Responsive Menu
Add more content here...

Tập 286 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017 

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 19: THỌ DỤNG CỤ TÚC

Hưởng Thụ Đầy Đủ

Tập 286

Chủ giảng: Đại Lão Hoà Thượng Pháp Sư Tịnh Không.

Giảng ngày 24/11/2015

Giảng tại Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông

Chuyển ngữ: Ban phiên dịch Hoa Tạng Huyền Môn

Dịch giả: Vũ Văn Trà

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào: chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa, mời an tọa. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn.”(3 lần)

          Mời xem: Đại Kinh Khoa Chú, trang 692, hàng thứ 4 từ dưới lên, 別顯Biệt hiển” (Đặc biệt hiển bày). Bài trước học đến: 受用種種。一切豐足。】 Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc.” (Tất cả mọi loại hưởng thụ dồi dào đầy đủ).       Trong Khoa Chú Niệm lão nhắc nhở chúng ta, 以福德無量,故感得受用種種,一切豐足」。Dĩ phước đức vô lượng, cố cảm đắc thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc.(Vì vô lượng phước đức, nên cảm được tất cả mọi loại hưởng thụ dồi dào đầy đủ). Câu nói này rất quan trọng, bởi tất cả đầy đủ là điều mà mỗi người chúng ta đều hy vọng đạt được. Làm thế nào mới có thể đạt được? Tu phước tích đức thì có thể đạt được. Nếu không phải là tu phước tích đức, mà do dùng đủ loại thủ đoạn để có được, thì đều là tạo tội nghiệp, quả báo của tội nghiệp đều ở tam đồ, điều này chúng ta có chẳng thể không biết đến. Thế gian chúng ta, hy vọng giàu sang, thì nên tích lũy công đức. Hôm nay tiếp tục xem phần tiếp, 別顯Biệt hiển” (Đặc biệt nêu ra), đoạn nhỏ thứ nhất 隨意自在Tùy ý tự tại” (Tự tại tùy ý). Mời xem kinh văn:

    宮殿。服飾。香花。幡蓋。莊嚴之具。隨意所須。悉皆如念。Cung điện, phục sức, hương hoa, phan cái, trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm” (Cung điện, y phục trang sức, hương hoa phan lộng, những vật trang nghiêm tùy theo ý nhu cầu đều được như ý niệm).

          “Niệm” là tâm tưởng, những tự tại này chính là hưởng thụ, đều là tâm tưởng sự thành. Hiện nay chúng ta ở trong sinh hoạt thường ngày, chú ý chữ “niệm” này để tu nhân. Ý niệm tốt nhất là gì? Ý niệm tốt nhất chính là: danh hiệu A Mi Đà Phật, không có gì tốt hơn ý niệm này. Cho nên tất cả ý niệm đều phải buông xuống, chỉ khởi một niệm này, không nên để cho ý niệm này gián đoạn, mất đi. Trong miệng không niệm cũng không sao, trong tâm này niệm liên tục, điều này quan trọng. Nơi miệng niệm mệt rồi, có thể không phát ra tiếng chỉ niệm ở tâm, cố gắng hết sức để cho ý niệm này không gián đoạn, quả báo đó của chúng ta: thì hoàn toàn tương đồng với những điều đã nói trên kinh, thật sự là: 隨意所須,悉皆如念Tùy ý sở tu, tất giai như niệm.” (Tùy theo ý nhu cầu đều được như ý niệm). Kinh văn chia thành bốn đoạn, đoạn thứ hai nói 食自在Thực tự tại” (Thức ăn tự tại). 以下從飲食、衣服、住所三方面,明其受用具足Dĩ hạ tùng ẩm thực, y phục, trụ sở tam phương diện, minh kỳ thọ dụng cụ túc” (Dưới đây từ ba phương diện ăn uống, y phục, chỗ ở: làm sáng tỏ [cho] hưởng thụ đầy đủ này). Đoạn thứ hai nói ăn uống, 食自在Thực tự tại” (Ăn uống tự tại). Mời xem kinh văn:

   若欲食時。七寶缽器。自然在前。百味飲食。自然盈滿。雖有此食。實無食者。但見色聞香。以意為食。色力增長。而無便穢。身心柔軟。無所味著。事已化去。時至復現。】Nhược dục thực thời, thất bảo bát khí, tự nhiên tại tiền; Bá vị ẩm thực, tự nhiên doanh mãn. Tuy hữu thử thực, thật vô thực giả, đãn kiến sắc văn hương, dĩ ý vi thực. Sắc lực tăng trưởng, nhi vô tiện uế. Thân tâm nhu nhuyễn, vô sở vị trước. Sự dĩ hóa khứ, thời chí phục hiện. ” (Nếu khi muốn ăn, dụng cụ đồ ăn làm bằng bảy báu tự nhiên hiện ra, trăm loại thức ăn đồ uống mỹ vị, tự nhiên đầy đủ. Tuy có đồ ăn uống như thế, nhưng thật ra không ăn, chỉ cần thấy sắc ngửi hương, dùng ý để ăn, thì tinh thần sức khỏe tăng lên, mà không có bài tiết dơ bẩn, thân tâm mềm mại, không bị tham đắm hương vị. Ăn xong rồi [đồ dùng dụng cụ đồ ăn] biến mất, đến khi  muốn ăn thì lại hiện ra).

          Thế giới Cực Lạc, mọi người chúng ta đều biết, hình dáng của hưởng thụ ở nơi đó: khác nhau với người: trên địa cầu chúng ta. Trái đất này của chúng ta, cho đến sáu đường luân hồi, lại mở rộng lên là mười pháp giới, trong mười pháp giới, tất cả vạn sự vạn vật từ đâu mà đến? Trong kinh giáo Đại-thừa như Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói với chúng ta, tất cả những hiện tượng này: đều là 唯心所現,唯識所變Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” (Do tâm mà hiện, do thức mà biến). Hai câu nói này là giảng, mười pháp giới Y-chánh trang nghiêm: là do tâm sanh, tâm là Chân tâm, do Chân tâm sanh do Chân tâm hiện; A-lại-da là vọng tâm, do vọng tâm biến. Cách nói này rất khó hiểu. Chúng ta dùng màn hình TV, thì mọi người đều dễ hiểu rồi. Hiện tại khoa học kỹ thuật phát triển, hầu như nhà nào cũng có TV. Mở màn hình lên, là một vùng ánh sáng, điều gì cũng không có. Đây là mở màn hình lên, để cho chúng ta thấy được một vùng ánh sáng, ánh sáng đó, giống như Thường-tịch-quang: của Thế giới Cực Lạc vậy. Đây là gì? Pháp-thân. Pháp-thân không có tướng, không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng ý niệm, cũng không có hiện tượng dao động sóng, tất cả không có, một vầng quang minh, Tịnh-tông gọi đó là Thường-tịch-quang-độ. Thường thì không sanh không diệt, đây gọi là thường, có sanh diệt thì vô thường. Tất cả Thế giới Cực Lạc không sanh không diệt, thế giới này của chúng ta, trong mười pháp giới là vô thường, trong mười pháp giới có sanh có diệt. Thường-tịch-quang là thường, thường là không sanh không diệt; Tịch là thanh tịnh vô-vi, không có hiện tượng; Quang là một vùng quang minh, tướng đó chính là quang minh, không lúc nào không tồn tại, không nơi nào không có, thật sự giống như chúng ta mở màn hình vậy. Màn hình mở lên rồi, điều thứ hai chúng ta sẽ nhấn một kênh, sau khi nhấn được kênh, từ trên màn hình xuất hiện hiện tượng, xuất hiện tướng người, tướng của tất cả vạn vật, tướng đó tức là tướng trên màn hình: là có sanh có diệt. Chúng ta hiện tại dùng TV, một giây đồng hồ sinh diệt bao nhiêu lần? Khoa học kỹ thuật hiện nay là 100 lần; Nói cách khác, tướng trên màn hình TV, trong một giây đã được thay đổi một trăm tấm, giống như phim hoạt hình vậy, đã qua 100 tấm rồi.

          Hiện thực điều mà mắt chúng ta thấy, điều mà tai nghe được, điều mà sáu căn tiếp xúc, có bao nhiêu hình ảnh trong một giây? Đức Phật nói được rất rõ ràng, hiện nay nhà Cơ học lượng tử chứng minh rồi, một chút cũng không giả, cho nên Phật Pháp là khoa học, khoa học bậc cao. Trên kinh Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, 一彈指三十二億百千念“Nhất đàn chỉ tam thập nhị ức bá thiên niệm” (Một khảy tay có 32 ức trăm ngàn ý niệm), một khảy tay đó. Một giây có thể khảy mấy lần? Có người nói với tôi, có thể khảy bảy lần. Tôi tuổi tác lớn thế này, sức khỏe suy rồi, đại khái một giây tôi có thể khảy năm lần, tôi tin người trẻ tuổi sức khỏe mạnh mẽ, có thể khảy bảy lần. 320 ngàn tỷ ý niệm nhân 7, một giây đó có bao nhiêu lần? 2240 ngàn tỷ, thì ngay trước mắt, chúng ta không có cảm giác, là thật không phải giả. Nhà Cơ học lượng tử nói với chúng ta, Dưới tình hình dao động sóng tần số cao này, đã sinh ra ý niệm, từ ý niệm đã sản sinh ra hiện tượng vật chất. Hiện tượng vật chất là giả không phải là thật, trong một giây sanh diệt: 2240 ngàn tỷ lần. Cho nên đức Phật nói ở trong Kinh Kim Cang, Mọi người đọc rất quen Kinh Kim Cang, 凡所有相皆是虛妄“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Phàm những gì có tướng đều là hư vọng), bất luận là hiện tượng vật chất, là hiện tượng này của ý niệm, ý niệm là thuộc về hiện tượng tinh thần, tất cả là do sanh ra ở: tần số cao này, nên không phải thật. Ý niệm này sanh rồi, lập tức liền diệt mất, sanh không có chỗ đến, đi không có bóng dáng, quý vị tìm không thấy. Bao nhiêu chúng sanh bị điều này gạt, chấp trước đó là thật, chấp trước đó là có. Không chỉ người chúng ta bị điều này gạt, mà 28 tầng trời cũng bị điều đó gạt rồi; Thanh-văn, Duyên-giác, Quyền-giáo Bồ-tát: mặc dù biết, nhưng không có chứng được.

