Responsive Menu
Add more content here...

Tập 331 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

 PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:

Ba Bậc Vãng Sanh

Tập 331

 Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà HongKong.

Thời gian: Ngày 12 tháng 5 năm 2016.

Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

 

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 783, hàng thứ tư từ trái sang, 往生勝妙果德 “Vãng sanh thắng diệu quả đức” (quả đức thù thắng vi diệu của vãng sanh). Đoạn lớn này, chúng ta nhìn thấy đề mục thì biết, phía trước từ trang 771, đoạn sau cùng này 一心三輩 “Nhất tâm Tam bối” (Ba bậc Nhất tâm), 一心三輩 “Nhất tâm Tam bối” (Ba bậc Nhất tâm) chia làm hai đoạn lớn, đoạn thứ nhất 辛一、大乘往生因行 “Tân nhất, Đại thừa vãng sanh nhân hạnh” (H1, Nhân hạnh vãng sanh của Đại thừa), phía trước chúng ta đã học xong rồi, thời gian rất dài, bây giờ là mục辛二 “tân nhị” (H2), đoạn thứ hai này, đoạn thứ hai 往生勝妙果德 “Vãng sanh thắng diệu quả đức” (Quả đức thù thắng vi diệu của vãng sanh), phía trước nói về tu nhân, chỗ này nói về chứng quả. Chúng ta xem Kinh văn:

          【此人臨命終時。如在夢中。見阿彌陀佛。定生彼國。得不退轉。無上菩提。】 “Thử nhân lâm mạng chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà Phật, định sanh bỉ quốc, đắc bất thoái chuyển: Vô-thượng Bồ-đề.” (Người ấy khi mạng sắp hết, thấy A Di Đà Phật như ở trong mộng, nhất định sanh về nước đó, được không thoái chuyển: Vô-thượng Bồ-đề).

          Hôm nay chúng ta ở đoạn sau cùng: trong phẩm Kinh này, lợi ích không gì thù thắng hơn. Mời xem Kinh văn, chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. 『此人臨命終時,如在夢中,見阿彌陀佛。定生彼國,得不退轉,無上菩提』“Thử nhân lâm mạng chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà Phật. Định sanh bỉ quốc, đắc bất thoái chuyển, Vô-thượng Bồ-đề” (Người ấy khi mạng sắp hết, thấy A Di Đà Phật như ở trong mộng, nhất định sanh về nước đó, được không thoái chuyển, Vô-thượng Bồ-đề). Hai câu phía trước trong Chú Giải, 因一念往生者,既亦曰三輩,故品類不一,臨終景象亦應隨之而異 “Nhân nhất niệm vãng sanh giả, ký diệc viết tam bối, cố phẩm loại bất nhất, lâm chung cảnh tượng diệc ứng tùy chi nhi dị” (Người nương vào một niệm mà vãng sanh, toàn bộ cũng gọi là ba bậc, nên phẩm loại khác nhau, cảnh tượng lâm chung cũng ứng theo đó mà khác). Chúng ta phải đặc biệt chú ý chỗ này, đoạn sau cùng ở phía trước nói với chúng ta 一念淨心 “nhất niệm tịnh tâm” (một niệm tâm thanh tịnh), 發一念心 “phát nhất niệm tâm” (phát một niệm tâm), đây chính là một niệm vãng sanh. Người một niệm vãng sanh cũng phải có ba bậc, do đó Đại sư Từ Châu chia đoạn Kinh văn này, gọi là Nhất tâm Tam bối, có ba bậc Thượng, Trung, Hạ, đều là nhất niệm tịnh tâm lúc sắp mạng chung, hoặc là phát nhất niệm tâm, nhất niệm tịnh tín, vãng sanh như thế. Một niệm này rất thù thắng, một niệm tương ưng với Tánh đức. Ở đây Niệm lão trích dẫn: lời trong Kinh Na Tiên, 最為第一 “tối vi đệ nhất” (ấy là bậc nhất), lại dẫn trong Sớ Sao: của Đại sư Liên Trì để nói với chúng ta, một niệm này 全體是佛 “toàn thể thị Phật” (toàn thể là Phật). Một niệm mà ngài Hạnh Tây Thị người Nhật chủ trương, một niệm này tương ưng với Phật trí liền được vãng sanh. Vì thế, một niệm này: không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, buông xuống vạn duyên, một niệm này toàn thể là Phật. Dùng ý niệm toàn thể là Phật đó, để niệm A Di Đà Phật, do đó một niệm liền tương ưng, một niệm thì nhất định được sanh, đắc bất thoái chuyển, Vô-thượng Bồ-đề. Đây là đoạn Kinh văn tiếp theo của chúng ta hôm nay.

          Chúng ta xem tiếp phía sau, 於上輩者,生死情盡 “Ư Thượng bối giả, sanh tử tình tận” (với người bậc Thượng, tình sanh tử đã tận), đây là người bậc Thượng vãng sanh, không còn ý niệm sanh tử nữa, 凡聖體空 “phàm Thánh thể không” (thể Phàm Thánh là không), vì vậy một niệm này chính là Chân Như, một niệm này chính là Tự Tánh, tại sao vậy? Bởi sanh tử tình tận, phàm Thánh thể không. 明識佛無來去,而見佛來。了達生死本空,而現往生 “Minh thức Phật vô lai khứ, nhi kiến Phật lai. Liễu đạt sanh tử bổn không, nhi hiện vãng sanh” (Biết rõ Phật không đến đi, mà thấy Phật đến. Liễu đạt sanh tử vốn không, mà hiện vãng sanh). Tướng có hay không? Có; Lý có hay không? Không có. Đây là cảnh giới đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh của Pháp thân Bồ-tát. Do đó việc vãng sanh của họ, tuy rằng là một niệm, mười niệm vãng sanh, mà họ sanh đến nơi đâu? Bậc thượng của ba bậc, Thượng thượng phẩm của chín phẩm, sanh Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Tại sao có hiệu quả lớn như vậy, công đức thù thắng như vậy? Phía trước đã nói tỉ mỉ rồi, nói rất tường tận, chính là 一念相應一念佛,念念相應念念佛 “nhất niệm tương tưng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật” (một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật), niệm đó tương ưng; Tương ưng với điều gì? Tương ưng với Tự Tánh, tương ưng với Chân Tâm.

          Tôi thường xuyên khích lệ mọi người dùng Chân Tâm, đừng dùng Vọng Tâm. Ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tập thành một thói quen, Vọng Tâm là tâm sanh diệt, Vọng Tâm là giả, chúng ta dùng Chân Tâm, Chân Tâm chính là nhất tâm, nhất niệm. Trong một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, không có thứ gì cả, chỉ có một câu Phật hiệu này. Một câu Phật hiệu này không xen tạp Vọng tưởng tạp niệm, thì sẽ tương ưng, tương ưng với chư Phật Như Lai. Tương ưng thế nào? Chư Phật Như Lai trụ nhất tâm, tuy rằng thời gian của chúng ta ngắn, thời gian một sát-na đó, chúng ta cũng là nhất tâm, nhất tâm không khác biệt với nhất tâm, cho nên nói toàn thể là Phật. Toàn thể là gì? Trọn cả vũ trụ đều là Phật. Quan trọng! Phải tập thành thói quen, mở to mắt nhìn thấy tất cả vạn vật là Phật, tất cả âm thanh nghe thấy là Phật, tất cả cảnh giới tiếp xúc không một thứ nào không là Phật. Tại sao vậy? Đại sư Huệ Năng nói rất hay, 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn Pháp), vạn pháp là toàn vũ trụ, toàn vũ trụ gọi là vạn pháp. Toàn vũ trụ từ đâu mà đến? Từ một niệm Chân Tâm mà sanh ra. Một niệm tâm này, bên trong nhất tâm, nhất niệm: không có Vọng tưởng, không có tạp niệm chính là nhất tâm, nhất tâm có thể sanh cả vũ trụ. Tại sao vũ trụ lại trở thành dạng như thế này? Đó là duy thức sở biến, hiện tại chỉ giảng duy tâm sở hiện, Y Chánh trang nghiêm của mười Pháp giới là chỉ do thức biến. Thức không rời khỏi Chân Tâm, thức chỉ là trong tâm: xen tạp Vọng tưởng tạp niệm mà thôi, vậy thì gọi là A-lại-da thức, gọi là Vọng Tâm, chân vọng là một không phải hai. Vì thế nhìn từ Chân Tâm, thì cả vũ trụ đều là A Di Đà Phật, không những tất cả chúng sanh hữu tình là A Di Đà Phật, mà hoa lá cỏ cây cũng là A Di Đà Phật, sông núi đất đai là A Di Đà Phật, tất cả vạn vật không gì chẳn phải là A Di Đà Phật, chúng ta liền nhập vào trong nhất tâm của A Di Đà Phật, trong nhất tâm của A Di Đà Phật có ta, trong nhất tâm của ta có A Di Đà Phật, tâm tâm tương ưng, không thể nghĩ bàn.

