Responsive Menu
Add more content here...

Tập 313 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:

Ba Bậc Vãng Sanh

Tập 313

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 27 tháng 2 năm 2016.

Dịch giả: Minh Tâm và Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào: chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

          A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn.  (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 744, xem từ hàng thứ sáu:

《安樂集》續云:菩薩遠離如是三種菩提門相違法,即得三種隨順菩提門法。An Lạc Tập tục vân: Bồ-tát viễn ly như thị tam chủng Bồ-đề môn tương vi pháp, tức đắc tam chủng tùy thuận Bồ-đề môn pháp”. (Sách An Lạc Tập viết tiếp rằng: Bồtát xa lìa ba loại pháp trái nghịch với Bđề môn như vậy, liền được ba loại pháp thuận với Bđề môn). Xa rời ba loại tâm trái ngược với Bđề, phía trước đã nói rồi, thứ nhất là:Ngã tâm tham chấp thân mình”, thân kiến rất nặng, yêu mến thân thể chính mình, tham muốn lợi dưỡng, thế gian hiện nay người nào không có loại tâm này? Ngay cả trẻ nhỏ cũng có. Từ trẻ đến già, ai mà không tham chấp thân mình chứ? Chúng ta phải biết, hễ tham chấp thân mình tham danh văn lợi dưỡng, là trái ngược lại với đạo Bồ-đề; nói cách khác, họ không có cách nào học Phật, bất luận học pháp môn nào, ngay cả môn dễ hành khó tin, là pháp môn niệm Phật, đều không thể thành tựu, chúng ta phải biết điều này. Thứ hai chính là không có tâm từ bi, “vô an chúng sanh tâm”. Đệ tử nhà Phật nhất định phải có đại từ đại bi giống như Phật Bồ-tát, luôn luôn nhớ nghĩ giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui, giúp đỡ chúng sanh lìa khổ là tâm bi, giúp đỡ chúng sanh được vui là tâm từ, chúng ta có hay không? Chư Phật Bồ-tát, thiện hữu nhà Phật, khởi tâm động niệm chính là giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui, đó chính là an chúng sanh tâm. Nếu không có loại tâm này, thì không phải đệ tử Phật, dù cho ở trong nhà Phật, cũng là giả chứ không phải là thật. Thứ ba là: “Tâm cung kính cúng dường thân mình”, không phải cung kính cúng dường Tam Bảo, không phải cung kính cúng dường chúng sanh, mà là cung kính cúng dường chính mình, vậy thì sai rồi. Chúng ta phản tỉnh, học Phật mấy mươi năm, xuất gia rồi, sống trong đạo tràng của Phật Bồ-tát, ham muốn sự cung kính của người khác, ham muốn sự cúng dường của người khác, cung kính thuộc về tâm, cúng dường thuộc về thân, chú trọng về vật chất, có ý nghĩ như vậy là không tốt. Có ba việc đó, là không có tâm từ bi, có tâm ham muốn sự cung kính cúng dường, có tâm tham chấp thân của mình, đó là tâm của sáu đường luân hồi, không thoát ly được luân hồi, không thể không biết. Cho nên ba loại tâm đó, là quan niệm sai lầm, cần phải buông xả.

          Sau khi buông xả, thì quý vị liền đạt được ba loại pháp thuận theo Bồ-đề môn. Quý vị đạt được điều này rồi, ba loại tâm này trái ngược với ba tâm trước. 一者,無染清淨心“Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm”(một là: tâm thanh tịnh vô nhiễm), quý vị đạt được rồi. Đó là tâm gì? 不為自身求諸樂“Bất vi tự thân cầu chư lạc”(không vì thân mình mà cầu các sự vui), hưởng thụ về vật chất, hưởng thụ về tinh thần đều không cầu, đều xa rời. Cho nên người tu hành thời xưa, họ không sống ở đô thị, họ sống ở nơi núi sâu nơi không có dấu chân người, họ sống ở đó, hoàn cảnh thanh tịnh, không có sự quấy nhiễu, họ mong cầu điều gì? Cầu tâm thanh tịnh. Đó là thuận với Bồ-đề môn. 二者,安清淨心,為拔一切眾生苦故。菩提安穩一切眾生清淨處,若不作心拔一切眾生離生死苦,即便違菩提。是故拔一切眾生苦,是順菩提門“Nhị giả, an thanh tịnh tâm, v bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố. Bồ-đề an ổn nhất thiết chúng sanh thanh tịnh xứ, nhược bất tác tâm bạt nhất thiết chúng sanh ly sanh tử khổ, tức tiện vi Bồ-đề. Thị cố bạt nhất thiết chúng sanh khổ, thị thuận Bồ-đề môn”(Thứ hai là: tâm an thanh tịnh, vì dứt sạch nỗi khổ của chúng sanh. Bồ-đề là chốn thanh tịnh an ổn hết thảy chúng sanh, nếu không khởi tâm làm cho tất cả chúng sanh lìa được khổ sanh tử, thì tức là trái nghịch với Bồ-đề. Nên nhổ sạch tất cả nỗi khổ của chúng sanh là thuận theo Bồ-đề môn). Tâm thứ nhất ở trước là đang trong giai đoạn tu hành, giai đoạn học tập, chính mình còn chưa thành tựu. Đợi đến khi chính mình đã có thành tựu, đầy đủ tam học: giới định huệ, lúc đó thì làm thế nào? Lúc đó không thể sống ở núi sâu, vì sống ở núi sâu thì không giúp được chúng sanh. Chúng sanh khổ nạn nhiều, chúng sanh lục đạo đều khổ, người giàu sang có nỗi khổ của người giàu sang, người nghèo cùng có nỗi khổ của người nghèo cùng, không ai mà không khổ. Sau khi thành tựu giới định huệ, nhất định phải phát tâm giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui. Đây là dạy bảo chúng ta, Bồ-tát nhất định phải giúp đỡ tất cả chúng sanh vào nơi thanh tịnh, giúp đỡ chúng sanh vào nơi thanh tịnh mong đạt đến giới định, đạt đến trí huệ, giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui.

          Trong các khổ quan trọng nhất là khổ sanh tử, chính là khổ luân hồi lục đạo. Làm sao nhổ sạch nỗi khổ lục đạo luân hồi của chúng sanh? Phật pháp có 84 ngàn pháp môn, có vô lượng pháp môn, có phương pháp giúp quý vị nhổ sạch được khổ ngay đời này, có phương pháp giúp quý vị nhổ sạch được ở đời sau, cũng có phương pháp giúp quý vị từ nay đến đời đời kiếp kiếp về sau lìa khổ được vui, là do quý vị lựa chọn, quý vị thích lựa chọn loại nào, thì quý vị có thể dùng loại đó, đều thỏa mãn nguyện của chúng sanh, đó gọi là Bồ-đề. Cho nên, trong sách An Lạc Tập nói rất hay: “Nhược bất tác tâm”, chính là quý vị không phát tâm ấy, “tác tâm” chính là phát tâm, ngày nay nói là phát tâm, không phát tâm nhổ sạch khổ khiến tất cả chúng sanh lìa sanh tử, thì quý vị đã ngược lại với Bồ-đề. Cho nên nhổ sạch tất cả khổ của chúng sanh, là thuận với Bồ-đề môn. Làm sao nhổ sạch? Dùng phương tiện, phương pháp là giáo dục. Giáo dục bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ chính mình, nhất định quý vị phải xa lìa được trùng trùng khổ nạn của chính mình, làm ra tấm gương cho mọi người xem, thật vui vẻ, không phải là giả, mỗi ngày từ sáng đến tối hoan hoan hỷ hỷ, bất kể cuộc sống gặp nghịch cảnh, hay thuận cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều sanh tâm hoan hỷ. Hoan hỷ từ đâu mà đến? Đến từ Bồ-đề. Bồ-đề là gì? Bồ-đề là tiếng Ấn Độ, dịch sang nước ta là giác ngộ, là hiểu rõ, là trí huệ. Quý vị giác ngộ rồi, quý vị sáng tỏ rồi, quý vị có trí huệ, quý vị ở thế gian này, mà thật sự thông suốt hiểu rõ được tướng của thế gian này, không bị nhiễm nữa, không có ô nhiễm, quý vị không dính tướng, thì quý vị liền lìa khổ được vui rồi. Điều này không liên quan đến vinh hoa phú quý của thế gian, như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã làm ra tấm gương cho chúng ta.

