Responsive Menu
Add more content here...

Tập 323 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:

Ba Bậc Vãng Sanh

Tập 323

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hong Kong.

Thời gian: Ngày 17 tháng 4 năm 2016.

Ban phiên dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

          Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn”(3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 769, trang 769. Hàng thứ bảy từ trái sang. Bắt đầu xem hàng thứ bảy từ trái sang: 「夫如來者本無去來,云何今言佛現其前?」“Phù Như Lai giả bổn vô khứ lai, vân hà kim ngôn Phật hiện kỳ tiền?” (Như Lai vốn không đến đi, thì sao ở đây lại nói Phật hiện trước mặt?) Câu này là lời trong Thiền Tông, Thiền Tông, như câu nói trong Kinh Kim Cang, 「凡所有相皆是虛妄」“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (những gì có tướng, đều là hư vọng), 「一切有為法如夢幻泡影」“Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh” (Tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng), cho nên nói 「一切法無所有,畢竟空,不可得」“Nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (Tất cả Pháp, vô sở hữu, rốt ráo không, không thể đắc), những câu này vô cùng xác thực, là chân tướng sự thật. Ngày nay trước mắt chúng ta, mắt chúng ta có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, gọi là sáu căn, sáu trần, sáu thức, tất cả pháp này, rốt cuộc là có hay không? Thiền Tông cho rằng không có. Thực sự mà nói, nói có thì sai rồi, nói không có cũng sai luôn. Chúng ta từ trong những lời nói này, phải biết nghe, phải có thể ngộ nhập, có thể ngộ nhập Pháp này chính là Phật Pháp; không thể ngộ nhập, Chấp trước những Pháp này cho rằng là thật, cho rằng là giả, thì đều sai hết.

          Người nào có thể ngộ nhập? Vậy thì phải chú trọng, người Vọng tưởng ít, người không có tạp niệm, người Phân biệt Chấp trước cạn mỏng, những người này dễ dàng ngộ nhập, có thể nghe vào. Liệu họ có nghi vấn này hay không? 「如來者本無去來,云何今言佛現其前?」 “Như Lai giả bổn vô khứ lai, vân hà kim ngôn Phật hiện kỳ tiền?” (Như Lai vốn không đến đi, thì sao ở đây lại nói Phật hiện trước mặt?) Rốt cuộc là người ấy đã ngộ hay chưa? Chưa ngộ. Tại vì sao? Bởi nghe được câu nói này thì họ chấp tướng, họ có phản ứng lại, là họ chấp tướng rồi, vẫn chưa ngộ. Người ngộ không nói chuyện, người không ngộ, họ cũng không nói chuyện, cuối cùng là rất khó nói là ngộ hay chưa. Những chân tướng sự thật này, tại sao nói: có tướng là sai, không tướng cũng sai rồi, hoặc có hoặc không cũng sai luôn, không có không không cũng sai hết, đây chính là rơi vào trong Tứ cú Bách phi, không biết chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật, đích thực giống như ví dụ: đã được nói ở phần sau Kinh Kim Cang, 「一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀」“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (Tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt ảnh, như sương cũng như chớp, hãy nên quán như thế), bốn câu kệ này hay! Tất cả pháp, không thể nói không, không thể nói có, không thể nói có cũng không thể nói không, trước tiên phải hiểu chân tướng sự thật, gọi là Tướng có Lý không, hoặc là Tướng có Tánh không, đều phải nên làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Sau đó như thế nào? Nhìn được vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, nghe được vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, đây là trí huệ Bát-nhã do Tự Tánh lưu lộ ra, là tự nhiên. Có Chấp trước hay không? Không có; Không những không có Chấp trước, mà khởi tâm động niệm, Phân biệt đều không có, như như bất động, rõ rõ ràng ràng. Như như bất động là Tự Tánh vốn định, vô cùng rõ ràng là Tự Tánh Bát-nhã hiện tiền, chiếu kiến Ngũ uẩn giai không, vậy thì đúng rồi. Tổ sư Đại đức đưa ra câu này, tại sao phải đưa ra? Bởi không ít người có loại tri kiến này, họ cầu khai ngộ mà chưa có ngộ, ngộ rồi thì không có vấn đề nữa, vẫn còn đưa ra vấn đề là chưa ngộ.  

          Tiếp theo nói, Đại sư Liên Trì, Đại sư U Khê, Đại sư Ngẫu Ích, ba ngài đều「深明其義」 “thâm minh kỳ nghĩa” (hiểu sâu nghĩa ấy), các ngài có giải thích, Đại sư Liên Trì trong Sớ Sao, ngài U Khê ở trong Viên Trung Sao, Đại sư Ngẫu Ích ở trong Di Đà Kinh Yếu Giải, đều nói đến, nói được hay. Chúng ta sanh ra ở trong thời đại ngày nay, nhờ vào phát minh của các nhà Khoa học, chúng tôi đã đọc báo cáo khoa học của họ, quay trở lại xem Kinh văn này lần nữa, là tương ưng. Cho nên, Phật Pháp là gì? Phật Pháp là Khoa học cao cấp. Các nhà Khoa học trong hai, ba mươi năm trước đây, nghiên cứu sự huyền bí của vũ trụ, sự huyền bí của vũ trụ ít nhất có ba loại lớn: thứ nhất là vật chất, thứ hai là ý niệm, chính là tinh thần, khởi tâm động niệm, thứ ba là hiện tượng tự nhiên. Ba loại này từ đâu đến? Chân tướng là gì? Khoa học đã nghiên cứu hơn 400 năm, 20 năm gần đây: mới làm rõ ràng vật chất là gì. Điều các nhà Khoa học đã nói, không hề khác với điều nói trong Kinh điển, đáp án của họ cho chúng ta biết, y theo nghiên cứu của các nhà Cơ học lượng tử, họ quan sát có được kết luận, giữa vũ trụ, căn bản là không có vật chất, vật nào tồn tại, đây là đáp án của họ. Vật chất từ đâu đến? Vật chất do từ ý niệm sanh ra, là ảo tướng sanh ra: bởi ý niệm ở trong tần suất rất cao, thời gian tồn tại của ảo tướng này cực kỳ ngắn ngủi, chúng ta không có cách nào phát hiện được.

          Giống như ngày nay chúng ta dùng tivi để học tập, học tập cùng với nhau, chúng ta dùng ti vi, chúng ta nhìn màn hình của tivi, tướng màn hình tivi, sắc tướng này, một giây dao động bao nhiêu lần? Ngày trước chúng ta xem điện ảnh, điện ảnh là thuộc về ảnh động, không phải như ngày nay, ngày nay tiến bộ, ngày nay dùng kỹ thuật số. Chỗ này của tôi, vẫn còn cuộn phim dùng trong điện ảnh trước đây, tấm ảnh động này, thì giống như tấm đoạn phim, ống kính mở ra thì chiếu lên màn hình, lập tức đóng lại ngay, lại kéo thêm một tấm, thấy tấm thứ hai, tốc độ như vậy là 24 tấm trong một giây. Một giây có 24 tấm, chớp nhoáng thì qua đi rồi, chúng ta xem trên màn hình dường như thật có sự việc này vậy. Tivi ngày nay còn nhanh hơn nhiều so với điện ảnh, tấm phim này của điện ảnh: chỉ là 24 lần trong một giây, thì chúng ta đã cho là thật rồi. Tivi lúc mới phát minh ra: là tivi trắng đen, không phải tivi màu, một giây 50 lần, cũng chính là nói tốc độ cao hơn gấp đôi rồi, 50 lần. Ngày nay là tivi màu, kỹ thuật số, tốc độ lại nhanh nữa, bây giờ một giây là 100 lần, cho nên chúng ta xem được rất như thật, không nhìn ra sơ hở. Một giây 24 lần, chúng ta quan sát tỉ mỉ, nó đang nhấp nháy ở đó, nó không ổn định, đang nhấp nháy, chư vị có thể nhìn ra được; bây giờ một giây 100 lần thì nhìn không ra rồi, nó đang nhấp nháy mà không nhìn ra.

          Hoàn cảnh hiện thực, chính là nói thế gian này của chúng ta, tất cả vạn pháp này của chúng ta, một giây nhấp nháy bao nhiêu lần? Thích Ca Mâu Ni Phật: đã nói vấn đề này với Bồ-tát Di Lặc, Phật nói 「心有所念」“tâm hữu sở niệm” (ý niệm của tâm), tâm của chúng ta khởi ý niệm này, chúng ta cảm nhận đã khởi ý niệm này, Phật hỏi ngài Di Lặc, trong một ý niệm này, có「幾念幾相識耶?」“kỷ niệm kỷ tướng thức da?” (bao nhiêu niệm, bao nhiêu tướng, thức?) Mấy niệm là bao nhiêu ý niệm vi tế, chư vị mới nhìn thấy ý niệm này. Bao nhiêu ý niệm vi tế, đây là niệm; mấy tướng, tướng chính là hiện tượng vật chất; mấy thức, thức chính là hiện tượng của ý niệm, chư vị xem một câu nói đã hỏi hết tất cả rồi. Bồ-tát Di Lặc trả lời, đây là khoa học cao cấp trong Phật Pháp Đại thừa, 「拍手彈指之頃」 “phách thủ đàn chỉ chi khoảnh” (trong khoảng gảy ngón tay, vỗ tay), vỗ tay, búng tay, một búng tay có 「三十二億百千念」“tam thập nhị ức bá thiên niệm” (32 ức trăm ngàn niệm). Không phải 100 lần, 32 ức trăm ngàn niệm, cũng chính là nói nó dao động, 32 ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là đơn vị, một trăm lần ngàn là một trăm ngàn, 32 ức nhân một trăm ngàn, chính là 320 ngàn tỷ! Một búng tay dao động 320 ngàn tỷ lần, làm sao chúng ta biết được? Nhà Khoa học dùng thiết bị Khoa học đã quan sát được, đối với những điều nói trên Kinh, bội phục đến năm vóc sát đất, Thích Ca Mâu Ni Phật đã biết từ 3.000 năm trước, nói được rõ ràng như vậy. Cho nên theo cách tính này, thì một giây bao nhiêu lần? Một giây có thể búng được mấy lần? Tôi có thể búng năm lần, thật ra có người trẻ tuổi, thể lực tốt, búng được nhanh, họ có thể búng bảy lần. Tính toán ra 320 ngàn tỷ lần, 320 ngàn tỷ lần nhân cho bảy, một giây, là 2 triệu 240 ngàn tỷ lần. Một giây 2.240 ngàn tỷ lần, chính là trước mắt chúng ta, chư vị nói là có hay là không? Chư vị thật sự hiểu được sự tướng này, nói có cũng được, nói không cũng được, nói chẳng không chẳng có cũng được; Nếu chư vị không hiểu chân tướng sự thật, chư vị nói không thì sai rồi, chư vị nói có cũng sai luôn, chư vị nói cũng không cũng có vẫn là sai, sai đến cùng, tại sao vậy? Vì không hiểu chân tướng sự thật.