          Câu sau cùng này nói hay, Phật làm gì có đến đi? Pháp thân của Phật không đến đi. Pháp thân ở đâu? Không nơi nào không có, không lúc nào không có. Hình dạng thế nào? Sáu căn của chúng ta đều không duyên đến được, đó là Vô Lượng Quang, trên Kinh Hoa Nghiêm gọi đó là Đại Quang Minh Tạng, Tịnh Độ xưng đó là Thường Tịch Quang Độ; Gọi là Thường Tịch Quang, thường là vĩnh hằng không dứt, quang là chiếu khắp Pháp giới, tất cả Y Chánh trang nghiêm: trong mười Pháp giới của chư Phật đều ở trong quang, quang chiếu vô cùng rõ ràng. Người không đắc nhất tâm thì không thấy được, người chứng đắc nhất tâm thì thấy được, vì thế gọi là minh Tâm kiến Tánh. Chúng ta là người không thấy được, bởi tâm chúng ta là mê, là tâm mê, điều thấy được là Tướng phần của A-lại-da, vả lại phạm vi thấy rất có hạn, hạn chế ở trong một góc, một chút xíu. Khi nào chúng ta quay về Tự Tánh, thấy được Đại Quang Minh Tạng, nhập Thường Tịch Quang Tịnh Độ, chính là khế nhập Đại Quang Minh Tạng, vậy mới gọi là viên mãn rốt ráo, chứng được Pháp thân viên mãn. Pháp thân Bồ-tát cũng chứng được rồi, mà chưa viên mãn, phải đến quả vị Diệu Giác mới chứng đắc viên mãn rốt ráo, là sự việc như vậy. Vì thế A Di Đà Phật không đến không đi, chư vị nhìn thấy Phật đến rồi. Chính chúng ta thì sao? Chính mình sanh tử vốn không, vốn là không có sanh tử. Hiện tại có sanh tử hay không? Không có sanh tử, tự chúng ta hiểu nhầm cho rằng có sanh tử, hoàn toàn là chúng ta nhìn nhầm rồi. Không có sanh tử, nên vãng sanh Thế giới Cực Lạc, giống như nằm mộng vậy, trong mộng rõ ràng có sáu đường, vô cùng rõ ràng, hết sức sáng tỏ, giác rồi thì không có, chúng ta chưa giác. Khi nào chúng ta giác? Đến Thế giới Cực Lạc thì giác rồi. Ở nơi đây thật tu, thật hiểu rõ, thường xuyên buông xuống; Thường thường buông xuống: chính là thường xuyên đừng đặt những thứ này vào trong tâm, thì gọi là buông xuống, vậy thật buông xuống rồi. Trong tâm thường có: A Di Đà Phật, Thế giới Cực Lạc, ngoài A Di Đà Phật, Thế giới Cực Lạc ra, thì đều buông xuống, không để trong tâm, tâm thanh tịnh tự nhiên hiện tiền, tâm bình đẳng tự nhiên hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền nhất định vãng sanh, theo trên Kinh này giảng, nhất định vãng sanh, sanh Phương Tiện Hữu Dư Độ; Tâm bình đẳng hiện tiền thì nhất định vãng sanh, phẩm vị cao hơn tâm thanh tịnh. Đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh, Thượng phẩm vãng sanh là Pháp thân Bồ-tát, chúng ta thường xưng là gì? Thập địa Bồ-tát. Thật sự, vãng sanh toàn bộ có 51 đẳng cấp. Thế nhưng Thế giới Cực Lạc thù thắng không gì bằng, thù thắng ở chỗ nào? Đãi ngộ bình đẳng, quả thật chính xác có bốn độ ba bậc chín phẩm, nhưng vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát. A-duy-việt-trí là địa vị nào? Pháp thân Bồ-tát, là Bồ-tát của Thật Báo Độ. Chính chúng ta không chứng được Báo Độ, chúng ta vẫn là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, nhưng thọ dụng, trí huệ, thần thông, đạo lực: đều được thọ dụng rồi, những thọ dụng này, được gọi là thần thông biến hóa, đều bình đẳng với Pháp thân Bồ-tát.

          Đây là pháp khó tin, thậm chí Ngũ nghịch Thập ác lúc lâm chung mười niệm vãng sanh, cũng có phẩm vị cao như vậy, nguyên nhân là gì? Đức Phật nói rất rõ ràng trong Kinh, những người vãng sanh ấy, đời này đã hồ đồ, nhưng tu tốt trong đời quá khứ, vừa mới đến mức kiến Tánh nhưng vẫn chưa kiến Tánh, họ chưa nắm vững duyên đó, lại rơi trở xuống rồi, là sự việc như vậy, ngay trong đời này lại gặp được, tuy rằng thời gian lâm chung rất ngắn, thậm chí chỉ trong mấy giờ, thiện căn của họ bỗng nhiên hiện ra, khởi tác dụng, thì họ thật vãng sanh, một niệm, mười niệm thật vãng sanh. Thiên hạ rộng lớn, không thiếu điều kỳ lạ, đều có khả năng, chỉ không thấy nhiều; Nhưng không thể nói không có khả năng, có khả năng, không thấy nhiều thôi. Nói không chừng chính chúng ta: đến thời điểm thì có khả năng, nhưng chúng ta vì muốn an toàn, thì bây giờ dụng công. Dùng cách thế nào? Buông xuống. Khổng lão phu tử dạy người, nhà Nho dạy người buông xuống, là phương diện 格物 “cách vật” trong sách Đại Học, cách vật chính là buông xuống, “cách” là ngăn trừ, “dục” là dục vọng. Trong Kinh Phật giảng Ngũ dục, tài sắc danh thực thùy, buông xuống những thứ này; Thất tình Ngũ dục, Thất tình gồm: vui – mừng – buồn – giận – yêu – ghét – ham muốn. Tại sao vậy? Bởi những thứ này là giả, đây là nhân của luân hồi. Không buông được Thất tình Ngũ dục, thì không ra khỏi sáu đường luân hồi; có thể buông xuống Thất tình Ngũ dục, công phu đắc lực thì siêu vượt sáu đường. Công phu của chúng ta chính là niệm Phật. Niệm Phật là công phu gì? Niệm Phật không gián đoạn chính là công phu, một câu tiếp nối một câu, không xen tạp, không gián đoạn, niệm niệm liên tục, điểm này quan trọng.

          捨此生彼皆如幻夢,故云如夢也 “Xả thử sanh bỉ giai như huyễn mộng, cố vân như mộng dã” (Bỏ đây sanh kia đều như mộng huyễn, nên nói là như mộng). Trên Kinh Kim Cang dạy chúng ta, dạy chúng ta ngay trong cuộc sống hằng ngày, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính mình, Phật đã chỉ ra chân tướng của vũ trụ nhân sinh cho chúng ta, chân tướng là gì? Như mộng ảo bọt bóng, tất cả hữu vi Pháp này. Hữu vi chính là có sanh có diệt. Pháp nào không phải là pháp sanh diệt? Chúng ta ở cõi người trong sáu đường, những điều mà sáu căn tiếp xúc đều là Pháp hữu vi, sáu căn cũng là pháp sanh diệt, sáu trần cũng là pháp sanh diệt, sáu thức cũng là pháp sanh diệt, 3 lần 6 thành 18, gọi là 18 giới, đều là pháp sanh diệt, niệm trước diệt niệm sau sanh, một niệm tiếp nối một niệm. Phật dạy, những pháp sanh diệt này đều là mộng huyễn bào ảnh, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết hữu vi Pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng), không thể Chấp trước, phải buông xuống. Nó có hay không? Không thể nói không có, cũng không thể nói có. Chư vị nói không có, sai rồi; Chư vị nói có, cũng sai luôn. Tại sao vậy? Nói không có, nó hiện tướng; Nói tướng có, tướng sanh diệt trong sát-na, trong một giây, sanh diệt 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, chúng ta không cách gì tưởng tượng, ở trước mặt chúng ta mà không có chút khái niệm nào, tốc độ này quá nhanh rồi! Đây là chân tướng sự thật. Chân tướng này: được các nhà Cơ học lượng tử thời nay chứng minh rồi, việc của 20 năm gần đây nhất, mới phát hiện giống như trên Kinh Phật giảng vậy. Bốn câu nói của Kinh Kim Cang đã chứng minh rồi, 一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀 “Nhất thiết hữu vi Pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (tất cả Pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như chớp, hãy nên quán như vậy), chư Phật Như Lai là quán như vậy, chúng ta học Phật, học Bồ-tát, cũng phải thực hành quán như vậy thì đúng rồi, đừng để bị gạt, đừng mắc lừa.

          Tiếp theo nói, 於中輩者,了達世間皆如夢幻泡影,故於臨終無所留戀,視同夢中也 “Ư trung bối giả, liễu đạt thế gian giai như mộng huyễn bào ảnh, cố ư lâm chung vô sở lưu luyến, thị đồng mộng trung dã” (Với người bậc Trung, liễu đạt thế gian đều như mộng ảo bọt bóng, nên lúc lâm chung không bị lưu luyến, thấy như trong mộng vậy). Chúng ta vừa mới nói qua ý này, bậc Thượng. Bậc Trung, bậc Trung thì đã cảnh giác được rồi, chúng ta học bậc Trung, “liễu” là hiểu rõ, “đạt” là thông đạt, liễu đạt chân tướng của pháp thế gian, chân tướng là gì? Là mộng ảo, là bọt bóng, không phải là thật. Không những lâm chung không lưu luyến, mà hiện tiền đã không lưu luyến, là như không có việc này, thấy giống trong mộng, hiện tại phải có cách nhìn như vậy. 至於下輩,其人臨終,彷彿似夢,得見彼佛,亦得往生。 “Chí ư Hạ bối, kỳ nhân lâm chung, phảng phất tự mộng, đắc kiến bỉ Phật, diệc đắc vãng sanh.” (Thậm chí bậc Hạ, người ấy lúc lâm chung, phảng phất tựa như mộng, được thấy đức Phật ấy, cũng được vãng sanh). Ở đây ngài Niệm Tổ có ngoặc đơn, 但一心三輩中之下輩,並不皆等於正宗三輩中之下輩 “Đãn Nhất tâm Tam bối trung chi Hạ bối, tịnh bất giai đẳng ư Chánh tông Tam bối trung chi Hạ bối” (Nhưng bậc Hạ trong Nhất tâm Tam bối, lại còn không cùng bằng với bậc Hạ trong Chánh tông Tam bối), phải biết khái niệm này, 上中二輩亦復如是。蓋一心三輩,別具一格,不同常規也。 “Thượng Trung nhị bối diệc phục như thị. Cái Nhất tâm Tam bối, biệt cụ nhất cách, bất đồng thường quy dã.” (Hai bậc Thượng Trung cũng lại như vậy. Đại khái Nhất tâm Tam bối, có phong cách riêng, không giống lệ thường). Đây là người nào? Đời quá khứ có thiện căn lớn, họ căn bản đã có thể vãng sanh Thế giới Cực Lạc, lúc lâm chung đại khái có duyên gì đó bên ngoài: chốc lát mê hoặc rồi, một niệm sai lầm đó của họ, thì quay lại nhân gian, họ có tồn tại cơ sở của loại thiện căn này. Do đó Nhất tâm Tam bối mà Từ lão phán định: không giống với tam bối thông thường nói. Người đó trong đời quá khứ đã chứng đắc rồi, đã đạt được rồi, do bởi một niệm sai lầm lúc lâm chung, một ý niệm sau cùng là gì? Là phiền não tập khí, họ đi không thành, ngay trong đời này gặp được. Vậy mới giảng được thông, để chúng ta không nghi ngờ về tình về lý.