          Khổng Lão Phu tử trong cả đời của ngài xác thực có ý tham gia việc chính sự, ngài là nhà tư tưởng lớn, nhà chính trị lớn, nhà giáo dục lớn, thực sự có ý tham gia việc chính sự, ngài muốn học Chu Công. Đáng tiếc vào thời bấy giờ, là thời đại Xuân Thu, rất nhiều quốc vương các nước chư hầu không chịu dùng ngài, ngài chu du các nước mười mấy năm, cuối cùng từ bỏ ý định, trở về nhà để dạy học. Khổng tử không có làm qua quan lớn, Khổng tử cũng không giàu có, nói cách khác, ngài không có phần phú quý. Thế nhưng thời đại Xuân Thu đó, chúng ta nói về nhân loại, thật sự được đời sống hạnh phúc vui vẻ mỹ mãn, thì không có ai vượt qua được Khổng tử. Do đây có thể biết, hạnh phúc, vui vẻ không liên quan với phú quý. Khổng tử vui vẻ, vả lại còn  đem nguồn gốc của sự vui vẻ đó nói cho chúng ta biết, sự vui vẻ này từ đâu mà đến? Câu nói đầu tiên của Luận Ngữ, học nhi thời tập, “học nhi thời tập chi”, “học”, “tập”, tiếp theo là “bất diệc duyệt hồ”, vô cùng vui vẻ. Học là gì? Là dạy học, dạy cũng là học, học cũng là dạy, cả đời ngài đã làm công việc dạy học. Dạy người khác, dạy người khác biết rồi, khiến người khác từ mê hoặc chuyển thành giác ngộ, vui vẻ! Tự mình kế thừa giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, học tập chính là kế thừa, thực hành trong cuộc sống, công việc, đối nhân xử thế của chính mình, phát dương quang đại, truyền lại cho thế hệ sau nghìn năm vạn đời. Chư vị nghĩ xem, việc của thế gian còn có điều gì vui vẻ hơn điều này ư? Còn có điều gì hạnh phúc hơn điều này ư? Không có đâu. Khổng tử có một học trò, là Nhan Hồi, Phu tử thường xuyên khen ngợi ông ấy. Về phương diện đời sống vật chất thì ông ấy là người khổ nhất, ngay cả bát để ăn cơm cũng không có, dùng tre đan thành sọt làm bát ăn cơm; uống nước, thì không có ly uống nước, bầu hồ lô là ly uống nước của ông ấy, nghèo khó đến mức độ đó. Thế nhưng học trò của Khổng tử có ba ngàn người, trong ba ngàn người thì ai là người vui vẻ nhất? Là Nhan Hồi. Điều này là nói rõ: vui vẻ, hạnh phúc, ngày nay bao gồm cả sức khỏe, sống lâu đều không liên quan đến phú quý, phải hiểu đạo lý này.

          Vì sao quý vị học Phật? Vì vui vẻ, vì hạnh phúc, vì cầu được sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Vì điều này mà cầu học, học văn hóa truyền thống Trung Hoa, học Phật Pháp Đại thừa, không phải vì điều khác. Đạt được hay không? Đạt được. Khi tôi còn trẻ, ngài tiên sinh Phương Đông Mỹ đem Phật Pháp giới thiệu cho tôi. Lúc trước đó, chúng tôi đối với Phật Pháp có sự hiểu lầm rất sâu, cho rằng Phật Pháp là tôn giáo, là mê tín, cho nên vốn là không có ý nghĩ đi tìm hiểu Phật Pháp. Tôi học triết học với thầy Phương, thầy đã giảng cho tôi một bộ Triết học khái luận, bài mục sau cùng là triết học Kinh Phật, nói với tôi rằng: Thích Ca Mâu Ni là nhà triết học vĩ đại nhất trên thế giới, chúng ta muốn học triết học đương nhiên phải tìm Phật; kinh điển của Phật giáo là tài liệu dạy học cao nhất của triết học toàn thế giới, là đỉnh cao nhất của triết học; học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người, câu nói này chính là “bất diệc lạc hồ” của Phu tử nói, trong nhà Phật nói là: “Pháp hỷ sung mãn, lìa khổ được vui”. Vì điều này, vì lìa khổ được vui mà học Phật, vì lìa khổ được vui mà học Nho, xác thực Khổng tử và Đức Phật đã truyền cho chúng ta điều này, chúng ta học mà thực hành thì sẽ đạt được, một chút cũng không giả. Tôi một đời này cảm ân, làm sao để báo đáp? Giảng kinh dạy học, y giáo phụng hành chính là báo đáp ân Phật, báo đáp ân thầy, thầy giáo đã cho tôi một cuộc đời hạnh phúc vui vẻ mỹ mãn. Cuộc sống của tôi, công việc của tôi, là truyền thừa đại Pháp, phát dương quang đại, truyền lại cho đời sau, mãi mãi truyền tiếp xuống nhiều đời nhiều thế hệ, như vậy thì việc báo ân Phật, cũng làm được rồi.

          Học và tập phải biến thành một thể, học mà không tập thế thì sai rồi, không tập là gì? Không có thật làm, không có làm được. Như đã học không sát sanh, đối với côn trùng kiến nhỏ chúng ta cũng yêu thương chúng, cũng sẽ không làm hại chúng, vậy là thực làm. Thế nào là không trộm cắp? Đem sự hưởng thụ buông xuống, đối với vật chất, tài vật, ngoài những đồ vật cần thiết ra, đồ vật gì là cần thiết? Mỗi ngày ăn được no, mặc được ấm, có căn nhà nhỏ che mưa che gió, ngủ được ngon, quý vị nói xem, vậy là quý vị hạnh phúc biết bao, toàn bộ buông xuống hết. Không chút quấy nhiễu nào, không có chút lo lắng nào, thân tâm an lạc, đó chính là hưởng thụ, như niềm vui của Khổng tử Nhan Hồi, niềm vui của Phật Bồ-tát. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật xả được nhiều hơn so với Khổng tử, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ có ba y một bát, ba y, ăn cơm một bình bát, đó chính là tài sản của Phật, ba y một bát. Khổng Phu tử ở điểm này dư dật hơn Thích Ca Mâu Ni Phật, chứ không chỉ có ba y. Trang phục bốn mùa xuân hạ thu đông, chí ít có một chiếc, hai chiếc đủ rồi, ba chiếc là dư thừa rồi, dư thừa thì nên cúng dường người khác. Chúng ta đem sự hưởng thụ vật chất giảm đến mức thấp nhất, thấp nhất là thế nào? Là đủ dùng thôi. Đủ dùng là: áo có thể giữ ấm, cơm có thể ăn no, ngủ nghỉ có thể ngủ đủ, đủ rồi, vậy là tốt, thì không cần thiết thêm nữa, nhiều thì phiền toái. Học điều gì? Học bố thí. Công đức bố thí không thể nghĩ bàn! Tại sao vậy? Vì càng thí càng nhiều, càng nhiều càng thí. Việc gì cũng phải có chừng có mực, quá nhiều rồi thì không tốt, khiến phiền phức. Cho nên nhà Nho và nhà Phật đều nói cầu trung đạo, chính là “chừng mực”.

          Bố thí tài được giàu có, bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô úy được mạnh khỏe sống lâu. Chúng tôi đến Toowoomba mười mấy năm rồi, chúng tôi ở nơi này thí tài, thí pháp, cũng thí vô úy. Thí vô úy là gì? Chính là giúp đỡ người bệnh khổ. Toowoomba có một bệnh viện công lập, do chính phủ mở, chỉ có một cái, lúc bấy giờ tôi đi tham quan thấy rất hoan hỷ. Chúng tôi quyên góp mỗi tháng 10 ngàn đô la phí thuốc men, một năm là 120 ngàn đô la, chưa từng gián đoạn. Việc bố thí này là gì? Bố thí thuốc men, thì quả báo là mạnh khỏe sống lâu. Cho nên có người hỏi tôi, tôi có tham gia bảo hiểm y tế không? Tôi không có. Vậy ngài bệnh thì sao? Tôi nói tôi sẽ không bị bệnh. Tại sao không bị bệnh? Bởi không có phí thuốc men, vì đã bố thí phí thuốc men rồi, đều tặng cho bệnh viện rồi, giúp họ mua thuốc men cho bệnh nhân. Có đạo lý à! Trong đời này tôi chưa từng vào bệnh viện nằm, bệnh viện khám cũng có bệnh vặt, chẳng qua là cảm mạo thôi.

