội an định rồi, nhân dân mới có thể hưởng phước, mới có thể sống một cuộc sống bình thường. Cuộc sống bình thường chính là: Ngũ-luân, Ngũ-thường, Tứ-duy, Bát-đức, toàn bộ đã thực hành, mỗi cá nhân đều có thể vâng giữ, mỗi người đều tin tưởng, không nghi ngờ, thì thế giới thái bình. Vì vậy Tứ Khố là bảo bối, là bảo vật thật sự, có thể giúp mỗi người thân tâm khoẻ mạnh, giúp quý vị thật sự hưởng phước, hưởng thụ hạnh phúc vui vẻ. Vì sao? Như được nói trong Kinh: quý vị「福德無量,智慧明了,神通自在」 “Phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại” (Vô lượng phước đức, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại), đời người như vậy tốt biết bao! Chúng ta ngày nay vì cá nhân truy cầu, thì truy cầu không được, vì người toàn thế giới truy cầu thì truy cầu được. Chúng ta hy sinh chính mình một đời này, thành tựu truyền cho hậu thế, truyền cho đời sau, thành tựu thế hệ tiếp nối, quý vị nói có đáng giá hay không?

          Trong Kinh nói rất hay, Kinh Xưng Tán Tịnh Độ, đây là A Mi Đà Kinh do: Đại sư Huyền Trang phiên dịch, trong đây có một số câu Kinh văn, 「由彼界中諸有情類」“Do bỉ giới trung chư hữu tình loại” (Bởi các loài hữu tình trong thế giới đó). “Bỉ giới” chính là Thế giới Cực Lạc, người ở mười phương thế giới vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, sau khi đến Thế giới Cực Lạc, không có hết thảy thân tâm ưu lo khổ não, không có việc lo lắng, không có việc khổ não, đó là điều chúng ta muốn truy cầu, chúng ta hướng tới. 「唯有無量清淨喜樂」“Duy hữu vô lượng thanh tịnh hỉ lạc” (Chỉ có vô lượng thanh tịnh vui thích), thân tâm thanh tịnh không nhiễm bụi trần, vui vẻ, hạnh phúc, pháp hỉ sung mãn. Tiếp theo trích dẫn: 「本經《決證極果品》“Bổn Kinh Quyết Chứng Cực Quả Phẩm” (Phẩm Quyết Chứng Cực Quả của Kinh này), trong đó có câu nói: 唯受清淨最上快樂」“Duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc” (Chỉ hưởng thụ sự hạnh phúc thanh tịnh cao nhất). Chính là người của Thế giới Cực Lạc, cư dân của Thế giới Cực Lạc, quý ngài chỉ có hưởng thụ sự hạnh phúc thanh tịnh cao nhất. Hạnh phúc này chúng ta không cách nào tưởng tượng được, nghĩ không đến, cũng nói không ra, đi đến nơi đó thì quý vị sáng tỏ thôi.

          Tiếp đó, chúng ta xem phần sau, tiếp tục nói: 「是顯福德無量也。智慧明了。此乃光明慧辯願之所攝,願曰成就一切智慧」“Thị hiển phước đức vô lượng dã, trí huệ minh liễu. Thử nãi quang minh huệ biện nguyện chi sở nhiếp, nguyện viết thành tựu nhất thiết trí huệ” (Là hiển bày vô lượng phước đức vậy, trí huệ sáng suốt. Đây là được trợ giúp bởi nguyện quang minh trí huệ biện tài, nguyện này gọi là thành tựu tất cả trí huệ). Đây là sinh đến Thế giới Cực Lạc, được Bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, không tốn sức, thậm chí nói rằng không cần phải học, rất tự nhiên mà thành tựu. Sanh đến Thế giới Cực Lạc là hoa sen hoá sanh, quý ngài không phải là thai sanh, quý ngài không phải từ nhỏ dần dần lớn lên, không phải vậy, là hoá sanh. Một khi đến Thế giới Cực Lạc, hoa sen vừa mới nở, quý vị ở trong hoa sen đi ra, thân tướng trang nghiêm, cao lớn không khác với A Mi Đà Phật, thân tướng của A Mi Đà Phật chính là: hình dáng của mỗi vị vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc. Mỗi một người đều giống như vậy, chúng ta liền sẽ nghi ngờ, vị nào là A Mi Đà Phật? Tưởng chừng không phân-biệt được. May là quý vị có điều gì? Quý vị có trí huệ, có thần thông, sẽ không nhận lầm. Hơn nữa ở nơi đó có túc-mạng-thông, biết được chính mình, biết được tất cả đời đời kiếp kiếp của mình, mỗi người quý vị đi quán xét tất cả quý ngài, quý vị cũng biết quá khứ đời đời kiếp của quý ngài, đó gọi là túc-mạng-thông. Sáu loại thần thông này đầy đủ, do trí huệ sáng suốt. 「福德無量,智慧明了」 “Phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu” (Vô lượng phước đức, trí huệ sáng suốt). Tám chữ này, tôi tin rằng mỗi đồng tu học Phật, đều hy vọng nhanh đạt được.

          Chúng ta ở thế gian này phải tu, làm sao tu vô lượng phước đức, trí huệ sáng tỏ? Ngay ở trong bộ Kinh này, không phải đi tìm rất nhiều, trong bộ Kinh này có viên mãn vô lượng phước đức, có trí huệ sáng suốt viên mãn. Chúng ta nghiêm túc tuyển chọn pháp môn Tịnh-tông, chọn lựa bộ bản Hội tập Kinh Vô Lượng Thọ này, chọn ra bộ Chú Giải này: của Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là đủ rồi, cả đời đều không nên thay đổi. Tu định, trì giới tu định, giới và định đều ở trong đọc tụng. Có không ít đồng tu, mỗi ngày đem bộ Kinh này, niệm 10 biến từ đầu đến cuối, đại khái cần xấp xỉ 10 giờ, ngoài lúc đọc Kinh ra thì niệm Phật, niệm câu Phật hiệu này. Phật hiệu không gián đoạn, mỗi ngày niệm Kinh 10 lần không gián đoạn, khoảng 5 năm là quý vị đã có tin tức, 10 năm thì thành công rồi. Thành công là thế nào? Nhất định đã nắm chắc vãng sanh, buông xuống tất cả thế gian này rồi. Hơn nữa vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, có thể tuỳ theo ý muốn, tôi muốn bây giờ đi, thì liền đi được ngay, muốn ở nơi đây thêm hai năm cũng không trở ngại gì. Hai năm này, nhất định sẽ không tiếp nhận quấy nhiễu của hoàn cảnh bên ngoài, trong tâm như như không động, chính là ngoại trừ Phật hiệu ra điều gì cũng không có, đó là chúng ta hiện nay, cũng vô lượng phước đức, trí huệ sáng suốt.