          Phật giáo là gì? Lúc tôi học Phật, thầy nói với tôi, Phật giáo là Triết học, Triết học cao cấp, Kinh Phật Đại thừa là Triết học đỉnh cao nhất, Triết học cao nhất trong Triết học toàn thế giới. Chúng tôi đã học 65 năm, ngày nay chúng tôi bỗng nhiên giác ngộ được, Phật Pháp, Kinh Phật không những là Triết học cao cấp, cũng là Khoa học cao cấp. Tại vì sao? Bởi ba loại hiện tượng này, Đại thừa giáo đều có, đều nói qua. Các nhà Cơ học lượng tử đã phơi bày vật chất rồi, ngày nay luận đề thứ hai chính là ý niệm. Ý niệm là gì? Chúng ta tin tưởng thêm mười, hai mươi năm nữa, điều bí mật này sẽ được phơi bày. Bởi vì Phật đã giảng trong kinh, về Tam tế tướng của A-lại-da, chúng sanh trong 10 pháp giới, chính là chúng sanh trong sáu đường luân hồi, họ dùng Ý thức, Ý thức thứ sáu, Ý thức thứ sáu có thể duyên được đến: đối với bên ngoài có thể duyên đến giới hạn của vũ trụ, đối với bên trong có thể duyên đến Tam tế tướng của A-lại-da, Tam tế tướng này chính là hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên mà các nhà khoa học đã nói, A-lại-da có thể duyên đến, thế nhưng không có biện pháp giải quyết. Biết được thì rất tài ba, chư vị nghĩ xem, một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ của giây, mà chư vị có thể nhìn thấy được, thì không phải một việc dễ dàng. Ngày nay hiểu rồi, hiện tượng vật chất là ý niệm sanh ra, thì vô cùng tương tự với điều này của chúng ta, những hình ảnh này trên tivi, là do dao động sinh ra, một giây 100 tấm, tốc độ đã quá nhanh, khiến cho chư vị không nhìn ra sơ hở, đây là một giây 100 tấm. Còn hoàn cảnh hiện thực của chúng ta, chư vị phải ghi nhớ, một giây là 2 triệu 240 ngàn tỷ tấm, cho nên chắc chắn chư vị nhìn không ra, lầm tưởng nó là thật. Hiểu được chân tướng sự thật có lợi ích gì? Chư vị sẽ biết buông xuống, buông xuống mới có thể khai ngộ. Tại sao chúng ta không thể khai ngộ? Bởi cửa ngộ đó đã bị những vật này lấp kín rồi, những vật này căn bản là không tồn tại, chư vị lầm tưởng nó tồn tại, thì nó sinh ra tác dụng, làm cho chư vị không thể khai ngộ, chư vị không chịu buông xuống. Bất luận tu pháp môn nào, chư vị phải ghi nhớ, pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, mấu chốt ở đâu? Mấu chốt phải buông xuống.

          Ngày đầu tiên học Phật, tôi gặp Đại sư Chương Gia, thì ngài đã dạy tôi điều này rồi. Tôi thỉnh giáo ngài, tôi nói con học Triết học với Tiên sinh Phương Đông Mỹ, ngài giảng cho con Triết học Kinh Phật, con đã hiểu Phật Pháp, hiểu rõ Phật Pháp không phải là mê tín, mà là Khoa học cao cấp; tôi hỏi ngài, trong nhà Phật có phương pháp nào: có thể khiến chúng ta khế nhập cảnh giới thật nhanh hay không? Ngài nói với tôi có, nhìn thấu, buông xuống. Nhìn thấu giúp chư vị buông xuống, nhìn thấu chính là hiểu rõ rồi. Nếu chúng ta không hiểu rõ điều trong Kinh Phật nói, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, không có chứng minh của khoa học, thì chúng ta vẫn hồ đồ đối với việc này, không ngộ. Chúng ta nhìn thấy báo cáo khoa học, đem cả hai đối chiếu, vậy mới tin tưởng, là thật không phải giả, đây là Khoa học đã làm ra: cống hiến cho người tu hành chân chánh. Thế nhưng họ cũng xem đó là thật, cho nên họ không buông xuống được; chúng ta biết đều là giả, Tướng là giả, Tánh là thật, cho nên không thể Chấp trước Tướng, phải buông xuống. Tự Tánh mà có thể hiện là thật, trong thật thì không có vật nào, trong thật không có ba dạng hiện tượng, không có hiện tượng tự nhiên, không có hiện tượng ý niệm, cũng không có hiện tượng vật chất, cho nên chư vị cũng không thể Chấp trước nó. Không Chấp trước cả hai bên, thì tiến vào trong, thì sáng tỏ rồi.

          Khoa học cho dù hiểu được tất cả là hư vọng, nhưng nếu họ Chấp trước, thì đến sau cùng chính là giống trời Vô Tưởng vậy, tất cả ý niệm đều không có, cũng sai rồi. Tại sao vậy? Bởi như Đại sư Huệ Năng nói rất hay, câu sau cùng, 「何期自性,能生萬法。」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp.” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn pháp). Câu này nếu khởi tác dụng, không khởi tác dụng thì không có vạn pháp. Cho nên, cả vũ trụ từ đâu mà đến, chủ tạo vật là ai? Chủ tạo vật không phải Thượng đế, chủ tạo vật là chính chúng ta. Vi diệu! Thật sự không liên can đến người khác, là chính chúng ta. Cho nên tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, mười Pháp giới y chánh trang nghiêm do tâm tưởng sanh, Thiên đường, Địa ngục do tâm tưởng sanh, Thế giới Cực Lạc do tâm tưởng sanh, là trong Tự Tánh vốn có. Đại sư Huệ Năng kiến Tánh, năm câu nói này quá xuất sắc! Câu thứ nhất nói: 「何期自性,本自清淨 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh); Câu thứ hai 「何期自性,本不生滅」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn bất sanh diệt” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn không sanh diệt), đây chính là năng sanh, năng sanh năng hiện, nó không có sanh diệt; Câu thứ ba 「本自具足」“bổn tự cụ túc” (Vốn tự đầy đủ), có đủ điều gì? Có đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, nói cách khác, tất cả công đức vô lượng vô biên của Phật, tất cả chúng sanh ai ai cũng có, chỉ cần chư vị khai ngộ, chỉ cần chư vị quay về Tự Tánh, thì có đủ hết thảy, 心外無法,法外無心tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm (ngoài tâm không có Pháp, ngoài Pháp không có tâm); Câu thứ tư 「本無動搖」“bổn vô động dao” (vốn không dao động), đây là Tự Tánh vốn định, tại sao phải tu định? Bởi vì Tự Tánh vốn định, trở về Tự Tánh vốn định, thì vô lượng vô biên trí huệ đức năng có thể hiện tiền, thanh tịnh chân chánh hiện tiền, xác thực là không nhiễm một bụi trần; Câu sau cùng, 「何期自性,能生萬法」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn Pháp), đây là hiện tướng, hiện vũ trụ, vụ trụ là do Tự Tánh hiện ra, Tự Tánh làm gì có đạo lý không hiểu biết! Có thể hiểu thấu đáo mấy câu này, thì đầy đủ lòng tin rồi, niệm Phật cũng tốt; niệm Phật thật tốt, niệm Phật chỉ cần có lòng tin, không có hoài nghi, chỉ cần nguyện sanh, tôi muốn đến Thế giới Cực Lạc. Muốn đi có thể đi không? Đương nhiên có thể đi, bởi Thế giới Cực Lạc là do Tự Tánh của ta biến hiện ra, ta làm sao không thể đi chứ! Thế giới này là Tự Tánh của ta biến hiện ra, Thế giới Cực Lạc cũng là Tự Tánh của ta biến hiện ra. Những đồng tham đạo hữu này là Tự Tánh ta biến hiện ra, A Di Đà Phật cũng là Tự Tánh của ta biến hiện ra, làm sao ta không thể thấy Phật chứ! Sáng tỏ đạo lý này, thì lòng tin sẽ không bị dao động, sẽ không có mảy may hoài nghi nữa.

           Ngày nay chúng ta gặp phải chướng ngại, chướng ngại chính là không buông xuống được, không buông xuống được chính là chưa làm rõ ràng. Thật làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thật nhìn thấu, thật buông xuống rồi, thật không có nghi ngờ nữa, thì Tịnh Độ cực kỳ hiệu nghiệm, thật sự là Pháp môn tuyệt vời, nhanh chóng thẳng tắt, còn thẳng tắt hơn Thiền. Thiền không dễ, tại sao vậy? Bởi buông xuống triệt để là khó. Pháp môn này có thể đới nghiệp vãng sanh, chưa tiêu hết nghiệp chướng cũng không sao, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đến Thế giới Cực Lạc tiêu nghiệp chướng. Đến Thế giới Cực Lạc, quý vị đã vô lượng thọ, thật có thời gian, có thời gian học Kinh giáo, bất luận tu Pháp môn nào đều có thời gian, thọ mạng bất sanh bất diệt, thật sự vô lượng thọ, không phải giả, vậy mới là rốt ráo viên mãn. Chúng ta phải xem sự việc này, là một đại sự hàng đầu trong đời này của chúng ta, chúng ta phải ra khỏi sáu đường luân hồi, phải ra khỏi mười Pháp giới, phải vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Thân thể ở thế gian này, người chỉ cần nhập vào cảnh giới này, đại khái thì có thể làm chủ chính mình, muốn trụ bao nhiêu năm ở thế giới này cũng được, không muốn trụ thì có thể đi bất kỳ lúc nào, thật được tự tại rồi. Sống ở đây làm gì? Giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn.