          Như chúng ta hiện nay, chúng ta biết, nhưng chính mình không chứng được, nguyên nhân là gì? Chúng ta không có công phu. Phải tu chứng có công, quý vị mới có thể chứng được, cho nên gọi là công đức. Tu thế nào? 84 ngàn pháp môn, thậm chí nói vô lượng pháp môn. Pháp là phương pháp, môn là con đường, phương pháp, con đường không có nhất định, hơn nữa vô lượng vô biên, nguyên lý nguyên tắc là một. Chúng ta làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều này, sau đó thế nào? Sau đó mới hiểu được những điều trên kinh nói, pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. Bất kỳ pháp môn nào, quý vị chỉ cần công phú đắc lực, thì quý vị có thể chứng được, vì vậy pháp môn là bình đẳng, không phải là nói chỉ có đây chứng được, kia không thể chứng đắc, không phải vậy, bất kỳ pháp môn nào cũng có thể chứng được, nhưng phải hiểu được một nguyên tắc, nhất định là một môn, không phải đồng thời tu hai môn, ba môn, vậy thì phiền phức rồi. Một căn phòng này, quý vị không thể nào từ hai cửa đi vào, từ ba cửa đi vào, quý vị đi vào được nhất định là một cửa; Bất luận là cửa phía đông, là cửa phía tây, cửa phía nam, điều đó không liên quan, quý vị đi vào rồi, một cửa mới có thể đi vào. Ở trong giáo lý Đại-thừa đức Phật giảng quá nhiều rồi, khuyên nhủ chúng ta, tu hành phải 一門深入,長時薰修“Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài ). Vì sao vậy? Lời này chính là Giới Luật của tu học, quy củ của tu học, quý vị phải hiểu, quý vị phải tuân thủ. Huân tu lâu dài thì có thể thành công, Tại sao? Được định rồi.

          Thí như thông thường tầng lớp trí thức thích đọc sách, người thích đọc sách, vào cửa dễ nhất là gì? Đọc kinh, phải tụng kinh, là thật đó không phải là giả. Thế nhưng tụng kinh phải biết tụng, đọc kinh phải biết đọc, nghe kinh phải biết nghe. Trên Luận Đại Thừa Khởi Tín dạy chúng ta, chúng ta đọc kinh, nghe kinh, không chấp trước tướng ngôn thuyết, lời nói không nên chấp trước, nghe hiểu thì tốt rồi; Không nên chấp trước tướng danh tự, danh từ thuật ngữ: là phương tiện dạy học của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, quý vị chấp trước điều đó là thật thì sai rồi. Ví như nói đức Phật, Bồ-tát, La-hán, đây đều là danh từ thuật ngữ, quý vị chấp trước điều này thật có: là sai, đó là do Phật phương tiện nói. Phật là hằng thuận chúng sanh, tùy căn cơ mà dạy họ, hiện tướng khác nhau, nói pháp khác nhau, nhưng giống nhau là dạy quý vị khai ngộ, dạy quý vị được định, quan trọng nhất chính là phải được định, phải khai ngộ. Cho nên kinh có ý nghĩa hay không? Nói cho quý vị biết, là không có ý nghĩa; Quý vị chỉ cần đọc thôi, đừng nghĩ ý nghĩa bên trong, nghĩ ý nghĩa bên trong là vọng tưởng của chính quý vị, không có ý nghĩa. Sau khi thông rồi thì thế nào? Thì có vô lượng nghĩa, không phải là một ý nghĩa. Vì vô lượng nghĩa nên quý vị có thể ứng phó vô lượng chúng sanh, Bồ-tát hướng đến quý vị xin chỉ dạy, quý vị nói pháp cho Bồ-tát, Pháp nói cho Bồ-tát và A-la-hán, nhất định khác nhau. Pháp nói cho A-la-hán lại khác với: sáu đường phàm phu, vì vậy vô lượng nghĩa, đạo lý này cần phải hiểu. Cho nên không thể chấp trước, không thể chấp tướng, sợ nhất là dính vào tướng.

          Chúng ta liền hiểu được, chúng sanh khác với Phật, chính là có dính vào tướng hay không. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, niệm Phật cũng tốt, tụng kinh cũng tốt, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, đây là Phật. Dùng phương pháp gì để được cảnh giới này? Là dùng phương pháp tụng kinh. Tụng đến trình độ nào? Không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, thì thành Phật rồi. Cảnh giới này chính là điều mà Thiền-tông nói là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, Tịnh-độ-tông gọi là Lý-nhất-tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn, có Sự-nhất-tâm, có Lý-nhất-tâm. Có khởi tâm động niệm, còn khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, đây là cảnh giới của Bồ-tát. Thứ ba là có khởi tâm động niệm, có phân biệt, không có chấp trước, đây là cảnh giới của A-la-hán. Nếu nói tất cả khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước đều có, thì quý vị là phàm phu trong sáu đường. Quý vị nhìn xem, mục tiêu thống nhất: của 84 ngàn pháp môn, đều là dạy quý vị: sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Nên 84 ngàn pháp môn bình đẳng, vô lượng pháp môn bình đẳng, đều có thể khiến quý vị đạt được cảnh giới đó. Học Phật, đây là thật học Phật, đây là cầu Vô-thượng Bồ-đề.

          Lão Hòa thượng Hải Hiền: là tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Thầy của ngài là người rất giỏi, không phải người thường, có mắt trí huệ biết nhìn người, khi nhìn mặt thì thấy được người này: tương lai nhất định có thành tựu, thành tựu thế nào? Thành Phật, ngài sẽ thành Phật. Vì sao ngài thấy ra vậy? Người thanh niên này thành thật, điều đó rất khó được, thành thật là dùng Chân tâm không phải dùng vọng tâm; Nghe lời, thật làm. Học trò này có ba điều kiện đó, đây là gì? Đây là tư liệu của thành Phật. Thầy nhất định giúp cho ngài thành Phật, nếu ngài không thành Phật, thì Sư phụ có lỗi với ngài. Sư phụ gặp được rồi, dạy cho ngài một pháp môn, Nam mô A Mi Đà Phật, dặn dò ngài một mực mà niệm. Còn bổ sung một câu nói: “Sáng tỏ rồi không được nói lung tung, không được nói”. Lời nói này quan trọng, sáng tỏ rồi là thế nào? Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Với một câu A Mi Đà Phật này lão Hòa thượng Hải Hiền: niệm đến Lý-nhất-tâm bất loạn, Lý-nhất-tâm bất loạn chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Sau đó thì thế nào? Sư phụ đã dạy: không được nói, vậy thì không nói. Nếu ngài muốn thuyết pháp, thì không khác với: đức Thích Ca Mâu Ni Phật, với Lục tổ Đại sư Huệ Năng đời Đường, quý ngài là cùng một cảnh giới. Một câu Phật hiệu, đó là gì? Là do đã tu được thiện căn sâu dày. Người bình thường niệm câu Phật hiệu này không được, niệm cả đời công phu không đắc lực, sau cùng vẫn tạo sáu đường luân hồi như cũ. Nguyên nhân vì sao? Họ khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, không hiểu đạo lý này.

          Công phu này có thứ bậc, đi từ thấp lên cao. Đầu tiên luyện điều gì? Luyện tập không chấp trước. Dùng phương pháp gì để không chấp trước? Niệm A Mi Đà Phật. Ý niệm chấp trước khởi lên, A Mi Đà Phật thì tiêu trừ rồi, chỉ có khởi lên ý niệm này, ngoài ý niệm này ra, không thể có ý niệm thứ hai. Mắt thấy sắc thấy được rõ ràng, tai nghe âm thanh nghe được sáng tỏ, thấy rõ ràng, nghe rõ ràng rồi, đừng để trong tâm, cao minh là ở chỗ này. Không để ở trong tâm, trong tâm là điều gì? Trong tâm là A Mi Đà Phật. Ai biết niệm? Lão Hòa thượng Hải Hiện biết niệm, ngài đã làm được, cho nên ngài thành tựu rồi. Chúng ta không cách nào thành tựu như ngài vậy, chính là một mặt niệm Phật, một mặt trong tâm vẫn còn phân biệt, còn chấp trước, điều này không được, đây là niệm Phật không có công phu. Đây chính là do chúng ta không giống ngài, ngài chân thành, chúng ta thì giả tạo, làm giả, không làm thật. Ngài nghe lời, chúng ta không vâng lời, không nghe lời thầy, cũng không nghe lời của Phật Bồ-tát. Những điều trên kinh nói, chúng ta không tin, chúng ta nghi ngờ, đây chính là không nghe lời Phật. Vậy làm sao có thể thành tựu? Chúng ta không có thật làm, khuyết điểm đến từ chỗ này, chẳng thể không biết. Biết nhanh chóng sửa đổi vẫn còn kịp. Pháp môn rộng lớn này, không thể nghĩ bàn. Nguyện thứ 18, đến lúc mạng sắp hết, hơi thở này vẫn còn thì vẫn còn kịp. Vậy vẫn còn được! Buông xuống tất cả, trong tâm chỉ có một câu A Mi Đà Phật, liền được vãng sanh.

          Khi tôi mới học Phật, lần đầu gặp mặt Đại sư Chương Gia, liền dạy tôi nhìn thấu, buông xuống, đó là truyền pháp. Nhìn thấu là ý nghĩa gì? Hiểu rõ chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật là thế nào? Năm uẩn đều không. Lão Hòa thượng thường nói: “Điều gì của thế gian này cũng là giả, không có điều gì là thật”, đó gọi là nhìn thấu. Nếu đã là giả thì không phải là thật, vì sao không buông xuống chứ? Sao lại để ở trong tâm? Không để ở trong tâm chính là buông xuống. Chỉ đặt A Mi Đà Phật trong tâm thì thành công rồi, làm ra tấm gương để cho chúng ta thấy. Tôi xem đĩa CD của ngài, chứ không có gặp mặt ngài, tôi thể hội từ trong đĩa CD, ngài niệm đến công phu thành phiến, có lẽ vào khoảng 25 tuổi. Ngài 20 tuổi thì xuất gia, Sư phụ dạy ngài phương pháp này, phương pháp tu hành: chính là một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Ba đến năm năm, khẳng định được công phu thành phiến. Công phu thành phiến: chính là giai đoạn đầu của Nhất tâm Bất loạn, vừa mới đạt được. Đạt được điều này thì có hiệu quả, có hiệu quả gì?  A Mi Đà Phật nhất định đến thông báo cho quý vị, chúc mừng quý vị, công phu quý vị đắc lực rồi, nói với quý vị, tuổi thọ của quý vị còn bao nhiêu, 10 năm, 20 năm, đợi đến lúc tuổi thọ của quý vị hết rồi, A Mi Đà Phật liền tới tiếp dẫn quý vị: đến Thế giới Cực Lạc. Tâm của quý vị kiên định rồi. Lời này là do Phật đến nói với quý vị, không phải là lời giả.