          Chúng ta lại xem tiếp, Niệm lão trích dẫn Phẩm Bồ Tát Tu Trì. 「又本經《菩薩修持品》謂彼國一切菩薩,諸佛密藏,究竟明了」“Hựu bổn Kinh Bồ Tát Tu Trì Phẩm vị bỉ quốc nhất thiết Bồ-tát, chư Phật mật-tạng, cứu cánh minh liễu” (Lại trong  phẩm Bồ Tát Tu Trì của Kinh này nói: tất cả Bồ-tát ở cõi nước đó hiểu rõ rốt ráo mật-tạng của chư Phật). Điều này quá hiếm có! Vì vậy bộ Kinh này, tất cả chư Phật, không phải mỗi đức Thích Ca Mâu Ni Phật, mà tất cả chư Phật đều nói: bộ Kinh này là pháp khó tin, xem rồi không thể tin. Mật-tạng của chư Phật là gì? Là nói quả đức mà tất cả chư Phật chứng đắc, không phải cục bộ, chẳng phải phần nhỏ, mà quý vị hoàn toàn hiểu rõ, hiểu rõ cứu cánh. Điều này là thế nào? Cảnh giới đó chính là đại-triệt-đại-ngộ, minh-tâm-kiến-tánh của Thiền tông. Chúng ta muốn hỏi, mọi người biết được trong Thiền tông, Đại sư Huệ Năng thời Đường đã khai-ngộ. Đại sư Huệ Năng không biết chữ, chưa từng đi học, trước khi xuất gia là tiều phu đốn củi. Nghề này bây giờ không còn nữa, thời điểm kháng chiến vẫn còn. Ở nông thôn trẻ nhỏ lên núi đốn củi, sau khi chẻ củi lại gánh vào trong thành thị để bán, gọi là tiều phu. Vì thời điểm đó trong thành, không có gas, không có nước máy, còn có bán nước nữa, gánh từng thùng nước một vào trong thành thị để bán. Đây đều là rất khổ, rất vất vả, tiền kiếm được rất ít, lấy tiền này để nuôi gia đình. Đại sư Huệ Năng là tiều phu, nhưng ngài đã khai-ngộ, sau khi ngộ rồi, ngài thật sự giảng bộ Kinh mà chưa có đọc qua, ngài cũng chưa nghe qua một bộ Kinh nào từ đầu đến cuối, chưa từng. Người ta hỏi ngài, đều là những câu trong Kinh văn, họ không hiểu, nên đọc cho ngài nghe, thỉnh ngài khai thị. Kinh nào cũng giảng được, không có chướng ngại.  Chúng ta thấy được rồi, đây là sự thật không phải giả.

[1:00:10]

          Đã đến Thế giới Cực Lạc thì những Bồ-tát đó: tiến vào giảng đường của A Mi Đà Phật, được Bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật gia trì, như hiện nay chúng ta nói là từ trường, quý vị vào được từ tường của Ngài, quý vị liền đạt được sự gia trì của Ngài. Gia trì như nào? Quý vị liền hiểu rõ, trí huệ của quý vị, sáng tỏ đối với vũ trụ vạn hữu, bằng với Pháp-thân Bồ-tát, chính là Bồ-tát minh-tâm-kiến-tánh, đại-triệt-đại-ngộ, quý vị bình đẳng với các ngài. Điều đó không phải là dựa vào chính mình tu được, mà đó là nhờ vào Phật lực gia trì, Phật ở Thế giới Cực Lạc thật sự gia trì thêm. Một khi gia trì, thì trí huệ, thần thông, đạo lực của quý vị: không khác biệt nhiều với A Mi Đà Phật, đây là tự nhiên khởi tác dụng. Khởi tác dụng gì? Thấy được A Mi Đà Phật, phân thân vô lượng vô biên, đến 10 phương cõi Phật để tiếp dẫn người vãng sanh, Phật là hoá thân để tiếp dẫn. Những vị này thấy được hoá thân của Phật: đến thế giới 10 phương, chính mình cũng học theo, giống như là trẻ nhỏ bắt chước theo người lớn vậy, quý ngài cũng hoá vô lượng vô biên thân, để làm gì? Muốn đến thế giới 10 phương để đi lễ Phật, lạy Phật cúng dường tu phước, nghe Phật giảng Kinh thuyết Pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Thân thật của chính mình, là bản thân, bản thân ở trong giảng đường không động, Phật thuyết Pháp ở đâu, quý ngài cũng ở đó nghe pháp không dời, còn phân thân thì đi khắp rồi.

          Vậy chúng ta muốn hỏi, những phân thân này của Bồ-tát: có theo đến địa cầu của chúng ta không? Có. Vì sao quý ngài không đến chăm sóc chúng ta? Quý ngài có muốn đến hay không? Muốn đến. Có năng lực đến hay không? Có năng lực đến. Vì sao lại không đến? Bởi chúng ta tạo nghiệp quá nhiều, nghiệp chướng ngăn lại, không phải quý ngài không đến mà tại có nghiệp chướng ngăn lại. Chúng ta đem nghiệp chướng tiêu trừ, quý vị liền thấy được ngay, thật đó, không phải giả đâu. Vì vậy tôi khuyên quý vị, quý vị muốn có tín tâm, muốn không có nghi ngờ, thì quý vị chăm chỉ niệm bộ Kinh này 1000 lần, quý vị liền tin tưởng thôi, quý vị ước muốn đi ngay bây giờ; Nhưng hiện nay vẫn chưa đi được, đều là do nghiệp chướng. Nghiệp chướng phải làm sao? Buông xuống thì được, quý vị hiện tại buông xuống không được, chịu buông xuống thì nghiệp chướng không còn nữa, nghiệp chướng không phải thật là giả mà, từ vọng tưởng mà sinh. Những ý nghĩa này đều là trí huệ sáng tỏ.

