TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 25: CHÁNH NHÂN VÃNG SANH:
Nhân Chính Của Vãng Sanh
Tập 332
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà
HongKong.
Thời gian: Ngày 13 tháng 5 năm 2016.
Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng
học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy
y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già,
chư chúng trung tôn” (3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 786,
hàng thứ năm từ trái sang, khoa tiếp theo đây: 往生正因 “Vãng sanh Chánh nhân” (Nhân chính của vãng sanh), phẩm thứ 25. Chúng tôi mời
xem Chú Giải của Niệm lão: 前品 “Tiền phẩm”
(Phẩm trước), là phẩm thứ
24, 三輩往生,主要顯往生後之位次,而未廣論往生之因行。故於本品增廣之 “Tam Bối Vãng Sanh, chủ yếu hiển vãng sanh hậu chi
vị thứ, nhi vị quảng luận vãng sanh chi nhân hạnh. Cố ư bổn phẩm tăng quảng chi” (Ba Bậc
Vãng
Sanh,
chủ yếu hiển bày vị thứ sau khi vãng
sanh, mà chưa bàn rộng
về nhân hạnh của vãng sanh. Nên đến phẩm này mở
rộng thêm điều đó),
phải bổ sung điều này, 名為往生正因 “danh vi Vãng Sanh Chánh Nhân” (tên là Chánh Nhân Vãng Sanh). 此兩品互作經緯,彼此涵攝 “Thử lưỡng phẩm hỗ tác
kinh vĩ, bỉ thử hàm nhiếp”
(Hai phẩm này cùng xây trục chính yếu, bao hàm thu nhiếp lẫn nhau). Hai phẩm Kinh này: là đức Phật
Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta, làm thế nào mới có thể: vãng sanh đến Thế giới
Tây Phương Cực Lạc, có liên quan rất lớn. Thế giới Cực Lạc có bốn độ ba bậc
chín phẩm, phẩm trước nói rất nhiều, đã nói hết cho chúng ta về những phẩm vị
này rồi, ở phẩm này phải bổ sung: chính là chư vị tu như thế nào, chư vị phải đầy
đủ điều kiện nào: mới có thể vãng sanh, chúng ta liền hiểu được sự quan trọng của
phẩm này. 蓋前品三輩往生者之所行,亦皆是往生正因。本品中所示之正因,其果亦即是前品之三輩 “Cái tiền phẩm
Tam bối vãng sanh giả chi sở hành, diệc giai thị vãng sanh chánh nhân. Bổn phẩm trung sở thị chi
chánh nhân, kì quả diệc tức thị tiền phẩm chi Tam bối” (Đại khái phần sở hành của ba
bậc người vãng sanh ở phẩm trước, cũng đều là nhân chính của vãng sanh. Chánh
nhân được nêu lên trong phẩm này, quả của nhân này cũng chính là ba bậc của phẩm
trước). Tam bối có
liên quan vô cùng mật thiết với chánh nhân, phía trước là nhân, phẩm này chính
là quả, phẩm này là nhân, phẩm trước là quả, vì thế quan hệ vô cùng chặt chẽ. Chúng
ta muốn cầu vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì phẩm Kinh này đặc biệt
quan trọng.
Chúng ta tiếp tục xem. 又本品所示諸因,多契於《觀經》之淨業 “Hựu bổn phẩm sở thị chư nhân, đa khế ư Quán Kinh chi Tịnh
nghiệp” (Và các nhân
được nêu trong phẩm này, phần lớn hợp với Tịnh nghiệp của Quán Kinh). Tịnh nghiệp được nói trong:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, đều ở ngay trong phẩm này. Trong Quán Kinh nói, 生彼國者,當修三福 “sanh bỉ quốc giả, đương tu Tam Phước” (người sanh cõi kia, phải tu
Tam Phước), đây là phần
nổi tiếng nhất trong Quán Kinh, gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước. Chúng ta nhất định
phải làm được ba việc này, không làm được ba việc này: thì không thể vãng sanh.
Tại sao vậy? Bởi không phù hợp với điều kiện vãng sanh. Ba điều kiện này trích
ra dưới đây, Tam Phước đó là, 一者,孝養父母,奉事師長;慈心不殺,修十善業 “nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng; Từ tâm
bất sát, tu Thập Thiện nghiệp” (thứ
nhất là Hiếu dưỡng cha mẹ, Phụng sự sư trưởng; Từ tâm không giết, Tu Thập Thiện
nghiệp), đây là Căn bản
giới. Giới luật trong nhà Phật rất nhiều, căn bản là ba điều này, đặc biệt là
muốn cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc, mà không có ba điều này thì không thể vãng
sanh. Thứ nhất, Hiếu Dưỡng Phụ Mẫu, chúng ta có làm được hay chưa? Hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, kính với thầy, phải hiếu với cha mẹ, trên thực tế
là một ý nghĩa, hoàn toàn tương đồng, không tách được phụ mẫu và sư trưởng. Hiếu
dưỡng phụ mẫu: là rễ của văn hóa truyền thống Trung Hoa, phụng sự sư trưởng: là
gốc của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Đây là dùng thực vật để làm ví dụ, giống
một cây có rễ, rễ đây chính là hiếu, cây có gốc, gốc chính là thân chính của
cây, cành lá đều là mọc ra từ đây, đó gọi là gốc, dùng cây để làm ví dụ. Gốc rễ
tương đồng, gốc rễ là một, không thể không biết, không thể không làm được.
Tiếp theo, mở rộng hiếu kính ra: chính
là Từ tâm bất sát, không sát sanh. Tu Thập Thiện Nghiệp, mười điều trong Thập
Thiện nghiệp, điều thứ nhất chính là không sát sanh, thứ hai không trộm cướp, thứ
ba không tà dâm, thứ tư không vọng ngữ, thứ năm không nói lưỡi đôi chiều, thứ
sáu không nói lời ác, thứ bảy không thêu dệt, thứ tám không tham, thứ chín
không sân, thứ mười không si. Thông thường chúng ta gọi đây là: thân ba, khẩu bốn,
ý ba, ba điều giới thuộc về thân: không giết, không trộm cướp, không dâm; bốn
điều giới thuộc khẩu, miệng là dễ tạo nghiệp nhất, vì thế có bốn điều; ý là khởi
tâm động niệm, cũng có ba điều: tham, sân, si. Muốn tu Thập Thiện nghiệp này, hiếu
thân tôn sư là điều kiện đầu tiên, chúng ta phải tận hiếu đạo. Thân thể này của
chúng ta có được từ nơi cha mẹ, cha mẹ nuôi dạy chúng ta không dễ dàng, cha mẹ
tuổi cao rồi, phải hiếu kính cha mẹ, phải để cho cha mẹ: có tuổi già hạnh phúc
vui vẻ, đây là hạnh hiếu của con cháu với cha mẹ. Thầy cho chúng ta huệ mạng, trí
huệ của chúng ta, học thuật của chúng ta, là do thầy dạy bảo, ân như cha mẹ, không
thể không kính. Lễ xưa của Trung Hoa, ân nhân lớn nhất của một người thì có hai:
cha mẹ và thầy cô, đối với thầy giống như đối với cha mẹ. Học trò phải chăm sóc
thầy cả đời, cũng giống như chăm sóc cha mẹ vậy, tận hiếu đạo đối với thầy. Do
đó Trung Hoa có hiếu đạo, có sư đạo, trong hiếu đạo bao gồm hai điều này. Con của
thầy có liên quan đến chính mình, là như anh em ruột vậy. Đây là ý gì? Con của
thầy ở đời này: chúng ta đều phải chăm sóc, học trò cũng phải chăm sóc, họ có
khó khăn thì giúp họ giải quyết, họ nghèo khổ thì phải cung cấp ăn mặc cho họ. Người
như vậy là không quên gốc. Vì thế thầy trò như cha con, người làm thầy dạy học
trò, còn phải nghiêm túc hơn dạy con của mình. Tại sao vậy? Bởi con của mình: cả
đời không thể phát đạt cũng không sao, trong số học trò có người đại phú đại
quý, thì con cháu chính mình có học trò chăm sóc. Đây là đạo nghĩa, mấy ngàn
năm nay ở Trung Hoa, đại chúng trong xã hội đều có thể tuân thủ. Do đó thầy yêu
thương che chở học trò, bỏ công sức ra cho học trò, không khác gì so với cha mẹ
ruột, chúng ta không thể không biết.