          Điều này là thầy đã dạy cho tôi, ngài Đại sư Chương Gia đã dạy tôi ba điều. Hoằng pháp lợi sanh cần có phước báu, không có phước báu không làm được. Phước báu từ đâu đến? Từ tài mà đến; tài từ đâu mà đến? Tài từ bố thí mà đến. Bố thí t tình trạng nào? Bắt đầu bố thí từ một hào tiền, một đồng tiền. Bởi vì lúc đó tôi chỉ có khả năng như vậy, cuộc sống chính mình hết sức tiết kiệm, để dành ra một đồng, hai đồng, ba đồng, năm đồng để bố thí. Bố thí điều gì? Trong chùa có hóa tiểu duyên, phóng sanh, mọi người tập hợp cùng đi phóng sanh, dù một hào tiền cũng nhận; in kinh, đó là bố thí Pháp, một đồng tiền, một hào tiền cũng nhận, nên chúng tôi tùy hỷ công đức. Thật sự càng thí càng nhiều, hiện giờ mỗi năm in kinh vượt hơn 10 triệu đô la Mỹ, tiền từ đâu đến tôi cũng không rõ. Sách tôi muốn in, chư vị giới thiệu quyển sách này là: Đạo Đức Tùng Thư, đồng bào ở Đại Lục gởi cho tôi, tôi chưa thấy qua, tôi xem qua, là của Đại sư Ấn Quang, của Hoàng Hóa Xã, vậy thì không có vấn đề rồi, tuyệt đối là có nhiều điều hay. Lúc đó tôi đang ở tại Đài Loan, tôi đem quyển sách này giao cho nhà sách Thế Giới Đài Loan để in 10 ngàn bộ, tiền Đài Loan tính ra khoảng hơn bảy triệu. Ngày hôm sau thì có người cúng dường tôi hai tấm chi phiếu, tôi mở ra vừa xem, là bảy triệu, vừa đúng đủ in sách ấy. Ngày trước giao cho xưởng in ấn, thì ngày sau có người đưa tiền đến, tiền đến như vậy đó. Ai tặng tiền thì tôi cũng không nhớ, trong tâm không cần lưu lại ấn tượng, như vậy mới tốt, mới tự tại. Cho nên càng thí càng nhiều.

          Hiện nay chúng tôi muốn mở viện Hán Học, việc này cần có tiền. Tôi thành lập quỹ ngân sách tại Hồng Kông, gọi là “Giáo Dục Văn Hóa Đa Nguyên Cơ Kim Hội”, để làm gì? Chuyên để làm việc từ thiện, mở trường học, đoàn kết tôn giáo, làm những việc đó. Quỹ ngân sách này hoạt động hai năm trở lại đây, thành lập được hai năm rồi, dùng tiền, tiền ấy chi ra, được chính phủ Hồng Kông giám sát, chúng tôi có điều lệ, không tương ưng với điều lệ là không được phép. Có các đồng tu xây chùa, xây đạo tràng đến tìm tôi, tôi trả lời: tiền này không thể dùng, không được phép. Quý vị mở trường học thì được. Quý vị mở Phật học viện cũng được, chỉ cần thuộc về giáo dục, giáo dục văn hóa đa nguyên, văn hóa đa nguyên bao gồm các tôn giáo khác nhau, thì có thể dùng tiền này, in kinh có thể dùng tiền này. Từ thiện cứu trợ có thể thông qua hội đồng quản trị. Cứu trợ, thì hội đồng quản trị có thể thông qua, hội đồng quản trị không thông qua thì không được, bởi tôi thì không quản tiền rồi. Nói rõ những điều mà Đại sư Chương Gia nói, ngài là dựa vào trên kinh điển để nói, quả không sai: càng thí càng nhiều.

          Chúng tôi muốn mở ở nơi này một trường học dạng dây chuyền, học viện Toowoomba muốn mở ra một hệ thống trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học, liên tục học lên. Không chiêu sinh giữa chừng, chỉ chiêu sinh từ mầm non, học sinh từ mầm non lên tiểu học, thì chúng tôi mở tiểu học, lên trung học thì mở trung học, lên đại học thì mở đại học. Chúng tôi còn hy vọng áp dụng hình thức khép kín, giúp cho những học sinh ấy (các trẻ em ấy) giảm tối đa tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Tại sao vậy? Thế giới bên ngoài là một lò ô nhiễm lớn, đã dạy hư hết con người rồi. Chúng tôi muốn dùng hình thức khép kín, không để chúng tiếp xúc, chúng không xem được ti vi, không xem được internet, hễ là mặt trái đều không được phép xem, cũng không được nghe. Về tài liệu giảng dạy của chúng tôi, tài liệu giảng dạy chúng tôi học theo thời xưa, thời gian trước kia, những năm đầu Dân quốc, chúng tôi tìm những tài liệu đó để làm tham khảo, biên soạn lại từ đầu một bộ giáo trình dạy học. Tài liệu giảng dạy của tiểu học hoàn toàn dùng tài liệu trong trường tư thục mà thời xưa dùng, chúng tôi ở đây cũng có, đã in ra rồi, là Thánh Học Căn Chi Căn, xấp xỉ có 20 loại, làm tài liệu giảng dạy tiểu học. Mục đích giáo dục là thành Quân tử Thánh Hiền, hy vọng học sinh sẽ là Quân tử Thánh Hiền của thời nay, để cứu vãn xã hội, tiếp nối văn hóa truyền thống. Thật sự giống như Trương tử đã nói: “Vì thiên địa lập tâm, vì đời sống nhân dân lập mạng, vì vãng Thánh kế tuyệt học, vì vạn thế mở thái bình”, chúng tôi là vì tâm tư này mà mở trường, để giúp đỡ thế hệ sau. Chúng tôi hy vọng, thật sự, từ mầm non đến sau đại học, là giáo dục Thánh Hiền. Điều này là gì? Là an tâm chúng sanh, dứt sạch khổ cho chúng sanh, nhổ sạch tất cả khổ cho chúng sanh, đó là thuận với Bồ-đề môn.

          Điều thứ ba, 樂清淨心,欲令一切眾生得大菩提“Lạc thanh tịnh tâm, dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ-đề”(tâm lạc thanh tịnh, mong cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ-đề). Chúng ta đổi Bồ-đề thành trí huệ, thì mọi người hoàn toàn hiểu được rồi, trong đời này chúng ta làm việc gì? Là giúp đỡ chúng sanh sinh đại trí huệ, giúp đỡ tất cả chúng sanh được đại phước báo. Chúng tôi hy vọng, niềm hy vọng này là hy vọng ở thế hệ tiếp theo, tại sao vậy? Hiện nay chúng tôi mở trường tiểu học, trường mầm non, là bắt đầu cắm gốc rễ, làm từ giáo dục nền tảng. Hiện nay chúng tôi đào tạo những vị thầy này, đều là khoảng hai mươi mấy, bao mươi mấy tuổi, xuất gia giữa chừng, không có gốc rễ, chúng ta có học thế nào đi nữa, thì thành tựu tương lai không bằng với trẻ em, vì trẻ em có gốc rễ. Trẻ em là niềm hy vọng của chúng ta, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực, làm tấm gương tốt cho trẻ em, thân hành ngôn giáo, thì việc dạy học mới có thể thu được hiệu quả. Tiếp theo nói rất hay, 若不令一切眾生得畢竟常樂者,則違菩提門“nhược bất linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc giả, tắc vi Bồ-đề môn”(Nếu chẳng làm cho tất cả chúng sanh đạt được thường vui rốt ráo thì trái nghịch với Bồ-đề môn), ý câu nói này rất sâu. Chữ “khiến” này có ý nghĩa rất sâu sắc, rất nhấn mạnh, nhất định mong cho tất cả chúng sanh được thường vui rốt ráo, không những đời này được vui, mà đời đời kiếp kiếp được vui. Dạy bằng cách nào? Chính là phải giúp đỡ tất cả chúng sanh nhận biết Tịnh-độ, hiểu rõ Tịnh-độ, thâm nhập Tịnh-độ, pháp môn Tịnh-độ có thể giúp chúng ta thật sự đạt được ngay trong đời này. Phật giáo, Đại-thừa Tiểu-thừa, Hiển-giáo Mật-giáo, có hơn mười tông phái, chúng ta nên dùng tâm thế nào để đối đãi? Phật nói cho chúng ta biết: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”; hay nói cách khác, chúng ta dùng tâm bình đẳng đối đãi với tất cả Phật pháp Đại Tiểu thừa, hy vọng mỗi một tông phái đều được hưng vượng lên, đều có thể có nhân tài xuất hiện. Tại sao vậy? Vì căn tánh chúng sanh không tương đồng, họ căn tánh thế nào thì cần pháp môn thế ấy để giúp đỡ họ. Cho nên khi còn tại thế, Đức Phật làm rất tốt, Phật có trí huệ viên mãn, có đại thần thông, Phật quán được cơ, quán cơ mà thí giáo, cho nên giáo mà Phật giảng khế cơ, giúp chúng sanh đều được độ hết, là phổ độ.