          「又明者,明明白白。了者,了了分明。是為明了」“Hựu minh giả, minh minh bạch bạch. Liễu giả, liễu liễu phân minh. Thị vi minh liễu” (Lại chữ “minh” là rất sáng tỏ, chữ “liễu” là rõ ràng phân minh. Đó là minh liễu). Phải đọc Kinh, ngày ngày phải đặt Kinh ở trước mặt nghiên cứu thảo luận, mọi người ở cùng nhau cộng tu, cùng nhau chia sẻ, là việt tốt! Khó được! Gặp được thật là không dễ. Thân người khó được, Phật Pháp khó được nghe, khó gặp, khó nghe, mà chúng ta đều có cơ duyên gặp được rồi, điều này thật may mắn làm sao! Đây là nguyên nhân gì? Do tích luỹ phước báo trong đời quá khứ, trong Tiểu bản nói: 「不可以少善根福德因緣,得生彼國」“Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước đó). Thiện căn, phước đức, nhân duyên này của chúng ta, do tu được trong đời quá khứ, ngày nay mới có thể gặp được; Trong đời quá khứ không tu thiện căn phước đức nhân duyên, thì không gặp được, gặp được rồi cũng nghe không vào, không sanh tâm ưa thích. Cho nên chúng ta từ chỗ này quan sát, phải suy nghĩ, quá khứ đời đời kiếp kiếp tu pháp môn này, đời này lại gặp được, đời này làm rõ ràng, làm minh bạch rồi, không vãng sanh không được.

[1:06:27]

          Trong Mật giáo nói: 「如實知自心」 “Như thật tri tự tâm” (Nếu thật biết tâm mình), đây là ý nghĩa rốt ráo sáng tỏ. Rốt ráo sáng tỏ là như thật, thật là thật tướng, biết được tâm mình, tâm mình chính là Tự-tánh, gọi là Chân-tâm, đó không phải là vọng-tâm. Như thật tri tự tâm, đây là trong Mật-giáo giảng, Thiền-tông giảng là minh-tâm-kiến-tánh. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta mà thị hiện, 30 tuổi buông xuống việc cầu học, Ngài 19 tuổi buông xả gia đình, từ bỏ ngôi vua, xuất gia tu hành. Ngài là tầng lớp tri thức, Ngài đều học qua tất cả Tôn giáo của Ấn Độ, Triết học Ấn Độ cũng đạt đến đỉnh cao, Ngài cũng học qua, sau cùng Ngài cho rằng: điều này không giải quyết được vấn đề. Vấn đề của Ngài là gì? Chúng sanh khổ, giúp chúng sanh lìa khổ được vui, lìa khổ phải lìa rốt ráo khổ, rốt ráo khổ là thế nào? Là sáu đường luân hồi, là 10  Pháp giới, đây là rốt ráo khổ; Rốt ráo vui đó là Thế giới Cực Lạc. Giúp chúng ta lìa khổ rốt ráo, được vui rốt ráo. Vậy chúng ta chính mình phải chịu buông xuống rốt ráo khổ, phải xả được, nếu chúng ta đối với rốt ráo khổ không chịu buông xuống, thì không đến được Thế giới Cực Lạc. Chẳng những phải buông xuống sáu đường luân hồi, mà còn phải buông xuống  Pháp giới Bốn Thánh, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát đều không khởi tâm động niệm, vượt qua các  Pháp giới đó, vượt khỏi 10  Pháp giới thì vào Nhất-chân  Pháp giới. Thế giới Tây Phương Cực Lạc: là một hoàn cảnh như thế, chúng ta ở đó liền có thể siêu vượt nhân gian, bởi vì đó là vượt ngang, không phải ra theo chiều thẳng đứng. Ở cõi người có thể trực tiếp: vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, không cần đi qua cõi trời, không cần đi qua 10  Pháp giới, trực tiếp liền đến. Điều kiện chính là quý vị phải thật sự tin tưởng, quý vị không được nghi ngờ, thật tin thì thật thành tựu. Do đó 「智慧明了」 “trí huệ minh liễu” (trí huệ sáng tỏ), bốn chữ  “sáng tỏ rốt ráo” này hay.

          「又照見五蘊皆空,亦是智慧明了也」“Hựu chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, diệc thị trí huệ minh liễu dã” (Lại thấy rõ năm uẩn đều không, cũng là trí huệ sáng suốt), không phải trí huệ sáng tỏ, thì không thể quán chiếu ngũ-uẩn đều không. Sự thấy này lại thêm một chữ “chiếu”, “chiếu” là gì? Chiếu sáng, hiểu rõ, không mê hoặc. Năm uẩn là thế nào? Năm uẩn là ba loại huyền bí trong vũ trụ. Vũ trụ làm sao mà có? Là do ngũ-uẩn tạo thành. Ngũ-uẩn là đơn vị vật chất cơ bản, cũng là căn nguyên của ý niệm. Nhà khoa học hiện đại: chia vũ trụ thành hai loại, một là vũ trụ vật chất, một là vũ trụ tinh thần, tinh thần là Tâm lý học, vật chất là Vật lý học, chính là tách biệt Tâm lý học và Vật lý học. Nhà khoa học Cơ học lượng tử hiện nay: đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, đó là nguyên nhân của khoa học phát triển chậm chạp, vì làm sai rồi, quan niệm cơ bản đã sai, không thể chia tâm và vật ra, vì là một thể mà.