Muốn học Phật, tâm của Phật là từ bi, từ
bi là tâm yêu thương, từ là giúp chúng sanh đạt được niềm vui, bi là giúp chúng
sanh rời xa đau khổ, lìa khổ được vui. Không nói “ái”, tại sao vậy? Bởi trong
“ái” có tình, khiến người ta rất dễ nghĩ đến có tình chấp. Nhà Phật không có
tình chấp, đoạn dứt tình chấp rồi, vì vậy gọi là từ bi. Ái của từ bi này sanh
ra từ đâu? Sanh ra từ trong trí huệ, đó không phải tình cảm, đó là trí huệ, ái
sanh ra từ trong trí huệ gọi là từ bi, ý nghĩa khác nhau. Từ bi biểu hiện ở không
giết, không hại chúng sanh, yêu thương che chở chúng sanh. Điều này rất phổ biến
với Đệ tử Phật, không sát sanh, không những không sát sanh, mà còn phải thường
xuyên phóng sanh. Phóng sanh là cứu hộ sinh mạng của chúng sanh, là việc tốt, việc
tốt đứng đầu trong các việc tốt. Phóng sanh cũng phải có trí huệ, không có trí
huệ thì bị người ta gạt. Vào những ngày lễ vía của Phật Bồ-tát nào, không nên tổ
chức phóng sanh quy mô lớn. Ở Hongkong có, tôi cũng từng tham gia mấy lần. Đến
lễ Phật đản, lễ vía Bồ-tát Quán Âm, mọi người phóng sanh, những người săn bắt động
vật: sáng sớm ngày hôm đó, thì họ đi ra ngoài đánh bắt. Tại sao vậy? Bởi hôm
nay có mối làm ăn. Những người phóng sanh như vậy thì đã trở thành hại sanh mạng
rồi, nếu chư vị không phóng sanh thì người ta không đi lên núi để bắt, chư vị
muốn phóng sanh, họ nghĩ đủ các cách đi đánh bắt, vậy ngược lại đã hại chúng
sanh, đây không phải phóng sanh, là hại sanh. Nên phóng sanh thế nào? Không phải
ngày lễ, tùy duyên tùy phận. Hôm nay đi chợ mua rau, nhìn thấy cá, nhìn thấy động
vật, còn có một số gà vịt bị đem bán, nhiều cá, còn có chim nhỏ, chúng không phải
vì chúng ta phóng sanh mà bị bắt, vậy thì đúng rồi. Ngày nay chúng ta nhìn thấy
rất nhiều chùa: [làm] không đúng pháp, muốn phóng sanh, trước đó một tuần, thì
thông báo với những người đánh bắt, chúng tôi muốn bao nhiêu, các ông nhanh
chóng đi bắt. Sai rồi! Số vật bị đánh bắt mà được phóng ra đó bị chư vị hại, không
cảm ơn chư vị, mà oán hận chư vị. Do đó phải hiểu được lý; sự phải có phương tiện.
Mỗi ngày đi chợ mua rau, thì thường xuyên phóng sanh. Không nên vào những ngày
vía của Phật Bồ-tát, đó là biểu diễn, đó là thể hiện, đó là tạo tội nghiệp, việc
phóng sanh đó không có công đức, không thể không biết.
Tu Thập Thiện nghiệp, Phật chỉ nói ra
mười điều, không hề nói nhiều, ghi nhớ dễ dàng, để chúng ta thời thời khắc khắc,
gặp được duyên này, liền biết: không được phạm mười điều này, đặc biệt là trong
ngôn ngữ, sâu hơn một tầng là ở chỗ khởi tâm động niệm. Không được động ý niệm
nào? Không được động tâm tham, không được động sân hận, nói cách khác không được
nổi giận, không được động ngu si. Trong tâm không có tham sân si, người đó tự tại,
người đó có phước báo, không những có phước báo, mà chắc chắn họ cũng có trí huệ,
có thể tu tốt Thập Thiện nghiệp. Đây là điều thứ nhất, [là] phước báo trời người.
Đây không chỉ Đệ tử nhà Phật, mà đây là Phật từ bi chỉ dạy cho tất cả chúng
sanh, đều phải tuân thủ. Người học Phật không có điều này, thì không thể thọ
Tam Quy Ngũ Giới. Thọ Tam Quy Ngũ Giới là Đệ tử nhà Phật, Đệ tử nhà Phật là có
điều kiện. Người thế nào? Phải là Người thiện nam Người thiện nữ, Phật thu nhận
họ; không phải Người thiện nam Người thiện nữ, thì Phật không thu nhận. Do đó
chư vị nếu muốn: nương Phật làm thầy, xuống tóc xuất gia, Phật hỏi chư vị điều
kiện xuất gia, chính là bốn câu phía trước, chư vị có đầy đủ hay không? Chư vị
có hiếu với cha mẹ hay không? Có kính thầy hay không? Có tu Thập Thiện hay
không? Nếu không phải, không phải thì không thể học Phật, trước tiên phải làm tốt
những điều này, sau đó mới đến học Phật, mới vào trong cửa Phật.
Đệ tử tại gia, thọ trì Tam Quy, đầy đủ
các giới, các giới đây là Ngũ Giới. Ngũ Giới, không sát sanh, không trộm cướp, không
tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Tu Ngũ Giới Thập Thiện, là giới căn bản
của Đệ tử tại gia. Nếu xuất gia, thế thì tu Sa-di Luật nghi, có 10 điều giới 24
môn oai nghi. Với quy củ, không thể không giữ quy củ, phải trì giới, phải giữ
quy củ. Vì thế điều thứ hai này, 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀 “thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới,
không phạm oai nghi).
Không có điều thứ nhất thì không thể có điều thứ hai, điều thứ hai là lấy điều
thứ nhất làm cơ sở, điều thứ ba lại lấy điều thứ hai làm nền tảng, từ từ từng
bước đi lên. Ba câu của điều thứ hai là Tiểu thừa, với Tiểu thừa và trời người,
với người là điều thứ nhất, bốn câu. Với cõi trời, điều thứ hai có thể sanh lên
trời. Còn điều thứ ba? Điều thứ ba thì có thể vãng sanh. Chư vị muốn niệm Phật
cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì phải đầy đủ điều thứ ba.