          Có rất nhiều người, thật sự rất nhiều, không phải số ít, gặp được duyên phận này, thấy được Phật rồi, hoặc là thấy Phật trong định, hoặc là thấy Phật trong mộng, thấy được Phật rồi, thấy được A Mi Đà Phật, thì  muốn cầu A Mi Đà Phật, tuổi thọ của con, con không cần nữa, bây giờ con muốn đi với Ngài. Phật rất từ bi, gật đầu, được, sau 3 ngày sẽ đến tiếp dẫn con, sau một tuần Ta đến tiếp dẫn con, sau nửa tháng Ta đến tiếp dẫn con, đến thời điểm thì thật đi rồi. Cho nên trong Truyện Vãng Sanh, và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, những người niệm Phật 3 năm vãng sanh, đại khái đều là tình hình này, tuyệt đối không phải nói vừa đúng lúc, khi mới niệm Phật ba năm, thì tuổi thọ của họ đã hết, điều này đương nhiên cũng có, quá nhiều quá nhiều rồi. Đều là chính họ mong cầu không cần tuổi thọ nữa, thế gian này quá khổ. Quý vị xem trên kinh nói đó, Thế giới Cực Lạc rất tốt đẹp, vì sao không nhanh đến? Nơi này có gì tốt để lưu luyến đâu?

          Chúng ta tin lão Hòa thượng Hải Hiền, ở tuổi 24, 25, ngài đã có tư cách vãng sanh, ngài liền sẽ thỉnh cầu với A Mi Đà Phật, tôi tin ngài nhất định cầu, thế nhưng A Mi Đà Phật nói với ngài, con tu được không tệ, tu được rất tốt, rất như pháp, ở thế giới này thêm vài năm nữa, làm tấm gương tốt cho các đồng tu học Phật xem, làm tấm gương tốt: cho người niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ xem. Tuổi thọ đã dài rồi, chẳng những dài lâu, mà đến sau cùng còn có nhiệm vụ cho ngài, nhiệm vụ đó là gì? Hóa giải rắc rối của Tịnh-tông: trong một, 20 năm gần đây. Rắc rối này từ đâu đến? Từ lão Cư sĩ Hạ Liên Cư: làm bản Hội tập này, rất là nhiều người phản đối. Do trước kia tôi cũng gặp được: bản Hội tập này. Thầy của tôi, lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi theo ngài học kinh giáo, theo ngài mười năm, lúc đó ở tại Đài Trung. Cuốn kinh này truyền đến Đài Loan, thầy có giảng qua một lần, đã đem điểm chính ghi trên cuốn đó, người xưa gọi là Mi Chú. Là chú giải đơn giản. Tôi xem hiểu được chú giải của thầy, tôi theo ngài học đã mấy năm, tôi đã có thể xem hiểu những gì của thầy. Sau khi thầy giảng xong tôi mới biết đến thầy, cho nên tôi không nghe được, nhưng tôi có thể xem hiểu được chú giải này. Lúc đó, tôi liền muốn phát tâm giảng bộ kinh này, thầy nói không được, tuổi con còn quá trẻ, bên ngoài có lời nói áp lực, con không chống đỡ nổi được. Bảo tôi hãy cất giữ thật tốt, đợi đến khi duyên chín muồi.

          Khi nào duyên mới chín muồi? Thầy vãng sanh rồi, lúc thầy vãng sanh là 97 tuổi. Sau khi vãng sanh, lúc đó tôi đang ở nước Mỹ, tôi mang cuốn kinh này ở bên mình, tôi liền nghĩ đến, Mi Chú này của thầy, rất nhiều người đều chưa thấy qua, thậm chí không biết đến có việc như vậy. Tôi liền phát tâm đem cuốn kinh đó in ấn lưu thông, để cho mọi người đều biết, lúc đó tôi đã in 10 ngàn cuốn. Ở nước Mỹ, Canada, đồng tu bên ấy: đã khải thỉnh tôi giảng bộ kinh này, cho nên tôi ở Canada giảng qua một lần, ở nước Mỹ hình như giảng qua hai lần. Trước sau tôi nhớ đã giảng qua 10 lần. Sau này, gặp được Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Lão Cư sĩ đến nước Mỹ hoằng pháp, chúng tôi có duyên phận liên lạc này, ngài chỉ mang theo một bộ, lúc đó là chưa hiệu đính, tặng cho tôi. Sau khi tôi xem hết thì vô cùng vui mừng, liền gọi điện hỏi thăm ngài, ngài có giữ bản quyền hay không? Ngài nói thầy hỏi vậy có ý gì? Tôi nói ngài có bản quyền thì tôi tôn trọng ngài; Ngài không có bản quyền, thì tôi đem về Đài Loan để in ấn. Ngài nghe xong rất vui mừng, ngài nói không có bản quyền, hơn nữa còn hy vọng tôi: viết lời tựa cho bộ sách, ký tên trên trang bìa, tôi cũng làm theo.

          Hai bản này xuất hiện, có thể độ tất cả chúng sanh 9000 năm Mạt pháp. Sóng gió đã đến một lúc, phản đối bản Hội Tập này, đương nhiên cũng đã phản đối bản Chú Giải. Niệm lão cao minh, có trí huệ. Quý vị xem Chú Giải của ngài, trong mỗi một đoạn đều là một dấu ngoặc kép, trích dẫn lời này là do ai nói, do từ nơi nào đến, là tập chú. Thầy ngài làm bản Hội Tập là hội tập, Chú Giải của ngài cũng là hội tập, tổng cộng ngài đã dùng 83 bộ Kinh Luận, 110 loại Chú Sớ của Tổ sư Đại đức; Không phải do chính tôi nói, mà do trên kinh Phật nói, do Cổ thánh Tiên hiền nói, do Tổ sư Đại đức nói, Chánh tri Chánh kiến, chỗ nào có thể sai được chứ? Cuối cùng để chứng minh, cũng là lão Hòa thượng Hải Hiền: đến làm gương, đến làm chứng minh, để cho nhiều người chúng ta nương theo bộ kinh này, đồng tu căn cứ bộ Chú Giải này tu học, niềm tin vững chắc rồi. Chúng ta đều không đủ sức mạnh, nhất định cần ngài đến thị hiện, điều này là vì sao? Phật muốn bảo ngài ở thêm vài năm, đạo lý ở chỗ này. Cuối cùng vãng sanh, tôi tin do A Mi Đà Phật dặn dò ngài, khi nào con gặp được bộ sách, sách đó tên là: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Thịnh, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, Phật liền tới tiếp dẫn con đến Thế giới Cực Lạc. Ngài đang hy vọng mỗi ngày, bởi mọi người đều biết: lão Hòa thượng không có đi học, không biết chữ, cho nên ai tặng sách cho ngài làm gì? Chẳng có khả năng có người đưa sách cho ngài. Tự nhiên lại có người, đã mang sách đó đến trên núi, khi lão Hòa thượng thấy được có người mang sách đến, ngài hỏi đây là sách gì vậy? Thần thái vô cùng vui mừng, vô cùng phấn chấn, A Mi Đà Phật nói chính là sách này chăng? Kết quả khi người ta nói sách này gọi là: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Thịnh, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, quả nhiên không sai! Khi lão Hòa thượng nghe thấy thì sanh tâm rất vui mừng, mặc áo tràng đắp y, cầm cuốn sách chụp hình. Chưa từng có ai thấy được: lão Hòa thượng hoan hỷ như vậy, tại vì sao? A Mi Đà Phật ước định với ngài rồi, sau 3 ngày đến tiếp dẫn ngài. Chúng ta xem CD của lão Hòa thượng, xem Vĩnh Tư Tập, phải có thể xem hiểu những đạo lý này. Bức ảnh này, chứng thực cho chúng ta kinh là Chân kinh, Chú là Chánh tri Chánh kiến, không sai, chúng ta nương theo kinh này, nương theo Chú Giải này tu hành: nhất định không sai.

          Với lại trong sách Tăng Tán Tăng, có một bài văn rất dài, chính là thảo luận việc hội tập: có nên làm hay không. Pháp sư Hoằng Lâm: sưu tập rất nhiều chứng cứ, nói rất rõ ràng, nói rất sáng tỏ. Hội tập, thật ra mà nói, khi Kinh Phật truyền tới nước ta, đã có bản Hội Tập, thầy ấy nêu ra rất nhiều ví dụ. Bộ kinh thứ nhất chính là bản Hội Tập, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trong tổng cộng 42 đoạn, lúc đó là hai vị Tôn giả Ma Đằng và Trúc Pháp Lan: đã trích lục những câu quan trọng trong kinh Phật, chép ra biên soạn thành một bản, đó chính là hội tập. Vậy có đạo lý nào nói không thể hội tập? Nhưng mà hội tập có quy củ của hội tập, những bản hội tập trước là có phạm quy, còn bản hội tập này của ngài Hạ Liên Cư, quý vị tìm không ra khuyết điểm, mỗi một chữ trong đó: đều là chữ trong kinh văn của bản dịch gốc, chữ trong đó, không có sửa đổi một chữ nào. Đây là chỗ cao minh. Trong những kinh hội tập, đây là là bản tốt nhất, một bản trung thực nhất, sao có thể không tin chứ? Cho nên trong bản này, đã đem tinh hoa yếu nghĩa: trong 5 loại bản dịch gốc, do Phật đã thuyết, toàn bộ đều ở trong bản này rồi, hội tập rất tốt! Sự thể hiện đó của ngài, khiến hiện tại không có người bàn luận nữa. Tâm người học tập chúng ta đã định, đối với niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, đối với chân chánh học Phật, muốn đạt được lợi ích: thật sự thù thắng của Phật Pháp, chướng ngại ít rồi. Công đức này vô lượng vô biên.