          Vật chất này, năm uẩn là nói vật chất, vật chất từ đâu mà đến? Vật chất từ ý niệm mà sanh, ý niệm là năng sanh, vật chất là sở sanh, năng sở là một không phải hai. Trong năm uẩn, sắc thọ tưởng hành thức, thứ nhất sắc chính là vật chất, thọ tưởng hành thức là tâm, thọ là cảm thọ của quý vị; Tưởng là tư tưởng; Hành chính là sanh diệt không ngừng, niệm trước diệt, niệm sau liền sanh, sẽ không ngừng nên gọi đó là hành; Thức là căn bản, là A-lại-da-thức. A-lại-da-thức thì giống như một kho tàng vậy, tất cả mọi việc của chúng ta: đều lưu lại chủng-tử ở trong A-lại-da-thức, nên gọi là chủng-tử thức. Đó là thế nào? Là như một nhà kho vậy. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều có ghi lại, ghi lại đó là ở trong A-lại-da-thức, như kho hồ sơ vậy, cũng như kho tư liệu. Đời đời kiếp kiếp, vô lượng kiếp trước, vô lượng kiếp sau, kho dữ liệu của quý vị đều tra được hết, tất cả đều có.

          Trong Kinh Phật không có đem chia ra, đây là nói năm uẩn, năm uẩn chính là Tâm lý và Vật lý, hoàn toàn là một thể. Điều này cao minh hơn khoa học, khoa học gặp chướng ngại còn Phật không có chướng ngại, Phật biết năm uẩn là một không phải hai. Mà còn như thế nào? Đều là Không, ý niệm không thể được, vật chất cũng không thể được. Vì sao lại không được? Đó là một ảo tướng của sai lầm, năm uẩn không phải là thật, không có thật thể, năm uẩn không có thực thể, là huyễn tướng. Đó là tướng ảo, ngày nay nhà Cơ học lượng tử: làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi. Tuy vật chất đã rõ ràng, còn ý niệm từ đâu đến? Tại sao lại có ý niệm? Điều này vẫn chưa làm rõ ràng. Chúng ta tin rằng, khoa học cùng lắm hai, ba mươi năm nữa, khẳng định sẽ làm sáng tỏ. Sau khi làm sáng tỏ điều này, nhà khoa học toàn thế giới đã khẳng định rồi, thì Phật Pháp Đại-thừa là khoa học, hơn nữa là khoa học rốt ráo viên mãn, mới thật sự giải quyết vấn đề.

          Giải quyết vấn đề không ở bên ngoài, mà ở trong tâm, trong ý niệm, tất cả hiện tượng vật chất do ý niệm sinh ra. Ý niệm điều khiển vật chất, đó là nhà Cơ học lượng tử ngày nay: đưa ra dùng tâm mà điều khiển vật, dùng ý nghĩ của chúng ta điều khiển vật chất. Nói được thâm sâu nhất là: Tiến sĩ Braden của nước Mĩ. Chính là nhà Cơ học lượng tử, năm 2011, một số nhà khoa học hàng đầu trên thế giới: mở hội nghị tại Sydney. Thời gian đó đúng lúc tôi ở Hồng Kông, thiệp mời của họ: gửi vào Học viện Châu Úc của chúng tôi, gửi cho tôi, thỉnh mời tôi. Tôi không đi được nên tôi cử đi tám vị đồng học, hai ngày hội nghị đó, đến nghe họ một chút. Tám vị đồng học đó làm báo cáo cho tôi, hội nghị ngày thứ nhất, là họ báo đối với: những nghiên cứu khoa học này, trao đổi tâm đắc; Chuyên đề thảo luận ngày thứ hai, đó là thảm họa Maya năm 2012, là bàn về vấn đề này. Ông Braden làm tổng kết, đây là nhà Cơ học lượng tử của nước Mỹ, ông nói giải quyết vấn đề thảm hoạ không khó, chỉ cần người dân trên địa cầu, thật sự có thể: 「棄惡揚善、改邪歸正、端正心念」“Khí ác dương thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm” (Bỏ ác dương thiện, cải tà quy chánh, đoan chánh tâm niệm), thảm hoạ này tự nhiên sẽ tiêu trừ. Chúng tôi hiểu những gì ông ấy nói, cũng giống như trong Kinh Phật giảng vậy.

          Chính thân thể chúng ta có bệnh, nhất định là thân thể quý vị: có rất nhiều thứ không buông xuống được, nếu quý vị buông xuống rồi thì không có bệnh. Buông xuống thế nào? Đừng quan tâm đến nó nữa, làm thế nào? Hãy niệm Phật thật tốt, một lòng cầu sanh Tây Phương, đem bệnh khổ trên thân, bệnh đau toàn bộ quên đi, bệnh liền không còn nữa. Rất nhiều trường hợp, trường hợp nổi bật nhất: chính là Tiểu viện Sơn Tây trước đây ít năm, có hơn 40 người bệnh ung thư, hơn 40 người, bệnh viện nói với họ, thời gian sống: chỉ còn một đến ba tháng, bảo họ về nhà đi, không có cách nào cứu được. Sau khi những người này về nhà, đều là tín đồ Phật giáo, nhất tâm nhất ý niệm Phật, đã niệm hơn một tháng, thân thể càng niệm càng khoẻ, đi kiểm tra lại, không còn bệnh, điều này đã truyền ra. Các vị dùng thứ gì để chữa được vậy? Nói cho chúng tôi với, không có, chúng tôi chỉ niệm Phật. Chúng tôi biết tuổi thọ còn rất ngắn, đối với thế gian này không có lưu luyến nữa, cũng không tham tài, cũng không lo lắng điều gì, vì sao? Tới số rồi, tuổi thọ sắp hết, nên họ đã thật sự buông xuống. Nếu chúng ta có loại ý niệm đó, tôi qua hai tháng nữa thì phải chết rồi, quý vị suy nghĩ xem, quý vị còn điều gì không buông được chứ? Chịu buông xuống, buông xuống thì không chết, bệnh liền khoẻ thôi.

          Họ viết ra báo cáo tường tận, chứng minh Phật Pháp nói là thật, dùng điều gì trị bệnh? Dùng điều gì hoá giải tai nạn? Một trái tim thiện, không có ý nghĩ xấu xa. Tâm thiện nhất là gì? Tâm thiện nhất là niệm A Mi Đà Phật, không có gì thiện hơn tâm này. Niệm Phật quá tốt! Niệm Phật có thể tiêu tai, niệm Phật có thể trị bệnh, niệm Phật có thể miễn nạn, sao lại không niệm Phật chứ! Vì sao? Đối với pháp môn niệm Phật chưa hiểu rõ, còn có nghi ngờ, sự việc là như thế đó. Nếu không có hoài nghi, thì quý vị thật thà niệm là được rồi. Buông xuống thật sự, phải buông được tất cả, điều đó mới thật có tác dụng, bằng không thì không có hiệu quả, vậy mới có thể thấy rõ năm uẩn đều không.