          Chúng ta biết có tình hình này, hiểu những tình trạng này, tự mình gắng sức nỗ lực, quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ, có thể đi hay không? Ai cũng có thể đi, ai cũng đều nắm chắc. Mấu chốt ở chỗ nào? Mấu chốt ở buông xuống, hiện tiền chư vị có thể buông xuống được, thì cơ hội vãng sanh Tịnh Độ của chư vị đã đầy đủ; Hiện tiền không buông được, thế vẫn là một vấn đề, không thể không biết điều này. Khi nào buông xuống? Hiện tại liền buông xuống, thì hiện tại không sao rồi. Nhất định không vì chính mình, mà vì Chánh Pháp cửu trụ thì có thể ở thế gian. Văn hóa truyền thống Trung Hoa là Chánh Pháp, vì thực sự có thể mang đến: hạnh phúc mỹ mãn cả đời cho mỗi người. Cho nên đó là Chánh Pháp, không mang phiền não đến cho chư vị, không để cho dục vọng của chư vị bành trướng, mang đến cho chư vị cả đời hạnh phúc, vui vẻ. Câu đầu tiên của Khổng tử trong Luận Ngữ đã nói điều này, tại sao phải học? Vậy học điều gì? Học giáo huấn của Thánh Hiền. Tại sao phải học giáo huấn của Thánh Hiền? 學而時習之,不亦說乎 “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà thường rèn tập điều đã học, chẳng phải vui lắm sao), học bao gồm Bác học, Thẩm vấn, Thận tư, Minh biện, những điều này đều ở trong việc học, tập chính là thiết thực thi hành, vận dụng, chư vị có thể vận dụng: tất cả những điều chư vị đã học vào đời sống, đều làm được hết ngay trong sinh hoạt hàng ngày, vui vẻ! Đó chính là hạnh phúc, chẳng phải vui lắm sao là hạnh phúc, là vui vẻ, đời người mỹ mãn. Có tấm gương, Khổng lão phu tử làm tấm gương cho chúng ta, Nhan Hồi làm tấm gương cho chúng ta. Thời bấy giờ Khổng lão phu tử không có địa vị trong xã hội, không có của cải, gia đình bình thường, mỗi ngày Khổng tử vui vẻ như thế, niềm vui vẻ đó từ đâu mà đến? Đến từ học mà thường rèn tập. Vậy dễ mến, thật được vui vẻ. Niềm vui vẻ này ở trong gia đình, đời này chư vị ở gia đình, một người đạt được niềm vui này thì ảnh hưởng cả nhà, gia đình hài hòa, gia hòa vạn sự hưng, người một nhà đều vui vẻ. Bất luận chư vị làm ngành nghề gì, thì chư vị nhất định làm được rất thuận lợi. Khổng tử làm ngành nghề gì? Khổng tử dạy học. Thực sự là tư nhân mở trường dạy học sinh, Khổng tử là người đầu tiên của Trung Hoa. Việc này thật vui vẻ, đời sống gia đình có thể qua ngày thì được, tôi phải làm việc vui vẻ nhất. Việc vui vẻ nhất không gì hơn dạy cho thế hệ tiếp theo, dạy tốt người thế hệ tiếp theo, thì vui vẻ! Do đó sự nghiệp thuận lợi, học sinh ai cũng là Thánh Hiền, người người là Quân tử, ba ngàn đệ tử, ba ngàn vị Quân tử. Niềm vui này, người không nhập cảnh giới nghĩ không ra. Đây chính là tại sao phải học, học giáo dục Thánh Hiền là vì điều gì? Vì vui vẻ, là vì hạnh phúc, xã hội an định. Trong xã hội nhiều người tốt, nhiều tấm gương, để cho đại chúng thông thường nhìn thấy: đều là Thánh Hiền Quân tử, tiếp xúc được cũng đều là người Quân tử, không có tiểu nhân, xã hội an ổn, đất nước giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Giáo dục Thánh Hiền có sức hấp dẫn lớn như vậy, chư vị học rồi, chư vị sao lại không vui vẻ chứ!

          Những người học điều này mà vẫn không đạt được vui vẻ, bởi trong họ việc nên buông xuống họ không buông. Việc nên buông xuống là gì? Danh văn lợi dưỡng, không buông xuống những thứ này, cho nên họ học rồi cũng không vui vẻ. Tuy họ học, nhưng họ không tập, bởi thiếu việc này. Do đó, tuy rằng học giáo huấn của Thánh Hiền, mà vẫn tạo nghiệp y như cũ. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, có thiện có ác, thiện cảm ba đường thiện, ác cảm ba đường ác, họ vẫn đang tạo nghiệp. Chúng ta học Phật cũng như vậy, học Phật nếu không thể vận dụng giáo huấn của Phật, thì vẫn không phải đang tạo nghiệp sao? Chư vị tu Ngũ Giới Thập Thiện, tu Lục Độ Thập Nguyện, mà chưa buông danh văn lợi dưỡng xuống, thì đó là thiện nghiệp, đời sau [hưởng] phước báo người trời, không thể vãng sanh. Chư vị có thể đều buông xuống hết những thứ này, buông xuống thế nào? Buông xuống sẽ vui vẻ, càng vui vẻ hơn của chư vị có được! Việc này là thật, không phải giả. Cho nên niềm vui của Khổng tử Nhan Hồi: là vui vẻ lưu lộ từ trong Tự Tánh, không liên quan đến cảnh giới bên ngoài, không liên quan đến Ngũ dục bên ngoài, tài sắc danh thực thùy, phải hiểu việc này. Đại thừa giáo nói hay, cầu từ bên trong nội tâm, niềm vui chân thật lưu lộ ra từ trong nội tâm, là sự thật, pháp ở ngoài tâm đều là giả. Ngoài tâm không có pháp, pháp pháp đều là Chân Tâm mà lưu lộ, tự thể của mọi pháp: chính là Chân Tâm, chính là bổn Tánh. Do đó nói ngoài pháp không có tâm, ngoài tâm không có pháp, pháp chính là tâm, tâm chính là pháp, là một không phải hai, thống nhất, vậy tự tại, đây không phải giả.

          Người học Đại thừa, chúng ta đã đọc qua Kinh văn phía trước, 住大乘者 “trụ Đại thừa giả” (người trụ Đại thừa), tâm an trú ở Đại thừa. Đại thừa, đây là gì? Vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, dùng ở từ bi hỷ xả, không có chính mình, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn. Chúng sanh khổ nạn là chưa khai ngộ, vẫn đang mê hoặc điên đảo, giúp họ giác ngộ, giúp họ quay đầu, một khi họ quay đầu thì giác ngộ, thì họ là Quân tử, thì họ là Thánh Hiền. Chúng ta giác ngộ rồi, phải làm ra hình dáng giác ngộ cho họ xem, chúng ta ở trong xã hội không có địa vị, mà vui vẻ; Chúng ta không có của cải, mà hạnh phúc. Chư vị cho tôi, tôi không cần, tại sao vậy? Đó là phiền toái, đó là phiền phức, khiến cho tâm chư vị an trú: ở những nơi không chánh đáng, thì sai rồi. Không có thứ gì cả, đều buông xuống tất cả, thì được đại tự tại. Tâm thanh tịnh hiện tiền thì được rồi, tâm thanh tịnh là A-la-hán, tâm bình đẳng hiện tiền là Bồ-tát, giác chứ không mê thì thành Phật rồi. không tìm thấy trong sáu đường mười Pháp giới, không thể so sánh với các ngài. Đây là giáo dục Thánh Hiền, đây là văn hóa truyền thống Trung Hoa, đây là Phật pháp, đây là Đại thừa.

          Vì thế Nhất tâm Tam bối, không giống lệ thường. 由上可見,念佛達於一心,而得往生者,品類懸殊,上則聖賢,下及凡夫。念佛達於一心,乃至能發一念淨信,獲得一念淨心,發一念心念於彼佛,皆得往生 “Do thượng khả kiến, niệm Phật đạt ư nhất tâm, nhi đắc vãng sanh giả, phẩm loại huyền thù, thượng tắc Thánh Hiền, hạ cập phàm phu. Niệm Phật đạt ư nhất tâm, nãi chí năng phát nhất niệm tịnh tín, hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm, phát nhất niệm tâm niệm ư bỉ Phật, giai đắc vãng sanh” (Do trên có thể thấy, người niệm Phật đạt đến nhất tâm, mà được vãng sanh, phẩm loại rất sai khác, trên thì Thánh Hiền, dưới đến phàm phu. Niệm Phật đạt đến nhất tâm, cho đến có thể phát một niệm tịnh tín, đạt được một niệm tâm thanh tịnh, phát một niệm tâm niệm đức Phật ấy, đều được vãng sanh). Việc này tuyệt vời rồi, đây là Kinh văn thật sự, bảo vật vô giá! Sau khi học rồi, phải ghi nhớ thật kỹ trong tâm, phải thực hiện trong cuộc sống, thế thì chư vị là người thật sự có phước, chư vị là trụ Đại thừa giả. Người trụ Đại thừa, trong tâm thường có, không thời khắc nào mà không có, đây gọi là người trụ Đại thừa. Người trụ Đại thừa, người đó chính là Bồ-tát. Chúng ta không hề nhìn ra, nhưng đức Phật, Bồ-tát, A-la-hán đã nhìn ra, người đó là Bồ-tát. Họ trụ Đại thừa thế nào? Khởi tâm động niệm, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, đây chính là Bồ-tát, đây chính là người trụ Đại thừa. Hóa đây là giáo hóa, là cảm hóa. Người trụ Đại thừa: nhất định đem tư tưởng, lý niệm, ngôn hạnh Đại thừa của họ, đối người tiếp vật trong cuộc sống hàng ngày, chư vị có thể nhìn thấy được. Người đó không có tâm tư lợi, người đó không có dục vọng, họ không cần thứ gì cả, tại sao vậy? Vì được đại tự tại, có cần thì bận lòng.