Vấn đề ngày nay, cũng không thể nói Văn hóa truyền thống Trung Hoa, chỉ có người Trung Hoa có, không phải. Trung Hoa từ xưa đến nay, mở miệng nói chuyện đều nói Thiên hạ, rất ít người nói Quốc gia, tâm lượng lớn. Nói cách khác, Văn hóa Truyền thống Trung Hoa là thuộc về thế giới, là thuộc về Thiên hạ, là thuộc về tất cả chúng sanh, không thể đoạn thứ này. Ngày nay không có người học, chúng tôi lo lắng, chúng tôi muốn tìm một nhóm người đến, giúp đỡ họ học tập, học văn tự Trung Hoa, học Văn ngôn của Trung Hoa, học Kinh điển của Trung Hoa. Trong Kinh điển của Trung Hoa bao gồm Đại thừa, Kinh điển Phật Pháp Đại thừa của Ấn Độ, toàn bộ đều phiên dịch thành văn Trung Hoa, không thể đoạn điều này, nếu đoạn mất điều này, thì nhân loại là một màn đen tối. Trên địa cầu này, giống như lời của ông Toynbee nói, từ khi có lịch sử ghi chép đến nay, 5.000 năm tại Trung Hoa, 3.000 năm ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là 2.500 năm, ba quốc gia này đều thuộc về Văn hóa Trung Hoa, bản thân họ không có Văn hóa, hoàn toàn học Văn hóa Trung Hoa. Hàn Quốc là nối liền với Trung Hoa, ở giữa không có cách biển, cho nên 3.000 năm trước, cuối đời nhà Chu đã đến; Nhật Bản và Việt Nam đều cách biển, cho nên họ đến muộn sau một thời gian, 2.500 năm, đại khái là thời đại Khổng Mạnh, chính là thời Khổng lão Phu tử, Mạnh phu tử xuất hiện ở thế gian, người Nhật Bản đã qua lại với Trung Hoa, Việt Nam đã qua lại với Trung Hoa. Cho nên ba quốc gia này trước thế chiến thứ hai, họ sử dụng chữ Hán, Văn ngôn văn của Trung Hoa, sau thế chiến thứ hai họ tự phát minh văn tự, bỏ đi chữ Hán, Văn ngôn văn, thật đáng tiếc thay! Nếu không bỏ đi, thì họ xem sách cổ Trung Hoa, đọc Tứ Khố Toàn Thư, là rất nhiều người, không phải số ít. Bây giờ đã thay đổi chữ viết, thì hoàn toàn cách tuyệt, đọc không hiểu nữa. Nhưng nếu muốn học tập, thì vẫn dễ dàng hơn người nước ngoài khác, dẫu sao họ vẫn có nền tảng.

          Cho nên chúng ta phải ái hộ, phải bảo vệ Văn hóa Truyền thống, phải bảo vệ Phật Pháp Đại thừa. Chúng ta phải giúp đỡ người trẻ, người có chí ở sự nghiệp này, muốn học chữ Hán, Văn ngôn văn, muốn đọc sách cổ Trung Hoa, những người này chúng ta phải toàn tâm toàn lực: quan tâm họ, thành tựu cho họ. Đây thực sự là 「為往聖繼絕學,為萬世開太平」“Vị vãng Thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái bình” (Vì Thánh xưa mà kế tuyệt học, vì vạn đời mà khai thái bình), là sự nghiệp của Thần Thánh. Tuy làm nhưng cũng không đặt trong tâm, dốc sức mà làm, không đặt trong tâm, đặt trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, thì đúng rồi, chư vị xem vậy không trở ngại chúng ta vãng sanh. Đặt trong tâm thì sai rồi, không đặt trong tâm thì đúng rồi, đây thực sự hiểu được Phật Pháp. Cuộc sống chính là Phật Pháp, học tập chính là Phật Pháp, công việc chính là Phật Pháp, bất luận theo nghề gì, Phật là giác ngộ, giác thì không mê, đó là Phật Pháp, mê thì không giác, đó không phải Phật Pháp.

          Tiếp theo là khai thị của ba vị Đại sư, ngài Liên Trì, ngài U Khê, ngài Ngẫu Ích, mà Niệm lão đã trích khai thị của ba ngài tại đây, để chúng ta xem. 「蓮池《疏鈔》云」“Liên Trì Sớ Sao vân” (Sớ Sao của ngài Liên Trì ghi), A Di Đà Kinh Sớ Sao của Đại sư Liên Trì, 「古謂佛無去來,云何有佛現在其前?」“Cổ vị Phật vô khứ lai, vân hà hữu Phật hiện tại kỳ tiền?” (Cổ đức nói Phật không đến đi, sao lại có chuyện Phật hiện ở trước mặt?) Cổ này là thời xưa, người tu học Đại thừa thời xưa, đây là lời thường nói, ai cũng hiểu, Phật làm gì có đến có đi? Phật đã không có đến đi, làm sao có thể nói có Phật hiện ở trước mặt? Kỳ thực những lời này, đối với người niệm Phật hằng ngày chúng ta có vấn đề hay không? Không có vấn đề; Thế nhưng xác thực đối với một số người, họ có Phân biệt Chấp trước, họ có Vọng tưởng, họ có tạp niệm, sẽ phát sinh với họ, đọc thấy trên kinh, đây là mâu thuẫn. Chúng ta xem giải đáp của Đại sư Liên Trì, 「答:感應道交,不妨不來而來、無見而見。」 “Đáp: Cảm ứng đạo giao, bất phương bất lai nhi lai, vô kiến nhi kiến.”(Ðáp: Cảm ứng đạo giao, không trở ngại chuyện không đến mà đến! Không thấy mà thấy). Không trở ngại, Nếu chư vị thường xuyên niệm Phật, thì Phật hiện tiền, thật sự không phải giả; niệm Bồ-tát thì Bồ-tát hiện tiền; thường xuyên nghĩ Thế giới Cực Lạc, thì Thế giới Cực Lạc hiện tiền, không chắc là khi nào, trong mộng, trong định, chư vị đều có thể thấy được, xuất hiện giữa lúc có ý vô ý rồi. Tại vì sao? Bởi chư vị niệm Phật là cảm, có cảm, duyên đầy đủ thì Ngài liền ứng; cảm là nhân, ngay trong có duyên, có duyên thì hiện tiền. Duyên có sâu cạn, cho nên thời gian lúc ứng hiện: dài ngắn không nhất định. Có những người trước mắt dường như không có kết duyên nào, không có duyên nào với Phật giáo, thế nhưng trong đời quá khứ đã từng là tín đồ Phật giáo kiền thành, đời này chuyển sanh trở lại làm người rồi, quên mất sự việc của đời trước, là mê do cách ấm, nhưng vẫn còn chủng tử trong A-lại-da thức, không chắc lúc nào đầy đủ duyên, nó lại hiện hành, thật sự là không thấy mà thấy, không đến mà đến.

          Đời này chúng tôi đích thân trải qua, sau khi kháng chiến thắng lợi, thời kỳ kháng chiến chúng tôi là những học sinh lưu vong, người nhà đều chạy tản cư, trường học thu nhận; sau khi kháng chiến thắng lợi, nhà nước đóng cửa trường học rồi, chúng tôi là người ở đâu, thì họ để chúng tôi trở về quê nhà, tìm cha mẹ anh em. Lúc đó tôi từ Quý Châu về đến Nam Kinh, ngài Chu Bang Đạo, Hiệu trưởng cũ của chúng tôi vào thời kỳ kháng chiến, chúng tôi đến nhà thăm thầy, căn nhà của thầy là tứ hợp viện, ba lớp tứ hợp viện, căn nhà rất lớn. Về sau chúng tôi đến Đài Loan, thầy cũng ở Đài Loan, gặp nhau tại Đài Loan, thầy đã học Phật rồi, thầy học Phật cùng một thầy với tôi, là lão Cư sĩ Lý Bĩnh Nam. Sư mẫu kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện, là chuyện thật, Sư mẫu gặp được Bồ-tát Địa Tạng Vương, sự việc này mãi khó hiểu ở trong lòng. Bồ-tát Địa Tạng Vương là một người xuất gia, đi vào trong nhà Sư mẫu hóa duyên, cũng không nhiều, năm cân dầu mè. Lúc đó Sư mẫu không tin Phật, không cúng cho ngài, không cúng cho ngài thì ngài rời đi, thời gian khoảng mười mấy phút, nhìn thấy ngài, ngài đi rồi. Sau khi rời khỏi bỗng nhiên nhớ đến, sân nhà Sư mẫu, cửa lớn, cửa thứ hai bên ngoài sân, ở giữa là phòng khách của Sư mẫu, cửa đó cũng đang đóng, không mở, Sư mẫu liền thấy kỳ lạ, người này từ đâu đến vậy? Làm sao đi ra được vậy? Cửa không mở. Cứ hoài nghi mãi, cuối cùng là gặp phải ma rồi, hay là chuyện thế nào, người đã không thấy nữa rồi. Ở Đài Trung đem câu chuyện này nói với thầy Lý, thầy Lý nói với bà là Bồ-tát Địa Tạng. Bởi vì Sư mẫu hỏi vị Hòa thượng kia, ngài từ đâu đến? Ngài nói Cửu Hoa Sơn. Đến để làm gì? Hóa duyên, hóa năm cân dầu mè. Hối hận vô cùng, chư vị xem khó có biết bao! Bồ-tát Địa Tạng Vương đến, Sư mẫu gặp trong nhà rồi, nói chuyện với Sư mẫu mười mấy phút rồi, thời gian không ngắn, rồi không thấy nữa. Đến Đài Loan gặp thầy Lý, thầy Lý nói Sư mẫu biết là Bồ-tát Địa Tạng Vương. Cho nên, về sau Sư mẫu ngày ngày đọc Kinh Địa Tạng, ngày ngày niệm Bồ-tát Địa Tạng, niệm nước Đại Bi, rất linh, rất có cảm ứng. Vãng sanh là niệm Phật vãng sanh, hỏa thiêu có hơn 300 viên xá lợi, rất ít thấy sự thù thắng như vậy trong nhà Phật. Chúng tôi đối đãi với vợ chồng thầy: thì giống như với cha mẹ vậy, thời gian lúc khó khăn đó, vợ chồng thầy quan tâm đến chúng tôi chính xác là từng ly từng tí, chúng tôi cảm thấy được: sự quan tâm của cha mẹ chúng tôi còn chưa chu đáo đến như thế, đối với hơn 1.000 học sinh, thật sự thấy được là Thiện nhân, Quân tử, chúng tôi ngưỡng mộ vô hạn. Đây chính là cảm ứng, không phải đời này Sư mẫu mới học Phật, mà đã học Phật đời đời kiếp kiếp, sức mạnh chủng tử trong A-lại-da rất lớn, cho nên gặp duyên thì hiện hành, sau khi nói xong thì không thấy nữa, thì không còn nữa. Đây chính là giảng, 「不妨不來而來、無見而見」“bất phương bất lai nhi lai, vô kiến nhi kiến” (không trở ngại chuyện không đến mà đến! Không thấy mà thấy).