          Ngày nay Đại đức thật sự có đức hạnh, có trí huệ, có học vấn không nhiều, vậy làm sao? Ngày nay chúng tôi đi đào tạo, chúng tôi muốn mở viện Hán Học, viện Hán Học bao gồm Nho Thích Đạo. Trong viện Hán Học có bốn khoa ngành: thứ nhất là Hán văn, Văn học, đó là nền tảng; thứ hai là Nho học; thứ ba là Phật học; thứ tư là Đạo học, Nho Thích Đạo, bốn khoa ngành như vậy. Có thể nói việc học trong bốn khoa ngành này của chúng tôi là Cổ Hán học, môn học chủ yếu là luân lý, đạo đức, nhân quả, giáo dục Thánh Hiền, để bồi dưỡng nhân tài. Sau khi bồi dưỡng ra những nhân tài ấy, có người đã hỏi: bồi dưỡng xong thì làm gì? Tương lai họ làm gì? Tương lai dạy học, khi những học sinh ấy của chúng tôi tốt nghiệp, thì trường học mời tất cả đảm nhận làm giáo thọ suốt đời, cả đời này dạy học ở trường học. Cho nên trước mắt 5 năm này hoàn toàn là lớp đào tạo nguồn giáo viên, sau 5 năm mở rộng chiêu sinh bên ngoài, những học sinh ấy sau khi tốt nghiệp ra trường đều có tư cách giáo thọ Hán học, đều có năng lực như vậy, nguồn giáo viên Nho Thích Đạo cũng đã bồi dưỡng xong. Cho nên viện Hán Học này không từ chối người xuất gia, cũng không từ chối đạo sĩ, đạo sĩ có thể đến cầu học, người xuất gia cũng có thể đến cầu học, bởi vì có chương trình như vậy.

          Thật sự muốn phát đại tâm, phát tâm Bồ-đề, giúp đỡ tất cả chúng sanh lìa khổ được vui. Dùng phương pháp nào? Là phá mê khai ngộ. Khổ từ đâu mà đến? Từ mê mà đến; vui từ đâu mà đến? Từ giác mà đến, giác ngộ thì hạnh phúc. Cho nên Khổng tử giác ngộ rồi, thì hạnh phúc. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật được hạnh phúc, vì giác ngộ rồi, ngay cả ngôi vua Ngài cũng không cần nữa, nếu Ngài không xuất gia thì Ngài làm quốc vương, quốc vương không cần nữa, quốc vương không hạnh phúc bằng Đức Phật, Ngài đi làm Phật, Ngài không làm quốc vương. Dạy học hạnh phúc, Ngài dạy học một đời. Về Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu quý vị thực sự hiểu rõ Ngài, thì Ngài là một nhà giáo dục, Ngài làm việc dạy học, đã dạy 49 năm, nghiêm túc có trách nhiệm. Những gì Ngài giảng thì Ngài đều làm được; không làm được thì Ngài không nói, có thể nói Ngài làm được toàn bộ rồi, phải biết điều này, chúng ta nên học tập theo Ngài. Quý vị thấy Ngài mở tiểu học, A Hàm, Tiểu-thừa, Tiểu-thừa chính là tiểu học của Phật giáo, đã mở 12 năm. Ngày nay tiểu học chúng ta là 6 năm, trung học là 6 năm, còn tiểu học của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật là 12 năm. 12 năm nâng lên trên dạy Phương-đẳng, Phương-đẳng là trung học, là 8 năm. Cộng thêm phía trước, là 20 năm, lúc này là đại học rồi. Đại học là gì? Là trí huệ, không phải tri thức, mà là trí huệ. Trí huệ giải quyết được tất cả vấn đề, vấn đề gì? Vấn đề khổ nạn, quý vị có đau khổ, quý vị có tai nạn, có thể giúp đỡ quý vị giải quyết, thật giải quyết. Không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt, mà còn giải quyết vấn đề sau này. Đại học này giảng Bát-nhã, Bát-nhã là trí huệ, chính là giúp đỡ mọi người giác ngộ. A Hàm của đức Phật chú trọng ở giới luật; trong Phương-đẳng có thiền định, có chỉ quán, chú trọng ở định, là định học; Bát-nhã chú trọng ở huệ học, giới định huệ tam học, nhân giới đắc định, nhân định khai huệ, giới định huệ tam học. Tám năm sau cùng giảng Pháp Hoa, Pháp Hoa là gì? Từ Bồ-tát nâng đến Phật Đà, giúp quý vị thành Phật, giúp quý vị chứng đắc trí huệ viên mãn cứu cánh. Trong 49 năm, Phật dạy học bốn loại trình độ khác nhau.

          Ngày nay chúng ta học Phật, không có thông qua bốn cấp này thì quý vị không tiến lên được. Ngày nay chúng ta học Phật, hướng lên trên lên không được, hướng xuống dưới cũng xuống không xong, thì giáo dục có vấn đề rồi. Cho nên ngày nay chúng tôi thường xuyên nhắc nhở mọi người, hy vọng chúng ta có nhận thức giống nhau, phải đưa Phật giáo trở về giáo dục. Năm xưa thầy Phương đã nói câu nói này với tôi nhiều lần, phải khôi phục chế độ tòng lâm nước ta, tòng lâm chính là đại học chính quy chính thức. A Hàm và Phương-đẳng là thuộc về tiểu học, trung học; đại học là Bát-nhã, 22 năm, sau cùng Phật giúp quý vị nâng lên, vãng sanh đến Thật-báo-trang-nghiêm độ. Thật-báo-trang-nghiêm độ chính là Đại học Phật giáo, ở thế giới Ta Bà gọi là Thế giới Hoa Tạng, Thế giới Hoa Tạng được nói trong Kinh Hoa Nghiêm, chính là trường Đại học của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu như quý vị minh tâm kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần Chân-tánh, thì quý vị đến nơi nào để tu học? Đến thế giới Hoa Tạng, không ở sáu đường, không ở mười pháp giới. Trong mười pháp giới có Quyền-giáo Bồ-tát, có Thanh-văn, Duyên-giác, đó là thế nào? Đã thoát ly luân hồi, Tiểu-thừa đã thoát khỏi sáu đường luân hồi, thật sự giúp đỡ chúng ta lìa khổ được vui, không phải là giả. Chúng ta đối với điều này phải nhận biết, không được hiểu lầm, từng bước từng bước giúp chính mình nâng lên trên, có duyên phận này, có cơ hội này thì nhất định phải giúp đỡ, tu phước.

          Chúng ta trở về giáo dục, mở trường học, trường học này tốt nhất là đệ tử nhà Phật chúng ta quyên góp để mở, đừng nên để học sinh nộp học phí, nộp tiền ăn, không nên, miễn hết tất cả. Đệ tử tại gia của Phật tu phước, thì đây tu đại phước báo, chúng ta đến cúng dường trường học, chúng ta đến đề xướng, thành lập một quỹ ngân sách, quỹ ngân sách này chuyên dùng duy trì kinh phí trường học. Tôi hôm nay còn có một đô la, thì tôi quyên góp một đô la, tôi có hai đô la thì góp hai đô la, tùy duyên tùy phận, hết sức vui vẻ; ra chợ mua rau còn dư một chút tiền, thì quyên góp đến đây, để mở trường, trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học, trường đại học, trường nghiên cứu sinh. Tín đồ Phật giáo toàn cầu, tín đồ Phật giáo toàn cầu không nhiều, chúng tôi ước đoán, nghe nói hình như có 500 triệu, có lẽ từ 500 đến 700 triệu. Đệ tử nhà Phật ở đây trong tương lai đều có thể nuôi dưỡng thành một thói quen, chúng ta ủng hộ sự nghiệp giáo dục Phật Đà, tôi tin tưởng rằng quỹ ngân sách này có thể làm được, giúp mở trường học. Quý vị nghĩ xem bao nhiêu người giúp đỡ xây đạo tràng, xây một đạo tràng, tôi nghe nói đều phải tiêu rất nhiều trăm triệu, mở một trường học không cần nhiều như thế, thật đáng đề xướng, thật đáng làm như vậy.