Việc đầu tiên của điều thứ ba: 發菩提心 “phát Bồ-đề tâm” (phát tâm Bồ-đề), ở phẩm trước giảng rất nhiều,
giảng rất tường tận. Tâm Bồ-đề, Bồ-đề là Giác ngộ, chính là trong sách Đại Học:
của Nho gia đã nói đến, “Trí tri”, Cách vật Trí tri, “Trí tri” là tâm Bồ-đề. Tâm
Bồ-đề nhất định phải buông xuống dục vọng, cho nên Cách vật Trí tri, Thành ý
Chánh tâm chính là tâm Bồ-đề, nói rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Đây là việc đầu
tiên. Thứ hai là 深信因果 “Thâm tín nhân quả” (Tin sâu nhân quả). Nhân quả ở đây không phải nhân
quả thông thường, nhân quả thông thường đã có ở điều đầu tiên rồi, nhân quả này
là nói về Phật Pháp Đại thừa, đặc biệt là tu Pháp môn Tịnh Độ, tin sâu đối với
Thế giới Tây Phương Cực Lạc, không có nghi ngờ, tin sâu đối với A Di Đà Phật, thật
mong muốn vãng sanh, chính là tin sâu nguyện thiết, chúng ta muốn cầu sanh Thế
giới Cực Lạc, thì điều kiện vãng sanh Thế giới Cực Lạc: của chư vị đã đầy đủ rồi.
Độ sâu cạn của công phu niệm Phật, đó là liên quan đến phẩm vị cao thấp khi vãng
sanh đến Thế giới Cực Lạc. Điều kiện để thật sự vãng sanh chính là tin sâu, không
có nghi ngờ, nhất tâm nhất ý niệm niệm tưởng nhớ Thế giới Cực Lạc, niệm niệm tưởng
nhớ A Di Đà Phật. 讀誦大乘 “Độc tụng Đại thừa”(Đọc tụng Đại thừa), phải học Kinh điển Đại thừa. Bộ
Kinh này của chúng ta thuộc về Kinh Đại thừa, cả đời chúng ta chỉ đọc bộ Kinh
này được không? Được, không vấn đề. Bộ Kinh này giúp chư vị nhận biết Thế giới
Cực Lạc, giúp chư vị hiểu rõ Thế giới Ta Bà, chư vị đã sáng tỏ Thế giới Ta Bà
là thế nào, chư vị nhận biết Thế giới Cực Lạc rồi, thì hết sức tự nhiên chư vị
sẽ buông xuống Thế giới Ta Bà, cầu sanh Thế giới Cực Lạc. Tam phước này quan trọng!
Thế giới Cực Lạc: là nơi phước báo lớn
nhất trong vũ trụ, nếu không phải người phước đức lớn thì họ không đến được. Nhất
tâm tín nhạo, tín là tin tưởng, nhạo là ưa thích, ưa thích vãng sanh đến Thế giới
Cực Lạc, người niệm Phật như vậy, chính là người phước báo lớn bậc nhất: trong
thế gian và xuất thế gian. Không có phước báo lớn thì họ không muốn niệm, họ
không niệm liên tục được. Người phước báo lớn, thì buông xuống vạn duyên, nhất
tâm chuyên niệm. Như lão Hòa thượng Hải Hiền, 20 tuổi xuất gia, Sư phụ chỉ dạy
ngài niệm Phật, ngài tin tưởng, ngài không nghi ngờ. Ngài vãng sanh lúc 112 tuổi,
20 tuổi bắt đầu niệm, đã niệm 92 năm, tự tại vãng sanh, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn
ngài. Do vãng sanh ban đêm, nên không ai biết, người trong chùa đều đi ngủ cả, ngài
đã đi rồi. Đến sáng sớm ngày hôm sau, cùng đến, mọi người đến xem, lão Hòa thượng
đã vãng sanh rồi. Nhớ lại đêm hôm qua, đêm hôm qua, ngài niệm Phật vô cùng hăng
say, bình thường lão Hòa thượng niệm Phật không đánh khánh, đêm hôm qua lão Hòa
thượng niệm Phật đánh khánh, hơn nữa thời gian rất lâu, người ta đã ngủ rồi,
ngài vẫn đang niệm. Đó là tấm gương của chúng ta.
Lão Hòa thượng Hải Hiền không biết chữ,
chưa từng đi học, cả đời chưa từng đọc bộ Kinh nào, ngài chỉ một câu A Di Đà Phật,
đã niệm Nam Mô A Di Đà Phật cả đời. Niệm đến công phu nào? Nói với chư vị, Lý
Nhất Tâm Bất Loạn. Lý Nhất Tâm Bất Loạn của Tịnh Tông, tương đương với đại triệt
đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh của Thiền Tông, nói cách khác, ngài giống như ngài
Huệ Năng. Ngài Huệ Năng cũng chưa từng đi học, cũng không biết chữ, đại triệt đại
ngộ, minh Tâm kiến Tánh trong Thiền Tông, ngài thành Phật rồi. Ngày nay Tịnh Độ
Tông đã xuất hiện một bậc, cũng là không biết chữ, chưa từng đi học, chứng đắc
Lý Nhất Tâm Bất Loạn, như Đại sư Huệ Năng vậy. Trong cảnh giới đó, ngài đã khai
trí huệ rồi, ngài biết tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Chư vị đến hỏi
ngài, ngài đều có thể nói với chư vị. Nhưng mà lão Hòa thượng, năm xưa thầy của
ngài căn dặn ngài: còn có một câu nói, khuyên ngài cứ niệm tiếp mãi một câu Phật
hiệu, đó gọi là nhất hướng chuyên niệm, và dạy ngài: sáng tỏ rồi, không được
nói lung tung, không được nói. Ngài ghi nhớ rồi, tuy rằng đại triệt đại ngộ,
cũng không ai biết, [vì] ngài không nói. Chúng ta đã có tấm gương, đã có mô phạm,
noi gương theo lão Hòa thượng Hải Hiền, buông xuống vạn duyên, từ sáng đến tối
ngày đêm không gián đoạn, chỉ một câu Phật hiệu. Ngoài câu Phật hiệu này ra, thì
đừng nghĩ điều gì cả, đừng chấp trước điều gì, thì tốt! Nhất định thành tựu.
Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 如此三事,名為淨業 “như thử tam sự, danh vi Tịnh nghiệp” (như ba việc này, gọi là Tịnh
nghiệp). Phía trước
nói ba sự việc, hiếu dưỡng phụ mẫu, thọ trì Tam Quy, phát tâm Bồ-đề, ba sự việc
này, gọi là Tịnh nghiệp. 佛告韋提希 “Phật cáo Vi Đề Hy” (Phật nói với Vi Đề Hy), đây là lời trong Quán Kinh, 汝今知不?此三種業,乃是過去、未來、現在三世諸佛淨業正因 “Nhữ kim tri
phủ? Thử tam chủng nghiệp, nãi thị quá khứ, vị lai, hiện tại
Tam thế chư Phật Tịnh nghiệp chánh nhân” (Nay bà biết không? Ba loại
nghiệp này, chính là chánh nhân Tịnh nghiệp của chư Phật ba đời quá khứ, vị
lai, hiện tại).
Câu nói này quan trọng! Ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lại, Phật quá khứ, Phật
hiện tại thành, cho đến Phật tương lai sắp thành, chánh nhân thành Phật chính
là ba điều này. Ba điều này quan trọng, ba điều này là Căn bản giới của chúng
ta. Phải ghi nhớ: điều thứ nhất trong căn bản giới, là hiếu dưỡng phụ mẫu. Nếu
không hiếu với cha mẹ, không tôn kính thầy, thì chư vị xong rồi, chư vị hoàn
toàn hết rồi, chư vị tu Thập Thiện nghiệp, chư vị tu Tam Quy các giới, chư vị học
tập Kinh điển Đại thừa, đều không thể thành tựu. Tại sao vậy? Bởi giống như cây
không có rễ, làm sao có thể sinh ra cành lá? Làm sao có thể nở hoa kết trái? Chư
vị nói xem điều này quan trọng biết bao.