    「故永明謂」“Cố Vĩnh Minh vị” (nên ngài Vĩnh Minh nói), lời của Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói, 「如幻非實」“như huyễn phi thực” (như ảo không thật), cảnh giới này thì giống như: 「夢幻泡影」“mộng huyễn bào ảnh” (mộng huyễn bọt ảnh) đã nói trên Kinh Kim Cang. Phật dạy chúng ta, đối với vũ trụ hiện tiền này, thường xuyên thực hành quán như vậy, mộng huyễn bào ảnh, không phải chân thật, đừng cho rằng là chân thật. 「則心佛兩忘」“Tắc tâm Phật lưỡng vong” (thì tâm lẫn Phật đều mất). Đừng phân biệt thứ nào là tâm, tâm là gì? Tâm năng hiện, Phật là sở hiện; tâm chính là tâm Tánh, Tự Tánh, Phật là hiện tướng. Đừng đi Phân biệt Chấp trước tâm, cũng không cần Phân biệt Chấp trước Phật, thấy mà không thấy, không thấy mà thấy, tốt! Cho nên,「不無幻相,則不壞心佛。又云:法身真佛,本無生滅。從真起化,接引迷根。」Bất vô huyễn tướng, tắc bất hoại tâm Phật. Hựu vân: Pháp thân chân Phật, bổn vô sanh diệt. Tùng chân khởi hóa, tiếp dẫn mê căn” (Không Vô huyễn tướng, thì không hoại tâm và Phật. Lại nói: Pháp thân chân Phật, vốn không sanh diệt, từ chân thật mà hóa hiện ra, để tiếp dẫn căn tánh mê). Pháp thân là nhất thể, Pháp thân ở đâu? Không đâu không có, không lúc nào không có, ngày nay chúng ta đều ở trong Pháp thân của Phật, Pháp thân có thể hiện tất cả tướng, tướng đã hiện trong sát-na thì không thấy nữa, thì không còn nữa. Hiện tướng này làm gì? Giúp chúng ta khai ngộ, nâng cao cảnh giới của chúng ta, nó hữu dụng. Nếu tướng này: vĩnh viễn ở thế gian cũng sẽ bị hoại diệt, thế thì hỏng rồi, thế thì có vấn đề rồi, người mê hoặc sẽ cho rằng nó là thật, cho là thật, chấp lấy tướng, vậy lại sai rồi. Cho nên các Ngài thị hiện, xong việc rồi thì không còn nữa, để chư vị không chấp hai bên, hiểu rõ chân tướng sự thật, vậy thì đúng rồi. Tình hình này từ xưa đến nay, trong Kinh điển có, cổ nhân lưu lại có trong những sách sử, mà còn rất nhiều, phân lượng rất lớn, đều là có thể gợi mở cho chúng ta, giống như Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện của Tịnh Độ Tông, Ngũ Đăng Hội Nguyên của Thiền Tông, văn tự có phân lượng rất lớn bên trong những sách cổ này: đều là thuộc về cảm ứng.

  「此乃如來本願功德,令彼有緣眾生,專心想念,能於自心見佛來迎,不是諸佛實遣化身而來迎接」“Thử nãi Như Lai bổn nguyện công đức, linh bỉ hữu duyên chúng sanh, chuyên tâm tưởng niệm, năng ư tự tâm kiến Phật lai nghinh, bất thị chư Phật thật khiển hóa thân nhi lai nghinh tiếp” (Ðây là bổn nguyện công đức của Như Lai, khiến cho chúng sanh hữu duyên, chuyên tâm tưởng niệm, có thể trong tâm mình thấy Phật đến đón, không phải chư Phật thật sự sai Hóa thân đến đón tiếp). Lời này nói được hay, thế nhưng chúng ta cũng có thể nói như vậy, chuyên tâm tưởng niệm, có thể ở trong tâm mình hiện Phật đến đón, cũng có thể nói: chính là Hóa thân của A Di Đà Phật đến tiếp đón, đều giảng được thông, chỉ cần đừng chấp trước thì tốt. 「則佛身湛然常寂,眾生見有去來」“Tắc Phật thân trạm nhiên thường tịch, chúng sanh kiến hữu khứ lai” (Dù rằng thân Phật trạm nhiên thường tịch, mà chúng sanh thấy có đến đi). Hai câu này là giảng cho chúng ta về hiện tướng, trạm nhiên thường tịch là thể, là năng hiện, tướng đến đi là duyên, có thể hiện cảnh giới này, chúng ta phải xem đó là mộng huyễn bào ảnh. 「如鏡中形,非內非外」“Như kính trung hình, phi nội phi ngoại” (như hình trong gương, không trong không ngoài), gương của chúng ta chiếu bên ngoài được vô cùng rõ ràng, ảnh trong gương: không thể nói bên trong, không thể nói bên ngoài. 「如夢中事,不有不無」“Như mộng trung sự, bất hữu bất vô” (như chuyện trong mộng: không có, chẳng không), như nằm mộng vậy, mộng tỉnh rồi, không thể nói có, cũng chẳng thể nói không có. Bài kệ ở phần sau Kinh Kim Cang này hay, tuy bài kệ có mấy tỷ dụ, bốn tỷ dụ mộng, ảo, bọt, bóng, nhưng dùng mộng làm chính, thì giống như nằm mộng, việc trong mộng không thể nói nó không có, không thể nói nó thật có, không Chấp trước, không Phân biệt, không khởi tâm, không động niệm thì khai ngộ, thì sáng tỏ rồi.

    「又經云:應以佛身得度者,即現佛身而為說法。“Hựu kinh vân: Ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp.” ( Kinh dạy: Cần dùng thân Phật đ độ, thì hiện thân Phật để thuyết pháp). Chỗ này thực tế nói là diệu dụng của Tự Tánh chúng ta, Chân Như, Tự Tánh là nhất thể. Cho nên mối quan hệ giữa toàn vũ trụ và chúng ta, điểm này nhất định phải biết, không thể không biết. Biết, thì học Phật dễ dàng; không biết, thì học Phật khó khăn. Nếu không biết, thì thường xuyên đọc: mấy câu nói sau cùng của Đại sư Lục tổ Huệ Năng, 「何期自性,能生萬法。」 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp.” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn Pháp.) Vạn pháp chính là cả vũ trụ, cả vũ trụ có mối quan hệ gì với chúng ta? Là một thể, đều là do Tự Tánh sanh ra, có thể sanh vạn pháp, thân này của ta cũng là một trong vạn pháp. Nhất thể thì dễ xử lý rồi, tại vì sao? Bởi nhất thể, là đức đầu tiên trong Tánh đức, ngày nay người ta nói Ái, Ái là Tánh đức, trong Tự Tánh vốn có. Phật Pháp không nói Ái, các Tôn giáo khác nói Ái, chư vị xem 「神愛世人」“Thần ái thế nhân” (Thần yêu thương người đời), 「上帝愛世人」、 “Thượng Đế ái thế nhân” (Thượng Đế yêu thương người đời), 「真主確實是仁慈的」 “Chân Chủ xác thực thị nhân từ đích” (Chân Chủ xác thực là nhân từ), nhà Phật thì 「大慈大悲」“đại từ đại bi”, vậy có thể hiện ra. Tại vì sao? Bởi Ái này là bình đẳng, thì giống chúng ta yêu quý con mắt chính mình, yêu quý tai chính mình, yêu quý thân thể của chính mình vậy, không có điều kiện, không có Phân biệt mà yêu thương tất cả chúng sanh, Ái của Thần Thánh, Ái được lưu lộ ra từ trong Tự Tánh. Nếu ai ai không chỉ là học Phật, mà chỉ cần tin Tôn giáo, thì đều là người một nhà, đều là nhất thể. Tại vì sao? Bởi mỗi Tôn giáo đều nói đến, không nói được thấu triệt bằng Phật Pháp, nói được rõ ràng như vậy, sảng tỏ như vậy, chỗ này xem như Phật giáo là đứng đầu, là thật, không phải giả. Đáng dùng thân Phật để độ thì hiện thân Phật, đáng dùng thân Bồ-tát để độ thì hiện thân Bồ-tát, chúng ta trích dẫn câu này để nói, đáng dùng thân Cơ Đốc để độ, thì ngài liền hiện Giê-su, chư vị không thể nói Giê-su không phải A Di Đà Phật, là phải, giới hạn của chúng ta liền không còn nữa. Hồi giáo họ xưng là A-la, họ xưng Thượng Đế là A-la, đáng dùng thân A-la để độ, thì hiện thân A-la mà nói pháp cho họ. Trong đây có chướng ngại không? Không có.