Chúng ta lại xem tiếp chú giải, tiếp tục xem, 此畢竟常樂依何而得?要依大義門“Thử tất cánh thường lạc y hà nhi đắc? Yếu y Đại-nghĩa môn”(Nương vào đâu để đạt được thường vui rốt ráo ấy? Cần phải nương vào Ðại-nghĩa-môn), thường vui rốt ráo, là Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế nào gọi là Ðại-nghĩa-môn? Đã nói ra rồi, thật đã nói ra rồi, 謂彼安樂佛國是也“vị bỉ An Lạc Phật quốc thị dã”(chính là cõi Phật An Lạc ấy), chính là Thế giới Tây Phương Cực Lạc, Ðại-nghĩa-môn ở đây chính là pháp môn Tịnh-tông, chính là pháp môn niệm Phật. 故令一心專至,願生彼國,欲使早會無上菩提也“Cố linh nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh bỉ quốc, dục sử tảo hội Vô thượng Bồ-đề dã”(Nên khiến cho nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh cõi ấy, mong cho sớm đạt Vô Thượng Bồ-đề), ‘mong cho’, chính là chúng ta hy vọng, mong muốn khẩn thiết, sớm một ngày chúng ta đến Thế giới Cực Lạc để tụ hội. Sanh đến Thế giới Cực Lạc, bất luận là phẩm vị nào, điều đó không quan trọng, ngài Đại sư Liên Trì, Ngẫu Ích đã nói rất rõ ràng, quan trọng là chúng ta đến được Thế giới Cực Lạc, dù là hạ-hạ-phẩm vãng sanh Phàm-thánh-đồng-cư độ cũng tốt. Điều này đồng nghĩa nói chúng ta đến Thế giới Cực Lạc bắt đầu học từ năm thứ nhất của tiểu học, hoàn toàn tiếp nhận giáo dục của A Di Đà Phật. Phát tâm nguyện như vậy, thì người người đều có thể đi, bảo đảm quý vị được vãng sanh. Thế giới Cực Lạc có bốn độ ba bậc chín phẩm, nói cách khác, cõi Phàm-thánh-đồng-cư, quý vị thấy có ba bậc chín phẩm, chúng ta vãng sanh đến hạ-hạ phẩm là thấp nhất, thì tôi mãn nguyện rồi. Tôi tình nguyện, ở Thế giới Cực Lạc đóng cho chắc gốc rễ giáo dục, thì có gì là không tốt chứ? Quý vị muốn chen ngang lớp, thì quý vị cứ đi chen ngang lớp, còn tôi muốn học từ năm thứ nhất của tiểu học, làm học sinh ngoan nhất của A Di Đà Phật, là cắm gốc rễ ở Thế giới Cực Lạc. Tôi tin rằng không chỉ một mình tôi có nguyện vọng này, mà người có cùng cách nghĩ, nguyện vọng giống tôi chắc chắn rất nhiều, chúng tôi thật sự bắt đầu từ việc cắm gốc rễ, “mong cho sớm đạt Vô Thượng Bồ-đề”.

以上所論違菩提門與隨順菩提門,正顯發心違順之異“Dĩ thượng sở luận vi Bồ-đề môn dữ tùy thuận Bồ-đề môn, chính hiển phát tâm vi thuận chi dị”(Ở trên đã luận về trái nghịch và thuận theo Bồ-đề môn, chính là làm sáng tỏ sự khác nhau giữa phát tâm nghịch và thuận). Chúng ta là phát tâm thuận theo hay trái nghịch? Nếu trái nghịch thì không thể thành tựu, trái nghịch là giả, thuận theo là chân thật. Chúng ta nhất định phải thuận theo, phải đem việc này làm cho tốt, làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh, làm hưng vượng Phật giáo. Chúng ta không rời Tịnh-tông, nhưng chúng ta mong muốn giúp đỡ nhà Phật, bất luận là các tông phái Đại-thừa hay Tiểu-thừa nào, chúng ta đều hy vọng tất cả đều có thể hưng vượng, đều phải trở về nền giáo dục, đều phải trở về sự dạy học. Không thể không giảng kinh, không thể không học luận. Kinh là do Phật thuyết, luận là do Tổ sư Đại đức thuyết, Tổ sư là học sinh cao cấp của Phật, giống như trường học dây chuyền của chúng ta, Bồ-tát là sinh viên đại học, nên quý ngài có thể dạy trung học, có thể dạy tiểu học. Quyền giáo Bồ-tát ở trong lịch sử Trung Hoa giảng kinh thuyết Pháp thì rất nhiều, vô cùng nhiều. Quý ngài chưa có đại triệt đại ngộ, thì cách giảng của quý ngài thế nào? Quý ngài dựa theo người đại triệt đại ngộ, y theo trước thuật của những vị ấy, chứ không có ý riêng của chính mình, nếu quý vị lãnh hội được sâu, thì giảng sâu; quý vị lãnh hội được cạn, thì giảng cạn, đều được. Nhất định là có căn cứ, không phải là suy nghĩ trong tâm chính mình, vì suy nghĩ trong tâm của chính mình là vọng tưởng, không thể tin cậy, những gì nói ra đều phải có căn cứ. Quý vị xem Chú Giải này của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, những câu này là sao chép từ trong sách An Lạc Tập ra. Điều này chính là nói rõ tự mình chưa có đại triệt đại ngộ, người viết An Lạc Tập, là người đại triệt đại ngộ, tôi căn cứ vào họ, căn cứ vào Phật, thì nhất định không sai, vậy thì đúng rồi. Về học tập, chúng ta là người chưa ngộ thì mãi mãi là đang học tập. Tôi giảng kinh 58 năm, thường xuyên nhắc nhở mọi người, tôi là đang học tập. Học sinh trên bục giảng, thầy giáo ở dưới bục giảng, thính chúng dưới bục giảng là thầy giáo của tôi, họ là đến giám sát việc học, họ đến nghe xem tôi có giảng sai hay không, tôi có lười biếng hay không, đến đôn đốc tôi đấy. Chúng ta dùng tâm cung kính này đối đãi, thì chính mình mới có thể thành tựu. Càng có thành tựu càng khiêm nhường, càng có thành tựu thì càng cung kính chúng sanh. Tại sao? Bởi họ biết tất cả chúng sanh vốn là Phật, không dám khinh mạn một người nào. Hễ là người khinh mạn người khác, người cống cao tự đại, thì họ đều là không có thành tựu, trái lại với pháp Bồ-đề, họ trái ngược với giáo huấn của Phật. Cho nên chúng ta làm học sinh, làm học sinh cả đời, khai ngộ rồi mới được xem là thầy giáo, chưa có đại triệt đại ngộ đều là học sinh, đều đang học, ngày ngày đang học.

Câu sau cùng này: 凡已發菩提心修習淨業者“Phàm dĩ phát Bồ-đề tâm tu tập Tịnh-nghiệp giả”(Hễ ai đã phát tâm Bồ-đề tu tập Tịnh-nghiệp), nếu y theo tiêu chuẩn này thì chúng ta đều không đủ tư cách, chúng ta miễn cưỡng một chút, châm chước một chút, thì cũng tính chúng ta là phát tâm Bồ-đề tu tập Tịnh-nghiệp. 應常體究“Ưng thường thể cứu”(nên thường thể cứu), là phải thể hội, phải nghiên cứu, 切莫自違菩提門,違失本願,自障往生也“thiết mạc tự vi Bồ-đề môn, vi thất bổn nguyện, tự chướng vãng sanh dã”(chớ nên tự trái nghịch với Bồ-đề môn, trái nghịch với bổn nguyện, tự mình chướng ngại việc vãng sanh của chính mình), tự mình chướng ngại chính mình khiến không được vãng sanh, thế thì hết sức sai lầm. Đây là điều mà chúng ta phải biết, chúng ta không thể không biết. Đoạn văn khai thị trong sách An Lạc Tập này không dài, phải thường xuyên xem, thường thường ghi nhớ trong tâm. Chúng ta cầu sanh Thế giới Cực Lạc, mà bị người gây trở ngại, bị người chướng ngại, thì chúng ta nhất định phải né tránh. Ba loại tâm đó là chướng ngại, là thật sự trở ngại, khiến cho quý vị không đến Thế giới Cực Lạc được, nên nhất định phải buông tâm ấy xuống. Ba loại tâm thuận với Bồ-đề môn thì nhất định phải nghiêm túc học tập, nhất định phải buông bỏ danh văn lợi dưỡng của chính mình, nhất định phải biết rằng: chịu thiệt thòi, chịu khổ là phước. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, ngài có bố thí tài, nên phước báo của ngài rất lớn. Từ đâu mà nhìn thấy được? Tất cả những gì ngài đã làm thì được biết bao người khen ngợi, biết bao người noi theo, biết bao người xem ngài là thầy, đó chính là đại phước báo của ngài. Người được thọ ân huệ của ngài, được lợi ích từ ngài nhiều lắm! Phật gia trì chúng ta, ngài cũng gia trì cho chúng ta không khác so gì với Phật gia trì cho chúng ta, chúng ta phải thể hội được, ở đây nói là “thể cứu”.