          Hiện nay chúng ta hiểu được năm uẩn rồi, nhà khoa học dùng là Neutrino, trong Phật giáo gọi là cực-vi-sắc, sắc chính là hiện tượng vật chất, Phật Pháp dùng sắc đại biểu cho vật chất, vật chất này là nhỏ nhất, chính là đơn vị vật chất nhỏ nhất, không thể phá vỡ nữa, nếu lại phá vỡ vật chất đó thì không có nữa. Nhà khoa học tìm được những hạt này, đem chúng phá vỡ thì không thấy vật chất nữa, thấy được điều gì? Thấy được là hiện tượng sóng dao động của ý niệm. Mới chợt hiểu ra, vật chất từ đâu đến? Là do ý niệm biến hiện ra. Điều này trong Kinh Phật nói rất nhiều, tướng do tâm sanh, cảnh tuỳ tâm chuyển, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, đó đều do đức Phật nói, đều là nói những vấn đề này. Được nhà khoa học chứng minh rồi, Phật nói là sự thật không phải là giả, thật sự chiếu kiến ngũ-uẩn giai không.

          Chữ “chiếu” trong Phật Pháp là dùng trí huệ “chiếu”, “chiếu” của khoa học là dùng thiết bị “chiếu”, đó là khác nhau. Họ dùng máy móc tinh vi, để thấy rõ, máy móc “chiếu” thấy rõ rồi, giống với điều Phật đã nói, họ chính mình không được lợi ích, vì chưa buông xuống! Cho nên họ vẫn còn nghiệp báo, vẫn còn chịu nghiệp báo do họ không buông xuống. Phật Bồ-tát đã nhìn thấu, đó là công phu, là sức định, công phu thật sự, khi ở trong định thấy được chân tướng sự thật, Quý ngài hưởng thụ được. Hưởng thụ này là vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, vô lượng trí huệ, bởi các ngài đạt được rồi. Cho nên theo sau các ngài là có: trí huệ sáng tỏ, thần thông tự tại. Nhà khoa học không đạt được thần thông tự tại, trí tuệ thấy rõ của họ: cũng không phải từ trong Tự-tánh biết tất cả, họ vẫn là từ các thí nghiệm tương tự, từ trong đây mà thấy được, thấy được chân tướng sự thật. Không giống Phật Pháp, Phật Pháp là đọc sách ngàn biến, tự thấy nghĩa kia, điều thấy được đó vượt qua nhà khoa học, nên được lợi ích, các ngài thật sự thông đạt. Sự thông hiểu như quý vị, mà giống họ thì không thông rồi, không phải là một khi thông đạt thì thông suốt toàn bộ, Phật Pháp là một khi thông suốt thì thông tất cả. Thật buông xuống, buông xuống là quan trọng hơn hết, chúng ta không thể không biết.

 [1:25:10]

     「如上品中神通變化,一切天人,不可為比,百千萬億,不可計倍」“Như thượng phẩm trung thần thông biến hoá, nhất thiết thiên nhân, bất khả vi tỉ, bá thiên vạn ức, bất khả kế bội” (Như thần thông biến hoá ở trong phẩm trước: tất cả trời người [ở mười phương], không thể so sánh được, [không chỉ hơn] trăm ngàn vạn ức lần, [mà] không thể tính vượt hơn bao nhiêu lần). Trời người là nói đến trời thứ sáu cao nhất, người ở trời thứ sáu muốn so sánh với: những người đến vãng sanh Thế giới Cực Lạc này, những người vãng sanh này so với vua trời thứ sáu, không biết cao hơn bao nhiêu lần, trăm ngàn vạn ức, không tính rõ được. Chúng ta chính mình phải chú ý chỗ này, nếu chúng ta tin tưởng, chúng ta phát nguyện vãng sanh, thì vài năm là đạt được rồi. Nếu muốn nhanh thì nhiều nhất là ba năm. Cư sĩ Hoàng Trung Xương làm ví dụ cho chúng ta, ở ngay Thâm Quyến, đại khái 10 mấy năm trước, anh nghe tôi giảng Kinh, anh liền làm thật. Ở Thâm Quyến tìm một nơi bế quan, nhờ Hướng Tiểu Lợi hộ trì, hàng ngày đưa cho anh ta một bữa cơm, chiều tối không ăn, sáng sớm đưa một bát cháo, giữa trưa đưa một bữa cơm, anh bế quan ba năm. Hai năm 10 tháng, thiếu hai tháng thì tròn đủ, anh ta đã tự tại vãng sanh. Trong khi bế quan, anh ta có nhật ký, tình trạng mỗi ngày anh ấy đều ghi chép lại rất rõ ràng, rất hiếm có, làm tấm gương cho chúng ta xem. Anh nói để con thử xem, ba năm được vãng sanh có phải thật không? Ba năm vãng sanh không phải là tuổi thọ của anh hết rồi, mà là anh thấy được A Mi Đà Phật, nói với A Mi Đà Phật: con không cần tuổi thọ nữa, bây giờ con đi với Ngài. Phật rất từ bi, nhất định sẽ dẫn quý vị đi, thật sự đi rồi. Cho nên có người phát tâm để làm chứng cho chúng ta. Cư sĩ Lưu Tố Thanh, chị gái của Lưu Tố Vân, đã vãng sanh năm ngoái hay là năm trước, [chỉ cần] một tháng. Cô ấy vẫn còn 10 năm tuổi thọ nhưng không cần nữa, thị hiện tấm gương niệm Phật vãng sanh cho mọi người thấy, quý vị xem. Cô ấy niệm Phật chỉ niệm hơn một tháng thì vãng sanh rồi. Phật đã nói trong Kinh, và những điều mà Đại đức xưa ghi lại, đều là sự thật, không có câu nào nói dối.