          Cho nên tôi qua lại với một số Tôn giáo, tôi tặng họ một câu nói, 「眾神一體」 “Chúng Thần nhất thể” (Chúng Thần là một thể), bất luận Tôn giáo nào, Thần của chư vị là nhất thể; 「宗教一家」“Tôn giáo nhất gia” (Tôn giáo là một nhà), đối đãi bình đẳng, hài hòa với nhau, có thể đoàn kết, chúng ta là người một nhà. Người một nhà quan trọng nhất, phải quan tâm, lúc họ có khó khăn tìm chúng tôi, đại khái ngày nay vấn đề nhiều nhất chính là về mặt tài chính, họ thiếu tiền xây một trường học, muốn mở một viện điều trị, nhưng chi phí không đủ, họ đến tìm tôi, tôi đều cho họ, vả lại số lượng cũng không ít. Tôi ở Singapore, Đệ tử nhà Phật ở Singapore, biết tôi làm những việc này, có người đến nói với tôi: Pháp sư, tiền của tín đồ chúng ta đến cũng không dễ dàng gì, sao Pháp sư đều cho ngoại đạo? Tôi liền hỏi họ: Họ mở trường học, chúng ta có cần làm không? Cần; họ mở Bệnh xá điều trị có cần làm không? Cần. Tôi nói họ làm, chúng ta đầu tư, ở đó có một phần của chúng ta, là việc tốt, không phải việc xấu. Họ đi làm, chúng ta ủng hộ tài lực cho họ ở phía sau, để họ làm được càng tốt. Là một không phải hai, đừng phân chia ở đây, phân chia ở đây là Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước. Tôn giáo trên toàn thế giới đều trở thành người một nhà, không còn mâu thuẫn trong Tôn giáo nữa, không còn chiến tranh Tôn giáo nữa, không còn xung đột Tôn giáo nữa, chư vị nói thế giới này tốt biết mấy! Chư vị mong muốn nhìn thấy những xung đột: với Hồi giáo này xảy ra không? Những người đánh bom liều chết, đó đều là hiểu lầm của Tôn giáo, cho rằng Thần của họ là Chân Thần, Thần Tôn giáo khác đều là Thần giả, họ không biết chân tướng sự thật, họ làm sai rồi. Thế nhưng những Thần ấy là nhất thể với chúng ta, tất cả những súc sanh: có phải là nhất thể với chúng ta hay không? Nhất thể thì còn ăn thịt chúng được không? Nhất thể thì có thể hại chúng không? Cây cối hoa cỏ là nhất thể với chúng ta, chư vị còn có thể phóng hỏa trong rừng rậm không? Chư vị chắc chắn không đốt cháy ngọn núi. Nhất thể tốt! Nhất thể là thật, không phải giả. Họ không biết, chúng ta biết. Họ có Phân biệt Chấp trước, chúng ta phải tha thứ cho họ, họ vẫn chưa đến cảnh giới của chúng ta, nếu họ đến cảnh giới này giống như chúng ta, thì không còn khác nhau.

          Kẻ oán người thân bình đẳng, chư vị xem, nói được hay biết mấy, đặt oan gia ở trước, người thân đặt ở sau, người đầu tiên phải giúp đỡ, phải tha thứ là oan gia. Người hủy báng chúng ta, người chướng ngại chúng ta, người hãm hại chúng ta, thì đối với họ thế nào? Phải tha thứ cho họ, họ không có sai, họ là người tốt, họ chịu sự ảnh hưởng của người xung quanh. Tánh người vốn là thiện, tất cả chúng sanh vốn là Phật, phải đồng cảm với họ, bây giờ họ đang mê, sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, khởi tâm động niệm, Phân biệt Chấp trước, sai rồi. Chúng ta cũng giống như họ vậy, không dễ gì quay đầu, làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi. Chúng ta không tha thứ cho họ, thì vẫn là chưa làm rõ ràng; thật sự làm rõ ràng, chắc chắn tha thứ cho họ. Nếu họ có khổ nạn nào thì lập tức giúp đỡ họ ngay, phải ưu tiên họ hàng đầu, vậy thì đúng rồi, vậy mới là giác ngộ. Đức Phật, chư vị xem xét, trong lịch sử Trung Hoa “tam vũ diệt Phật”, không phải không có, là có. Tín đồ Phật giáo có tâm thái gì? Oán thân bình đẳng, quyết định không phản kháng, phục tùng mệnh lệnh. Hoàng đế tiếp sau kế vị, nhìn thấy tín đồ Phật giáo thuận theo như vậy, không có một chút phản kháng, lập tức làm Phật giáo hưng vượng trở lại. Tại vì sao? Bởi Phật giáo có giúp đỡ đối với sự an định của xã hội, có giúp đỡ đối với việc hóa giải mối bất hòa, người người đều hiểu được tha thứ người khác, thì xã hội sẽ không có xung đột. Cho nên giáo dục Tôn giáo có tiềm lực rất lớn, những vị Đế vương thời xưa thông minh, họ có thể khai phát được, giúp đỡ họ an định xã hội, giúp đỡ họ hóa giải xung đột.

          Cho nên hiện thân thuyết pháp, tất cả đều là Phật hiện thân thuyết pháp, chư vị có thể nói Khổng tử, Lão tử không phải là Phật đến sao? Không phải Phật thì các ngài sẽ không nói ra được. Trang tử có thể nói ra: 「天地與我同根,萬物與我一體」“Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Đất trời cùng gốc với ta, vạn vật nhất thể với ta), ngài ấy không phải Phật thì ai là Phật? Thời bấy giờ Phật giáo còn chưa đến Trung Hoa, nhưng Trang tử đã nói, chúng ta phải hiểu điều này. Cho nên học Phật thì phải dùng trong đời sống của chúng ta, dùng trong việc đối người, xử việc, tiếp vật của chúng ta. Phật giáo thấy tất cả pháp đều là Phật, chánh pháp là Phật, phải đề xướng, phải khuyến khích. Tà pháp cũng là Phật, họ mê rồi, phải giúp đỡ họ, giúp đỡ họ quay đầu, giúp đỡ họ bỏ tà quy chánh. Đức Phật là giáo dục, là thật, không phải giả. Chư vị xem cả đời của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài 30 tuổi đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh dưới cây Bồ-đề, ngày hôm sau Ngài liền đi đến vườn Lộc Dã, cùng với năm vị tùy tùng trước đây của Ngài. Ngài xuất gia, phụ thân của Ngài phái năm người chăm sóc Ngài, đó chính là năm Tỳ-kheo, liền tìm năm người này trở về, giảng kinh thuyết pháp cho họ, năm người này khai ngộ rồi. Về sau người càng lúc càng đông, trên Kinh nói, 1255 người, Đệ tử thường đi theo; Đệ tử lâm thời, không phải Đệ tử thường đi theo, chúng ta tin tưởng sẽ không ít hơn 3.000 người, đoàn thể lớn như vậy, mỗi ngày giảng Kinh dạy học. Nghỉ ngơi chính là tọa Thiền, giữa ngày ăn một bữa, mỗi đêm ở dưới một cây, mỗi ngày ăn cơm khất thực, không có xây Chùa chiền, không có xây Tùng lâm, dụng ý chỗ này rất sâu. Nếu ai cũng đều giống với cách thức của Thích Ca Mâu Ni Phật, không có chùa chiền, không có tùng lâm, chúng ta y như trước vẫn trải qua đời sống khất thực này, thì Phật Pháp vĩnh viễn không suy. Tại vì sao? Vì chư vị không khởi lên phiền não, không khởi lên tham sân si mạn. Một khi có chùa chiền, có địa bàn, luôn muốn tôi hưng vượng hơn anh, tín đồ của tôi nhiều hơn anh, cúng dường của tôi nhiều hơn anh, thì mọi người thi đua, liền cạnh tranh, cạnh tranh nâng lên chính là đấu tranh, đấu tranh nâng lên chính là chiến tranh, vậy phiền phức lớn rồi. Phật làm biểu pháp tốt cho chúng ta, cả đời không có Đạo tràng.

          Thời đại ngày nay thay đổi rồi, thời xưa không có phương tiện giao thông, du hành đều phải nhờ vào đi bộ, nhiều nhất cưỡi ngựa, cưỡi lừa, giao thông không thuận tiện, đích xác rằng có rất nhiều người, thôn trang lân cận cũng không có đi qua, đến già chết cũng không có qua lại. Cho nên chư Phật Như Lai, chúng ta nói Pháp thân, Pháp thân biến tất cả mọi nơi, thì phải tùy lúc tùy nơi hiện thân thuyết Pháp, giáo hóa chúng sanh. Ngày nay giao thông thuận tiện rồi, từ Hồng Kông đến nước Anh, 12 tiếng đồng hồ thì đến rồi, ngủ một giấc thì đến rồi, địa cầu trở nên nhỏ lại. Vậy thì làm sao? Địa cầu nhỏ rồi thì trở thành một nhà, trở thành một nhà thì Phật Pháp càng quan trọng, một nhà này của chư vị mới có thể đoàn kết, mới có thể gia hòa vạn sự hưng, Phật giáo dạy chư vị chung sống hài hòa, đối đãi bình đẳng. Chúng Thần phải quy nhất, không cần thiết phải rất nhiều Thần ứng thân ở khắp nơi, bởi vì chúng Thần quy nhất rồi. Cho nên mười mấy năm nay, tôi ở hải ngoại đoàn kết Tôn giáo, cũng có một ít thành tựu. Bắt đầu từ năm 1999, đầu tiên ở Singapore, chín Tôn giáo lớn trở thành người một nhà. Năm 2000 tôi đến nước Úc, giúp nước Úc đoàn kết Tôn giáo, đoàn kết dân tộc. Nước Úc làm tương đối khó khăn, tại vì sao? Vì không có nền tảng Văn hóa của Trung Hoa. Singapore, Đông Nam Á thì có, nên dễ làm, một năm thì thấy hiệu quả. Tôi đã sống ở nước Úc 15 năm, bây giờ làm thành công rồi. Cho nên phải có nhẫn nại, phải làm ra cho người ta thấy, người Úc, thành phố chỗ chúng tôi là đại bản doanh Cơ Đốc Giáo của nước Úc, Phật giáo chỉ có mỗi chỗ chúng tôi, chúng tôi phải làm tấm gương cho họ thấy. Tấm gương chính là yêu thương người, tôi yêu thương các quý vị còn quan trọng hơn yêu chính mình, các quý vị đến tìm tôi, luôn ưu tiên các quý vị, giúp đỡ quý vị giải quyết vấn đề trước, sau đó mới nghĩ đến bản thân tôi. Mười mấy năm như một ngày, mọi người tin tưởng rồi, có lòng tin đối với chúng tôi.