Lại nói, lời trong Quán Kinh đó, 復有三種眾生,當得往生 “phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc vãng sanh” (lại có ba hạng chúng sanh,
chắc chắn sẽ được vãng sanh). Còn có ba hạng chúng sanh, 一者,慈心不殺,具諸戒行 “Nhất giả, từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh” (Hạng thứ nhất, tâm từ không
giết hại, đủ các giới hạnh).
Người giữ giới, người có tâm từ bi, người không sát hại chúng sanh, có thể giữ
giới. 二者,讀誦大乘方等經典 “Nhị giả, độc tụng Đại thừa Phương Đẳng Kinh điển ” (Hạng thứ hai, đọc tụng Kinh
điển Đại thừa Phương Đẳng).
Chúng ta nói: họ có định khóa, họ có tán khóa. Định khóa chính là mỗi ngày nhất
định phải đọc, thông thường tu hành, người niệm Kinh Di Đà nhiều nhất, có người
niệm Kinh Kim Cang, có người niệm Kinh Địa Tạng, có người niệm Kinh Dược Sư, có
người niệm Kinh Pháp Hoa, cũng có người niệm Kinh Vô Lượng Thọ, những Kinh điển
Đại Tiểu thừa đó, chư vị thích Kinh nào, đều có thể đưa vào định khóa, mỗi ngày
đọc một biến, đọc ba biến, đọc bảy biến, đọc mười biến, xem thời gian thích hợp
của chính mỗi người, mỗi ngày không thiếu. Người đọc tụng những Kinh điển ấy, nếu
họ dùng công đức đó hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, thì cũng được. 三者,修行六念 “Tam giả, tu hành Lục niệm” (Hạng thứ ba, tu hành Lục niệm), đây cũng là điều Phật nói với
chúng ta ở trong Kinh, sáu niệm này, phía trước là Tam Bảo, niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tỳ-kheo Tăng, phía sau là niệm Thiên, niệm Giới, sau cùng là niệm
Thí, cũng là thời thời khắc khắc nhắc nhở chính mình. Tu
hành sáu niệm này, 迴向發願,願生彼國。具此功德,一日乃至七日,即得往生。 “hồi hướng phát nguyện, nguyện
sanh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật nãi chí thất nhật, tức đắc
vãng sanh” (hồi hướng
phát nguyện, nguyện sanh cõi ấy. Đủ công đức này, một ngày cho đến bảy ngày, liền
được vãng sanh).《觀經》所示,與本品內容,多相吻合 “Quán Kinh sở thị, dữ bổn phẩm nội dung, đa tương vẫn hợp” (Điều trình bày trong Quán
Kinh, và nội dung phẩm này, phần lớn ăn khớp nhau). Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói
về: phương pháp vãng sanh, nói rất nhiều, cơ bản tương đồng với phẩm: 往生正因品 “Vãng Sanh Chánh Nhân phẩm”(phẩm Chánh Nhân Vãng Sanh) này của chúng ta.
Đoạn tiếp theo đây: 三類差別 “tam loại sai biệt” (khác biệt của ba hạng). Ba hạng chính là như vừa giảng
ba hạng giảng phía trước, hạng thứ nhất là do giữ giới, hạng thứ hai là do đọc
kinh, hạng thứ ba là do tu hành Lục niệm, đem công đức đó hồi hướng cầu sanh Tịnh
Độ, thì đều có thể vãng sanh. Chúng ta xem ba hạng sai biệt. Khoa nhỏ tiếp
theo: 盡持經戒二利得生 “tận trì Kinh Giới nhị lợi đắc sanh” (hết lòng trì Kinh giữ giới lợi
người và mình thì được sanh),
chia thành hai khoa nhỏ, thứ nhất là: 勝因 “thắng nhân” (nhân thù thắng), thứ hai là: 妙果 “diệu quả”
(quả vi diệu), trong đây lại
chia thành sáu đoạn nhỏ, 聞持本經 “văn trì bổn Kinh” (lắng nghe gìn giữ Kinh này). Mời
xem Kinh văn:
【復次阿難。若有善男子。善女人。聞此經典。受持讀誦。書寫供養。】“Phục thứ A Nan.
Nhược hữu Thiện nam tử, Thiện nữ nhân: Văn thử Kinh điển, thọ trì độc tụng, thư
tả cúng dường.” (Lại
nữa A Nan, nếu có Người thiện nam, Người thiện nữ, nghe được Kinh điển này, mà
thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường).
Đây là nói Kinh Vô Lượng Thọ, 『善男子、善女人』“Thiện nam tử, Thiện nữ nhân” ấy có duyên, gặp được bộ Kinh
này. Gặp được bộ Kinh này, trên thực tế mà nói, đó là duyên rất thì thắng! Tại
sao vậy? Bởi bộ Kinh này là do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập, hội tập được tốt,
thật sự gọi là không chê vào đâu được, nhìn không ra một chút tỳ vết nào của hội
tập, giống như đích thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói vậy. Đại trí huệ, đại
học vấn, đại công đức như vậy! Không phải người phàm có thể làm được. Thứ hai
là Chú Giải của ngài Hoàng Niệm Tổ, ngài Hoàng Niệm Tổ cũng không phải người
phàm, Kinh là do hội tập, thầy của ngài hội tập, Chú là ngài đã dùng 83 loại
Kinh Luận, 110 loại: Chú Sớ của Tổ sư Đại đức, để giải thích bộ Kinh này, giải
thích được vô cùng vi diệu. Không phải do ngài giải thích, mà là do các Kinh
nói như vậy, do Tổ sư Đại đức nói như vậy, khiến người không thể không tin, không
thể không bội phục bộ Chú Giải này. Quá tuyệt diệu rồi! Hai bộ này đều là sau
thế chiến thứ hai mới lưu thông, thời đại chiến tranh thế giới thứ hai đó, trên
thế gian không có bộ Kinh này, cũng không có bộ Chú này, người tại gia xuất gia
học Phật lúc bấy giờ, chưa từng thấy qua. Việc này thật sự, chúng ta nói theo
hoàn cảnh khách quan, là Kinh đứng đầu trong các Kinh của đức Phật! Hay đến tột
cùng! Tuyệt diệu đến vô cùng! Trong đời này có thể gặp được, là người đại phước
báo! Chư vị làm sao lại gặp được bộ Kinh này? Làm sao lại gặp được bộ Chú Giải
này? Chúng ta đối với chính mình phải cảm thấy may mắn, quá may mắn rồi, thật sự
là trúng giải đặc biệt. Do đó phải hiểu được điều này, phước báo của chúng ta, người
xưa không sánh được với chúng ta, họ không có duyên phận nhìn thấy, chúng ta
ngày nay có duyên, ngày ngày đọc tụng.