     Mời xem câu kinh văn tiếp theo đây, 一向專念阿彌陀佛。《彌陀要解》Nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Di Đà Yếu Giải”(Nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Sách Di Đà Yếu Giải), quý vị xem Hoàng Niệm lão giải thích câu này, dùng Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích, dùng Viên Trung Sao của Đại sư U Khê, và dùng An Lạc Tập của Đại sư Đạo Xước, đều là kinh giáo, đều là những Tổ sư Đại đức đã đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, chứ không nói ý của mình, đây chính là khế hợp với căn cơ của chúng sanh thời đại này. Chúng sanh thời đại này ngạo mạn, hoài nghi, không thể tin tưởng, không chịu tiếp nhận. Quý vị xem Niệm lão nói như thế nào? Với nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, thì Đại sư Ngẫu Ích nói như thế nào, Đại sư U Khê nói thế nào, Đại sư Đạo Xước nói thế nào, An Lạc Tập là của Đại sư Đạo Xước. Vậy thì quý vị không thể không phục, quý vị xem thường tôi thì không sao, tôi nêu ra những người này, thì quý vị có xem thường được không? Điều này là gì? Là để cho chúng sanh có duyên đọc được bộ kinh này, có duyên xem được bộ kinh này, có duyên nghe được bộ kinh này, sẽ tăng trưởng tín tâm, là từ bi đến tột cùng. Quý vị có thể nói lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chưa đại triệt đại ngộ ư? Tôi cho rằng ngài đã đại triệt đại ngộ rồi, ngài dùng phương pháp này là cao minh, ở trong thời đại này không tìm được người thứ hai. Tôi hiểu dụng tâm của ngài, những câu nói mà ngài đã tuyển chọn cũng giống như chính ngài tự nói, các Tổ sư Đại đức khác đã nói qua rồi, tôi cũng nói y như vậy.

          Trong Yếu Giải nói như thế nào? 於一切方便之中,求其至直捷,至圓頓者,莫若念佛求生淨土“Ư nhất thiết phương tiện chi trung, cầu kỳ chí trực tiệp, chí viên đốn giả, mạc nhược niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ”(Trong tất cả phương tiện, mà tìm lấy pháp thẳng tắp nhất, pháp viên đốn nhất, thì không gì bằng pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ), quý vị xem mấy câu nói này. Chúng ta tiếp tục đọc Chú Giải, 又於一切念佛法門之中,求其至簡易,至穩當者,莫若信願專持名號“hựu ư nhất thiết niệm Phật pháp môn chi trung, cầu kỳ chí giản dị, chí ổn đương giả, mạc nhược tín nguyện chuyên trì danh hiệu”(Lại trong tất cả pháp niệm Phật, mà tìm lấy pháp đơn giản nhất, pháp ổn thỏa vững chắc nhất, thì không gì bằng tín nguyện, chuyên trì danh hiệu). Đây là đoạn trong sách Yếu Giải, nói đến Tịnh-độ, nói đến pháp môn mà ngày nay chúng ta đang tu học. Chúng ta hoằng dương Tịnh-độ, giảng giải Tịnh-độ phải học Niệm lão: không dùng lời nói của chính mình, tất cả dùng lời của Tổ sư Đại đức, thì không có ai dám phản đối, không có ai dám hoài nghi, như vậy là làm tăng thêm niềm tin cho người khác, đoạn trừ những hoài nghi của người khác, thì công đức vô lượng. Pháp môn này thẳng tắp, viên đốn, nhanh. Pháp môn như vậy thì ai mà không muốn học? Xem được bốn chữ này, thì ý niệm cầu sanh Tịnh-độ của chúng ta sẽ sanh khởi lên. Đơn giản, vững chắc, đó là điều mà chúng ta mong đạt được. Thật tế nói về pháp môn này, sau khi đem đơn giản hóa đi thì thành 8 chữ: Đơn giản, vững chắc, thẳng tắp, viên đốn, là tám chữ đó. Không có bộ kinh thứ hai có thể so sánh với Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, tìm không thấy được. Chúng ta gặp được Pháp môn này, thật sự giống như điều mà ngài Bành Tế Thanh đã nói, hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay, mà chúng ta gặp được rồi. Gặp được rồi mà không trân trọng, không thật làm, thế thì thật là đáng tiếc!

          Cư sĩ Hoàng Trung Xương, vãng sanh mấy năm trước, ở Thâm Quyến, anh ấy mới ba mươi mấy tuổi. Nghe tôi giảng Kinh Vô Lượng Thọ, giảng đến những chỗ này, anh ấy vô cùng hoan hỷ, anh ấy muốn thực nghiệm, bế quan 3 năm ở Thâm Quyến, xem thử 3 năm có thể vãng sanh hay không? Chỉ là một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, một câu Phật hiệu, niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khỏe rồi niệm tiếp, không kể ngày đêm, thuận tiện, thật thuận lợi. Niệm đến 2 năm 10 tháng, còn hai tháng nữa thì việc bế quan của anh ấy kết thúc, vẫn còn hai tháng, nhưng anh ấy vãng sanh rồi, không có bị bệnh, tự tại vãng sanh. Anh ấy vãng sanh như thế nào? Không phải là thọ mạng hết rồi, không phải vậy, mà thọ mạng còn lại không cần nữa. Gặp được A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, thì yêu cầu A Di Đà Phật dẫn con vãng sanh, vẫn còn thọ mạng nhưng không cần nữa, thật đi rồi. A Di Đà Phật rất từ bi, đã đáp ứng. Anh ấy biểu diễn cho chúng ta xem, chúng ta thấy được rồi, là thật chứ không phải giả. Sau khi hỏa táng anh ấy thì có xá lợi, đã xây tháp xá lợi, còn cúng dường ở trong quan phòng đó.

          Đơn giản, vững chắc, thì không gì bằng tín nguyện, chuyên trì danh hiệu. “Tín nguyện, chuyên trì danh hiệu” chính là “tín, nguyện, trì danh” mà Đại sư Ngẫu Ích nói, vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì cần bốn chữ ấy, điều kiện vãng sanh chính là bốn chữ ấy. Thật tin tưởng, không có chút hoài nghi nào, tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, ở phương tây có Thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật, chỉ cần chúng ta trì danh, trì danh chính là chuyên trì danh hiệu, trì danh thì có thể vãng sanh. Đến khi quý vị gặp được A Di Đà Phật, thọ mạng còn cũng không cần nữa, thì A Di Đà Phật dẫn quý vị đi. Vẫn có một trường hợp mà A Di Đà Phật không dẫn quý vị đi, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền. Nói thực là, nếu như lão Hòa thượng Hải Hiền cầu vãng sanh, thì 25 tuổi là đủ rồi. Ngài bắt đầu niệm Phật từ 20 tuổi, sư phụ truyền cho ngài một câu pháp này, 5 năm thành công rồi, thời gian 5 năm có thể niệm đến công phu thành phiến. Người công phu thành phiến, thì A Di Đà Phật sẽ đến tiết lộ tin tức cho ngài, Phật đến thăm ngài, hoặc ở trong định, hoặc ở trong mộng, Phật đến thăm ngài, nói với ngài, khích lệ ngài: con niệm Phật niệm rất khá, niệm được rất tốt, thọ mạng của con còn bấy nhiêu năm đó, đến khi hết thọ mạng thì Phật sẽ đến tiếp dẫn con, sẽ nói cho con những lời này. Tôi tin rằng có những người không cần thọ mạng, quyết định đi. Lão Hòa thượng Hải Hiền cũng có thể đi, ngài đã cầu, ngài không phải không cầu, nhưng A Di Đà Phật không đáp ứng cho ngài, nói với ngài: con tu được khá, tu được rất tốt, có thể làm tấm gương tốt cho đệ tử Phật, làm tấm gương tốt cho người cầu sanh Tịnh-độ. Cho nên ngài ở lại để biểu pháp, biểu pháp chính là làm tấm gương, để ngài lưu lại đến 112 tuổi, ở lại lâu như vậy. Ngài ở thế giới này có khổ hay không? Không có. Làm sao mà thấy được? Không có người nào nhìn thấy ngài mà ngày nào không cười. Bất luận ngài đang ở nơi nào, không kể ngài đang làm gì, quý vị nhìn thấy ngài gương mặt tươi cười, hoan hoan hỷ hỷ, pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ. Ngài đã làm được, ngài làm cho quý vị thấy, đây không phải là giả, đây không phải là làm ra vẻ, mà là tự nhiên. Điều này không thể xem thường, phải lắng tâm mới thể hội được. Niềm vui đó của ngài giống với niềm vui của Khổng tử, giống với niềm vui của Nhan Hồi, tương đồng với người đại triệt đại ngộ.