          Chúng ta xem đoạn kinh văn này食自在Thực tự tại” (Thức ăn tự tại). Đọc qua kinh văn rồi, chúng ta lại xem Chú Giải của Niệm lão. Trong Chú Giải, “Bát khí” ,七寶缽器Thất bảo bát khí” (Dụng cụ đồ ăn làm bằng bảy báu). Người xuất gia, lúc Thế Tôn ở đời, trong ngày ăn một lần, là cầm bát khất thực. Bát đó cũng gọi là Ứng-lượng-khí, lớn nhỏ là có quy định, chúng ta có sức ăn bao nhiêu, thì dùng bát lớn bấy nhiêu, nhỏ quá thì chúng ta ăn không no, lớn quá thì còn lại dư thừa sẽ lãng phí đi, nhất định tương ứng với sức ăn của chính mình, cho nên gọi là Ứng-lượng-khí, gọi là Ứng-khí. 梵語為缽多羅。譯為應器,或應量器。乃出家人盛飯食之器Phạn ngữ vi Bát-đa-la, dịch vi Ứng-khí, hoặc Ứng-lượng-khí, nãi xuất gia nhân thình phạn thực chi khí” (Tiếng Phạn là Bát-đa-la, dịch là Ứng-khí, hoặc Ứng-lượng-khí, là dụng cụ đựng cơm thức ăn của người xuất gia). Tại Thế giới Cực Lạc, có cần ăn cơm không? Không cần, đó là thân Pháp-tánh, đó là do tâm mà hiện, không có do thức mà biến. Thân này của chúng ta rất phiền hà, là vọng tâm biến hiện ra sáu đường luân hồi, biến hiện ra mười pháp-giới. Điều mà Tự-tánh hiện ra chính là Nhất-chân Pháp-giới, là Nhất-chân, đó không phải là giả. Mười pháp-giới là giả, sáu đường luân hồi cũng là giả, cho nên nói sáu đường luân hồi không có điều gì là thật. Lão Hòa thượng nói hay lắm, luôn dạy người: “Chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, tất cả còn lại là giả”, không có điều gì là thật, đã là giả thì buông xuống tất cả, không nên để trong tâm. Đoạn ác, dứt hết ác thì không có việc gì, không để trong tâm; Tu thiện, làm xong thiện pháp cũng không có việc gì, hết thảy không đặt ở trong tâm, vậy thì đúng rồi, đây chính là thật sự biết niệm Phật, thật sự tu niệm Phật Tam-muội.

          Trên kinh nói là: 自然在前“Tự nhiên hiện tiền” (Tự nhiên hiện ra), 「《漢譯》曰:滿其中百味飲食自恣。若隨意則至。亦無所從來,亦無有供作者,自然化生耳Hán dịch viết: Mãn kỳ trung bá vị ẩm thực tự tứ. Nhược tùy ý tắc chí. Diệc vô sở tùng lai, diệc vô sở cúng tác giả, tự nhiên hóa sanh nhĩ” (Bản dịch thời Hán nói: trăm vị thức ăn đồ uống tự nhiên tùy ý đầy trong [bát]đó, thuận theo ý liền tới, cũng không từ đâu đến, cũng không có người làm ra cúng dường, tự nhiên hóa sanh thôi). Quý vị muốn ăn cơm, bát liền hiện ra, khi không muốn ăn thì bát cũng không còn nữa, không mang theo ở trên người. Muốn ăn cơm, bát liền hiện ra, liền ở trên tay, mà trong bát còn đựng đầy rồi, cơm và đồ ăn đó đều là món quý vị thích ăn, biến hóa mà ra, chính là 自然在前“Tự nhiên hiện tiền” (Tự nhiên hiện ra). Có người cúng dường hay không? Không có; Có người làm ra hay không? Cũng không có, tự nhiên, hoàn toàn là biến hóa, như trời Tha Hóa Tự Tại vậy. Người trời Tha Hóa Tự Tại, tất cả hưởng thụ là trời thứ 5, chính là do trời Hóa Lạc biến hóa ra cúng dường, họ vẫn có cúng dường, không phải do tự nhiên. Thế giới Cực Lạc là tự nhiên, không có người biến hóa, không có người đến cúng dường, vẫn cao hơn một tầng so với trời Tha Hóa Tự Tại.

      Tiếp theo Niệm lão nói với chúng ta, 是知缽器飲食等等,皆彌陀本願所感,故不須造作,自然出現也Thị tri bát khí ẩm thực đẳng đẳng, giai Di Đà bổn nguyện sở cảm, cố bất tu tạo tác, tự nhiên xuất hiện dã.” (Phải biết bát khí thức ăn vân vân, đều cảm được bởi bổn nguyện của đức Di Đà, nên không cần phải làm ra, tự nhiên xuất hiện). Tốt! Từng câu từng chữ trong kinh này, khiến chúng ta vô cùng: mong muốn đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, Chú Giải của Niệm lão trong Tập Chú cũng như vậy. Quá hay rồi! Chúng ta cả đời này học Phật, muốn thành Phật, có cần niệm rất nhiều kinh điển hay không? Không cần, một bộ này là đủ. Cả đời tôi đã đọc không ít, đã giảng không ít, tôi đến tuổi già, tôi là 85 tuổi: buông xuống tất cả rồi, đời này sống tại thế gian, sống một ngày thì giảng một bộ này, không giảng bộ khác, chỉ niệm câu Phật hiệu này, buông xuống vạn duyên.法尚應捨,何況非法Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống chi phi pháp), Pháp là Phật pháp. Trên Kinh Kim Cang dạy cho chúng ta phải xả, hà huống pháp thế gian? Chỉ một bộ kinh này, một câu Phật hiệu, đủ rồi. Quá viên mãn! Viên mãn đối với điều gì? Với Hoa Nghiêm viên mãn. Tôi đã giảng Hoa Nghiêm 2 lần, 2 lần đều không giảng xong, quá dài rồi. Tôi cũng giảng được rất tường tận, khi tôi giảng lần thứ 2, đã giảng hơn 4000 giờ, tôi nhớ giảng đến Phẩm Sơ Trụ. Tôi cũng giảng qua Tứ Thập Hoa Nghiêm, những năm đầu Kinh Vô Lượng Thọ, Đại đức xưa nói, đây không phải do tôi nói, đem kinh này ra bình phẩm, thì đây là Trung bản Hoa Nghiêm; Nói cách khác, nội dung của kinh này: và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là bình đẳng, không có khác biệt, độ dài của kinh này ngắn hơn một chút, gọi là Trung bản. Vậy còn có Tiểu bản, Tiểu bản chính là Kinh A Mi Đà. Còn Đại bản? Đại bản là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Vì vậy tôi từ Đại bản Hoa Nghiêm, đổi thành Trung bản Hoa Nghiêm, như lý như pháp, chân thật là “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Cuối đời, chỉ một bộ kinh này, tôi cũng nói tỷ mỷ cho các đồng học, nói đến cuối cùng nghiên cứu thảo luận, dùng phương pháp này, đào tạo người truyền thừa của thế hệ kế tiếp. Hy vọng thế hệ sau, giảng được tốt hơn tôi, tu được càng có thành tựu hơn tôi, thì tôi vui mừng. 

    百味飲食』,Bá vị ẩm thực” (Trăm loại thức ăn đồ uống mỹ vị). 百味,指百種好味」。 Bá vị, chỉ bá chủng hảo vị” (Trăm vị, chỉ trăm loại mỹ vị). Vì sao phải nói trăm vị? Thời xưa Hoàng thượng, đó là Đế vương, Đế vương ăn cơm có bao nhiêu món? 100 món. Cho nên “Bá vị ẩm thực”, đây là Hoàng thượng ăn, do đầu bếp trong cung làm. Ba bữa, bất luận là bữa sáng, bữa trưa, bữa tối, đều là một trăm món. Vì thế đĩa thức ăn đó rất nhỏ, giống như đĩa đựng nước chấm vậy, rất nhỏ, tôi đã thấy qua. Trước kia tôi đến thăm Bắc Kinh, có người bạn: từng là Đại sứ tại Úc, chúng tôi có quen biết, sau này về hưu rồi, biết tôi đang ở Bắc Kinh, nên gọi điện thoại tìm tôi, mời khách. Mời đến đâu? Mời đến nhà ông ấy, ăn tối. Tôi cũng không muốn tới, đều là đĩa thức ăn nhỏ, đã làm hơn 40 món, khách thì một mình tôi, chỉ hai người chúng tôi ăn. Đó chính là đầu bếp trong cung, năm đó tôi đã thấy được cung điện trong hoàng cung, “bá vị ẩm thực”.

          Tiếp theo, 又《大論》曰Hựu Đại Luận viết” (Và Đại Luận nói), Đại Luận là Luận Đại Trí Độ, 有人言,能以百種羹供養,是名百味。餅種數五百,其味有百,是名百味」。Hữu nhân ngôn, năng dĩ bá chủng canh cúng dường, thị danh bá vị. Bính chủng số ngũ bá, kỳ vị hữu bá, thị danh bá vị ” (Có người nói: Có thể dùng một trăm loại canh cúng dường, thì gọi là trăm vị. Số loại bánh có năm trăm, vị bánh có trăm, đó là trăm vị). Đó là Luận Đại Trí Độ, có cách nói như vậy. “Có thể dùng trăm loại món canh”, chính là đại biểu những bát đĩa: đựng đồ ăn được bày trên bàn ăn, cũng có món canh nữa, đây là chỉ cúng dường lớn, cúng dường lớn trong các pháp hội lớn; “Số loại bánh có 500 loại”, đây là điểm tâm, vị thì có một trăm loại khẩu vị, số lượng là 500 loại, có 100 loại vị. Có người nói, 有人言:百種藥草藥果作歡喜丸,是名百味Hữu nhân ngôn: bá chủng dược thảo dược quả tác hoan hỉ hoàn, thị danh bá vị” (Có người nói: trăm loại hoa quả thảo dược làm thành viên Hoan Hỷ, đó là trăm vị), đây cũng giống như là một trong những loại đồ ăn, đồ ăn này được làm bởi dược liệu, cũng được gọi là trăm vị. 按菩薩之果報Án Bồ-tát chi quả báo” (Căn cứ theo quả báo của Bồ-tát), trong quả báo đặc biệt là nói: ‘thực’, đồ ăn, 與神通變化食,有無量味Dữ thần thông biến hóa thực, hữu vô lượng vị” (Nương theo thần thông biến hóa đồ ăn, có vô lượng vị). Trăm vị này là Đế vương thế gian, Phật Bồ-tát thì khác, quý ngài thần thông biến hóa, không chỉ trăm vị mà vô lượng vị. 彼土甘露味食,焉可思議Bỉ độ Cam lộ vị thực, yên khả tư nghì” (Cõi đó món ăn Cam lộ, sao có thể nghĩ bàn), đó đều là đồ ăn thức uống của Thế giới Cực Lạc, chúng ta không cách gì tưởng tưởng, cũng không cách nào nói rõ ràng. 所謂百味者,只是順此方習俗耳Sở vị trăm vị giả, chỉ thị thuận thử phương tập tục nhĩ (Nói trăm vị chỉ là thuận theo tập quán nơi đây thôi). Đó là thuận theo tập quán của người Trung Hoa, Đế vương Trung Hoa mỗi bữa là 100 vị (100 loại khẩu vị). Đây là thuận theo tập quán của nơi này.