          Thế giới Cực Lạc quan trọng, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Còn làm những điều này làm gì? Không phải đi không được, thật sự đi được, điều kiện rất đơn giản, tín và nguyện, điều kiện vãng sanh Thế giới Cực Lạc là những điều này. Tôi chân thật tin, không có hoài nghi, tôi nguyện đến, điều kiện đầy đủ rồi, bất kể niệm Phật nhiều hay ít, đó là phẩm vị, phẩm vị không quan trọng. Đại sư Liên Trì, Đại sư Ngẫu Ích, đều là Tổ sư trong Tịnh-tông: là thiện tri thức lớn vô cùng nổi tiếng, có người hỏi quý ngài, ngài niệm Phật, được phẩm vị nào thì ngài hài lòng? Tổ sư nói với họ, Tôi hạ-hạ-phẩm vãng sanh thì thoả mãn rồi. Hạ-hạ-phẩm là như nào? Một niệm mười niệm. Không tranh phẩm vị, đến Thế giới Cực Lạc để học tập, bắt đầu học từ Tiểu học năm nhất rất tốt, hoàn toàn tiếp nhận dạy dỗ của A Mi Đà Phật, quá tốt! Người ở nơi đó tuổi thọ vô lượng, mà còn thành tựu rất nhanh.

          Quý vị xem, một khi đi đến nơi đó, đãi ngộ của quý vị: là đãi ngộ của A-duy-việt-trí Bồ-tát, khó được biết bao! Có đãi ngộ này, quý vị liền tiến bộ nhanh chóng. Chẳng những nghe A Mi Đà Phật giảng Kinh không ngừng, mà quý vị còn ngồi xếp bằng ở chỗ giảng đường đó, quý vị sẽ không mệt mỏi. Vì sao? Thân thể này là nhục thân thì sẽ mỏi; [Còn ở đó] thì không mỏi, ngồi một vạn năm, ngồi 10 vạn năm cũng không mỏi, không ảnh hưởng gì đến thân thể. Sẽ không nói thời gian ngồi đã lâu, chỗ này cũng đau, chỗ kia cũng không được rồi, không có tâm bệnh này. Khi nào đứng dậy rời giảng đường? Khi thành Phật rồi, tiến vào là phàm phu, ra khỏi giảng đường đã thành Phật, chưa thành Phật chưa đi ra. Bởi vì thân thể đó là thân kim cang không hoại, không cần thức ăn, không đòi hỏi trà nước, sẽ không mỏi mệt, không cần ngủ nghỉ. A Mi Đà Phật cũng là như vậy, giảng Kinh chưa từng gián đoạn, quý vị nghe được: đều là Kinh mà quý vị chính mình muốn nghe, pháp môn mà chính quý vị đã học. Thật sự nghe hiểu, đại-triệt-đại-ngộ, minh-tâm-kiến-tánh, quý vị mới sẽ rời khỏi giảng đường, đến các nơi để thăm quan thăm hỏi. Bằng không quý vị ở trong giảng đường, ngoan ngoãn ngồi nghe Kinh, hoá thân thì đi ra ngoài, thân thật ở giảng đường.

          Đến nơi đâu để tìm: môi trường tu học như thế này? Thực sự tìm không được. Cho nên tất cả chư Phật, đều khuyên chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, đến Thế giới Cực Lạc rất mau thành tựu, chứng đắc Phật quả rốt ráo viên mãn. Người tin thì có phước, người nghi ngờ là chưa đủ phước báo, người buông xuống thì có phước, người chưa buông xuống thì không được, đây là chúng ta phải nhớ thật kỹ. Phải thật phát tâm, trong đời quá khứ chúng ta đều học Phật, chính là lâm chung do dự lưỡng lự, rẽ qua đường khác, nay trở lại lần nữa; Đời này đã gặp được, tuyệt đối không thể phạm sai lầm trong quá khứ, đời này quyết định vãng sanh, buông xuống vạn duyên.

[1:34:18]

          Tiếp theo có trích dẫn: một câu nói trong Phẩm Bồ Tát Tu Trì, 「又《菩薩修持品》曰:以方便智,增長了知。從本以來,安住神通。」“Hựu Bồ Tát Tu Trì phẩm vân: dĩ phương tiện trí, tăng trưởng liễu tri, tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông” (Và trong phẩm Bồ Tát Tu Trì nói: dùng phương-tiện-trí, tăng trưởng liễu tri, từ xưa đến nay, an trụ thần thông). Tiếp theo là lời của Niệm lão, 「是則智慧明了,達神通之本,而變化神通,自在無礙」“Thị tắc trí huệ minh liễu, đạt thần thông chi bổn, nhi biến hoá thần thông, tự tại vô ngại” (Đó là trí huệ sáng suốt, [là] gốc đạt được thần thông, mà còn biến hoá thần thông, tự tại không chướng ngại), đó là một câu. Được Phật gia trì, mà khai mở Căn-bản-trí. Căn-bản-trí được giảng trong Kinh Đại-thừa, 「般若無知,無所不知」“Bát-nhã vô tri, vô sở bất tri” (Bát-nhã vô tri, không gì không biết). Vô tri là Căn-bản-trí, Phương-tiện-trí khởi tác dụng, chính là không gì không biết. Vì vậy Phương-tiện này tăng thêm hiểu biết, hiểu biết là ứng dụng, chính là sáng suốt, trí huệ minh liễu. Hai câu đó là nói trí huệ, từ Căn-bản-trí mà khởi được Hậu-đắc-trí, tăng thêm hiểu biết là Hậu-đắc-trí, không gì không biết. 「從本以來,安住神通」“Tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông” (Từ xưa đến nay, an trụ thần thông), thần thông này, thông là thông đạt, lại không có chướng ngại,  “thần là tính từ, không gì chẳng thông. Đó chính là trí huệ minh liễu, trong trí huệ này, đều bao quát cả Căn-bản-trí và Hậu-đắc-trí trong đó. Nếu từ bốn chữ này chia ra để nói thì: minh là Căn-bản-trí, chính là vô tri,  “minh”, chiếu được rõ ràng sáng tỏ, không có khởi dụng;Liễu là Hậu-đắc-trí, liễu là rõ ràng phân minh, không gì không biết. Bát-nhã vô tri, không gì không biết, trí huệ minh liễu, hai loại trí huệ đều ở trong câu này.