          Trong thời gian ngài ở dài như vậy, ngài niệm Phật 92 năm, trong thời gian dài như vậy, chúng ta có lý do tin tưởng, ngài nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, ngài nhìn thấy A Di Đà Phật, tối thiểu trên 10 lần. Đại sư Huệ Viễn của chúng ta, bên kia là tượng của Tổ sư chúng ta, một vị trong đó, là Đại sư Huệ Viễn, là đời Tổ sư thứ nhất, lúc ngài còn ở đời, bốn lần thấy A Di Đà Phật, thấy Thế giới Cực Lạc, lần thứ tư là đến đón ngài vãng sanh, ba lần trước đều là để cho ngài nhìn thấy. Cho nên lão Hòa thượng chứng minh cho chúng ta, làm chứng chuyển, làm chứng chuyển trong tam chuyển luân pháp; chúng ta giảng kinh dạy học là khuyến chuyển, khuyên mọi người, còn ngài đến làm chứng minh cho chúng ta. Chứng minh điều đầu tiên là Thế giới Cực Lạc thật có, không phải là giả; chứng minh điều thứ hai A Di Đà Phật thật có, cũng không phải giả; chứng minh thứ ba cho chúng ta là: 48 nguyện tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh cõi Phật làm Bồ-tát A-duy-việt-trí cũng là thật, không phải giả, để chúng ta đoạn nghi sanh tín đối với pháp môn Tịnh-độ, điều này công đức vô lượng, là biểu pháp như vậy.

          Biểu pháp tiếp theo cho người hiện đại chúng ta, chính là hiện nay có nhiều người hủy báng bản hội tập này, không thừa nhận quyển kinh này là chân kinh, nói bản hội tập là lệch lạc, thậm chí không nên có bản hội tập. Vấn đề này, đến cuối cùng thì có thể hội tập kinh hay không? Pháp sư Hoằng Lâm có giải thích kỹ càng, thầy ấy giải thích kỹ càng tỉ mỉ cả trong một chương ở quyển sách Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng. Trước khi vãng sanh lão Hòa thượng Hải Hiền cầm quyển sách này trên tay, là tấm ảnh ở đằng kia. Quyển sách này chứng minh bản hội tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư là chân kinh, mỗi một chữ bên trong đều là do Phật nói, mỗi một câu đều là do Phật thuyết, không dám sửa đổi một chữ nào, cho nên hãy an tâm, là chân kinh. Nếu quý vị có hoài nghi, quý vị hãy đọc kỹ chương đó, thì quý vị sẽ hiểu rõ ràng, biết được thôi. Làm chứng thứ hai cho chúng ta, chính là bản Chú Giải này, là tập Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ngài cũng là hội tập, ngài đã dùng hơn 83 loại kinh luận, 110 loại trước tác của Tổ sư Đại đức, để chú giải bộ kinh này, làm chứng minh cho bộ kinh này là chánh tri chánh kiến, không phải tà tri tà kiến. Làm chứng minh thứ ba cho chúng ta, chúng ta hơn 20 năm trở lại đây, hai ba mươi năm rồi, y theo bộ kinh này, theo Chú Giải của Niệm lão, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia, là không sai, làm chứng cho chúng ta, để chúng ta quyết một lòng đối với bộ kinh này không hoài nghi nữa. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm nhiệm vụ như vậy, ngài đến thế gian để làm chứng cho chúng ta, để chúng ta đối với kinh giáo này, đặc biệt là bản hội tập, tập chú, sinh ra lòng tin rất lớn, tâm nguyện rất sâu, tin sâu nguyện thiết, chúng ta nương theo bản này học tập, tín nguyện trì danh, vãng sanh Tịnh-độ, quyết định là thật chứ không phải giả.

    又云“Hựu vân”(lại nói), đây cũng là câu nói trong sách Yếu Giải, một câu danh hiệu “A Di Đà Phật” “là vạn đức hồng danh”. Công đức danh hiệu không có cách gì tưởng tượng được, mà còn không thể nghĩ bàn, danh hiệu bao gồm tánh đức viên mãn của chúng ta. Vạn đức, chữ “vạn” ở đây là tính từ, không phải là số từ, vì “một vạn” của số từ thì không nhiều, vạn ở đây tiêu biểu vô lượng vô biên, vô cùng vô tận. Đó là gì? Là Tự-tánh, tánh đức của Tự-tánh vô lượng vô biên. Khi đại triệt đại ngộ Đại sư Huệ Năng đã nói năm câu, câu nói sau cùng chính là nói tánh đức: “Nào ngờ Tự-tánh, có thể sanh vạn pháp”. Tự-tánh có đức năng lớn bao nhiêu? Quý vị xem xem cả vũ trụ này, biến pháp giới hư không giới, ở trong đó có vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, có vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, ở trong tam thiên đại thiên thế giới của chính mình rộng độ chúng sanh, tuyên dương vô lượng vô biên kinh điển pháp môn, đó đều ở trong vạn đức, không có gì rời khỏi vạn đức. Cho nên niệm một câu A Di Đà Phật này, chính là niệm cả thảy danh hiệu của tất cả chư Phật rồi, một danh hiệu cũng không sót. Danh hiệu của Phật là quả đức, danh hiệu của Bồ-tát là nhân hạnh, là tu đức, tu đức và bổn đức là một không phải hai, một bên là hoàn toàn chứng đắc, một bên còn chưa chứng đắc, đang tu hành. Nói cách khác, danh hiệu Di Đà bao gồm tất cả tu đức của Bồ-tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Di Lặc. Tu đức của tất cả chư Bồ-tát cũng ở trong câu danh hiệu này, quý vị xem quý vị tiết kiệm được biết bao sự việc, vì một câu danh hiệu thì niệm toàn bộ cả rồi.

     以名召德,罄無不盡。故即以執持名號為正行,不必更涉觀想、參究等行,至簡易、至直捷“Dĩ danh chiêu đức, khánh vô bất tận. Cố tức dĩ chấp trì danh hiệu vi chánh hạnh, bất tất canh thiệp quán tưởng, tham cứu đẳng hạnh, chí giản dị, chí trực tiệp”(Dùng danh hiệu để chiêu cảm đức, thì đạt được tất cả. Nên chấp trì danh hiệu là chánh hạnh, chẳng cần trải qua các hạnh: quán tưởng, tham cứu v.v…thật rất đơn giản, quá thẳng tắp), đã nói ra “đơn giản”, “thẳng tắp” rồi, nói được hay, một môn chính là tất cả môn. Tất cả kinh điển, vô lượng vô biên kinh luận mà tất cả chư Phật Như Lai đã thuyết, luận mà Bồ-tát đã tạo, kinh mà chư Phật đã nói, cũng ở trong một câu Phật hiệu này, một câu Phật hiệu này bao gồm hết rồi, tiện lợi biết bao, đơn giản, thẳng tắp, đâu có những phiền phức nào? Pháp môn này đơn giản, lão Hòa thượng Hải Hiền làm tấm gương cho chúng ta, cả đời của ngài, sư phụ ngài chỉ truyền cho ngài một câu Nam Mô A Di Đà Phật, bảo ngài niệm liên tục, không có gì khác nữa. Ngài đã chỉ niệm một câu Phật hiệu này 92 năm, từ khi bắt đầu niệm, là 20 tuổi, đến khi vãng sanh, là 112 tuổi, làm ra cho chúng ta xem, làm chứng chuyển cho chúng ta, chúng ta phải tin tưởng. Tin tưởng thì thế nào? Đối với pháp môn khác thì buông xuống hết cả. Tôi khuyên mọi người, 60 tuổi thì phải buông xuống, đừng học thêm nữa, quyết hết lòng với một câu Phật hiệu, thì nhất định vãng sanh Tịnh-độ. Nếu quý vị vẫn là ba mươi, bốn mươi tuổi, thì học pháp môn khác vẫn được, xem nhiều chút, thích pháp môn nào thì học pháp môn đó. Nhưng tốt nhất là chuyên tu, không nên tham nhiều, nhiều là tạp tu rồi, rất khó thành tựu. Sau 60 tuổi là già rồi, chuẩn bị vãng sanh thôi, không kịp đâu, học pháp khác không kịp, phải buông xuống tất cả, điều này quan trọng hơn bất kỳ điều gì. Cho nên là không cần đi học quán tưởng, cũng không cần đi tham thiền, cũng chính là đối với việc giảng dạy, cũng không cần đi nghiên cứu kinh giáo, buông xuống tất cả, là đơn giản, thẳng tắp.