          Mấy năm nay tôi sống ở Hongkong, bạn bè nước ngoài rất nhiều, khi đến đều đem một số thư họa, một số phẩm vật điêu khắc nổi tiếng quý giá tặng cho tôi. Ngay cả đạo tràng tôi cũng không có, không có chỗ để, tặng đến đây là thêm phiền phức cho tôi, lòng tốt ý tốt đã thêm phiền phức cho tôi. Vậy tôi phải làm sao? Lập tức qua tay tặng cho người khác, tặng cho những người có phước báo, họ có nơi cất giữ, tôi không có chỗ cất giữ, qua tay thì tặng người khác, tôi không cần thứ gì cả. Chư vị không cần tặng cho tôi thứ gì, tặng một chút thức ăn thì được, đến nơi đây, ba bữa cơm thì ăn hết rồi, đừng cho tôi những thứ thật hiếm lạ, những thứ trân bảo, qua tay là tặng người khác. Mọi người hiểu được, thì đôi bên chúng ta đều tốt, chư vị không phiền phức, tôi cũng không bận lòng, tốt biết bao. Một việc tôi hoan hỷ nhất: chính là nhìn thấy người niệm Phật, chư vị niệm Phật tôi nhìn thấy thật hoan hỷ! Hy vọng Phật hiệu của chư vị liên tục không dứt, niệm đến nhất tâm thanh tịnh thì được rồi, tại sao vậy? Vì nhất định được vãng sanh.

          Ở nơi đây Niệm lão nói với chúng ta, 念佛達於一心 “niệm Phật đạt ư nhất tâm” (niệm Phật đạt đến nhất tâm), câu này nói nghe dễ dàng, nhưng làm cũng không dễ dàng như thế. Vấn đề ở chỗ nào? Ở không buông được. Càng buông không được, thì càng phải nghĩ nhiều về buông xuống, nói nhiều về buông xuống, nói nhiều rồi, thì thật sự đã buông xuống. Đừng quan tâm người khác buông được hay không, tự mình trước hết phải buông xuống, thì tốt! 讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách), buông xuống này là ngàn lần, bất tri bất giác tự mình thật buông xuống rồi, tâm lưu luyến đối với pháp thế gian: giảm thiểu mức độ lớn. Bên này giảm thiểu, bên kia thì tăng thêm, bên kia là vãng sanh Thế giới Cực Lạc, tăng ý niệm này lên, thì tốt! Không đạt được nhất tâm, 乃至能發一念淨信 “nãi chí năng phát niệm tịnh tín” (cho đến có thể phát một niệm tịnh tín), điều này dễ dàng hơn nhất tâm; Tịnh tín, tín mà không xen tạp Vọng tưởng gọi là tịnh tín. Ngay cả phẩm vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc: cũng không tính toán, không cần nhất định phải nghĩ rằng: tôi phải vãng sanh Thượng thượng phẩm, tôi phải vượt qua người khác, đó đều là Vọng tưởng. Nhất định phải hiểu được, thế giới là bình đẳng, mọi người đều bình đẳng, đều là giống nhau, không có một ai vượt hơn người nào cả, không có một ai không bằng một người nào, những khái niệm vượt hơn, hoặc không bằng đều là Vọng niệm, đều không phải thật, thật là Tự Tánh, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn pháp). Tất cả mọi sự khác biệt: đều không phải ở trong Tự Tánh, đều là việc trong phạm vi A-lại-da, Vọng Tâm, A-lại-da là Vọng Tâm, không phải Chân Tâm. Chúng ta học, học dùng Chân Tâm, không dùng Vọng Tâm. Tất cả Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước: đều là sự việc trong phạm vi A-lại-da, không có ở trong Chân Như Tự Tánh. Chân Như chính là nhất niệm, chân thành cũng là nhất niệm, vì thế nhất niệm tịnh tín thì bảo đảm chư vị vãng sanh.

          獲得一念淨心 “Hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm” (Đạt được một niệm tâm thanh tịnh), từ tịnh tín đến tịnh tâm, 發一念心念於彼佛,皆得往生 “phát nhất niệm tâm niệm ư bỉ Phật, giai đắc vãng sanh” (phát một niệm tâm niệm đức Phật ấy, đều được vãng sanh). Câu nói này là tổng kết Nhất tâm Tam bối ở phía trước, do Đại sư Từ Châu phán định. Chư vị nói ngài Từ Châu có khai ngộ hay không? Không khai ngộ thì ngài không nhìn ra. Tại sao nhiều người như thế xem bộ Kinh này: đều không nhìn ra, mà ngài nhìn ra, ngài nói ra? Không dễ dàng! Trong Kinh có Mật tạng, phải đợi người đại triệt đại ngộ phơi bày, thì chúng ta mới biết; Không có các ngài, chúng ta xem mười lần, xem một ngàn lần: đều không nhìn ra, đọc ba ngàn lần có lẽ sẽ nhìn ra. Cho nên số lần nhiều quan trọng, số lần nhiều là thế nào? Chúng ta hạ công phu sâu ở chỗ này; Đã cạn, thì không đạt được, vẫn không nghĩ ra lợi ích của câu nói này ở đâu. Khi chính mình không sai biệt lắm, người ta vừa nhắc nhở thì sáng tỏ rồi. Đây là gì? Vãng sanh, vãng sanh quan trọng. Gặp được Pháp môn Tịnh Tông, mà không thể vãng sanh, thì bị oan uổng. Tại sao vậy? Xem tiếp theo thì sáng tỏ.

          其最下者,則為五逆十惡,臨終發願,至心念佛,十聲相續,乃至僅得一聲,以暗契理一心故,亦得往生 “Kỳ tối hạ giả, tắc vi Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung phát nguyện, chí tâm niệm Phật, thập thanh tương tục, nãi chí cẩn đắc nhất thanh, dĩ ám khế Lý Nhất Tâm cố, diệc đắc vãng sanh” (Người bậc thấp nhất, chính là Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung phát nguyện, chí tâm niệm Phật, mười tiếng liên tục, thậm chí chỉ được một tiếng, bởi ngầm khế hợp Lý Nhất Tâm, nên cũng được vãng sanh). Phải ghi nhớ kỹ những điều này, tại sao vậy? Bởi từ chỗ này chư vị tạo dựng tín tâm kiên cố, nhất định được sanh trong đời này, không cần phải trở lại lần sau. Chư vị xem xem, người lâm chung nhất tâm, cuộc đời không phải làm thiện, là tạo ác, tạo việc ác gì? Ngũ nghịch Thập ác. Ngũ nghịch gồm: Giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, năm loại đại nghịch này, quả báo ở địa ngục Vô Gián. Tiếp theo giảng Thập ác, Thập ác là địa ngục, Ngũ nghịch là địa ngục Vô Gián. Thập ác là gì? Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, đây là thân, giết trộm dâm; Nói dối (lừa gạt người khác), nói lưỡi đôi chiều (gây chia rẽ thị phi), nói lời thêu dệt (lời ngon tiếng ngọt, mục đích là gạt người, là làm người khác bị lừa), và ác khẩu (nói lời rất khó nghe), bốn nghiệp của miệng; Ý thì: tham, sân, si. Đó là Thập ác. Ngũ nghịch Thập ác, trong xã hội thời xưa rất ít, tại sao vậy? Bởi từ nhỏ gia giáo đã dạy họ nghiêm khắc, nhất định không được phép. Đây là thuộc về Giới Luật. Người tạo Thập ác đều là tạo nghiệp địa ngục, Ngũ nghịch là tội nghiệp cực nặng, đều là đọa địa ngục Vô Gián. Người tạo tác trọng tội như vậy, lúc sắp mạng chung gặp được thiện hữu, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Thế giới Cực Lạc, họ vừa nghe vậy, họ thật tin, không có nghi ngờ, hoàn toàn tiếp nhận, thật sự phát nguyện cầu sanh, không kịp mười tiếng Phật hiệu, đã niệm một tiếng A Di Đà Phật, một tiếng này cũng có thể vãng sanh.

          Do đó 十聲相續 “thập thanh tương tục” (mười tiếng liên tục), không thể mười tiếng liên tục, 乃至僅得一聲,以暗契理一心故 nãi chí cẩn đắc nhất thanh, dĩ ám khế Lý Nhất Tâm cố” (thậm chí chỉ được một niệm, bởi ngầm khế hợp Lý Nhất Tâm), chính là đạo lý của câu này, đó là trong ngầm khế hợp với Lý Nhất Tâm. Lý Nhất Tâm là gì? Lúc đó chỉ có một niệm tâm, chính là một tâm này, thời gian rất ngắn, thậm chí mấy giây, trong đó không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, chính là Lý Nhất Tâm. Hoàn toàn tiếp nhận, trong tâm chỉ là một câu A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, chúng ta thường nói, không có Khởi tâm động niệm, chính là Lý Nhất Tâm; Có Khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước là Sự Nhất Tâm. Họ ở trong thời gian ngắn như vậy, ngay trong một niệm này họ không còn Vọng niệm, không Khởi tâm động niệm, chính là không có Vọng tưởng, không có Chấp trước, không có điều gì cả, chỉ một câu Phật hiệu này, chỉ dựa vào câu này mà được sanh, như thế vãng sanh rồi, đây là ngầm khế hợp Lý Nhất Tâm. Sáng tỏ được câu này thì tin tưởng rồi, có khả năng có sự việc này, có khả năng, không phải không khả năng, có khả năng. Một niệm sau cùng lúc lâm chung của chư vị là tâm gì? Chư vị là tâm không sanh một niệm, chính là Lý Nhất Tâm; nếu vẫn có Khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, vậy là Sự Nhất Tâm. Có thể vãng sanh hay không? Cũng có thể vãng sanh, khế lý khế sự đều có thể vãng sanh. Phẩm vị cao thấp cũng rất khó nói, có người nhất tâm rất cao, chốc lát liền nâng lên rồi, có những người phẩm vị thấp một chút. Có thể vãng sanh hay không? Đại sư Ngẫu Ích nói: thật tin nguyện thiết, vậy thì có thể vãng sanh. Điều kiện vãng sanh là tin tưởng không nghi ngờ, tin có Thế giới Cực Lạc, tin có A Di Đà Phật, tin 48 nguyện độ chúng sanh, không có nghi ngờ, không có xen tạp, mười niệm này không gián đoạn, mười niệm lâm chung này. Người phù hợp với điều kiện này ngay trong số người vãng sanh, chúng ta tin tưởng không ở số ít, đặc biệt là những người không buông được, sắp mạng chung lúc sau cùng phải nghĩ đến, không vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì phải luân hồi ba đường ác, có thể nghĩ đến điểm này, xả bỏ luân hồi, cầu sanh Tịnh Độ, một niệm như vậy thì họ thành công rồi.