          Gốc của đạt thần thông, gốc của thần thông là gì? Là trí huệ, là thiền định. Định là gốc của thần thông, nên người được định thì có thần thông. Bậc thánh Tiểu-thừa, Sơ quả Tu-đà-hoàn thì có hai loại thần thông, thiên-nhãn-thông và thiên-nhĩ-thông là Sơ-quả. Nhị-quả lại tăng thêm hai loại, có túc-mạng-thông, và tha-tâm-thông. Túc-mạng-thông là biết được quá khứ đời đời kiếp kiếp, biết cả tương lai, đều biết quá khứ và tương lai. Tha-tâm-thông: là trong tâm người khác nghĩ gì quý vị đều biết, quý vị biết được khởi tâm động niệm của người khác. Tam-quả A-na-hàm có thêm thần-túc-thông, thần-túc-thông là biến hoá, phân thân, quý ngài có năng lực phân thân, có năng lực biến hoá. Giống như Tiểu thuyết Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không có 72 biến hoá, quá ít rồi, mới có 72, Tam-quả A-na-hàm, thần thông đó so với Tôn Ngộ Không lớn hơn nhiều, không thể so sánh. Tứ-quả A-la-hán lại thêm lậu-tận-thông, đầy đủ sáu loại thần thông. Đây là nói Tiểu-thừa đắc được sáu loại thần thông này. Còn thần thông của Đại-thừa thì hiệu dụng không thể nghĩ bàn, đó là thần thông lớn, không phải thần thông nhỏ, cho nên tự tại không chướng ngại.

          Thần thông đó là được A Mi Đà Phật gia trì, ngang bằng với ai? Ngang bằng với Pháp-thân Bồ-tát, chính là đại-triệt-đại-ngộ, minh-tâm-kiến-tánh, bình đẳng với quý ngài. Cho nên, các ngài không có chướng ngại, mười phương ba đời, ba đời có đời quá khứ, có đời tương lai, quý ngài có năng lực quay về quá khứ, cũng có thể đi vào tương lai. Địa cầu 2000 năm sau như thế nào, các ngài có thể đến để xem. Đấy là 2000 năm sau, còn thế giới 2000 năm trước thì sao? Quý ngài có thể trở về quá khứ, cũng có thể đi đến tương lai, tự tại vô ngại. Biến hoá, giao thiệp với chúng sanh, cần dùng thân gì độ được thì hoá thân đó, biến ra thân đó. Cho nên ở Trung Hoa, các ngài biến hoá như thế nào? Thánh-nhân, Hiền-nhân, Thánh-nhân là Phật, Hiền-nhân là Bồ-tát, Quân-tử là A-la-hán. Tự tại vô ngại, thật sự là một không phải hai. Nhất là thế nào? Toàn bộ vũ trụ có quan hệ gì với chính mình? Là nhất thể. Vì vậy tất cả chúng sanh, quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ cần quý vị chứng được nhất thể, thì quý vị biết được hết.

          Nhất thể này, quý vị xem Trang tử nói được rất hay,「天地與我同根,萬物與我一體」 “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất cùng nguồn gốc với ta, vạn vật là một thể với ta). Đó là người thế nào mới nói ra được? Minh-tâm-kiến-tánh, đại-triệt-đại-ngộ. Nếu Trang tử ở Ấn Độ thì thành Phật rồi, Phật mới nói ra được điều này, Bồ-tát cũng không nói ra được. Có thể thấy Thánh Hiền Trung Hoa thời xưa, là Phật Bồ-tát thị hiện, ứng hoá rất nhiều, mỗi triều đại đều có, có Đại-thánh, có Hiền-nhân Quân-tử, giáo dục của Thánh Hiền Quân-tử, giáo dục của Tôn giáo: thật khởi tác dụng. Mỗi một Tôn giáo của toàn thế giới đều là như nhau, vì vậy các vị Thần cùng một thể là thật không phải là giả, là chư Phật Bồ-tát: thần thông biến hoá, tự tại không chướng ngại. Thế nên không được phân-biệt, chúng ta phân-biệt là sai rồi, chúng ta chấp-trước, chúng ta phân-biệt; Phải buông xuống phân-biệt, chấp-trước, thì quý vị mới thấy được chân tướng sự thật.

[1:44:14]