Phần Chú Giải này của Niệm lão, 右文乃本品之首段。明第一類正因,發心念佛,兼受持經戒,自他二利 “Hữu văn nãi bổn phẩm chi thủ đoạn. Minh đệ nhất loại
chánh nhân, phát tâm niệm Phật, kiêm thọ trì Kinh Giới, tự tha nhị lợi” (Văn trên là đoạn đầu phẩm
này. Nói rõ loại chánh nhân đứng đầu, là phát tâm niệm Phật, kiêm thọ trì Kinh
Giới, lợi cả người và mình),
người như vậy thì 得生 “đắc sanh”
(được sanh), thì có thể
sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đoạn Kinh văn này, trong năm bản dịch, đều
thuộc bản Tống Dịch, Kinh Vô Lượng Thọ từ Ấn Độ truyền qua, một loại sau cùng,
là bản Tống Dịch. Chúng ta xem lời chú của Niệm lão, chú tuyệt diệu. 第一類正因,共有六句 “Đệ nhất loại chánh nhân, cộng hữu lục cú” (Loại chánh nhân thứ nhất, tổng
cộng có sáu câu).
Câu thứ nhất 受持本經 “thọ trì bổn Kinh” (thọ trì Kinh này). Câu thứ hai 求生淨土 “cầu sanh Tịnh Độ” (cầu sanh Tịnh Độ). Câu thứ ba 發菩提心 “phát Bồ-đề tâm” (phát tâm Bồ-đề). Câu thứ tư 嚴持諸戒 “nghiêm trì chư giới” (nghiêm trì các giới). Câu thứ năm 饒益有情 “nhiêu ích hữu tình” (nhiều lợi ích hữu tình). Câu thứ sáu憶佛念佛 “ức Phật niệm Phật” (nhớ
Phật niệm Phật).
Kinh văn đó là ở trong đoạn này.
Chúng ta xem thứ nhất. 《觀經》曰:讀誦大乘。《觀經約論》云 “Quán Kinh viết: Độc
tụng Đại thừa.
Quán Kinh Ước Luận vân” (Quán Kinh có ghi: đọc tụng Đại thừa. Quán Kinh Ước Luận nói rằng), Ước Luận là chú giải, trong
chú giải nói, 不讀大乘則不明佛心。不明佛心,則不契佛智。不契佛智,縱生彼國,不得見佛 “bất độc Đại thừa tắc bất minh Phật tâm. Bất minh Phật
tâm, tắc bất khế Phật trí. Bất khế Phật trí, túng sanh bỉ quốc, bất đắc kiến Phật” (không đọc Đại thừa thì không
rõ Phật tâm. Không rõ Phật tâm, thì không khế hợp Phật trí. Không khế hợp Phật
trí, thì dẫu sanh nước kia, cũng không được thấy Phật). Nói rất rõ ràng, việc đầu
tiên phải đọc Đại thừa. Kinh này là Đại thừa ngay trong Đại thừa, tại sao vậy?
Bởi bộ Kinh này là có thể khiến cho đời này của chúng ta: chứng đắc Phật quả
viên mãn, thế thì trên cả Đại thừa, hơn nữa có thể bảo đảm chúng ta một đời
thành tựu, tuyệt không cần phải đợi đến đời sau. Đồng thời trên Kinh đã nói rất
rõ ràng, cho dù đời này tạo tác rất nhiều tội nghiệp, có thể sám hối, có thể
quay đầu, một lòng chuyên niệm, vẫn là chắc chắn được sanh. Nói cách khác, niệm
câu Phật hiệu này, xác thực đây không phải giả, câu Phật hiệu này tiêu nghiệp
chướng, tội nặng Ngũ nghịch Thập ác từ vô thỉ kiếp đến nay, tất cả đều có thể
tiêu trừ, tại sao chư vị không niệm? Đọc bộ Kinh này, niệm A Di Đà Phật này, đều
tiêu trừ được. Sách Ước Luận nói rất hay, không đọc Đại thừa, chư vị không biết
Phật tâm. Không rõ Phật tâm, chư vị không khế hợp Phật trí, trí huệ của chư vị
không tương ưng với Phật trí. Chư vị đọc Kinh, chư vị nghe Kinh, dần dần nghe
hiểu rồi, trí huệ của chư vị tương ưng với Phật trí, vậy thì có thể vãng sanh. Chỗ
này nói tiếp, không khế hợp trí của Phật, dẫu cho sanh đến nước kia, cũng không
được thấy Phật.
今經首云 “Kim Kinh thủ vân” (Kinh này đầu tiên nói), câu đầu tiên nói, 聞此經典,受持讀誦。此經即此《佛說大乘無量壽莊嚴清淨平等覺經》 “văn thử Kinh điển, thọ trì đọc tụng. Thử Kinh tức thử Phật
Thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh” (nghe Kinh điển này, thọ trì đọc
tụng. Kinh này tức là Kinh Phật Thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác đây). Bộ
Kinh này là 淨土第一經 “Tịnh Độ đệ nhất Kinh” (Kinh đứng đầu của Tịnh Độ), cũng chính là trung bản Hoa
Nghiêm: mà Đại đức xưa đã nói. Tiếp sau lại nói, quyển kinh này là đức Phật
Thích Ca Mâu Ni: 獨留於將來經道滅盡之際 “độc lưu ư tương lai Kinh đạo diệt tận chi tế” (đặc biệt lưu lại ở đời tương
lai khi Kinh đạo diệt hết),
Kinh vẫn 住世百歲 “trụ thế bá tuế” (trụ thế trăm năm), 100 năm, 為末後眾生留作津濟者也 “vị mạt hậu chúng sanh lưu tác tân tế giả dã” (giữ lại làm bến bờ cứu tế cho
chúng sanh sau thời Mạt pháp).
Thật khó có! Phật pháp ở thế gian này, dần dần cũng bị tiêu diệt hết, hiện tại
cũng đang bắt đầu diệt rồi, có rất nhiều Kinh bị nhiều người nghi ngờ, không
tin tưởng, nói đó là giả, đây chính là hiện tượng Phật Pháp diệt. Bộ Kinh này
sau khi hội tập, cũng có rất nhiều rất nhiều người, nói Kinh này là giả, không
thể tin tưởng, đây là do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư ngụy tạo, người phản đối, người hủy
báng, trong nước ngoài nước khắp nơi đều có. Chúng tôi đích thân trải qua, ít
nhất có 20 năm, thời gian dài như vậy. Sau cùng được lão Hòa thượng Hải Hiền của
chúng ta: đến làm chứng, chứng minh điều gì? Chứng minh Kinh này là thật, không
phải là giả. Mọi người không còn gì để nói nữa. Thời kỳ Mạt pháp học Phật khó, vô
cùng nhiều chướng duyên, đến chướng ngại chư vị.