          Tiếp theo nói, 此顯一心功德,最為第一 “thử hiển nhất tâm công đức, tối vi đệ nhất” (Điều này hiển hiện công đức của nhất tâm, là đứng đầu bậc nhất). Công là công phu, đức là thọ dụng của họ. Ở thời khắc then chốt đó, một niệm tương ưng với nhất tâm, nhất tâm nhất niệm, sao có đạo lý không vãng sanh được! Do đó Pháp môn này là pháp dễ hành, không ở thời gian ngắn hay dài. Có người niệm Phật niệm mấy chục năm, niệm được rất khá, nhưng sau cùng một niệm không được nhất tâm, vẫn còn một việc chưa buông xuống, thì không đi được, sự việc này: đã kéo chư vị từ Thế giới Cực Lạc quay trở lại, thật quá đáng tiếc! Vì thế buông xuống, tôi khuyên các đồng học buông xuống từ bây giờ, đừng để trong tâm, ở thế gian này sống một ngày tính một ngày, đừng nghĩ đến ngày mai, nhất tâm niệm Phật, niệm niệm cầu vãng sanh. Phật vẫn chưa đến đón chư vị, chư vị phải làm tấm gương tốt, kiểu mẫu tốt về niệm Phật cho mọi người xem, biểu pháp, giống như biểu pháp của lão Hòa thượng Hải Hiền, khi thời gian đến, A Di Đà Phật nhất định đến đón chư vị, nhất định sẽ không bị vuột mất. Điều này quan trọng! Vì vậy chư vị xem, 契理一心,即超生死,而登不退。極顯持名法門,究竟方便,不可思議。 “khế Lý Nhất Tâm, tức siêu sanh tử, nhi đăng bất thoái. Cực hiển trì danh Pháp môn, cứu cánh phương tiện, bất khả tư nghị.” (khế hợp Lý Nhất Tâm, liền siêu vượt sanh tử, mà lên ngôi bất thoái. Tột cùng hiển bày Pháp môn trì danh, là phương tiện rốt ráo, không thể nghĩ bàn). Việc này không phải giả.

          Chúng ta xem thêm đoạn bên dưới, 以上兩類往生,一者三輩往生,皆由發菩提心、一向專念,此則本經之宗也 “Dĩ thượng lưỡng loại vãng sanh, nhất giả Tam bối vãng sanh, giai do phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, thử tắc bổn Kinh chi tông dã” (hai loại vãng sanh bên trên, thứ nhất là ba bậc vãng sanh, đều do phát tâm Bồ-đề, một hướng chuyên niệm, đây là tông chỉ của Kinh này), hai loại vãng sanh: đều là phát tâm Bồ-đề. 二者,一念淨信 “Nhị giả, nhất niệm tịnh tín” (Hai là, nhất niệm tịnh tín), đây là đặc thù, 一念往生,皆由一念。一念者,實相也,乃本經之體也 “nhất niệm vãng sanh, giai do nhất niệm. Nhất niệm giả, thật tướng dã, nãi bổn Kinh chi thể dã” (nhất niệm vãng sanh, đều do nhất niệm. Nhất niệm, là thật tướng, là thể của Kinh này). Vì sao họ có thể vãng sanh? Một là khế hợp với thể của Kinh này, một là khế hợp tướng của Kinh này; Tướng của Kinh này là thật tướng, thể của Kinh này là Chân Như Tự Tánh. 且一念之淨心,舉體是菩提心,念於彼佛正是專念。故知一心三輩,亦不外於本經之宗也 “Thả nhất niệm chi tịnh tâm, cử thể thị Bồ-đề tâm, niệm ư bỉ Phật chánh thị chuyên niệm. Cố tri Nhất tâm Tam bối, diệc bất ngoại ư bổn Kinh chi tông dã.” (Hơn nữa một niệm tịnh tâm, nêu ra thể là tâm Bồ-đề, niệm hướng về đức Phật ấy chính là chuyên niệm. Nên biết Nhất tâm Tam bối, cũng không ngoài tông chỉ của Kinh này). Tông chỉ của kinh này: 發菩提心,一向專念 “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” (phát tâm Bồ-đề, một hướng chuyên niệm), là tám chữ này, thời thời khắc khắc, không thể đánh mất đi tám chữ này, trong tâm phải thường có tám chữ này. Tâm Bồ-đề là gì? Thật tin, thật nguyện: chính là tâm Bồ-đề. Cho nên có thật tin thật nguyện, nhất hướng chuyên niệm, thì không một ai không thành tựu cả. Vì thế biết rằng Nhất tâm Tam bối, không ngoài tông chỉ của Kinh này.

          又《觀經》五逆十惡能往生。本經唯除五逆、誹謗正法是不能往生也 “Hựu Quán Kinh Ngũ nghịch Thập ác năng vãng sanh. Bổn Kinh duy trừ Ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp thị bất năng vãng sanh dã” (Lại hạng Ngũ nghịch Thập ác trong Quán Kinh có thể vãng sanh. Kinh này chỉ trừ Ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp là không thể vãng sanh). Trong Quán Kinh có Ngũ nghịch Thập ác được vãng sanh; Trên Kinh này của chúng ta, hai câu sau cùng nguyện thứ mười tám có nói: 唯除五逆,誹謗正法 “duy trừ Ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp” (chỉ trừ Ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp), loại người đó không thể vãng sanh. Hai Kinh này có mâu thuẫn, chúng ta phải học Kinh nào? Tiếp theo nói, 嘉祥於《觀經義疏》中 “Gia Tường ư Quán Kinh Nghĩa Sớ trung” (Ngài Gia Tường ở trong Quán Kinh Nghĩa Sớ), có nói rõ, ngài giải thích cho chúng ta, 第三品明惡有三人,初明作十惡,次明作四重,後明作五逆 “đệ tam phẩm minh ác hữu tam nhân, sơ minh tác Thập ác, thứ minh tác Tứ trọng, hậu minh tác Ngũ nghịch” (phẩm thứ ba nói rõ về ác có ba người, đầu tiên nói rõ làm Thập ác, tiếp đến nói rõ làm Tứ trọng, sau cùng nói rõ làm Ngũ nghịch). Tứ trọng là bốn giới trọng, chính là phần trước của Ngũ giới, sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, bốn trọng tội sát đạo dâm vọng này, trong Ngũ giới trừ uống rượu, bốn giới này là tánh tội, chính mình [làm] thì có tội, uống rượu gọi là giá tội. Tại sao đức Phật cấm, xếp ở vị trí ngang bằng với bốn trọng tội? Là sau khi say rượu dễ dàng phạm bốn trọng phía trước đó. Năm xưa thầy Lý giảng Lễ Ký cho chúng tôi, giảng đến sự việc uống rượu này, thì giảng đến Trịnh Khang Thành (tức Trịnh Huyền). Trịnh Huyền tửu lượng lớn, ông ấy ở chỗ Mã Dung đó cầu học ba năm, sau khi tốt nghiệp trở về nhà. Mã Dung là thầy của ông ấy, cũng là nhà Nho lớn một thời, Trong Hán Thư có truyện ký của ông ấy. Ông ta sanh lòng đố kỵ người học trò này, ông ta khẳng định người học trò này: thành tựu trong tương lai vượt qua mình, thế phải làm sao? Nghĩ đến việc hại chết trò, dụng tâm không tốt như vậy. Làm tiệc tiễn đưa tạm biệt cho Trịnh Khang Thành, sai bảo tất cả đồng học đều mời ông ấy ba ly rượu, Trịnh Khang Thành đã uống 300 ly. Cho nên 300 ly là do có điển tích, là Trịnh Khang Thành. Sau khi uống hết 300 ly, cũng không mất lễ tiết nhỏ nào. Vì thế thầy Lý nói, nếu như tửu lượng của ai cũng đều giống Trịnh Khang Thành, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ không có điều giới này rồi, là không cần thiết nữa. Ở đây nói bốn trọng tội. Ngũ nghịch Tứ trọng, đây là người ác. Sau cùng là Ngũ nghịch, chư vị xem Thập ác, Tứ trọng, Ngũ nghịch. 不明謗法闡提(謗法稱為闡提) “Bất minh báng pháp Xiển-đề (báng Pháp xưng vi Xiển-đề)” (Không nói rõ báng Pháp Xiển-đề (báng pháp gọi là Xiển-đề)), Xiển-đề là tiếng Phạn, ý nghĩa là đoạn thiện căn rồi, người không có thiện căn, 故明惡不盡 “cố minh ác bất tận” (nên biết ác chưa tận), họ có dư ác, họ có ác chưa đoạn sạch sẽ. 十惡四重五逆並得生西方,若是謗法闡提不得生也。闡提不信法,臨終雖為說有無量壽佛,彼終不信,故不得往生也。 “Thập ác Tứ trọng Ngũ nghịch tịnh đắc sanh Tây Phương, nhược thị báng Pháp Xiển-đề bất đắc sanh dã. Xiển-đề bất tín pháp, lâm chung tuy vi thuyết hữu Vô Lượng Thọ Phật, bỉ chung bất tín, cố bất đắc vãng sanh dã.” (Thập ác Tứ trọng Ngũ nghịch đều được vãng sanh Tây Phương, nếu là báng Pháp Xiển-đề thì không được vãng sanh. Xiển-đề không tin Pháp, lâm chung tuy được nói rõ có Phật Vô Lượng Thọ, nhưng họ rốt cuộc không tin, nên không được vãng sanh). Giải thích này hay, đoạn này trong Quán Kinh Nghĩa Sớ của Đại sư Gia Tường: giải thích được rất hay, họ là thế nào? Họ là lâm chung không tin tưởng, họ tạo tác Ngũ nghịch, Thập ác, Tứ trọng, họ không tin tưởng, vậy thì hết cách vãng sanh.