          Câu tiếp theo, 實無食者Thật vô thực giả” (Thật ra không ăn). Thật sự mà nói, quý ngài không cần ăn uống. Vậy tại sao lại có những hiện tượng này? Là tập khí. Đến Thế giới Cực Lạc, nghĩ đến hình như rất lâu rồi chưa ăn cơm, khi nghĩ vậy thì đồ ăn liền hiện ra; Lại nghĩ, đây là Thế giới Cực Lạc, không cần những điều này, thì liền chẳng có nữa. 因彼土眾生,蓮花化生,清虛之身,無極之體,本無饑渴之苦Nhân bỉ độ chúng sanh, liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân, vô cực chi thể, bổn vô cơ khát chi khổ” (Bởi chúng sanh cõi ấy do liên hoa hóa sanh, thân thanh hư, thể vô cực, vốn không có nỗi khổ của đói khát), quý ngài sẽ không đói, sẽ không khát nước, vì vậy quý ngài không cần ăn uống, 故無食者Cố vô thực giả” (Nên không ăn uống), người Thế giới Cực Lạc không cần ăn uống. Nhưng mà người vừa mới vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, tập khí đó của các ngài chưa quên hẳn, sao lâu vậy rồi mà chưa ăn cơm? Khi động ý niệm này, thức ăn liền hiện ra. 但為意樂而食也Đãn vi ý lạc nhi thực dã” (Chỉ là ý vui thích mà ăn), khi ngài thấy được đồ ăn đó, thấy được màu sắc của đồ ăn, thấy sắc ngửi hương, bằng với đã ăn no rồi. Không như nơi đây của chúng ta, thật sự phải khiến dạ dày phải tiêu hóa, dạ dày của các ngài: chẳng làm việc tiêu hóa này, cho nên thân thể khỏe mạnh. 故見色聞香,以意為食,非真食也。又此妙食,具增上用Cố kiến sắc văn hương, dĩ ý vi thực, phi chân thực dã. Hựu thử diệu thực, cụ tăng thượng dụng” (Nên thấy sắc ngửi hương, dùng ý để ăn, không thật sự ăn. Mà lại đồ ăn kỳ diệu này, có đủ tác dụng làm tăng thêm), đồ ăn cũng có tác dụng, là tác dụng gì? 能增色力Năng tăng sắc lực” (Có thể tăng trưởng thể lực nhan sắc), thấy sắc ngửi hương, nhan sắc của thân thể đặc biệt rạng rỡ; Lực này là thể lực, thể lực càng mạnh. Bởi vì các ngài không có ăn thật, nên các ngài không có bài tiết dơ bẩn. 復顯彼土一切悉皆超世希有Phục hiển bỉ độ nhất thiết tất giai siêu thế hy hữu” (Lại hiển bày tất cả mọi thứ cõi đó đều vượt hơn thế giới này và hiếm có), siêu vượt thế giới này của chúng ta, vô cùng hiếm có.

    又食者身心柔軟,於此妙味亦無貪著“Hựu thực giả thân tâm nhu nhuyễn, ư thử diệu vị diệc vô tham trước ” (Lại nữa thân tâm người ăn nhu hòa dẻo nhẹ, đối với diệu vị này cũng không tham trước). Tuyệt không có nói, món này ngon ăn nhiều một miếng, món kia không ngon thì bỏ đi không ăn nữa, không có. Vì sao vậy? Đoạn tuyệt loại ý niệm này rồi, ý niệm chọn lựa, tốt xấu không còn nữa, được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Chẳng những thanh tịnh bình đẳng, mà còn Giác thì không mê, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, kiến tánh thành Phật, quý ngài ở trong cảnh giới của Phật. 於所受用,皆無攝取Ư sở thọ dụng, giai vô nhiếp thủ” (Với những điều được hưởng thụ, đều không nhiếp thủ), đều không nhiếp thủ này, chính là những câu tiếp theo đây, 又云:捨離一切執著Hựu vân: xả ly nhất thiết chấp trước” (Và nói: xả lìa tất cả chấp trước), quý ngài không có chấp trước. Đây là hiện nay chúng ta cần học tập, mọi nơi mọi lúc, mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, hết thảy không chấp trước; Kể cả ý, chính là có ý niệm, ý niệm còn nghĩ đến Phật Pháp, không chấp trước. Tán thán, vui mừng đối với tất cả kinh giáo, cung kính, tán dương đối với toàn bộ pháp môn, pháp pháp bình đẳng, không có cao thấp. Một tâm nguyện này, hy vọng Phật Pháp Đại Tiểu-thừa: đều có thể nhanh chóng phục hưng đi lên. Tôi cũng thường khích lệ mọi người, đặc biệt là những vị trẻ tuổi, nên phát tâm học tập kinh giáo, ưa thích Tông phái nào thì quý vị nghiêm túc học tập; Ưa thích pháp môn nào thì trong pháp môn đó, phải ra sức nỗ lực trên kinh luận chủ tu. Mỗi một bộ kinh luận đều có người truyền thừa, thì Phật Pháp hưng vượng rồi.

          Khi tôi còn trẻ, tôi nhớ được lúc hơn 40 tuổi, Pháp sư Tinh Vân xây dựng Phật Quang Sơn, đã sáng lập Học viện Phật Giáo Đông Phương, mời tôi đến làm Chủ nhiệm Giáo vụ. Lúc đó, ngài có hơn 130 học viên, tôi kiến nghị với ngài, chia học viên ra từng nhóm, chia 3 người một nhóm nhỏ, nhóm nhỏ này chuyên chú một bộ kinh, thời gian học tập 10 năm. Hơn 130 người, có thể chia thành 40 tổ, cũng chính là nói 40 bộ kinh luận. Ba người chuyên chú, chỉ hy vọng có một người học được, thì Phật Quang Sơn đã có 40 bộ Đại kinh Đại luận, vậy là thật sự Phật quang phổ chiếu thế giới. Pháp sư Tinh Vân không thể tiếp nhận kiến nghị của tôi, ngài nói làm như vậy không giống trường học. Tôi liền nói với ngài, giống trường học thì không dạy ra nhân tài; Không giống trường học, mới xuất hiện nhân tài. Cuối cùng, tôi vẫn là rời khỏi. Phương pháp dạy học này của trường học, tôi biết cách đó sẽ không thành công. Một buổi sáng 3 môn học, 3 vị thầy dạy, chương trình dạy học khác nhau, đầu óc học viên học mơ mơ màng màng, điều này chưa tiếp thu hết, lại tới điều kia. Đến khi về già, chúng tôi gặp mặt, ngài hối hận rồi. Hối hận không còn kịp nữa, lúc đó chúng tôi cùng là 40 tuổi, hai người chúng tôi bằng tuổi, nháy mắt đã trôi qua hơn 40 năm. Nếu lúc đó, ngài giữ tôi ở Phật Quang Sơn, thì Phật Quang Sơn xuất hiện ít nhất cũng có 3, 40: Pháp sư giảng kinh.

          Phật Pháp phải học với lão Tổ tông, không phải học với người hiện đại. Phương pháp dạy của lão Tổ tông là chính xác, dạy học một đối một, hơn nữa chỉ là một bộ, không có học hai bộ. Hai bộ, trừ khi bộ này quý vị: đã hoàn thành, thật sự thành công, ở trong đây khai ngộ, chí ít cũng là Tiểu ngộ. Tiểu ngộ là A-la-hán, Đại ngộ là Bồ-tát, Đại triệt Đại ngộ là thành Phật, là Pháp-thân Bồ-tát. Thật có kết quả! Tôi vô cùng đáng tiếc, không có phước báo. Chúng tôi cùng tuổi, ngài thấy được tôi thân thể tốt hơn ngài, hỏi tôi bảo dưỡng thế nào? Tôi nói tôi vô sự, việc của ngài quá nhiều rồi. tôi hỏi ngài xây dựng bao nhiêu ngôi chùa? Toàn thế giới xấp xỉ gần 300 ngôi chùa, nhiều lo nghĩ! Tôi nói tôi đến bây giờ một ngôi chùa cũng không có. Cả đời tôi không lo nghĩ, vĩnh viễn gìn giữ: không quản người, không quản việc, không quản tiền, ba điều không quản, thật sự có thể buông xuống. Buông xuống này, do Đại sư Chương Gia dạy; 一門深入,長時薰修」Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài), do lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam dạy, không phải do tôi phát minh, thật có hiệu quả, thật hiệu nghiệm.

          Cho nên một câu nói ở chỗ này, câu nói này cũng là kinh văn, 捨離一切執著Xả ly nhất thiết chấp trước” (Xả ly tất cả chấp trước), quan trọng hơn bất cứ điều gì. Có một việc chấp trước không buông được, lúc mạng sắp hết, cầu vãng sanh cũng sinh ra chướng ngại, thì quý vị không đi được. Tài sắc danh ăn ngủ, là năm gốc của Địa Ngục, bảy tình năm dục là gốc căn bản của sáu đường luân hồi, không buông xuống những điều này. Làm sao quý vị có thể đi được chứ? Tiếp theo nói, 故無所味著也Cố vô sở vị trước dã” (Nên không bị tham luyến bởi mỹ vị). Những mỹ vị này, nếu quý vị hỏi quý ngài, quý ngài không còn phân biệt, quý ngài không còn chấp trước. “Vô sở vị” là không có phân biệt, “trước” là không có chấp trước. Chúng ta ở trong sinh hoạt thường ngày, ăn cơm mặc áo, nhà cửa nơi ở, phải có thể làm đến “vô sở vị trước”, thì có thể được công phu thành phiến, thì có thể được Nhất tâm Bất loạn. Lão Hòa thượng Hải Hiền: làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta, tôi cảm thấy chính là, khi ngài 25 tuổi đạt công phu thành phiến, 30 tuổi được Sự-nhất-tâm bất loạn; Nhiều nhất là 40 tuổi, được Lý-nhất-tâm bất loạn, chính là Minh tâm Kiến tánh rồi. Ngài không phải Đốn ngộ là Tiệm ngộ, Lục tổ Huệ Năng là Đốn ngộ, nhưng mà sau khi ngộ nhập, cảnh giới bình đẳng, không có cao thấp. Cho nên ăn xong tự nhiên biến mất, lúc muốn ăn thì lại xuất hiện, 一切自在無礙Nhất thiết tự tại vô ngại” (Tất cả tự tại vô ngại). Nêu ra một ví dụ, đồ ăn tự tại; Y phục tự tại, không có điều gì không tự tại.