Ở Bắc Kinh có Pháp sư Hoằng Lâm, đây
là một vị Đại đức trong nhà Phật, trong mười năm nay, thầy sưu tập vô cùng nhiều
tư liệu, trích dẫn căn cứ Kinh điển để nói: Kinh có thể hội tập. Phật pháp truyền
đến Trung Hoa, năm xưa khi phiên dịch liền có hội tập, làm sao nói không thể hội
tập? Ngay trong các bản hội tập, bộ Kinh này: giống như chính Phật đích thân
thuyết vậy. Ngài hội tập thật hay, không tìm ra chút tỳ vết nào. Chứng minh
Kinh này là chân Kinh, chứng minh Chú Giải này là chánh tri chánh kiến, khiến
chúng ta an tâm. Nhóm người chúng ta đây, 20 năm nay đều y theo Kinh này, có rất
nhiều người đã dao động lòng tin, đã thoái tâm, đổi sang học Pháp môn khác, nhưng
vẫn có không ít người có thể chống đỡ được, tin tưởng, có được lão Hòa thượng
làm chứng cho chúng ta, thì tâm định lại rồi. Lão Hòa thượng trụ thế, không phải
ngài có thọ mạng dài như thế, mà thọ mạng đó của ngài: là do A Di Đà Phật cho
ngài, chính là muốn ngài giúp bộ Kinh này, vào lúc cần thiết, ngài mới xuất hiện,
ngài đến làm sáng tỏ, để mọi người khôi phục lòng tin. Vô lượng công đức! Phật
pháp có diệt, tuổi thọ loài người ở hiện tại, tương lai, thọ mạng là đang giảm
bớt, 100 năm giảm đi một tuổi, Mạt pháp vẫn còn hơn 8000 năm, 8000, 9000 năm, đến
sau cùng thọ mạng của con người, khi bình quân thọ mạng là 10 tuổi, lúc bấy giờ,
người nhìn thấy người không có lòng yêu thương, đều là sân hận, đều là hạ thủ
trước là kẻ mạnh, gọi là kiếp đao binh. Quyển Kinh này vẫn lưu đến 100 năm sau
cùng, trong 100 năm sau cùng đó có thể nhìn thấy được, chính là bộ Kinh, Chú Giải
mà ngày nay chúng ta dùng. Chúng ta tin rằng theo bộ Kinh này, người lúc bấy giờ
gặp được đều có thể vãng sanh. Sau 100 năm Kinh này không còn nữa, trên bầu trời
chỉ hiện ra: sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, có người nhìn thấy sáu chữ này, niệm
sáu chữ này đều có thể vãng sanh, công đức không thể nghĩ bàn.
又此經,亦兼指《無量壽經》漢、吳、魏、唐、宋 “Hựu thử Kinh, diệc kiêm chỉ Vô Lượng Thọ Kinh Hán, Ngô,
Ngụy, Đường, Tống”
(Và Kinh này, cũng kiêm chỉ các bản Kinh Vô Lượng Thọ thời nhà Hán, Ngô, Ngụy,
Đường, Tống), năm loại bản
dịch ấy, cũng bao gồm cả bản hội tập và bản tiết lược: của các ngài Vương Long
Thư, Bành Tế Thanh, Ngụy Nguyên, do đó Kinh Vô Lượng Thọ: hiện tại tổng cộng có
chín loại bản. 但能受持,均是正因 “Đãn năng thọ trì, quân thị Chánh nhân” (Hễ thọ trì được, đều là Chánh
nhân). Chín loại
phiên bản này, tùy chư vị dùng bản nào cũng tốt, đều có thể giúp chư vị vãng
sanh, vì thế nói đều là chánh nhân. Cách nói này của Niệm lão thật hay, là viên
mãn. 但此會本,獨稱善本,故持經功德彌勝 “Đãn thử Hội bổn, độc xưng Thiện bổn, cố trì Kinh công đức
di thắng” (Nhưng bản hội
tập này, duy nhất được xưng là thiện bổn, do vậy công đức trì Kinh này càng hơn
hẳn). Công đức thù
thắng nhất, đương nhiên là bản này. Về bản này, chư vị so sánh thì biết được, người
khác nói, họ nói của họ, chúng ta tự mình tìm ra: tất cả chín loại bản này, tỉ
mỉ để xem thử, thì không phải sáng tỏ sao? Đoạn này là nói thọ trì Kinh này. Đoạn
thứ hai tiếp theo 一心求生 “Nhất tâm cầu sanh” (Một lòng cầu sanh). Cầu sanh Tịnh Độ, dùng cách
nào cầu sanh?
【晝夜相續。求生彼剎。】“Trú
dạ tương tục, cầu sanh bỉ sát.”(Ngày đêm liên tục, cầu sanh cõi ấy).
Câu nói này quan trọng. Thật sự
muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, chư vị không thể không phát tâm. Phát tâm gì?
Phát tâm niệm Phật. Niệm Phật không gián đoạn, ban đêm trừ lúc đi ngủ, tỉnh ngủ
rồi thì niệm, ngày đêm Phật hiệu không gián đoạn, ngủ say rồi, Phật hiệu gián
đoạn, tỉnh lại rồi, lập tức tiếp nối. Tại vì sao? Bởi chính là một mục tiêu, cầu
sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Văn tự chú giải của Niệm lão không nhiều, 『晝夜相續』“trú dạ tương tục” (ngày đêm liên tục), 明勇猛精進,無有間斷 “minh dũng mãnh tinh tấn,
vô hữu gián đoạn”
(nói rõ dũng mãnh tinh tấn, không có gián đoạn). 『求生彼剎』“Cầu sanh bỉ quốc” (Cầu sanh cõi kia), 以受持、讀誦、書寫、供養,種種功德,迴向淨土 “dĩ thọ trì, độc tụng, thư tả, cúng dường, chủng chủng
công đức, hồi hướng Tịnh Độ”
(dùng đủ loại công đức của việc thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, để hồi
hướng Tịnh Độ).
Thọ là tiếp nhận, trì chính là duy trì, không đánh mất, ngày đêm liên tục chính
là thọ trì. Đọc tụng, một ngày đọc hai lần, đọc bốn lần, tự mình định ra. Không
đọc được không? Được, lão Hòa thượng Hải Hiền không biết chữ, ngài không hề đọc,
chỉ là một câu Phật hiệu, không gián đoạn câu Phật hiệu này, thì được rồi. Thư
tả, biên chép là lưu thông, lưu thông bản này càng nhiều càng tốt, để mọi người
đều có duyên nhìn thấy. Cúng dường, dùng đọc tụng hồi hướng cúng dường. Thư tả,
biên chép lưu thông, hiện tại đọc tụng dùng đĩa CD, gọi là sách nói, biên chép
thì dùng in ấn, kỹ thuật in ấn phát triển, giá thành sách rất rẻ, vì thế tái bản
số lượng lớn, chọn ra phiên bản tốt nhất để lưu thông số lượng lớn. Thêm một
người đọc tụng, Thế giới này sẽ thêm một phần phước báo. Nơi nào nhiều người niệm
Phật, nơi có nhiều người: đọc tụng Kinh Vô Lượng Thọ, thì nơi đó ít có tai nạn.
Ngay cả tai nạn lớn dẫu cho không thể hóa giải, thì cũng giảm nhẹ. Vì vậy người
đọc tụng, biên chép, thọ trì, có phước báo lớn. Như thế mà hồi hướng Tịnh Độ.
Thứ ba發菩提心 “Phát Bồ–đề tâm” (phát
tâm Bồ-đề). Trong Kinh
văn chỉ một câu. 【發菩提心。】 “Phát Bồ-đề tâm” (phát
tâm Bồ-đề) Trong Chú giải nói, 『發菩提心』“Phát Bồ–đề tâm” (phát tâm Bồ-đề), 因發菩提心,一向專念,乃本經之宗,三輩往生之正軌,故重見於本品 “nhân phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, nãi bổn
Kinh chi tông, Tam bối vãng sanh chi chánh quỹ, cố trùng kiến ư bổn phẩm” (vì phát tâm Bồ-đề, một hướng
chuyên niệm, là tông chỉ của Kinh này, quỹ đạo chính của ba bậc vãng sanh, do vậy
thấy lại trong phẩm này),
trong phẩm này chúng ta lại xem thấy nữa, lại đọc thấy Kinh văn ấy. Phát tâm Bồ-đề,
tâm Bồ-đề, tâm chân thành, tâm chân thành là thể của tâm Bồ-đề, tác dụng khởi
lên là Thanh tịnh Bình đẳng Giác, Thanh tịnh Bình đẳng Giác là tự mình thọ dụng,
đại từ đại bi là người khác thọ dụng, với người phải đại từ đại bi, với chính
mình phải Thanh tịnh Bình đẳng Giác, dùng tâm chân thành để tu. 發菩提心,一向專念 “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”(Phát tâm Bồ-đề, một hướng
chuyên niệm), là nguyên tắc
chỉ đạo tối cao của tu hành theo Kinh này, chánh nhân của ba bậc vãng sanh, trong
đây giảng chánh quỹ, quỹ là quỹ đạo, do đó chỗ này đặc biệt nhắc nhở chúng ta. Thứ
tư 嚴持禁戒 “nghiêm trì cấm giới”(nghiêm trì giới cấm).