          Chúng ta quay đầu lại xem một người, có tạo tội nghiệp này, mà người ấy tin tưởng, Pháp sư Oánh Kha vào triều Tống, là người xuất gia, tội ngài tạo tác là Ngũ nghịch Thập ác. Người này tin tưởng nhân quả, ngài biết, tương lai ngài chết đi chắc chắn đọa địa ngục. Nghĩ đến nỗi khổ địa ngục thì ngài sợ hãi, thỉnh giáo các đồng học, các ông có phương pháp nào cứu tôi, có thể giúp tôi không đọa địa ngục không? Thì có một người: cho ngài một quyển Vãng Sanh Truyện, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ có thể cứu ông. Sau khi ngài đọc xong Vãng Sanh Truyện, thật sự phát tâm dõng mãnh, tự nhốt mình trong liêu phòng, ba ngày ba đêm không ngủ không nghỉ, ba ngày ba đêm, chỉ niệm câu Phật hiệu cầu sanh Tịnh Độ. Tâm chân thành cảm động, ba ngày ba đêm niệm tới mức A Di Đà Phật đến rồi, A Di Đà Phật nói với ngài, con tu cho thật tốt, thọ mạng của con vẫn còn mười năm, sau mười năm Ta đến tiếp dẫn con. Sư Oánh Kha, người Trung Hoa nói phước chí tâm linh, nhìn thấy A Di Đà Phật có phước báo, khó có, ngài bỗng nhiên khai ngộ rồi, con không cần mười năm thọ mạng nữa, bây giờ con đi theo Ngài. A Di Đà Phật đáp ứng ngài, Phật nói được, ba ngày sau Ta đến tiếp dẫn con, đã định ước với ngài, là ba ngày sau. Đến sáng sớm ngài mở rộng cửa phòng, nói với mọi người sự việc ấy, ngài thấy được A Di Đà Phật, ba ngày sau đến tiếp dẫn tôi vãng sanh. Trong chùa không một người nào tin tưởng, nói ngài sao lại nói lời bịa đặt, thế nhưng nghe ngài nói chuyện không giống lời giả dối, dẫu sao ba ngày rất gần, xem thử sau ba ngày, A Di Đà Phật đến tiếp ngài hay không. Đến ngày thứ ba, quả nhiên A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, ngài yêu cầu đại chúng niệm Phật, thời khóa sáng đổi thành niệm Phật tiễn ngài vãng sanh, mọi người đều hoan hỷ. Niệm được khoảng một khắc, một khắc ngày xưa: là nửa tiếng bây giờ, đã niệm một khắc, ngài nói với mọi người A Di Đà Phật đến rồi, đến đón tôi rồi, chào từ biệt mọi người, cảm tạ mọi người trợ niệm, ngài liền đi rồi. Thật sự, không phải giả. Sự việc này được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng Sanh Truyện cũng có. Ba ngày ba đêm, dốc sức, không cầu thứ gì cả, tôi chỉ cầu vãng sanh, đều buông xuống tất cả. A Di Đà Phật không phải dẫn ngài đi ngay lúc đó, mà để ngài lại ba ngày, để làm gì? Bảo ngài độ chúng sanh, làm ra tấm gương này cho mọi người thấy, để mọi người xem xem niệm Phật vãng sanh là thật, không khó! Ngài có thể làm được, thì ai cũng đều có thể làm được, chỉ là chư vị không chịu hạ quyết tâm, chư vị không chịu làm. Ngài là người xuất gia phá trai phạm giới, không phải một người tốt, người trong chùa đều xem thường ngài, ngài đến biểu pháp này cho chúng ta, tự tại vãng sanh, không có đau khổ, nói đi thì đi.

          Vãng sanh tự tại như vậy, năm xưa tôi ở nước Mỹ gặp qua một lần; Không phải tôi đích thân thấy được, nhưng người đích thân nhìn thấy đến nói cho tôi biết, là Cam lão thái thái ở San Francisco, chồng bà là Tướng quân. Cuối đời, một người con trai, một người con gái của bà: đi học ở nước Mỹ, cũng lập gia đình ở Mỹ, đón bà đến Mỹ sống chung với nhau, đương nhiên cũng là thay chúng chăm sóc con cái, chính là chăm sóc cháu trai của bà. Bà học Phật với thầy Lý ở Đài Trung, chúng tôi rất quen, đến nước Mỹ thì lại gặp được, bà liền nói cho tôi biết sự việc này. Lão thái thái vãng sanh này là bạn bè cửa Phật của bà, họ thường xuyên cộng tu cùng nhau. Đã sống ở Mỹ mấy năm, không thông ngôn ngữ, không có việc gì, ban ngày thì một mình ở nhà, con trai, con dâu đều đi làm, cháu trai đi nhà trẻ, buổi tối khi con trai, con dâu trở về, thì đón con về, bà giống như coi nhà, chăm sóc gia đình đó. Mỗi ngày nấu hai bữa cơm tối, cơm sáng, buổi trưa họ đều không  về, thì một mình ở trong nhà, đã sống mười mấy năm ở nơi đó như thế. Ngày vãng sanh là con dâu bà điện thoại, mẹ chồng qua đời rồi. Đi như thế nào? Ngồi xếp bằng trên giường, mặc áo tràng, niệm Phật mà đi, đi vào buổi tối, không biết khi nào. Bên cạnh đã viết di chúc, để lại di chúc, viết rất rõ ràng, mà còn đã may xong hết áo tang: cho con trai, con dâu, cháu trai. Do đó ước đoán bà ngày ngày làm việc này, ít nhất trước ba tháng thì bà đã biết, biết trước ngày giờ, không hề nói với bất kỳ người nào. Tin tức này vừa truyền, đồng tu niệm Phật đều đến nhà bà để xem. Công phu không thua kém vị Tăng khổ hạnh, không thua kém Tổ sư Đại đức, đi được tự tại như vậy, không cần có người trợ niệm, tự mình niệm Phật vãng sanh, vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, không có bị bệnh ngày nào, không hề cảm thấy đau đớn chỗ nào, đã đi như vậy. Phu nhân Cam lão đã nói với tôi, thật sự, không phải giả, do chính mắt nhìn thấy. Bà thấy được có ba người, đó là một người trong số đó, nói với tôi, tôi đến Mỹ, bà kể với tôi, bà nói nhất định không phải là giả, vấn đề chính là xem: chư vị phát tâm thật hay phát tâm giả. Thế nào là phát tâm giả? Phát tâm cầu Phật đón họ vãng sanh, ở đây vẫn có rất nhiều việc không buông xuống, thế không được. Triệt để buông xuống, không có mảy may lưu luyến nào, mới có thể cảm được Phật đến tiếp dẫn, Phật biết chư vị là chân thật, thật thì Phật đến; Có một chút giả dối, thì Phật sẽ không đến, chúng ta không thể không biết.

          Phải nắm chắc cơ hội. Một đời này gặp được Phật Pháp, gặp được Tịnh Tông, gặp được bản Hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, gặp được tập Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là đại nhân duyên! Làm sao chư vị đã gặp được? Hi hữu khó gặp, trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được, chư vị làm thế nào đã gặp được? Gặp được mà luống qua, chư vị nói đáng tiếc biết bao! Do đó việc của thế gian này, nhất định phải biết có việc tốt, có việc xấu, chúng ta không làm việc xấu. Có cần làm việc tốt hay không? Có thể làm, nhưng đừng để trong tâm, câu nói này quan trọng. Làm rồi để trong tâm chính là tạo nghiệp, không đặt trong tâm thì không tạo nghiệp. Bất kể việc tốt việc xấu, để trong tâm thì tạo nghiệp, không đặt trong tâm là không tạo nghiệp, là tịnh nghiệp. Không tạo nghiệp thì tốt! Không tạo nghiệp thuận lợi vãng sanh Thế giới Cực Lạc, người tạo nghiệp rất khó vãng sanh Thế giới Cực Lạc, nửa đường thì bị người khác cướp đi rồi. Sanh lên trời, những phước báo trên trời hiện tiền, có không ít người cõi trời tiếp dẫn chư vị vãng sanh, sanh cõi trời rồi; Ác báo hiện tiền, có rất nhiều Tiểu quỷ mang theo gông cùm xích sắt: cũng đến nghênh đón chư vị, đón chư vị đi đến địa ngục, đều có người tiếp dẫn. Đó là tịnh nghiệp, không có thiện ác nghiệp, thiện ác nghiệp đều không cần, đều buông xuống, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, hoa sen hóa sanh, không thể không biết điều này.

          Vì thế nhất niệm vãng sanh, một niệm này chính là thật tướng, là thể của Kinh này, hoàn toàn tương ưng với thể tướng của Kinh này, vì vậy Thập ác, Tứ trọng, Ngũ nghịch: đều có thể sanh Tây Phương. 若是謗法闡提不得生也 “Nhược thị báng Pháp-xiển đề bất đắc sanh dã” (Nếu là báng Pháp Xiển-đề thì không được vãng sanh), Xiển-đề chính là không có thiện căn, họ không tin tưởng, lâm chung tuy rằng nói với họ có Phật Vô Lượng Thọ, nhưng họ không tin, họ không thể tiếp nhận, cho nên không thể vãng sanh. Lâm chung có thể tiếp nhận, lâm chung không nghi ngờ, một niệm sau cùng đó đều có thể vãng sanh, chỗ này gọi là nhất tâm vãng sanh, tín tâm vãng sanh, trong An Lạc Tập, cũng nói rất tường tận sự việc này, chúng ta đã học qua ở phía trước.

          Tiếp theo nói, 又《四帖疏》更有別義 “Hựu Tứ Thiếp Sớ cánh hữu biệt nghĩa” (Nhưng trong Tứ Thiếp Sớ ngược lại có nghĩa khác). Tứ Thiếp Sớ là Chú Giải Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, trong đó cũng có thảo luận đến việc này. Tứ Thiếp Sớ là do Đại sư Thiện Đạo viết, [ngài là] Nhị tổ Tịnh Độ Tông của chúng ta, người thời nhà Đường. 疏曰:如四十八願中,除謗法五逆者,如來恐其造斯二過,方便止言不得往生,亦不是不攝也。若造 “Sớ viết: Như tứ thập bát nguyện trung, trừ báng Pháp Ngũ nghịch giả, Như Lai khủng kỳ tạo tư nhị quá, phương tiện chỉ ngôn bất đắc vãng sanh, diệc bất thị bất nhiếp dã. Nhược tạo” (Sớ nói rằng: như trong 48 nguyện, trừ người báng Pháp Ngũ nghịch, Như Lai sợ người đó tạo hai tội ấy, nên phương tiện ngăn ngừa [mà] nói không được vãng sanh, cũng không phải là không nhiếp thủ. Nếu đã tạo), thật đã tạo rồi, (經懺悔、發願、持佛名號),還攝得生。 “(kinh sám hối, phát nguyện, trì Phật danh hiệu), hoàn nhiếp đắc sanh.” (trải qua sám hối, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, thì vẫn thu nhiếp được sanh). Phía sau này có khai duyên, nếu đã trải qua thật sự sám hối, phát nguyện, nhất tâm niệm Phật, A Di Đà Phật vẫn đến tiếp dẫn, từ bi đến tột cùng. Trong nguyện thứ mười tám, giảng Ngũ nghịch Thập ác không thể vãng sanh, đây là tội nghiệp cực nặng, 如來恐其造斯 “Như Lai khủng kỳ tạo tư” (Như Lai sợ người đó tạo hai tội ấy), ngăn ngừa những người ấy đừng tạo tội nghiệp này, là ý nghĩa này, là 方便止言不得往生 “phương tiện chỉ ngôn bất đắc vãng sanh” (phương tiện ngăn ngừa mà nói không được vãng sanh), không phải thật sự không thể vãng sanh, thật sự sám hối, thật sự quay đầu, Phật vẫn hoan hỷ, vẫn đến tiếp dẫn chư vị.