          「故曰:但得本,莫愁末。根本智者,本也。種種神通,皆聖末邊事」。“Cố viết : đãn đắc bổn, mạc sầu mạt. Căn-bản-trí giả, bổn dã. Chủng chủng thần thông, giai thánh mạt biên sự” (Cho nên nói: hễ được gốc, chớ lo ngọn. Căn-bản-trí là gốc. Đủ loại thần thông đều [là] việc đằng ngọn của bậc Thánh). Câu đầu tiên này rất hay, gốc rễ quan trọng, chỉ cần chúng ta tìm được gốc rồi, gốc là gì? Là Căn-bản-trí. Điều gì là Căn-bản-trí? Vô tri. Căn-bản-trí chính là Tự-tánh vốn định, đó là Căn-bản trí. Câu thứ tư mà Đại sư Huệ Năng nói lúc khai-ngộ là: 「何期自性,本無動搖」“Hà kỳ Tự-tánh, bổn vô động diêu” (Nào ngờ Tự-tánh, vốn không dao động), đó là căn bản. Vấn đề của chúng ta là ở đâu? Là ý nghĩ hiện nay của chúng ta, là khởi tâm động niệm, vậy thì không có Căn-bản-trí, khởi tâm động niệm thì đã biến thành A-lại-da. Thì vọng-tâm làm chủ, Chân-tâm không làm chủ. Vọng-tâm có tri, vì sao? Do hạt giống tri thức tàng trữ trong A-lại-da, có thể tuỳ lúc điều động ra để xem, đây chính là ký ức. Những điều đã học ở quá khứ, đều có tư liệu ở trong đó, chỉ cần quý vị có năng lực điều động ra. Vậy phải có công phu Thiền định, không có công phu Thiền định không được, không nghĩ ra được, định thì được rồi, tương ưng với Chân-tâm. Trong Chân-tâm, Bổn-tánh có vô lượng trí huệ, không gì không biết, là Tự-tánh, Tánh-đức, vốn có đủ, hơn nữa không có sai lầm; Tri thức sẽ có tri thức sai lầm, trí huệ thì không có trí huệ sai lầm. Vậy làm sao cầu? Cần phải từ trong định mà cầu, định nhỏ hiện trí huệ nhỏ, định lớn hiện trí huệ lớn, lớn đến cuối cùng Tự-tánh vốn định, đó là triệt để hiểu rõ, vậy thì thành Phật rồi. Cho nên tu hành là tu điều gì? Chính là tu định. Định là thế nào? Định là tâm thanh tịnh, định là tâm bình đẳng, giác thì không mê là huệ, không có ô nhiễm thì là thanh tịnh, không có phân-biệt thì là bình đẳng, thanh tịnh, bình đẳng, giác trên Kinh chúng ta, giác đó là đại-triệt-đại-ngộ, minh-tâm-kiến-tánh, thành Phật rồi. Cho nên bình đẳng là Bồ-tát, thanh tịnh là A-la-hán. Nếu chúng ta không buông xuống toàn bộ, không thanh tịnh, vậy thì là ô nhiễm. Ô nhiễm là gì? Trong tâm có điều gì thì là ô nhiễm, có Phật cũng không được, có Phật thì bị Phật ô nhiễm rồi. Cho nên Phật Pháp cũng phải xả, huống hồ phi pháp! Trong Kinh Kim Cang nói: 「法尚應捨,何況非法」 “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống chi phi pháp). Phải buông xuống hết thảy. Tịnh-độ-tông chỉ dựa theo A Mi Đà Phật, có thể đặt đức Phật A Mi Đà trong tâm, ngoại trừ A Mi Đà Phật ra, không để thêm bất cứ thứ gì. Điều này phải nên biết, không biết thì không được.

          Sau khi chúng ta biết, thì nghiêm túc nỗ lực buông xuống dần dần. Nếu suy nghĩ muốn vãng sanh, tôi ngày mai vãng sanh, trước tiên phải buông xuống triệt để, ngày mai được vãng sanh hay không? Thật sự được vãng sanh, bởi vì hành động này của chúng ta, ý nghĩ này, A Mi Đà Phật biết, Ngài lập tức chú ý đến quý vị, một chút cũng không giả. Chúng ta thật muốn đi sớm một ngày để làm Phật, thế giới này quá khổ rồi, chẳng phải không chướng ngại mà mọi thứ đều có chướng ngại, việc tốt cũng có chướng ngại, việc xấu không có chướng ngại mà còn có trợ duyên, còn có trợ giúp quý vị làm việc xấu. Chúng ta đến Thế giới Cực Lạc một chuyến rồi quay trở lại, tốt, trở lại thì có trí huệ, có thần thông, đã có năng lực, không có chướng ngại nữa. Người vãng sanh rất nhiều, vì sao quý ngài không vội vàng đến? Bởi quý ngài biết, chính chúng ta có nghiệp chướng, không phải quý ngài không đến, quý ngài đã đến mà chúng ta không thấy được, chúng ta không cảm giác. Vì sao thế? Bởi tâm chúng ta không thanh tịnh, điều này cũng nên thừa nhận, tâm chúng ta vẫn còn phân-biệt. Tâm thực sự đã thanh tịnh thì quý vị liền thấy được, quý ngài liền khởi tác dụng, đã loại bỏ chướng ngại, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng được, Phật lực gia trì, Bồ-tát gia trì, đều có thể thấy được.

[1:51:37]

          Tiếp theo Niệm lão khuyên chúng ta, hễ được gốc, không phải lo ngọn. Ngọn là gì? Thần thông biến hoá, đây là ngọn. Căn-bản-trí là gốc, Căn-bản-trí chính là định, Tự-tánh vốn định, đó gọi là Căn-bản-trí. Định, tuyệt đối không phải xếp bằng xoay mặt vào vách ở đó tĩnh toạ, vậy gọi là tu định, chúng ta như vậy thì làm sai rồi. Định là như nào? Trong tâm thứ gì cũng không có, đây là định. Cho nên người biết tu định, họ đi đứng nằm ngồi đều ở trong định, họ làm việc cũng ở trong định.tâm họ như như bất động, không có ý nghĩ, không có khởi tâm, không có động niệm, không có vọng tưởng, không có chấp-trước, không có phân-biệt, không có chấp-trước, ở trong định này. Luôn luôn tu, trên thực tế thì ở trong sinh hoạt thường ngày, mắt thấy sắc, mắt nhập định ở trên sắc tướng, không bị sắc tướng chuyển, không bị quấy nhiễu, đó chính là định. Làm thế nào? Quý vị thấy sắc tướng, ưa thích nó, hay chán ghét nó. Vậy thì tâm đã động rồi, định liền không có nữa. Thấy được như thế nào? Thấy được rõ ràng, thấy được sáng tỏ, trong tâm cũng không có một chút ấn tượng, đây là định công, đó là cách nhìn của Phật Bồ-tát. Hễ động cảm tình, nổi lên rất nhiều ý nghĩ, đó là thấy của phàm phu, nghe của phàm phu, không được, phải học định huệ của Phật Bồ-tát.

          Cho nên, chúng ta niệm Phật cầu điều này, chúng ta học Kinh giáo cũng cầu điều này, đọc sách ngàn lần chỉ cầu điều này. Đến sau này đã đạt được thì tự thấy nghĩa kia, ý nghĩa trong Kinh sách chính mình hoàn toàn hiểu rõ rồi. Không cần nghe giảng, không cần nghe người khác truyền dạy, đã thông hết, gọi là không thầy tự thông, thật sự thông đạt, không phải giả thông. Vì vậy đủ loại thần thông, tự thấy đó cũng là thần thông. Đó cũng là việc ở đằng ngọn, không phải gốc rễ, là việc phía ngọn. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

( Hết tập 285)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam mô A Mi Đà Phật.

 

 

 

Trả lời 0