          Chúng ta lại xem một đoạn tiếp theo của Niệm lão, 又此經文,正顯《往生論》中莊嚴受用功德成就。偈云Hựu thử kinh văn, chánh hiển Vãng Sanh Luận trung trang nghiêm thọ dụng công đức thành tựu. Kệ vân” (Và kinh văn này, Thật sự hiển bày công đức thành tựu trang nghiêm hưởng thụ trong Luận Vãng Sanh. Kệ nói:). Đây là do Luận Vãng Sanh nói: 愛樂佛法味,禪三昧為食。」Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội vi thực” (Yêu thích pháp vị của Phật, lấy Thiền tam-muội làm thức ăn). Đây là dùng trời Sắc-giới thế gian của chúng ta này, người trời Sắc-giới. Sắc-giới là 18 tầng trời Tứ-thiền, người của 18 tầng trời này, họ không cần ăn uống, họ dùng điều gì? Tam-muội làm thức ăn, tam-muội là Thiền định. Chúng ta ở thế gian này, chúng tôi chưa thấy qua, nhưng đã nghe nói qua, lão Hòa thượng Hư Vân. Khi ngài nhập định, một tháng, nửa tháng rất bình thường, ngài ở trong Thiền định, khi xuất định, cảm giác là thời gian rất ngắn. Có một năm thời điểm Tết, trước Tết đại khái trước một, hai ngày, ngài ở am tranh, am tranh cách chùa không xa, mang theo một ít đồ ăn ở trong chùa, bỏ vào trong nồi, đốt lửa đun nấu, chậm rãi ngài đang đợi nồi nóng lên, còn có một ít thời gian, ngài liền ngồi ở bên cạnh, khi ngồi đó thì nhập định rồi. Đến qua năm mới, đã qua mười lăm, đại khái tổng cộng hơn 20 ngày, rất nhiều người không thấy lão Hòa thượng đi ra, thì đến am tranh để xem ngài. Thấy ngài đang nhập định, liền dùng khánh ghé bên tai ngài gõ nhẹ, đó chính là gọi ngài xuất định. Ngài nghe tiếng vang của khánh thì ngài xuất định. Xuất định, thấy được mọi người, các vị sao lại đến nơi tôi đây? Tôi còn chưa nấu xong khoai môn này, đến đây, mở ra cùng nhau ăn. Kết quả vửa mở nắp nồi ra, khoai môn mọc rễ dài rồi. Ngài chỉ là cảm giác được thời gian hơn 10 phút, mà trên thực tế, mọi người nói với ngài, ngài đã nhập định xấp xỉ hơn mười mấy ngày, gần 20 ngày. Trong định không còn thời gian, không có trước sau; trong định không còn không gian, không có xa gần.

          Vì vậy người niệm Phật vãng sanh Thế giới Cực Lạc, hoa sen hóa sanh, là Thiền tam-muội, không phải do chính mình tu,  mà là do A Mi Đà Phật đã tu. Nguyện của A Mi Đà Phật phát, đem công đức mà Ngài tu: gia trì cho người vãng sanh, để cho người vãng sanh: ở trong một sát-na đó, chuyển tám thức thành bốn trí, thể xác này sinh ra biến hóa, không có nữa, mất rồi, thân xác vốn là không, mất rồi; Thân còn lại, là thân Pháp-tánh, là do tâm hiện, chỉ do tâm hiện, là thân đó, thân chỉ do thức biến không còn nữa, không thấy nữa. Thân chỉ do thức biến cần ăn uống, giống như chúng ta ở trong sáu đường luân hồi phải ăn uống, là thân sanh diệt. Chỉ do tâm hiện thì không sanh không diệt, không cần ăn uống. Cho nên trong Luận Vãng Sanh nói rất hay, quý vị xem, 愛樂佛法味ái nhạo Phật Pháp vị” (yêu thích pháp vị của Phật), không phải trăm vị, không phải vô lượng vị, mà là pháp vị. Pháp vị là thế nào? Là Thiền tam-muội. Cho nên vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, chư vị nhất định phải biết, nơi đó thật sự vô lượng thọ. Tại vì sao? Vì không có thời gian. Quý ngài có thể trở về đến quá khứ, quý ngài có thể đi vào tới tương lai, quá khứ, tương lai ở đâu? Ngay tại lúc này, quý ngài có thể thấy được, quý ngài có thể nghe được, các ngài có thể tiếp xúc được. Không có thời gian, không có thời gian thì không có trước sau, các ngài có thể quay về đến 2000 năm trước, pháp hội giảng kinh này của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, các ngài đến xem một chút, thì ngay ở trước mắt; Các ngài cũng có thể đến tương lai, hiện tại là công nguyên năm 2015, 20015 năm sau, thì tình hình thế nào, các ngài ở trước mặt thì thấy được rồi, thời gian không gian chẳng thấy nữa. Thời gian không gian là giả, là chúng ta mê mất Tự tánh, cho rằng có thời gian không gian, thời gian không gian là do từ vọng tưởng sanh, do từ tâm tưởng sanh. Quý vị không sanh, không có tâm tưởng này, thì không có nữa.

          Luận Chú là do Pháp sư Đàm Loan trước tác, nói rất hay,  是故興大悲願Thị cố hưng đại bi nguyện” (Là do hưng khởi nguyện Đại bi), hưng là hưng khởi, đã động ý niệm này, Đại bi nguyện. Là do hưng khởi đại bi nguyện, do ai hưng khởi? A Mi Đà Phật, ở địa vị tu nhân, lúc đó là Tỳ-kheo Pháp Tạng. Ngài nói: 願我國土,以佛法、以禪定、以三昧為食。絕他食之勞Nguyện ngã quốc độ, dĩ Phật Pháp, dĩ Thiền-định, dĩ tam-muội vi thực. Vĩnh tuyệt tha thực chi lao” (Nguyện cõi nước con, lấy Phật Pháp, lấy Thiền-định, lấy tam-muội làm thức ăn. Vĩnh viễn dứt tuyệt sự nhọc nhằn của sự ăn uống). Nguyện này thực hiện rồi, thực hiện ở Thế giới Cực Lạc, cho nên các ngài không cần lao động. 愛樂佛法味Ái nhạo Phật pháp vị” (Yêu thích Phật Pháp vị), một câu này, 如日月燈明佛說《法華經》」Như Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật thuyết Kinh Pháp Hoa(Như đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết Kinh Pháp Hoa), nói bao lâu? 六十小劫Lục thập tiểu kiếp” (60 tiểu kiếp). 60 tiểu kiếp đó, 時會聽者Thời hội thính giả” (Người nghe trong hội lúc đó). Lúc ấy những thính chúng tham gia pháp hội đó, 亦坐一處Diệc tọa nhất xứ”(Cũng ngồi một chỗ).  六十小劫Lục thập tiểu kiếp” (60 tiểu kiếp), cũng ngồi cùng nghe, cũng trải qua 60 tiểu kiếp, 謂如食頃。無有一人,若身若心,而生懈倦Vị như thực khoảnh. Vô hữu nhất nhân, nhược thân nhược tâm, nhi sanh giải quyện” (Cho là như thời gian ăn cơm, không có người nào, hoặc thân hay tâm, mà sanh mỏi mệt biếng trễ). 60 tiểu kiếp là một niệm, thời gian không còn nữa, cho nên những người ấy, những vị thính chúng nghe Phật, 60 tiểu kiếp nói xong kinh đó rồi, lúc đứng lên, thì giống như ăn một bữa cơm vậy, thời gian rất ngắn, không có một người nào thân thể có mệt mỏi, hoặc là trong tâm có ý niệm, không có, không có lười biếng, không có mệt mỏi, “pháp vị vi thực”. Đây là vị của giảng pháp, nghe Kinh Pháp Hoa là pháp vị, pháp hỷ sung mãn, pháp vị là thức ăn.

    以禪定為食者,謂諸大菩薩常在三昧,無他食也Dĩ Thiền-định vi thực giả, vị chư đại Bồ-tát thường tại tam-muội, vô tha thực dã” (Lấy Thiền-định làm thức ăn, là chư Đại Bồ-tát luôn ở trong tam-muội, không ăn uống gì khác). Tam-muội chính là định. Những gì mà các Bồ-tát ấy tu là Đại định, là Tự tánh vốn định. Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta, Tự tánh, Tự tánh là Chân tâm, Chân tâm của chính mình là hình dạng thế nào, ngài đã nói cho chúng ta năm sự việc, đã nói hết năm sự việc này rồi. Sau khi Ngũ tổ nghe xong, đã truyền Y bát cho ngài, ngài đã tốt nghiệp rồi. Thật sự thấy được Tự tánh, thật sự thấy được Chân tâm, hình dáng của Chân tâm là thế nào? Thứ nhất là thanh tịnh, 本自清淨Bổn tự thanh tịnh” (Vốn tự thanh tịnh); Thứ hai là, 本不生滅Bổn bất sanh diệt” (Vốn không sanh diệt); Thứ ba là, 本自具足Bổn tự cụ túc” (Vốn tự đầy đủ), đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng tốt; Câu thứ năm, 本無動搖Bổn vô động diêu” (Vốn không dao động), đó chính là Tự tánh vốn định, Chân tâm chưa từng động, chưa từng lay động, đây là Chân tâm, cho nên nếu chúng ta muốn tìm ra Chân tâm, thì dùng phương pháp nào? Định, chính là chẳng dao động, không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu; Cuối cùng, Chân tâm khởi tác dụng, 能生萬法Năng sanh vạn pháp”(Có thể sanh ra vạn pháp), vạn pháp là vũ trụ.