【持諸禁戒。堅守不犯。】 “Trì
chư cấm giới, kiên thủ bất phạm.”(Trì các giới cấm, giữ vững không phạm).
Đây tức là 具諸戒行 “cụ chư giới hạnh” (đủ các giới hạnh) được nói trong Quán Kinh, hoặc
là: 具足眾戒,不犯威儀 “cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (đầy đủ các giới, không phạm
oai nghi). 蓋無戒則同漏器,雖勤念佛亦難圓滿 “Cái vô giới tắc đồng lậu khí, tuy cần niệm Phật diệc nan
viên mãn” (Không giữ giới
thì như vật bị rò rỉ, tuy siêng niệm Phật cũng khó viên mãn). Phật thường nói thí dụ này
trên Kinh. Chúng ta tu cấm giới thế nào? Năm xưa khi tôi ở nước Mỹ, lần đầu
tiên gặp mặt Hoàng Niệm lão: ngài liền khuyên tôi, nói ngài Hạ Liên Cư cả đời
có đại nguyện, muốn thành lập Tịnh Tông Học Hội, mà duyên không đủ, tuy rằng đã
đề ra tên gọi rồi, nhưng không thiết lập thành công, ngài liền khuyên tôi, hy vọng
tôi ở Mỹ, ở Canada, mỗi một nơi giảng Kinh, đều thành lập một Tịnh Tông Học Hội.
Chúng tôi đã làm theo. Lúc bấy giờ, khu vực khắp nước Mỹ và Canada, tổng cộng
có hơn 30 Tịnh Tông Học Hội. Sau khi tôi rời khỏi nước Mỹ, cũng không ít năm rồi,
tôi biết bây giờ vẫn còn mấy nơi, tình hình đại khái có lẽ chỉ còn lại dưới mười
nơi, phần lớn đều đóng cửa rồi. Dùng Tịnh Tông Học Hội, thực tế nói chính là
Liên xã mà người xưa nói. Chư vị thấy thầy Lý ở Đài Trung: vẫn là dùng Liên xã,
không dùng Tịnh Tông Học Hội. Do đó Tịnh Tông Học Hội là do lão Cư sĩ Hạ Liên
Cư đề xuất, thật tốt! Nơi cộng tu gọi là Học Hội, đây là hiện đại hóa danh từ, nơi
nghiên cứu Kinh giáo gọi là Học Viện, vì thế chúng tôi ở Úc châu, có Học Viện,
có Học Hội, Học Hội chú trọng ở tu hành, Học Viện chú trọng ở học tập Kinh
giáo. Đề nghị này rất tốt.
Giới luật rất quan trọng. Tịnh Tông Học
Hội thành lập, chúng tôi vận dụng những Kinh văn này thế nào, chúng tôi cũng
nghĩ đến, chúng tôi đề xuất Ngũ khoa để vận dụng Giới luật. Khoa thứ nhất trong
Ngũ khoa chính là Tịnh nghiệp Tam phước. Phần trước chúng ta có đọc, 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát,
tu Thập Thiện nghiệp” (hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện nghiệp), là điều thứ nhất; điều thứ
hai, 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀 “Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ trì Tam Quy, đầy đủ các
giới, không phạm oai nghi);
điều thứ ba, 發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者 “Phát Bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại thừa,
khuyến tấn hành giả”
(Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả), đây là khoa thứ nhất. Thứ
hai, là Lục Hòa kính, Kiến hòa đồng giải, Giới hòa đồng tu, Thân hòa đồng trụ,
Khẩu hòa vô tranh, Ý hòa đồng duyệt, Lợi hòa đồng quân, nhất định phải làm được.
Mọi người chúng ta ở đoàn thể nhỏ này, bất kể đoàn thể lớn hay nhỏ, người người
đều phải tu. Kiến hòa đồng giải, chúng ta nhất trí về cách nhìn cách nghĩ, những
việc khác là phương diện sinh hoạt. Phật yêu cầu chúng ta, chúng ta phải làm được,
đây là thuộc về Giới Luật. Khoa thứ ba là Tam Học, chính là Tam Học Giới Định
Huệ. Khoa thứ tư là Lục Độ, là cương lĩnh tu học của Bồ-tát, Bố thí, Trì giới,
Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã, đây là sáu môn tu của Bồ-tát. Sau
cùng là Thập Đại Nguyện Vương của Bồ-tát Phổ Hiền, Thập Đại Nguyện Vương dẫn về
Cực Lạc, từ Lễ kính chư Phật, Xưng tán Như Lai, Quảng tu cúng dường, Sám hối
nghiệp chướng, mười nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, Thập Đại Nguyện Vương dẫn về Cực
Lạc. Trì giới của Tịnh Tông chúng ta chính là Ngũ khoa, là năm khoa này, rất dễ
nhớ, chư vị xem Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện, vậy phải ghi
nhớ, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, nghĩ xem có làm trái với năm khoa
này hay không, không có trái ngược thì đúng rồi, trái ngược thì không được làm,
lập tức sửa lại cho đúng. Chúng tôi đã học năm khoa này. Năm đó chúng tôi đề xuất:
là tôi ở San Francisco, Pháp sư Ấn Hải ở bên Los Angeles: bằng tuổi với chúng
tôi, hiện nay ngài vẫn còn sống, vẫn ở Los Angeles, nhìn thấy năm khoa này của
chúng tôi thì rất khen ngợi, đơn giản, cũng đã bao gồm hết, chỉ cần có thể làm
được năm khoa này: thì thật khá lắm, được xem là người niệm Phật trì giới rồi.
『持諸禁戒,堅守不犯』“Trì chư cấm giới, kiên thủ bất phạm” (Trì các giới cấm, giữ vững
không phạm), đoạn đó
chính là “đủ các giới hạnh”: ở trong Quán Kinh, hoặc cũng lời Quán Kinh đã nói,
“đầy đủ các giới, không phạm oai nghi”. Không giữ giới thì bằng với lậu khí, tuy
siêng năng niệm Phật cũng khó viên mãn. Lậu khí là thí dụ, ly trà này của chúng
ta nếu có lủng hư, chế trà vào trong thì chảy mất rồi, do đó nói không giữ giới
chẳng khác nào là lậu khí, rất khó có thành tựu, nhất định phải giữ giới. Giữ
giới thấp nhất cũng chính là phước thứ nhất: nói trong Tịnh nghiệp Tam Phước, hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, đây là Giới Luật, từ tâm bất sát, tu Thập
Thiện nghiệp, đây là Căn bản giới của làm người, có thể thọ trì không phạm, cả
đời không phạm, thì đời sau còn có thể được làm người. Vì thế có chỗ tốt như vậy,
chúng ta phải biết. Khoa thứ năm tiếp theo饒益有情 “Nhiêu ích hữu tình”(Làm nhiều lợi ích cho chúng hữu
tình).