          又《圓中鈔》云“Hựu Viên Trung Sao vân”(Viên Trung Sao lại nói), phía trước là của Đại sư Ngẫu Ích; còn Viên Trung Sao là của Đại sư U Khê, 今經所示“Kim kinh sở thị”(Kinh này đã dạy), “kinh này” là Kinh A Di Đà, Viên Trung Sao là chú giải của Kinh A Di Đà, tên gọi là Viên Trung Sao. Trong Kinh Di Đà nói, 初心凡夫,但是有口能稱,有信能念,皆可修之“Sơ tâm phàm phu, đãn thị hữu khẩu năng xưng, hữu tín năng niệm, giai khả tu chi”(phàm phu sơ phát tâm có miệng là xưng niệm được, có tin có thể niệm được, ai cũng đều tu được), chỗ này là nói đơn giản dễ dàng. Phàm phu sơ phát tâm, phát tâm cầu sanh Thế giới Cực Lạc, chỉ cần họ có miệng có thể niệm thì được rồi, xưng là xưng niệm, có miệng có thể xưng, xưng danh hiệu Phật; có niềm tin có thể niệm, tin tưởng đối với Thế giới Cực Lạc, tin tưởng đối với A Di Đà Phật, không hoài nghi, có thể niệm, “ai cũng đều tu được”, đều có thể tu, không một ai không thể tu. Như lão Hòa thượng Hải Hiền không biết chữ, không có đi học, từ nhỏ sinh trưởng ở nông thôn, công việc là đồng áng, cho nên đối với làm ruộng ngài rất thành thạo. Sau khi ngài xuất gia vẫn là làm ruộng, khai hoang, trước sau tổng cộng khai khẩn được hơn 100 mẫu đất, diện tích trồng trọt rất lớn, thu hoạch cũng rất tốt. Ngài không bán để lấy tiền, ngoài chi phí sinh hoạt của năm, sáu người trong ngôi chùa nhỏ của ngài ra, còn lại cả thảy dùng để cứu trợ thiên tai, nơi nào có tai nạn, có hạn hán, có lũ lụt, thu hoạch không được, ngài đều đem đến bố thí, đưa đến cúng dường. Cả đời, ngôi chùa nhỏ nhang đèn rất ít, tiền cúng dường không nhiều, gắng gượng đủ có thể duy trì, nhưng ngài vô cùng vui vẻ, đó là làm ra tấm gương cho chúng ta. 故知此經所示“Cố tri thử kinh sở thị”(Vì vậy kinh này đã dạy), Kinh Di Đà là tiểu bản, Kinh Vô Lượng Thọ là đại bản, tính chất hoàn toàn giống nhau, 乃至簡“nãi chí giản”(hết sức đơn giản), pháp môn đơn giản đến tột cùng, dễ dàng đến tột cùng. Nói giản nói dễ, đơn giản nhất trong đơn giản, không có pháp môn nào đơn giản hơn; dễ dàng nhất trong dễ dàng, cũng không có pháp môn nào dễ dàng hơn, đó là đơn giản đến tột cùng, pháp môn đơn giản như vậy, chúng ta đã gặp được rồi.

          “Hựu”(lại), hễ là chữ “lại” này, thì cũng là của Viên Trung Sao, phần trước ghi chép của Viên Trung Sao, phần sau này vẫn là của Viên Trung Sao. 若執持名號,不問閒忙,不拘動靜,行住坐臥,皆可修之。“Nhược chấp trì danh hiệu, bất vấn nhàn mang, bất câu động tịnh, hành trụ tọa ngọa, giai khả tu chi”(Nếu chấp trì danh hiệu thì chẳng luận rảnh hay bận, chẳng kể động hay tịnh, khi: đi, đứng, nằm, ngồi, đều tu được cả). Quý vị thấy bốn câu nói này, không phải là viết về lão Hòa thượng Hải Hiền sao? Lão Hòa thượng Hải Hiền là làm theo bốn câu nói này, bốn câu nói này đã viết ra hết rồi. Rảnh ngài niệm, bận ngài cũng niệm, bận là làm việc trong ruộng, công việc đó không trở ngại niệm Phật, cuốc xuống A Di Đà Phật, nhấc lên A Di Đà Phật, ngài không có ý niệm gì khác, bất kể động tịnh, chẳng kể rảnh rang bận bịu. Cho nên Phật hiệu của ngài từ sáng đến tối không gián đoạn, mở miệng niệm: A Di Đà Phật không ngừng; không mở miệng, thì trong tâm không gián đoạn A Di Đà Phật, đây chính là công phu của ngài, công phu của ngài đến nơi đến chốn rồi, niệm đến công phu thành phiến, niệm đến sự nhất tâm bất loạn, niệm đến lý nhất tâm bất loạn. Tôi ước đoán ngài niệm đến lý nhất tâm bất loạn cần phải 20 năm, từ 20 tuổi đến 40 tuổi. Từ 40 tuổi trở đi, ngài đã là Bồ-tát minh tâm kiến tánh, không phải phàm phu. Đó làm ra tấm gương tốt cho chúng ta xem. Quay đầu nghĩ lại chính chúng ta, chúng ta đã lãng phí thời gian của mình rồi, thật đáng tiếc. Tôi không hy vọng người khác, mọi người quý vị đừng nên lãng phí thời gian, phải nắm chắc, nắm chắc câu Phật hiệu này, nắm cho thật chắc. Khi đi ngủ, ngủ thiếp rồi, không biết nữa, quên Phật hiệu rồi, khi tỉnh lại thì Phật hiệu tiếp tục niệm. Biện pháp tốt nhất là khi ngủ, đặt máy niệm Phật ở đầu giường, mở niệm Phật nho nhỏ, chính mình có thể nghe được, nghe đến khi mệt rồi, ngủ thiếp, sau khi tỉnh lại quý vị lại nghe được, thì lại tiếp tục niệm, phương pháp này tốt, nên dùng phương pháp này để đối trị. 故知此經所示,乃至捷至徑“Cố tri thử kinh sở thị, nãi chí tiệp chí kính”(Nên biết kinh này đã chỉ bày con đường tắt ngắn nhất), “ngắn nhất”, là đường tắt đến tột cùng, đơn giản đến tột cùng.  

          Tiếp theo lại nói với chúng ta, nói rõ điều gì? Người người đều có phần. 稱名之法,不擇賢愚,不揀男女,若貧若富,若貴若賤,皆可修之。“Xưng danh chi pháp, bất trạch hiền ngu, bất giản nam nữ, nhược bần nhược phú, nhược quý nhược tiện, giai khả tu chi”(Pháp xưng danh này, chẳng lựa hiền, ngu, chẳng phân biệt nam, nữ, dù giàu hay nghèo, dẫu sang hay hèn, cũng đều tu được). Nói cách khác, nam nữ già trẻ, giàu nghèo sang hèn, người người đều có phần. Lão Hòa thượng Hải Hiền ngài đã thị hiện cho chúng ta, gia đình của ngài nghèo khổ, chưa từng đi học, nghèo cùng, thế nhưng ngài làm việc cực kỳ siêng năng, ngài không sợ khổ, không ngại làm việc, ưa thích làm ruộng. Làm ruộng không trở ngại ngài niệm Phật, cho nên công phu niệm Phật của ngài không gián đoạn. Nếu dùng trí óc làm việc, Phật hiệu dừng lại; sau khi làm xong công việc, thì niệm tiếp Phật hiệu, cũng không tính là gián đoạn, phải nắm chắc cơ hội. 故知此經所示,乃攝機至廣之法門也“Cố tri thử kinh sở thị, nãi nhiếp cơ chí quảng chi pháp môn dã”(Nên biết kinh này chỉ ra pháp môn nhiếp trọn các căn cơ hết sức rộng lớn vậy), không có pháp môn nào phổ biến hơn pháp môn này. Bộ kinh này đại diện cho toàn bộ Phật pháp, tất cả kinh mà Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong 49 năm, tất cả kinh Đại-thừa đến sau cùng đều khuyên quý vị niệm Phật vãng sanh Thế giới Cực Lạc, quý vị mới có thể thành tựu viên mãn, không thể không biết điều này. Nên biết kinh này chỉ ra pháp môn nhiếp trọn các căn cơ hết sức rộng lớn vậy, không có pháp môn nào phổ biến hơn pháp môn này. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

( Hết tập 313)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0