          Cho nên đoàn kết Tôn giáo, phải làm sao để xã hội thật sự có lợi ích trước mắt? Tôn giáo phải trở thành một nhà. Không thể mỗi người đều có bè phái của mỗi người, tại vì sao? Thế thì sẽ cạnh tranh. Tất cả Tôn giáo mọi người cùng một phái, thì sẽ không có cạnh tranh. Xây một trung tâm hoạt động Tôn giáo quy mô lớn, mỗi Tôn giáo thiết lập văn phòng bên trong, tất cả đều hoạt động cùng nhau, mỗi một Tôn giáo đều nhìn thấy. Tôn giáo thực sự khôi phục trở lại việc dạy học, khôi phục trở lại Giáo dục, Tôn giáo quay về với Giáo dục, học tập lẫn nhau, không có xung đột. Những điểm xung đột trong Kinh điển hãy để qua một bên, phát dương quang đại những điểm chung; Phàm là điểm bất đồng, đều là bởi vì xưa kia, các tộc người bất đồng ngôn ngữ, Văn hóa khác nhau, phương thức sinh hoạt có sai khác, là nguyên nhân như vậy. Đó là việc nhỏ, không phải việc lớn, phương hướng mục tiêu to lớn hoàn toàn tương đồng. Cho nên Tôn giáo phải đoàn kết, Tôn giáo đoàn kết quan trọng hơn bất cứ điều gì! Tôn giáo đoàn kết rồi, thì xã hội an định, thế giới hòa bình; Tôn giáo không thể đoàn kết, thì xã hội không thể an định, thế giới không thể hòa bình. Phải nhận rõ ràng Tôn giáo là giáo dục, giáo dục điều gì? Giáo dục về luân lý, giáo dục về đạo đức, giáo dục về nhân quả, giáo dục về Thánh Hiền. Cho nên người nước ngoài nói, nhân loại không thể không có Tôn giáo, không có Tôn giáo thì không có Văn hóa, không có Văn minh, Văn hóa Văn minh là sanh ra từ Tôn giáo. Chúng ta phải nhận biết Tôn giáo, phải nghiêm túc học tập Tôn giáo.

          Chỗ này nói đến, chư vị có duyên với Phật, liền hiện thân Phật để thuyết pháp. 「亦此意也。是故水清則月自來,心淨則佛自現」 “Diệc thử ý dã. Thị cố thủy thanh tắc nguyệt tự lai, tâm tịnh tắc Phật tự hiện” (Cũng là ý này. Vì vậy, nước trong thì trăng tự đến, tâm tịnh thì Phật tự hiện), hai câu này nói khá hay. Tâm động thì chư vị nhìn thấy động, không thể thấy không động, không động là bản thể của Tự Tánh, động là khởi dụng của Tự Tánh. Cho nên thể là thanh tịnh, Đại sư Huệ Năng nói rất hay, thể là bất động, 「本無動搖」“bổn vô động dao” (vốn không dao động), Đấy chính là chúng ta thường nói Tự Tánh vốn định. Tại sao học Phật phải tu định? Bởi vì Tự Tánh vốn định. Tu định chính là quay về Tự Tánh, quay về một phần thì có thu hoạch một phần, quay về mười phần thì có thu hoạch mười phần, khác nhau. Ngày nay chúng ta dùng phương pháp niệm Phật để tu Thiền định. Có người thích đọc sách, tầng lớp tri thức thích đọc sách, thì dùng phương pháp đọc Kinh để tu Thiền định. Đọc, nhất định phải một môn, thì được; nhiều môn cũng được, mục đích của họ là ở tu định, thế nhưng nhiều môn không tốt bằng một môn, một môn dễ dàng. Tại vì sao? Bởi phiền não tập khí của chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay rất nặng, thích Phân biệt Chấp trước, chúng ta muốn học nhiều bộ kinh cùng một lúc, thì tâm sẽ tán loạn; chúng ta học một bộ kinh, thì tâm sẽ định, khác nhau ở điểm này. Tự mình có thể đi thử nghiệm, chư vị cùng lúc học hai thứ, hoặc là đồng thời học một thứ. Học hai thứ, sáng sớm học một thứ, buổi chiều học một thứ, học một thứ nửa năm, học một thứ một năm, hãy xem thành tích, không bằng thời gian đó sáng chiều đều học một thứ, ngày ngày học một thứ. Chúng tôi có một đồng học ở Bắc Kinh, Cư sĩ Hồ Tiểu Lâm, sáu năm gần đây anh ấy chuyên đọc Đại Thừa Khởi Tín Luận, chú giải Liệt Võng Sớ của Đại sư Ngẫu Ích, anh ấy nói với tôi, anh ấy đã đọc 3.000 lần. Bây giờ làm báo cáo, giảng được hay! Công phu sáu năm, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Chứng minh phương pháp, lý niệm người xưa cho chúng ta là chính xác, là trí huệ chân thật, là kinh nghiệm chân thật, chúng ta phải xem trọng, không thể khinh thường, nghiêm túc học tập, thì người người đều có thành tựu. Tâm tịnh Phật tự hiện, 「所謂感應道交難思議也。」 “sở vị cảm ứng đạo giao nan tư nghì dã.” (nên nói cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn.) Đây chính là nói cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn, là lời của Đại sư Liên Trì.

          Xem tiếp,「幽溪《圓中鈔》云:凡是見佛,須論感應」“U Khê Viên Trung Sớ vân: Phàm thị kiến Phật, tu luận cảm ứng” (Trong Viên Trung Sao, Đại sư U Khê nói: Phàm là thấy Phật thì phải bàn đến cảm ứng), thấy Phật, thấy Bồ-tát là cảm ứng, thấy Thần, thấy quỷ cũng là cảm ứng. Có hay không? Có, vả lại rất nhiều. Thông thường bái Thiên Công, người Trung Hoa xưng Ngọc Hoàng Đại Đế, là vua trời Đao Lợi được nói trong kinh Phật, có, Thiên Thần, tôi đã gặp rất nhiều đồng tu họ nhìn thấy, thấy được thần Hộ Pháp; còn có người nhìn thấy Vô Thường, họ cũng nhìn thấy đại quỷ Vô Thường, mà còn không chỉ một, đặc biệt là trong bệnh viện. Trước đây tôi có một đồng học, đã qua đời mấy năm trước, chúng tôi là bạn học cùng lớp, anh ấy là Tổ trưởng Tổ nhận nhập viện của Bệnh viện Vinh Dân ở Đài Bắc, Đài Loan, làm thủ tục nhập viện thì tìm anh ấy. Anh ấy nói với tôi, đại quỷ Vô Thường là có thật, không phải là giả, Y tá bệnh viện chúng tôi nhiều người đều nhìn thấy, chỉ cần nhìn thấy đại quỷ Vô Thường, lúc nhìn thấy ở phòng bệnh, bệnh nhân kia sẽ không qua ba ngày thì đi rồi. Thật đấy, không phải giả. Cho nên chúng tôi giảng thì anh ấy tin tưởng.

     Chúng ta xem tiếp theo, 「若平居參禪,或修空觀。既宗掃蕩,佛亦不立。苟有所見,悉為魔境」“Nhược bình cư tham Thiền, hoặc tu Không quán. Ký tông tảo đãng, Phật diệc bất lập. Cẩu hữu sở kiến, tất vi ma cảnh” (Nếu bình thời tham Thiền, hoặc tu quán không, đã chú trọng quét sạch tất cả, [ngay cả] Phật cũng không có. Nếu thấy điều gì, thì đều là cảnh ma). Trong Viên Trung Sao, những Tổ sư Đại đức này thật là viên dung thông đạt, Thiền Giáo Mật Tịnh hòa làm một thể, đây là Chánh tri Chánh kiến. Bình thường, như người tham Thiền, người tu quán không, vạn pháp giai không, cho nên tâm địa thanh tịnh. Đã là tông quét sạch hết, tông ở đây chính là chủ yếu tông là ý nghĩa chủ yếu, chủ yếu chính là tu tâm thanh tịnh, có những thứ này thì tâm không thanh tịnh, cho nên Phật cũng không lập. Có Phật hay không? Có Phật. Tôn kính Phật hay không? Tôn kính. Thế nhưng họ phải quay về tâm thanh tịnh, phải quay về Tự Tánh, trong Tự Tánh không có thứ gì, không có ma, cũng không có Phật, không lập một Pháp, đây là điều mà Thiền tông tu. Pháp này rất khó, bởi vì phiền não tập khí chúng ta, từ vô thỉ kiếp đến nay vô cùng nặng nề, nếu muốn buông xuống thì rất khó. Cho nên thật sự tu hành, mọi người không thể không biết, tu điều gì? Mắt tu trên sắc, thứ mà mắt chúng ta thấy là sắc, tu trên sắc, tu điều gì? Nhìn được vô cùng rõ ràng, hiểu biết tường tận, đây là huệ, đây là trí huệ. Nhưng làm sao? Không khởi tâm, không động niệm. Nhìn được rõ ràng, nhìn được sáng tỏ, mà không khởi tâm, không động niệm, là cao nhất, đó là ai? Là Pháp thân Bồ-tát, chư vị thật có tu thành thì chứng được Pháp thân. Còn có khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, vậy là Bồ-tát, Bồ-tát thấp hơn Phật một cấp, Phật không khởi tâm không động niệm, Bồ-tát khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước. Luyện không Phân biệt, không Chấp trước. Xuống thêm một cấp nữa, còn có Phân biệt, không có Chấp trước, vậy là gì? A-la-hán. Không có Chấp trước thì tâm thanh tịnh, không có Chấp trước tốt xấu, cũng chính là chư vị thật sự có thể buông xuống, buông xuống triệt để. Tại vì sao? Bởi 「凡所有相皆是虛妄」“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (những gì có hình tướng đều là không thật), đây là đã nói trên Kinh Kim Cang. Đã là hư vọng, thì chư vị Chấp trước làm chi? Ngay cả thân này cũng không Chấp trước. Thân có bệnh cần trị hay không? Không cần trị, buông bệnh xuống thì được rồi, hà tất nghĩ đến nó? Nghĩ A Di Đà Phật, chuyên nghĩ A Di Đà Phật, thì không thấy bệnh nữa, không còn bệnh rồi. Các nhà Cơ học lượng tử đã biết điều này, cho nên họ đề xướng 「以心控物」“dĩ tâm khống vật” (lấy tâm khống chế vật), dùng ý niệm của chúng ta để khống chế vật chất. Thân thể là vật chất đầu tiên, trước hết khống chế chính mình. Khống chế điều gì của chính mình? Không sanh Vọng tưởng, Vọng niệm, có thể sanh thiện niệm, thiện tâm, không sanh tâm vọng, khống chế điều này. Đến sau cùng, ngay cả thiện cũng không sanh, thế thì siêu vượt sáu đường luân hồi, đoạn ác tu thiện, trong tâm thiện ác đều không sanh. Phật Pháp thật tu rất đơn giản, nhưng khi làm rất khó, khó ở chỗ nào? Nuôi dưỡng thành thói quen rồi, khởi tâm động niệm luôn vì chính mình, không có cách nào đặt người khác lên hàng đầu. Chúng ta phải luyện, khởi tâm động niệm làm sao đặt người khác lên hàng đầu, vậy thì những oán thân trái chủ dần dần thể hội được, họ sẽ sám hối, họ sẽ đến xin lỗi; rồi sẽ có một ngày họ sẽ hiểu ra, họ sáng tỏ thì họ đến xin lỗi, thì đến sám hối, việc tốt, thật quay đầu rồi.