          Hai Sớ, Tứ Thiếp Sớ và Quán Kinh Nghĩa Sớ, tuy nói khác nhau, nhưng không trái ngược nhau. 嘉祥師謂彼是謗法闡提,不能起信,故不得生。善導師 “Gia Tường sư vị bỉ thị báng Pháp Xiển-đề, bất năng khởi tín, cố bất đắc sanh. Thiện Đạo sư” (Sư Gia Tường nói người ấy là báng Pháp Xiển-đề, không thể khởi niềm tin, nên không được vãng sanh. Sư Thiện Đạo), chính là lời trong Tứ Thiếp Sớ, 雖是謗法五逆,倘於臨終聞法能信,懺悔回心,至心信樂,願生其國,乃至十念,佛垂大慈,亦可攝彼往生極樂 “tuy thị báng Pháp Ngũ nghịch, thảng ư lâm chung văn pháp năng tín, sám hối hồi tâm, chí tâm tín nhạo, nguyện sanh kỳ quốc, nãi chí thập niệm, Phật thùy đại từ, diệc khả nhiếp bỉ vãng sanh Cực Lạc” (Tuy là báng Pháp Ngũ nghịch, mà nếu lâm chung nghe Pháp tin được, sám hối hồi tâm, chí tâm tin thích, nguyện sanh cõi ấy, cho đến mười niệm, Phật rủ đại Từ, cũng chấp thuận nhiếp thủ người ấy vãng sanh Cực Lạc). Việc này trước mắt cũng có ví dụ, chúng ta biết Tổng giám đốc Tạ, ở giảng đường Đạo đức Hoàng Hà tại Triều Châu, phụ thân của ông ấy vãng sanh không lâu, hình như là mùa xuân năm ngoái, ông ấy đến đây nói với tôi, kể rất chi tiết. Cha của ông là người tốt, con trai làm nhiều việc tốt như vậy, nhưng cả đời không học Phật, cũng không tin tưởng, người nhà khuyên ông ấy niệm Phật, ông ấy nói mọi người niệm thì được rồi, ông không niệm. Vì vậy ông ấy rất sốt ruột, khi bệnh nặng, là lúc hai giờ trước khi vãng sanh, cơ hội cuối cùng, sau cùng khuyên cha ông ấy, Tây Phương có Thế giới Cực Lạc, cha tin hay không? Cha ông ấy gật đầu, đã biểu hiện tin tưởng, nên ông ấy vô cùng vui mừng. Thế giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, tiếp dẫn người vãng sanh, cha tin hay không? Ông lão gật đầu. Ông ấy nhìn thấy cha gật đầu thì vô cùng vui mừng, ông ấy nói được rồi, con niệm Phật, cha niệm theo con, niệm được không đến một tiếng đồng hồ, thì cha ông ấy đi rồi. Đó là thật vãng sanh, tướng lành rất tốt, ngày hôm đó người đến đưa tiễn có hơn 1000 người, ai ai cũng nhìn thấy; Có tướng lành, có người nhìn thấy ánh sáng, nhìn thấy hương hoa, ngửi được mùi thơm lạ, có rất nhiều tướng lành. Đây chính là một niệm sau cùng lúc sắp mạng chung, không có người nhắc nhở thì không biết, thế thì ông ấy thật sự lại đi vào luân hồi rồi; Còn đây vừa nhắc nhở ông ấy, tin tưởng hay không? Gật đầu là tiếp nhận, tin thật có A Di Đà Phật, thật có Thế giới Cực Lạc, Phật đã đến tiếp dẫn, ông ấy liền đi rồi, không thể nghĩ bàn.

          Nhưng mà, mấy câu nói phía sau là do Niệm lão nói, 但闡提之人,臨終生信,實為難中之難 “Đãn Xiển-đề chi nhân, lâm chung sanh tín, thật vi nan trung chi nan” (Nhưng người Xiển-đề, lâm chung sanh niềm tin, thật là khó trong khó), thật sự khó, thật không dễ dàng! Được mấy người cả đời không tin tưởng, lâm chung có thể quay đầu? Người giống như phụ thân của Tổng giám đốc Tạ vậy, Tổng giám đốc Tạ thường xuyên khuyên cha ông ấy, ông ấy nghe được rất nhiều, tuy rằng chính ông không chịu niệm Phật, nhưng ông ấy nghe được rất nhiều. Sau cùng đến lúc lâm chung lại hỏi ông, ông lại tin rồi, ông ấy gật đầu, không nghi ngờ nữa; Ông nói không ra lời, gật đầu, thì tin rồi. Một giờ sau cùng đó, ông niệm Phật, làm cho cha ông ấy cùng niệm với ông, cha ông ấy không niệm ra tiếng, nhưng miệng động, tai nghe miệng động, ông nhìn thấy hoan hỷ. Thật sự, kết thúc đó tốt. 如《觀經》云,臨終十念得生者,已是萬萬中之一 “Như Quán Kinh vân, lâm chung thập niệm đắc sanh giả, dĩ thị vạn vạn trung chi nhất” (Như Quán Kinh nói rằng, người lâm chung mười niệm được vãng sanh, ấy là một trong vạn vạn), đây là sự thật không phải giả. 若如《四帖疏》所謂謗法五逆,臨終能至心信樂念佛往生者,當為億億中之一也 “Nhược như Tứ Thiếp Sớ sở vị báng Pháp Ngũ nghịch, lâm chung năng chí tâm tín nhạo niệm Phật vãng sanh giả, đương vi ức ức trung chi nhất dã” (Nếu như báng Pháp Ngũ nghịch được nói trong Tứ Thiếp Sớ, lâm chung có thể chí tâm tin thích niệm Phật vãng sanh, phải là một trong ức ức vậy), họ không chỉ là trong vạn vạn, đó là trong ức ức. Đây nói gì? Về lý giảng được thông, trên thực tế khả năng không có người loại này, lý nói được thông. Phật Bồ-tát quả thực chính xác từ bi đến vô cùng, chúng sanh dùng Vọng Tâm đối với Phật Bồ-tát, chư Phật Bồ-tát đều là dùng Chân Tâm đối với chúng sanh, trước nay chưa từng lừa gạt, trước nay đều là giúp đỡ chư vị từ đường ác quay đầu, từ bi đến cực điểm.

          Chúng ta xem thêm đoạn sau cùng này, 又《法鼓經》云:若人臨終之時不能作念,但知彼方有佛,作往生意 “Hựu Pháp Cổ Kinh vân: Nhược nhân lâm chung chi thời bất năng tác niệm, đãn tri bỉ phương hữu Phật, tác vãng sanh ý” (Lại trong Kinh Pháp Cổ nói rằng: nếu người lúc lâm chung không thể tác niệm, nhưng biết phương ấy có Phật, tác ý vãng sanh), ý vãng sanh này chính là ý niệm nghĩ đến, thật tin thật nguyện cầu Phật tiếp dẫn, đây chính là tác ý vãng sanh, 亦得往生 “diệc đắc vãng sanh” (cũng được vãng sanh). Chúng ta Khởi tâm động niệm, các đồng học phải biết điểm này, mọi lúc mọi nơi chúng ta Khởi tâm động niệm, bất luận là niệm thiện, là niệm ác, là niệm thế gian, là ý niệm xuất thế gian, A Di Đà Phật đều biết. Đừng cho rằng Phật không biết, thế thì sai rồi, Phật hoàn toàn biết hết. Quỷ thần cũng biết, quỷ thần biết: không tường tận, triệt để như Phật biết. Vì thế Khởi tâm động niệm quan trọng! Ý niệm nào tốt nhất? A Di Đà Phật, niệm này tốt nhất. Tại sao vậy? Bởi mười phương chư Phật đều khen ngợi, mười phương chư Phật đều hoan hỷ. Chư vị niệm một tiếng Phật hiệu này, thì chư vị biết công đức lớn biết mấy, tại sao không làm? Tại sao muốn có những tạp niệm, những niệm không liên quan, lại tương ưng với sáu đường luân hồi? Sai rồi, không được làm như vậy. Chúng ta chỉ cần vừa quay đầu, có thể nhiếp tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, niệm một ngày, niệm ba ngày, niệm một tuần lễ, công đức không thể nghĩ bàn! Thật cầu vãng sanh, Phật thật đến tiếp dẫn. Pháp sư Oánh Kha tạo tác Thập ác, phá giới, ba ngày có thể cầu A Di Đà Phật đến, nhờ vào gì? Nhờ vào tâm chân thành, ba ngày không gián đoạn, ngày đêm không ngừng nghỉ, thì A Di Đà Phật đến rồi, thật vãng sanh rồi. Chúng ta cảm tạ Pháp sư Oánh Kha đã biểu pháp này, làm ra tấm gương này cho chúng ta xem, để chúng ta khởi lên tín tâm, tuy rằng làm sai rất nhiều việc, cảm thấy rằng vẫn được cứu, Phật thật từ bi, Phật không bỏ rơi chúng ta.