          Toàn bộ vũ trụ này từ đâu mà đến? Do tâm hiện. Nhưng Nhất chân Pháp giới mà tâm hiện, ngày nay chúng ta không thấy được, ngày nay chúng ta thấy được là do thức biến, sáu đường luân hồi do tám thức biến. Mê quá sâu rồi, ngay cả chỗ ở của thiên nhân trời Sắc-giới, chúng ta cũng không thấy được. Tu một chút định nhỏ, thì có thể thấy trời Sắc-giới, thấy trời Vô-sắc-giới; Tu định lớn, thì có thể thấy được mười pháp giới; Đại triệt Đại ngộ, thì siêu vượt rồi, vượt khỏi mười pháp giới. Mười pháp giới là giả, mười pháp giới không phải là thật, 凡所有相皆是虛妄Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Phàm hễ có tướng đều là hư vọng),  không có nói mười pháp giới là ngoại lệ, mà tất cả bao gồm trong đó, hết thảy là giả, hư huyễn không thật. Nói cách khác, bảo chúng ta triệt để buông xuống, nhất định không thể có tâm tham, có tham trước. Sự nghiệp, người học Phật đều làm việc tốt, việc tốt tùy duyên, không nhất định là tôi cần phải làm việc đó thành công, nhất định phải làm thành như nào như nào, đó là quý vị có phân biệt, có chấp trước, lại có vọng tưởng lại có tạp niệm,

quý vị hoàn toàn là dùng tâm luân hồi, thì quý vị sai rồi. Đoạn ác tu thiện, đều không để ở trong tâm, vậy thì đúng rồi.

          Chúng ta xem văn chữ tiếp theo, văn chữ này của Niệm lão chú giải, 以禪定為食者,謂諸大菩薩常在三昧,無他食也Dĩ Thiền-định vi thực giả, vị chư đại Bồ-tát thường tại tam-muội, vô tha thực dã” (Lấy Thiền-định làm thức ăn, là chư đại Bồ-tát luôn trong tam-muội, không ăn uống gì khác). Điều này dễ hiểu. 三昧者,彼諸人天“Tam-muội giả, bỉ giả nhân thiên”(Tam-muội là, chư trời người cõi ấy), chữ “bỉ” là Thế giới Cực Lạc, người trời của Thế giới Cực Lạc, đó là vãng sanh Đồng-cư-độ, thân phận là trời người. Trời người mới cần đồ ăn, mới có thể nhớ tới sự việc này. Nếu muốn đến trong Phương-tiện-độ, thì không thể sanh khởi ý niệm này, đã tẩy trừ sạch sẽ ý niệm này, không còn ý niệm đó nữa. Nhưng ở trong Đồng-cư-độ, có tập khí này, có lúc khởi lên; Nhớ tới, đồ ăn thức uống liền bày ở trước mặt. Bày ở trước mặt lúc này mới nghĩ đến, tôi đã ở Thế giới Cực Lạc, thân thể của tôi đây:  không phải thân nghiệp báo, không phải chỉ do thức biến, không cần phải ăn uống nữa, thì không có nữa. Cho nên một niệm giác, thì đồ ăn không còn nữa. Một niệm mê, thì cảnh đó liền đến.  若須食時,百味嘉肴羅列在前。眼見色,鼻聞香,身受適悅,自然飽足。訖已化去Nhược tu thực thời, bá vị gia hào la liệt tại tiền. Nhãn kiến sắc, tỵ văn hương, thân thọ thích duyệt, tự nhiên bão túc. Ngật dĩ hóa khứ” (Nếu lúc cần ăn, trăm vị món ngon bày ra ở trước. Mắt thấy sắc, mũi ngửi hưởng, thân được thoải mái dễ chịu, tự nhiên no đủ. Đã ăn xong rồi thì  biến mất). Đây đại khái đều là: vừa mới đến Thế giới Cực Lạc, thời gian rất ngắn, vẫn còn tập khí đó. Thời gian ở Thế giới Cực Lạc lâu rồi, thì tập khí không còn, sẽ không nghĩ tới những điều này nữa. 若(再)須(則)復現Nhược (tái) tu phục (tắc) hiện” (Nếu lại cần thì lại hiện ra), điều đó lại hiện ra. 其事在經Kỳ sự tại kinh” (Việc này trong kinh), trên kinh Phật có nói, thật có những người này, người tập khí rất nặng. 是故言愛樂佛法味,禪三昧為食Thị cố ngôn ái nhạo Phật Pháp vị, Thiền tam-muội vi thực” (Cho nên nói yêu thích pháp vị của Phật, [lấy] Thiền tam-muội làm thức ăn), đây là khích lệ đồng tu học Phật, chúng ta phải yêu thích pháp vị của Phật, pháp vị của Phật: vượt qua tất cả mỹ vị của thế gian, phải nghĩ tới Thiền tam-muội làm thức ăn. Điều này tốt, cũng chính là nói tu định.

          Chúng ta tu định, là dùng niệm Phật tu định. Học lão Hòa thượng Hải Hiền, chỉ một câu Phật hiệu, ngài đã định ở trên câu Phật hiệu. Định thành tựu rồi, gọi là niệm Phật tam-muội. Thành phiến là hạng mới vào niệm Phật tam-muội, không thể nói không phải tam-muội, là niệm Phật tam-muội. Sự-nhất-tâm bất loạn, Lý-nhất-tâm bất loạn, đó là niệm Phật tam-muội thật sự. Được Sự-nhất-tâm thì sanh Phương-tiện-độ; Được Lý-nhất-tâm thì sanh Thật-báo-độ. Mà dù là Tiểu quả trời người, phẩm vị thấp nhất ở Thế giới Cực Lạc, thế nhưng đãi ngộ ở Thế giới Cực Lạc bình đẳng với: cao nhất của Thập-địa Bồ-tát, Đẳng-giác Bồ-tát, điểm này phải biết, vì sao đi đến Thế giới Cực Lạc? Chính bởi điều này. Thế giới phương khác phải dựa vào công phu tu hành của chính mình, còn Thế giới Cực Lạc là nhờ vào nguyện lực của A Mi Đà Phật, gia trì của A Mi Đà Phật, không phải công phu của chính mình, điều này phải nên hiểu, chẳng thể không biết. Kinh văn, luận văn, Chú Giải của Niệm lão, từng câu từng chữ đều khuyên bảo chúng ta, phải phát Chân tâm, niềm tin chân thành; Phải phát tâm nguyện, nguyện sanh Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc quá tốt, thật sự không có chướng ngại nào. Đến nơi đó, người nào cũng thành Phật, chưa thành Phật thì quý vị sẽ không rời khỏi giảng đường, thành Phật thì rời khỏi giảng đường.

          Chúng ta tiếp tục xem đoạn sau đây, điều này chia ra để nói, 衣自在Y tự tại” (Y phục tự tại). 復有眾寶妙衣。】 Phục hữu chúng bảo diệu y” (Lại có các thứ y phục báu kỳ diệu). Thế giới Cực Lạc không rời khỏi “báu”, dùng “báu” để hình dung. 冠帶。】“Quan đới”. “Quan” là mũ đội trên đầu, “đới” là dây lưng cài. 瓔珞。】 Anh lạc” :  là trang sức đeo trước ngực. 無量光明。百千妙色。悉皆具足。自然在身。】 Vô lượng quang minh. Bá thiên diệu sắc. Tất giai cụ túc. Tự nhiên tại thân” (Vô lượng quang minh, trăm ngàn màu sắc vi diệu, tất cả đều đầy đủ, tự nhiên ở trên thân).

          Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. Phía trước có một đoạn nói rõ: 衣飾受用自在Y sức thọ dụng tự tại” (Y phục trang sức hưởng thụ tự tại), “sức” là trang sức. 冠者,帽也。帶者,衣帶。瓔珞者,印度貴人男女,編玉以懸於身為飾,名瓔珞」。Quan giả, mạo dã. Đới giả, y đới. Anh lạc giả, Ấn Độ quý nhân nam nữ, biên ngọc dĩ huyền ư thân vi sức, danh anh lạc” (Quan là mũ, đới là dây thắt lưng. Anh lạc là trang sức mà nam nữ quý tộc ở Ấn Độ kết ngọc để đeo lên thân, gọi là anh lạc). Mang vòng tay, vòng cổ,  những thứ này gọi là “anh lạc”. 如是衣飾皆以眾寶合成,故云眾寶妙衣等等Như thị y sức giai dĩ chúng bảo hiệp thành, cố vân chúng bảo diệu y đẳng đẳng” (Y phục trang sức như vậy đều lấy các trân bảo hợp thành, nên gọi là chúng bảo diệu y vân vân). Ở Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc nhiệt độ trong ngày có thay đổi không? Không có. Vì sao vậy? Không có nghe nói ở đó có xuân hạ thu đông, ở đó không có bốn mùa. Vì vậy y phục của quý ngài, thay đổi rất tự nhiên theo môi trường, đều rất là thích hợp, mặc trên người đều tương ứng với: hoàn cảnh tự nhiên. Anh lạc trang điểm trên thân, giống như ở trong tượng Phật mà chúng ta thấy được, vẽ anh lạc toàn thân. 以由寶所成故,光色微妙,如《觀經》云一一寶中有五百色光,是故無量光明Dĩ do bảo sở thành cố, quang sắc vi diệu, như Quán Kinh vân nhất nhất bảo trung hữu ngũ bá sắc quang, thị cố vô lượng quang minh” (Do vì [trân] bảo hợp thành, nên quang minh màu sắc vi diệu, như Quán Kinh nói trong mỗi một bảo có 500 màu sắc quang minh, nên có vô lượng quang minh), được nói trong Quán Kinh. Quán Kinh là làm tài liệu dạy bổ sung: của Kinh Vô Lượng Thọ, trong đó nói được chi tiết tỉ mỉ. 又云一一光明八萬四千色,是故百千妙色。所云百千者,蓋極言其多也Hựu vân nhất nhất quang minh bát vạn tư thiên sắc, thị cố bá thiên diệu sắc. Sở vân bá thiên giả, cái cực ngôn kỳ đa dã” (và nói mỗi mỗi quang minh có 84 ngàn màu sắc, cho nên có trăm ngàn diệu sắc. Điều mà nói trăm ngàn là: đại khái số nói đó nhiều vậy), thật sự nói, vô lượng quang minh. 又色中復放光明」。Hựu sắc trung phục phóng quang minh” (Và trong mỗi màu sắc lại phóng quang minh).