    「苟有所見,悉為魔境」“Cẩu hữu sở kiến, tất vi ma cảnh” (nếu thấy điều gì, đều là cảnh ma). Điều này là thật, lời các nhà Cơ học lượng tử đã nói, căn bản không có vật chất này tồn tại, hễ cứ là vật chất đều là giả, đều không phải thật. Nếu chúng ta chấp tướng, đặt nó vào trong tâm, thì biến thành ma cảnh, không đặt vào trong tâm thì chính là Phật cảnh. 「或功用顯著,心佛自現。亦須觀空,弗生著相」“Hoặc công dụng hiển trứ, tâm Phật tự hiện. Diệc tu quán không, phất sanh trước tướng” (Hoặc công dụng hiện rõ, Phật trong tâm tự hiện, cũng phải quán Không, chớ sanh chấp tướng). Là sợ chấp tướng, không chấp tướng thì đúng rồi, chấp tướng thì sai rồi. Chấp tướng là sao? Cho rằng nó thật có. Không chấp tướng, biết rằng đó ngay nơi thể là không, hoàn toàn không thể được. Giống như ngày nay chúng ta xem màn hình tivi, màu sắc hình tướng trong đó, là đương thể tức không, liễu bất khả đắc, chư vị không chấp lấy tướng đó. Đổi ngược lại, chúng ta ở trong hết thảy tất cả cảnh giới hiện ra, thấy sắc cũng không chấp tướng, nghe âm thanh cũng không chấp tướng, đây chính là Đại định, Tự Tánh vốn định dần dần đã hiện tiền, biết rằng tất cả tướng cảnh giới là giả, tất cả ý niệm cũng là giả, cũng không phải thật, tất cả hiện tượng tự nhiên vẫn là giả, hết thảy không thể được. Có hay không? Không thể nói Có, không thể nói Không, đừng đặt vào trong tâm thì được rồi. Giới thiệu, nói pháp cho tất cả chúng sanh, xem căn tánh của chúng sanh, sơ học thì giảng pháp cạn, đừng nói sâu, với người tu lâu thì giảng sâu, để mỗi người nghe được đều hoan hỷ. Tất cả đều quay về đến tự nhiên, lúc giảng trong tâm nghĩ rằng: tôi phải chuẩn bị sẵn, không cần thiết, có chuẩn bị trước thì phan duyên rồi, không có chuẩn bị, giống như tùy tiện tán gẫu vậy, lời nói ra đều là Chánh pháp.

Chúng ta xem tiếp theo, 「今既念佛,求生極樂。臨終見佛,此因妙感」“Kim ký niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc. Lâm chung kiến Phật, thử nhân diệu cảm” (Nay đã niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc, lâm chung thấy Phật, đó vì cảm ứng nhiệm mầu). Người niệm Phật, hoặc ở trong mộng, hoặc ở trong định, thấy được A Di Đà Phật, thấy được thế giới Tây Phương Cực Lạc, đây đều là cảm ứng. Không phải có ý, không phải vì cầu, nhưng tín tâm đầy đủ, tin tưởng lời Phật nói chân thật, không phải lời giả, Tây Phương thật có Thế giới Cực Lạc, thật có A Di Đà Phật, không có chút nghi ngờ nào. Tại vì sao? Vì do Phật nói, Phật không nói lời giả, có lòng tin đối với Phật. Phật dạy chúng ta niệm Phật, Phật dạy chúng ta thường xuyên nghĩ nhớ A Di Đà Phật, Phật dạy chúng ta nhất tâm nhất ý: cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, ngày nay Thế giới Cực Lạc hiện tiền, A Di Đà Phật hiện tiền, đây là cảm ứng. Chúng ta bình thường chính là cảm, duyên chín muồi thì Phật ứng. Trong lịch sử có ghi chép, Đại sư Huệ Viễn, Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông chúng ta, cả đời đã từng ba lần nhìn thấy Thế giới Cực Lạc, thấy được A Di Đà Phật, nhưng không nói qua với bất kỳ ai. Lần sau cùng, Phật đến tiếp dẫn ngài vãng sanh, lần thứ tư này, ngài mới nói với người xung quanh, trước đây đã ba lần thấy qua Thế giới Cực Lạc, bây giờ Phật đến tiếp dẫn, tôi phải đi rồi. Đi rồi mới nói với người khác, không đi không nói cho người khác biết.

          Lão Hòa thượng Hải Hiền, tôi xem đĩa CD về ngài, tôi dự đoán ngài thấy Thế giới Cực Lạc, thấy A Di Đà Phật 10 lần trở lên; Ngài đã niệm Phật 92 năm, 92 năm trên 10 lần thì không tính là nhiều. Nói cách khác, ngài rất quen thuộc với Thế giới Cực Lạc, ngài không biết nói lời giả. Ngài đến để làm chứng minh cho chúng ta, chứng minh điều gì? Chứng minh Thế giới Cực Lạc thật có, A Di Đà Phật thật có, Phật đến tiếp ngài vãng sanh là thật, không phải giả, ngài làm kiểu mẫu cho chúng ta xem, làm tấm gương. Càng thân thiết hơn một chút là đến làm chứng minh cho chúng ta, chứng minh bản hội tập Kinh Vô Lượng Thọ: của ngài Hạ Liên Cư mà ngày nay chúng ta sử dụng, bị rất nhiều người phản đối, ngài làm chứng minh cho chúng ta, bộ kinh này là chân Kinh, có thể nói mỗi chữ mỗi câu, đều là lời Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Hạ Liên công hội tập, không có sửa đổi một chữ trong bản dịch gốc, trung thành khi hội tập, không có ý của chính mình, hoàn toàn là ý của Phật, không thể hoài nghi. Điều thứ hai là chứng minh cho chúng ta, Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ngài trích dẫn 193 loại kinh luận và trước tác: của Tổ sư Đại đức, là chánh tri chánh kiến, tuyệt đối không phải tà tri tà kiến, mà chánh tri chánh kiến, chúng ta an tâm y theo quyển này học tập, đừng vì người khác phản đối, mà chúng ta hoài nghi, thì không dám học tập nữa, Chú Giải thật hay. Tôi là được thầy: cho tôi Chú Giải này, Kinh sách này, thầy giảng qua một lần, viết chú giải lên trên sách, là Mi Chú, tôi cũng đã in ra mười ngàn quyển, về sau còn có người khác in, in được rất nhiều. Có thể nương theo Chú Giải này, không có vấn đề. Thứ ba làm chứng cho chúng ta, hơn 20 năm trở lại đây biết bao khó khăn, khiến người tu Tịnh Độ, có rất nhiều người sanh tâm nghi ngờ, ngài đến chứng minh chúng ta đã học không sai. Xác thực rằng bản này có thể lưu truyền 100 năm sau cùng: vào Pháp vận sau cùng của Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả kinh Phật đã diệt mất hết, chỉ còn lại một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, là bản kinh nào? Bản mà hiện tại chúng ta đang dùng, chính là bản này. Lão Hòa thượng nhìn thấy: sách Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, thì vô cùng hoan hỷ, tại vì sao? Bởi A Di Đà Phật đã ước hẹn với ngài, khi nào con nhìn thấy quyển sách này, A Di Đà Phật liền tiếp dẫn con vãng sanh, cuối cùng ngài nhìn thấy rồi, quả nhiên ba ngày sau ngài đã ra đi. Khi ngài đi không nói với ai, ngài không nói cho người khác biết, không cần người trợ niệm cho ngài, ngài nói cần người trợ niệm không đáng tin, tự tôi sẽ niệm Phật vãng sanh, thật làm được rồi, làm chứng chuyển cho chúng ta, chúng ta phải cảm ân!

          Chúng ta xem thêm tiếp theo, 「復由生佛本是一體」 “Phục do sanh Phật bổn thị nhất thể” (Lại do chúng sanh và Phật vốn cùng một thể), lời này rất quan trọng, 「感應道交,法爾如是」 “cảm ứng đạo giao, pháp nhĩ như thị” (cảm ứng đạo giao, pháp vốn như vậy), đây là rất tự nhiên, cảm ứng này tự nhiên, chúng ta thấy Phật, chúng ta có được sự cảm ứng của Phật. 「若不明此,妄論邪談,不唯自障,兼亦障人。於此法門,大成罪過。“Nhược bất minh thử, vọng luận tà đàm, bất duy tự chướng, kiêm diệc chướng nhân. Ư thử Pháp môn, đại thành tội quá.” (Nếu không hiểu rõ điều này, lại luận vọng bàn tà, thì không những chướng ngại chính mình, mà còn chướng ngại người khác. Sanh tội lỗi lớn đối với Pháp môn này). Mấy câu này nói hay! Người tạo loại tội này nhiều, không phải số ít, hy vọng những người này: dần dần quay đầu, dần dần giác ngộ. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm công đức rất lớn, giúp đỡ những người này quay đầu.