          如來慈德,微妙難思。是故《安樂集》云:當知如來有勝方便 “Như Lai từ đức, vi diệu nan tư. Thị cố An Lạc Tập vân: Đương tri Như Lai hữu thắng phương tiện” (Đức từ của Như Lai, vi diệu khó nghĩ bàn. Cho nên An Lạc Tập nói rằng: nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng), thắng là thù thắng, phương tiện thù thắng không gì sánh bằng, 攝護信心 “nhiếp hộ tín tâm”, nhiếp là nhiếp thọ, hộ là hộ trì, người thật sự có tín tâm, Phật nhiếp thọ chư vị, Phật hộ trì chư vị. 謂以專意念佛因緣,隨願往生。 “Vị dĩ chuyên ý niệm Phật nhân duyên, tùy nguyện vãng sanh.” (Nói rằng bởi nhân duyên chuyên ý niệm Phật, mà tùy nguyện vãng sanh). Đây là lời trong An Lạc Tập, do Pháp sư Đạo Xước nói. 並讚云:若聞阿彌陀德號,歡喜讚仰心歸依,下至一念得大利,則為具足功德寶。設滿大千世界火,亦應直過聞佛名,聞阿彌陀不復退,是故至心稽首禮。 “Tịnh tán vân: Nhược văn A Di Đà đức hiệu, hoan hỷ tán ngưỡng tâm quy y, hạ chí nhất niệm đắc đại lợi, tắc vi cụ túc công đức bảo. Thiết mãn Đại thiên thế giới hỏa, diệc ưng trực quá văn Phật danh, văn A Di Đà bất phục thoái, thị cố chí tâm khể thủ lễ.” (Đồng thời tán thán rằng: nếu nghe Đức hiệu A Di Đà, hoan hỉ khen ngưỡng tâm quy y, dưới đến một niệm được lợi lớn, chính là đầy đủ công đức bảo. Dù lửa tràn ngập cả Đại thiên, cũng nên thẳng qua nghe danh Phật, nghe A Di Đà không thoái chuyển, cho nên chí tâm lễ cúi đầu). Phía sau là hai bài kệ tán thán, ý nghĩa của bài kệ tán thán này rất rõ ràng. 若聞阿彌陀德號 “Nhược văn A Di Đà đức hiệu” (nếu nghe Đức hiệu A Di Đà), danh hiệu của A Di Đà Phật, nghe được câu danh hiệu này, nghe rồi hoan hỷ, nghe rồi ca ngợi, ngưỡng mộ, tâm quy y rồi, đây là thật sự quy y A Di Đà Phật. 下至一念得大利 “Hạ chí nhất niệm đắc đại lợi” (dưới đến một niệm được lợi lớn), đây là ý gì? Nói đến thấp nhất, hạ xuống dưới thêm, hạ xuống, xuống đến chỗ nào? Chư vị chỉ có một niệm, thời gian không dài, một niệm thì có thể được lợi ích lớn. Tại sao lợi ích lớn? Tiếp theo dẫn một tỉ dụ nói rằng, 則為具足功德寶 “tắc vi cụ túc công đức bảo” (chính là đầy đủ báu công đức), chư vị đạt được công đức bảo, được bao nhiêu? Cụ túc, cụ túc là viên mãn, chư vị muốn bao nhiêu thì là bấy nhiêu, công đức bảo như vậy là có sự giúp đỡ lớn đối với chư vị. 設滿大千世界火 “Thiết mãn Đại thiên thế giới hỏa” (Dù lửa tràn ngập cả Đại thiên), đây là nói nạn lửa, đây là nạn lửa nào? Tinh cầu bị thiêu hủy, thiêu rụi rồi. Giống như mặt trời hiện tại của chúng ta, mặt trời là quả cầu lửa, có thể cháy hết không? Có thể, tương lai nhất định sẽ cháy hết, sau khi cháy hết thì bùng nổ lớn, hệ mặt trời sẽ không còn nữa, thậm chí đến sau cùng, hệ ngân hà cũng nổ tung, cũng không còn nữa, đây là chúng ta nói: nạn nghiêm trọng nhất trong thiên tai. Đại thiên thế giới không phải là một tinh cầu, mặt trời là một tinh cầu, Đại thiên thế giới hỏa, đây là bùng nổ một tinh hệ. 亦應直過聞佛名 “Diệc ưng trực quá văn Phật danh” (cũng nên thẳng qua nghe danh Phật), trong tai nạn lớn như vậy, chư vị nghe được danh hiệu A Di Đà Phật, chư vị sẽ bình an vượt qua. 聞阿彌陀不復退 “Văn A Di Đà bất phục thoái” (nghe A Di Đà không thoái chuyển), chư vị sẽ không thoái chuyển, nghe danh hiệu sẽ không thoái chuyển. 是故至心稽首禮 “Thị cố chí tâm khể thủ lễ” (cho nên chí tâm lễ cúi đầu), bởi vì duyên cớ này, nên dùng tâm chí thành để lễ bái A Di Đà Phật, để lễ bái Thế giới Tây Phương Cực Lạc.

          Chúng ta ở thế giới này ngày nay, những điều chúng ta đã gặp phải, người đã lớn tuổi phải phản tỉnh nhiều hơn. Chúng ta nghĩ xem, năm nay là năm 2016, nghĩ xem trước đây, năm 2006; Lại nghĩ về quá khứ, năm 1996, năm 1986, năm 1976, năm 1966, càng về trước xã hội này càng tốt, càng về sau này, thời gian 10 năm một, 10 năm sau không bằng 10 năm trước. Bây giờ chúng ta không cần phải nhìn 10 năm, mỗi năm mỗi năm đã rất rõ ràng, năm sau không bằng năm trước, làm sao đây? Phải có tâm cảnh giác này! Có tâm cảnh giác này, thì giúp chúng ta sanh khởi tâm xuất ly, chúng ta nhất định phải vượt qua sáu đường luân hồi, chúng ta không luân hồi ở đây nữa, luân hồi này khổ lắm rồi, cõi người khổ, trên trời cũng khổ, đường ác càng khổ. Chư vị khỏi nói nhìn đường khác, chúng ta nhìn đường súc sanh, 50 năm trước những gà vịt mà bán trong chợ, đại khái đều là: lúc thọ mạng của chúng sắp hết mới bị giết, dù sao vẫn nuôi được mấy năm. Bây giờ những gà vịt này: là nuôi trong trại nuôi gà, nuôi ở chỗ nào? Nuôi ở trong nơi vừa chật vừa hẹp, thật đáng thương! Thời gian bao lâu thì bị giết đi? Sáu tuần lễ, lớn rồi. Cho ăn gì? Cho ăn thức ăn gia súc hóa học. Đây là tâm người xấu rồi, đây thật là mưu tài hại mạng. Vì thế ăn uống, sức khỏe xảy ra vấn đề rồi, với rất nhiều thứ: không dám ăn nữa. Hiện tại có thể ăn thịt không? Không thể ăn, ăn rồi đều sẽ sanh bịnh hết sức kỳ quái, thịt đó mang mầm độc. Làm thế nào đây? Chúng ta gặp được Kinh này, chúng ta phải đảnh lễ Kinh này, Kinh này đã cứu chúng ta, chúng ta đã được cứu, một lòng thật tin thật nguyện, thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Bất luận chúng ta ở trong hoàn cảnh nào, vào thời nay đại phú đại quý cũng không được, quý mà không an, giàu mà không vui. Người của 40-50 năm trước, người phú quý có an vui, ngày nay không có an vui. Thật sự nói, tự do, hạnh phúc, vui vẻ của con người, người nghèo cũng có, người bần tiện cũng có, người phú quý không có. Vì vậy chúng ta phải nghiêm túc quan sát.

          Chư vị trong tin tức báo cáo, báo chí, những phương tiện truyền thông, mỗi ngày trên địa cầu xảy ra bao nhiêu tai nạn! Mà còn tháng sau nghiêm trọng hơn tháng trước, thậm chí: tuần sau nghiêm trọng hơn tuần trước, vậy còn không nguy sao? Cuối thế kỷ trước, những năm 1980, những năm 1970, trên thế giới này còn có mấy người có danh tiếng, còn có mấy người thật sự có học vấn, có đức hạnh, nước ngoài cũng có. Giống như ông Toynbee đã nói, 解決二十一世紀的社會問題 “giải quyết nhị thập nhất thế kỉ đích xã hội vấn đề” (giải quyết vấn đề của xã hội thế kỷ 21), chính là vấn đề ngày nay, vấn đề mà chúng đang gặp phải, 只有中國孔孟學說跟大乘佛法 “chỉ hữu Trung Hoa Khổng Mạnh học thuyết cân Đại thừa Phật Pháp” (chỉ có học thuyết Khổng Mạnh và Phật Pháp Đại thừa). Tôi tin rằng người nước Anh, bây giờ người nước Anh đã yêu cầu học sinh toàn quốc, học sinh Tiểu học, học sinh Trung học, học sinh Đại học: học văn hóa Trung Hoa. Không chỉ là làm việc này, còn có thông tin, chúng tôi nhìn thấy được, tất cả trường học, trong bài khóa Đại học, Trung học và Tiểu học, lưu thông giáo nghĩa Kinh Phật vào trong đấy rồi. Có người nói với tôi, khả năng đều là chịu ảnh hưởng của ông Toynbee, ông Toynbee sanh ra ở Luân Đôn, là người Anh, người Anh rất tôn trọng ông ấy. Văn hóa truyền thống có thể cứu đất nước, có thể cứu thế giới, được mấy người phát tâm học tập? Người thật sự phát tâm học tập, chúng ta biết đó là Bồ-tát tái lai, đó không phải là người phàm. Họ đến để làm gì? Họ đến để cứu thế. Nước Anh dẫn đầu, họ có sức ảnh hưởng ở Châu Âu. Chúng ta phải xem trọng, chúng ta phải nỗ lực, đến thế gian này làm một sự nghiệp lớn, đến để cứu thế, cứu văn hóa truyền thống, cứu nhân dân toàn thế giới. Duyên này cũng không thể nghĩ bàn. Đây là việc tốt, nhưng đừng đặt trong tâm, đặt trong tâm, thì tương lai hai đường trời người, là nơi chư vị đi đến; Đừng đặt trong tâm, nhất tâm niệm A Di Đà Phật, sau khi làm xong sự việc này, đến Thế giới Cực Lạc thân cận A Di Đà Phật, thì tốt! Thời gian hôm này hết rồi, chúng ta học đến đây thôi.

(Hết tập 331)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0