          Chúng ta thấy được ở trong Quán Kinh, Báo-thân của A Mi Đà Phật, trên bộ kinh này không nói tỉ mỉ, thân của A Mi Đà Phật nói trên Quán Kinh, thân có 84 ngàn tướng, không phải 32 tướng 80 loại vẻ đẹp. Chúng ta giảng trong kinh này, 32 tướng 80 loại vẻ đẹp, là do tùy thuận tập quán của Ấn Độ thời đó; Quán Kinh thì không như vậy, Quán Kinh là thuận theo: những điều mà Phu nhân Vy Đề Hy thấy được. Phật dùng thần thông hiện ra Thế giới Cực Lạc, cho Phu nhân Vy Đề Hy thấy, để cho bà lựa chọn. Bà thấy được rất nhiều thế giới chư Phật, cuối cùng chọn đúng Thế giới Cực Lạc, Phật khen ngợi bà. Bà thấy được Báo-thân của A Mi Đà Phật, thân có 84 ngàn tướng, mỗi tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp phóng 84 ngàn ánh sáng, trong mỗi ánh sáng cũng thấy được: chư Phật mười phương ở trong đó làm Phật sự. Làm Phật sự chính là dạy học, giáo hóa chúng sanh. Phật sự là sự nghiệp của Phật, Phật làm sự nghiệp gì? Dạy học, giảng kinh, đó là Phật sự.

          Đây là do Tiên sinh Phương Đông Mỹ nói với tôi, tôi học Triết học với ngài, năm đó tôi 26 tuổi, Bài mục cuối cùng trong khóa trình này của chúng tôi: là Triết Học Kinh Phật. Lúc đó tôi rất hoài nghi, tôi nói Phật giáo là Tôn giáo, Tôn giáo đều là mê tín, Làm sao mà có Triết học? Huống chi Phật giáo là Đa thần giáo, Đa thần giáo có nghĩa: là Tôn giáo cấp thấp ở trong Tôn giáo, Tôn giáo cao cấp chỉ có một Chân Thần, không có nhiều như vậy. Trong Phật giáo, cúng bái quá nhiều Phật Bồ-tát, cho nên khiến cho người thấy được là Tôn giáo cấp thấp. Thầy nói với tôi, ngài nói: “Con còn trẻ, con không biết, đức Thích Ca Mâu Ni Phật là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới”. Chúng tôi học Triết học, đang thảo luận Triết học. “Kinh điển Đại-thừa là: đỉnh cao của Triết học toàn thế giới”. Trước giờ chúng tôi chưa nghe ai nói qua, thầy Phương giới thiệu cho tôi như vậy. Lại nói với tôi: “Học Phật là hưởng thụ cao nhất của đời người”. Bài mục này khiến tôi: sinh ra hứng thú đối với Tôn giáo, đã có lòng tin đối với Phật giáo. Thầy dặn dò tôi, ngài nói: “Phật giáo của hiện tại không ở chùa chiền”. Tôi nói: “Vậy ở đâu?” “Ở kinh điển”. Tôi nói tại vì sao? Thầy nói với tôi, 200 năm trước, chùa chiền lớn nhỏ của nước ta, bất luận thành phố hoặc là nông thôn, người xuất gia đều giảng kinh, đều dạy học. Giáo dục Tôn giáo, do Hoàng thượng trực tiếp quản lý; Nho giáo giao cho Tể tướng, Phật giáo và Đạo giáo Hoàng thượng tự mình phụ trách. Cho nên cung điện của Phật giáo và Đạo giáo, cũng được phép xây dựng theo hình thức giống Hoàng cung vậy, dùng gạch vàng, tường đỏ, đều có thể dùng, bởi vì đó là thầy của Hoàng thượng, được phép dùng. Người thời đó thật làm, thật có học vấn, thật có đức hạnh. Ngài nói hiện nay người xuất gia, họ không học kinh giáo nữa, trong chùa có thể cất giữ kinh điển, không có người đến học tập. Cho nên thầy nhắc nhở tôi, ở trong kinh điển mà học tập, điều này rất quan trọng.

          Làm thế nào phục hưng Phật giáo? Khôi phục dạy học, trở về giáo dục. Chẳng những Phật giáo, mà tất cả Tôn giáo đều phải nên trở về giáo dục, học tập lẫn nhau. Tôn giáo mới có thể giúp đỡ xã hội: hóa giải tất cả xung đột, tiêu trừ tất cả năng lượng tiêu cực, Tôn giáo có thể làm đến được, mang cho xã hội vĩnh viễn tiếp nối yên bình hài hòa. Cho nên, phải đem hai chữ “Tôn giáo”: giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ. Ông Toynbee nói, Tôn giáo là điều mà nhân loại phải cần, nhất định không thể thiếu khuyết. Người phương Tây hiện nay bỏ đi Tôn giáo, người phương Đông vứt bỏ giáo huấn Thánh hiền, bỏ đi văn hóa truyền thống, thì thế giới này sao mà không loạn được chứ? Quý vị muốn hỏi, tại vì sao thế giới này lại rối loạn như vậy? Chỉ là hai câu nói đơn giản này, người phương Đông không tin văn hóa truyền thống, người phương Tây không tin Tôn giáo, thì trái đất liền biến thành như vầy. Sau đó quý vị mới hiểu được, giáo dục Tôn giáo rất quan trọng. Người Trung Hoa có trí huệ, người nước ngoài rõ ràng rồi, không có ai không khâm phục, không khen ngợi. Chỉ cần xác định danh từ ‘Tôn giáo’ này, rất dễ dàng xem hiểu, thế nào gọi là Tôn giáo? Chữ “tôn” có ba ý nghĩa, là chủ yếu, quan trọng, tôn kính, có ba ý nghĩa đó; Chữ “giáo” cũng có ba ý nghĩa, giáo dục, giáo học, giáo hóa; Hai chữ Tôn giáo liền tạo thành, Tôn giáo là giáo dục chủ yếu, gọi là Tôn giáo, giáo học quan trọng gọi là Tôn giáo, giáo hóa tôn kính gọi là Tôn giáo. Điều này không được sao? Vì vậy lão Tổ tông nước ta rất tuyệt vời. Ở phía trên thêm hai chữ này, quý vị hoàn toàn hiểu rõ rồi, Tôn giáo là giáo dục chủ yếu của nhân loại, Tôn giáo là day học quan trọng của nhân loại, Tôn giáo là giáo hóa tôn kính của nhân loại. 

          Ở nước ta 5000 năm không gián đoạn, hiện tại thì đã đoạn, khi Mãn Thanh mất nước thì đoạn rồi. Trước khi Mãn Thanh mất nước, vẫn còn ảnh hưởng; 50 năm trước, đó là giáo dục Tôn giáo danh xứng với thực, người dân toàn quốc đều tiếp nhận, trên từ Đế vương, dưới đến thứ dân, chẳng ai không học, chẳng ai không tuân thủ, cho nên xã hội an định, Thiên hạ thái bình. Người Trung Hoa lơ là, người dẫn đầu đương nhiên là Thái hậu Từ Hy, sự dẫn đầu này rất không tốt. Sau khi bà chấp chính, cầm quyền, bà coi thường cổ Thánh tiên Hiền. Trong cung đình vốn là: lễ thỉnh chuyên gia học giả của Nho Thích Đạo, đến dạy học, hủy bỏ rồi, chẳng nghe nữa; Gặp chuyện khó khăn, bà lên đồng, bà thật làm mê tín. Vứt bỏ đi Tôn giáo chánh tín, bà làm mê tín, kết quả mất nước. Sau khi mất nước, xã hội Trung Hoa động loạn, quân Phiệt ly khai, và sau đó là chiến tranh Trung Nhật, lại tiếp tục giải phóng chiến tranh, cho nên đã vứt bỏ văn hóa truyền thống của Trung Hoa. Tiến sĩ Arnold J. Toynbee nói, muốn cứu thế giới, giải quyết vấn đề xã hội của: thế giới ở thế kỷ 21, chỉ có Học thuyết Khổng Mạnh Trung Hoa, và Phật Pháp Đại-thừa. Đây là điều mà một nhà Triết học Lịch sử: nổi tiếng thế giới nói, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực, nhanh chóng đem gốc của văn hóa nước ta tìm trở lại. Gốc là gì? Hiếu thân tôn sư. Nghiêm túc học tập, từ giáo dục cắm rễ, đó chính là từ nhi đồng dạy lên, hy vọng đời sau hưng thịnh hơn đời trước. Thật sự phục hưng trở lại, địa cầu này sẽ xuất hiện ngàn năm thịnh thế, thịnh thế đó không phải là cục bộ, không phải là một đất nước một khu vực, mà là toàn thế giới, văn hóa truyền thống nước ta, Phật Pháp Đại-thừa nước ta có thể mang đến cho toàn thế giới: an định hài hòa vĩnh viễn tiếp tục.

          Sau cùng, đây là trên Quán Kinh nói, việc phóng quang, chúng ta đọc một chút. 琉璃色中出金色光,玻璃色中出紅色光Lưu ly sắc trung xuất kim sắc quang, pha lê sắc trung xuất hồng sắc quang” (Trong màu lưu ly hiện ra ánh sáng màu vàng ròng, trong màu pha lê hiện ra ánh sáng màu đỏ). 等等Đẳng đẳng” “Vân vân”, đây là đã tỉnh lược. 故知光色重重無盡,如是衣飾,具足莊嚴,自然在身,非因造作Cố tri quang sắc trùng trùng vô tận, như thị y sức, cụ túc trang nghiêm, tự nhiên tại thân, phi nhân tạo tác” (Nên biết quang minh màu sắc trùng trùng vô tận, y phục trang sức như vậy, đầy đủ trang nghiêm, tự nhiên trên thân, không do tạo tác),  tất cả là tự nhiên. Thế giới Cực Lạc không có công nhân, không có công nhân may mặc làm y phục, nấu cơm cũng không có công nhân làm cơm, không có nông dân, hoàn toàn là biến hóa mà ra, không thể nghĩ bàn. Sau cùng nói một câu, mỗi người chúng ta đều có duyên phận: vãng sanh Thế giới Cực Lạc, vấn đề là quý vị có ý nguyện đi hay không? Mong muốn đi, tương lai đều đoàn tụ ở Thế giới Cực Lạc, đều sống ở Thế giới Cực Lạc. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.

( Hết tập 286)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam mô A Mi Đà Phật.

 

Trả lời 0