          Lại xem tiếp theo, 「蕅益《要解》」“Ngẫu Ích Yếu Giải” (Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích), Đại sư Ngẫu Ích nói: 「十萬億土,不出我現前一念心性之外。以心性本無外故」“Thập vạn ức độ, bất xuất ngã hiện tiền nhất niệm tâm Tánh chi ngoại. Dĩ tâm Tánh bổn vô ngoại cố” (Mười vạn ức cõi, không ra ngoài một niệm tâm Tánh hiện tiền của ta, bởi vì tâm Tánh vốn không có bên ngoài). Tự Tánh là viên mãn, không có cách nào có thể hình dung. Tự Tánh ở đâu? Khắp tất cả không gian, mười phương, khắp tất cả thời gian; 橫遍十方,豎窮三際,無所不在 Hoành biến thập phương, thụ cùng tam tế, vô sở bất tại” (ngang khắp mười phương, dọc khắp ba đời, không nơi nào không có), Tự Tánh đều có. Chúng ta đều ở trong Pháp thân của Phật, đều là ảo tướng của Pháp thân duyên chín muồi hiện ra, dùng mộng cảnh để nói rất hay. Cho nên tuy nói Thế giới Tây Phương Cực Lạc: cách nơi này của chúng ta mười vạn ức cõi nước Phật, một cõi nước Phật: là khu vực giáo hóa của một vị Phật, khu vực giáo hóa, là một Đại thiên thế giới, mười vạn ức Đại thiên thế giới, phía bên đó có Thế giới Cực Lạc. Thế nhưng nếu nói từ trên tâm Tánh, là một thể, Một thể thì không có xa gần, Một thể làm gì có xa gần? Tai và mắt có khoảng cách không? Mắt và mũi có khoảng cách không? Mũi và Miệng có khoảng cách không? Không có xa gần, trong một thể. Cho nên mười vạn ức cõi nước Phật, ý niệm của chúng ta muốn đến thì đến rồi. Tâm Tánh vốn không có ngoài, không có trong ngoài, đều hiển hiện ở trong tâm Tánh. 「又仗自心之佛力接引,何難即生」“Hựu trượng tự tâm chi Phật lực tiếp dẫn, hà nan tức sanh” (Lại nương nhờ vào sức tiếp dẫn của Phật trong tâm mình, thì vãng sanh có khó gì?). Ngày nay chúng ta là cậy vào chính mình, Đại sư Ngẫu Ích dùng chữ hay, 「自心之佛」“tự tâm chi Phật” (Phật của tâm mình). A Di Đà Phật từ đâu đến vậy? Thế giới Cực Lạc từ đâu đến vậy? Do tâm mình biến hiện. Ghi nhớ mấy câu trên Kinh Kim Cang, tâm hiện thức biến, Kinh Hoa Nghiêm là cách nói này. Phật Pháp nói tới nói lui, bất luận cách nói thế nào, đều không rời tâm Tánh, rời xa tâm Tánh thì không phải Phật Pháp. Tâm có thể sanh, có thể hiện; tướng là được sanh được hiện, có thể sanh có thể hiện không thể đạt được, thì làm sao có thể Chấp trước hiện tượng được sanh ra? Nên phải buông xuống, đừng đặt ở trong tâm, trong tâm niệm niệm A Di Đà Phật, nhất định được sanh Tịnh Độ, thì đúng rồi. Cho nên là Phật lực của tâm mình tiếp dẫn, thì có khó gì vãng sanh? Không khó, vãng sanh Thế giới Cực Lạc dễ dàng.

    「如鏡中照數十層山水樓閣,層數宛然,實無遠近。一照俱了,見無先後」“Như kính trung chiếu số thập tầng sơn thủy lâu các, tầng số uyển nhiên, thật vô viễn cận. Nhất chiếu câu liễu, kiến vô tiên hậu” (Như ở trong gương chiếu mấy mươi tầng núi sông lầu gác, tầng lớp rõ ràng, thật không xa gần. Hễ chiếu đều rõ, không có trước sau), tỷ dụ này nói khá hay. Hiện tại chúng ta dùng máy chụp hình, chư vị nhấn nút xuống, hình ảnh vật ở bên ngoài có xa hơn đều chụp lại gần rồi, trong tấm phim không có xa gần. Thế giới Cực Lạc cũng lại như vậy, mười vạn ức cõi nước Phật bên đó, chúng ta vừa chụp, thì ở trong tấm ảnh này của chúng ta, thấy không có trước sau. Tâm của chúng ta, điều quan trọng nhất, tâm phải thanh tịnh. Tâm vốn thanh tịnh, vốn không có ô nhiễm. Câu đầu tiên mà Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta: Tự Tánh thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì sao? Có thể chiếu. Ngày nay chúng ta không có chiếu nữa, tại sao không có? Vì tâm không thanh tịnh, mặt kính này đều là bụi bặm, trừ đi bụi bặm, lau sạch sẽ, thì lại có thể chiếu. Bụi bặm này là gì? Chính là khởi tâm động niệm, Phân biệt Chấp trước, đây chính là ô nhiễm. Những ô nhiễm này sau khi khử đi tất cả, thì tâm phóng quang, quang chính là trí huệ, chiếu kiến. chiếu kiến năm uẩn đều không, năm uẩn chính là tất cả pháp, tất cả pháp của toàn bộ vũ trụ không phải là thật, là cảnh giới trong mộng, mộng huyễn bào ảnh, chỗ này đã chiếu ra hết toàn bộ chân tướng sự thật.

          Tiếp theo nói, 「從是西方,過十萬億佛土,有世界名曰極樂。亦如是」 “Tùng thị tây phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Diệc như thị” (từ đây đi qua phương Tây, hơn mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, cũng như thế), giống như ví dụ đã nêu phía trước, thực tế thời gian, không gian đều là giả, không phải thật. 「其土有佛,號阿彌陀,今現在說法。亦如是」 “Kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp. Diệc như thị” (cõi ấy có Phật, hiệu là A Di Ðà nay thị hiện đang thuyết pháp, cũng như thế), đây là do bi nguyện của Phật mà hiển hiện ra. Chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc chưa có khai ngộ, chưa có khai ngộ thì làm sao đây? Hoa nở thấy Phật, đi vào giảng đường của A Di Đà Phật, nghe A Di Đà Phật giảng kinh dạy học. A Di Đà Phật nói với ai? Nói với một mình ta. Người trong Giảng đường đông, vô lượng vô biên, mỗi một người đều cảm thấy rằng Phật nói với ta, ta khai ngộ rồi, cực kỳ vi diệu! A Di Đà Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy mỗi loại đều được hiểu, mỗi người đều cho rằng Phật giảng cho ta, vừa vặn với trình độ của ta, giúp ta khai trí huệ. Cho dù trí huệ đó vẫn chưa khai mở trọn vẹn, đại khai viên giải, nhưng trí huệ thần thông của chư vị: đã là bất khả tư nghì. Tại vì sao? Bởi do A Di Đà Phật gia trì, không phải tự mình có, chính mình chưa kiến Tánh, dùng của A Di Đà Phật, A Di Đà Phật vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, vô lượng đức năng có thể gia trì cho chư vị, thì chư vị cũng dường như thật có: trí huệ, thần thông, đức năng giống A Di Đà Phật. Tại sao vậy? Bởi A Di Đà Phật phân vô lượng vô biên thân, đến mười phương thế giới để tiếp dẫn chúng sanh, mỗi một người vãng sanh: đều nhìn thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Nếu Phật không tiếp dẫn, thì không biết Thế giới Cực Lạc ở đâu, không biết, nhất định phải đợi Phật tiếp dẫn. Những người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc ấy, hoa nở thấy Phật liền đạt được Phật lực gia trì, trí huệ, thần thông giống như A Di Đà Phật, cũng có thể hóa thân vô lượng vô biên. Hóa thân làm gì? Hóa thân đến mười phương cõi nước chư Phật, để cúng Phật nghe kinh. Có thể nói cùng một lúc, ở nơi khác nhau, quốc độ khác nhau, cùng một thời gian ở nơi khác nhau, vô lượng vô biên chư Phật đang thuyết Pháp, chư vị đều có thể nghe được, phước huệ song tu. Cho nên không cần thời gian rất dài, thì chư vị đại triệt đại ngộ, thì thành Pháp thân Đại sĩ. Lại huống hồ Thế giới Cực Lạc: có đẳng cấp, có thứ bậc, bốn độ chín phẩm, có đẳng cấp; tuy có đẳng cấp, nhưng đó là thế giới bình đẳng, cũng chính là nói, đến nơi đó sinh sống, học tập, làm việc là bình đẳng, tất cả là sự đãi ngộ dành cho A-duy-việt-trí Bồ-tát. A-duy-việt-trí là Pháp thân Bồ-tát, thì giống ngài Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, là chuyển sang đãi ngộ của các ngài. Đây là do A Di Đà Phật cho, thế giới phương khác không có, chư vị phải tự tu đến tầng cấp đó mới có. Thế giới Cực Lạc thì không cần, chưa đạt được thì Phật cho chư vị, đạt được rồi, thì không cần Phật cho nữa, nhưng Phật quang vẫn là gia trì chư vị, rất vi diệu!

「其人臨命終時,阿彌陀佛與諸聖眾,現在其前。是人終時,心不顛倒,即得往生阿彌陀佛極樂國土。亦如是」“Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ. Diệc như thị” (Người ấy lúc lâm chung, A Di Ðà Phật và các Thánh chúng: hiện ra trước mặt. Người ấy lúc lâm chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh cõi nước Cực Lạc của A Di Ðà Phật, cũng như thế), Đại sư Ngẫu Ích nói hay! 「當知字字皆海印三昧,大圓鏡智之靈文也。」“Đương tri tự tự giai hải ấn tam-muội, Đại Viên Cảnh Trí chi linh văn dã.” (Cần biết rằng mỗi chữ đều là lời văn thần diệu về Hải Ấn tam-muội, Ðại Viên Cảnh Trí). Phải biết mỗi chữ trong Kinh văn, mỗi câu đều có thể triệt ngộ Tự Tánh, không phải nhiều, nên phải biết, nên phải học tập. Cho nên chúng ta trong đời này, có thể nắm chắc Tịnh Tông, thâm nhập một môn, thì viên mãn thành tựu trong đời này. Kinh này và Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm: không phải hai, Những gì trên Kinh Hoa Nghiêm nói thì kinh này đều có, cho nên cổ nhân xưng là trung bổn Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm quá lớn, không dễ nhiếp thọ, phân lượng kinh này vừa vặn, chỉ có một quyển, tương đương thọ trì Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi, hy vọng mọi người nỗ lực tinh tấn, cảm ơn mọi người!

(Hết tập 323)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0