【饒益有情。所作善根。悉施與之。令得安樂。】“Nhiêu ích hữu tình, sở tác thiện căn, tất thí dữ
chi, linh đắc an lạc.”(Làm nhiều lợi ích cho chúng hữu tình; Bao nhiêu căn lành đã làm, đều đem
bố thí cho chúng hữu tình, khiến họ được an lạc).
『饒』“Nhiêu” là phong nhiêu, chính
là rất nhiều, rất phong phú. 『益』“Ích” là lợi ích, cho tất cả những chúng sanh hữu tình ấy.
是菩薩利他行 “Thị Bồ-tát lợi tha hạnh” (Là hạnh lợi tha của Bồ-tát), tự lợi của Bồ-tát là thanh tịnh. Trên đề Kinh của
chúng ta, Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác là lợi chính mình, Nhìn thấu Buông xuống Tự
tại Tùy duyên là lợi người, là hạnh lợi tha, niệm Phật là lợi cả mình và người,
đã lợi mình, cũng là lợi người. 如《普賢行願品》 “Như Phổ Hiền Hạnh Nguyện phẩm” (Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện), trong đó nói, bài kệ đầu trong phẩm Hạnh Nguyện, 菩薩若能隨順眾生,則為隨順供養諸佛。若於眾生尊重承事,則為尊重承事如來。 “Bồ-tát nhược năng tùy thuận chúng sanh, tắc vi tùy
thuận cúng dường chư Phật. Nhược ư
chúng sanh tôn trọng thừa sự, tắc vi tôn trọng thừa sự Như Lai” (Nếu Bồ-tát tùy thuận được chúng sanh, thì là tùy
thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng thừa sự với chúng sanh, thì là tôn trọng
thừa sự Như Lai). Bốn câu này rất quan trọng, phải
ghi nhớ, phải nghiêm túc để học tập, phải biết tùy thuận chúng sanh. Tùy thuận
chúng sanh chính là cúng dường chư Phật, tại sao vậy? Bởi tất cả chúng sanh vốn
là Phật, cho nên tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu có thể tôn trọng thừa sự
chúng sanh, tôn trọng, không có tâm khinh mạn, không có tâm phân biệt, thừa sự
là cộng sự, phải tôn trọng thừa sự. Ngày nay sự việc lớn nhất của xã hội, theo
ngày nay nói, là cứu vãn địa cầu, hóa giải tai nạn. Chúng ta có thể làm gì? Có
thể giữ giới, có thể đọc Kinh, có thể niệm Phật, thì sẽ làm được. Người niệm Phật
càng nhiều, thì tai nạn ở khu vực đó càng ít, dẫu có tai nạn cũng sẽ không quá
nghiêm trọng. Do đó tự chúng ta phải niệm Phật, làm ra tấm gương niệm Phật, hy
vọng mọi người đều niệm Phật. Thật quan trọng, không thể không biết.
Thứ sáu 憶彼依正 “ức bỉ Y
chánh” (nhớ
y báo chánh báo cõi kia).
【憶念西方阿彌陀佛。及彼國土。】 “Ức niệm Tây Phương A Di Đà Phật,
cập
bỉ quốc độ.” (Nhớ niệm A Di Đà Phật ở phương Tây, và cõi nước ấy).
Đây
là 憶佛念佛 “Ức Phật niệm Phật” (nhớ Phật niệm Phật). 『憶念西方阿彌陀佛,及彼國土』“Ức niệm
Tây Phương A Di Đà Phật, cập bỉ quốc độ.” (Nhớ niệm A Di Đà Phật ở Tây
Phương, và cõi nước ấy).
蓋念佛妙行,眾善中王 “Cái niệm Phật diệu hạnh, chúng thiện trung vương” (Diệu hạnh của niệm Phật, là
vua trong các thiện),
thiện trong thiện không gì vượt hơn niệm Phật. Công đức niệm Phật không thể nói
ra hết, quá to lớn! Quá sâu xa! Sâu rộng không có bờ bến, không có đáy. Điều ấy
tương ưng với tất cả chư Phật, bởi vì tất cả chư Phật đều niệm A Di Đà Phật, không
một vị Phật nào không niệm A Di Đà Phật. Do đó, 乃妙中之妙,徑中之徑 “nãi diệu trung chi diệu,
kính trung chi kính”
(là vi diệu trong vi diệu, thẳng tắt trong lối tắt), kính là đường thẳng, đường tắt.
於正因中,發心念佛,實為首要 “Ư chánh nhân trung, phát tâm niệm Phật, thật vi thủ yếu” (Ở trong chánh nhân, phát tâm
niệm Phật, thật là quan trọng hàng đầu). Chánh nhân là thật sự tin tưởng,
không có nghi ngờ, thật sự nguyện sanh Tịnh Độ. Phát tâm niệm Phật quan trọng
hơn bất kỳ điều gì. Phần trước đều giảng là nhân, phần sau nói là quả. 因果相隨,如身與影 “Nhân quả tương tùy, như thân dữ ảnh” (Nhân quả theo nhau, như hình với
bóng). Chư vị thật
sự có thể làm như vậy, thì quả báo đương nhiên hiện tiền. Khoa tiếp theo đây: 妙果 “diệu quả”
(quả vi diệu), 生相同佛 “sanh tương đồng Phật” (vãng sanh giống như Phật).
【是人命終。如佛色相種種莊嚴。生寶剎中。】 “Thị
nhân mạng chung, như Phật sắc tướng chủng chủng trang nghiêm, sanh bảo sát
trung.”(Người đó khi mạng hết,
thì hình sắc tướng mạo đủ sự trang nghiêm giống như Phật, sanh vào cõi báu).
Chú giải này, 『是人命終,如佛色相』“Thị nhân mạng
chung, như Phật sắc tướng”
(người đó khi mạng hết, hình sắc tướng mạo như Phật). 其人如佛,真金色身,卅二相;並具種種如佛之功德莊嚴 “Kỳ nhân như Phật, chân kim sắc thân, tạp nhị tướng; Tịnh
cụ chủng chủng như Phật chi công đức trang nghiêm” (Người đó như Phật, thân sắc
vàng thật, 32 tướng; Và đầy đủ các loại công đức trang nghiêm như Phật). Lợi ích này quá lớn rồi! Người
niệm Phật vãng sanh, mạng chung chính là vãng sanh, sanh đến Thế giới Tây
Phương Cực Lạc, sắc tướng của họ, 『種種莊嚴』“chủng chủng trang nghiêm” (đủ sự trang nghiêm), ở đây nói với chúng ta về 32
tướng. 32 tướng ở Ấn Độ xưa: là người có phước báo lớn ở thế gian, vua có 32 tướng,
người Đại tu hành cũng có 32 tướng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có 32 tướng, Chuyển
Luân Thánh vương có 32 tướng, đây là phước báo, do họ tu đại phước báo mà cảm
được. Trên thực tế không chỉ vậy, 32 tướng là phương tiện nói đối với người Ấn
Độ. Phước báo của A Di Đà Phật: ở Thế giới Cực Lạc quá lớn rồi, chúng ta nghĩ
xem, Phật hóa độ chúng sanh niệm Phật: trong tất cả cõi nước chư Phật khắp ba đời
mười phương, có bao nhiêu người? Không cách gì nói được, chỉ có thể nói vô lượng
vô biên vô số vô lượng, chỉ có thể dùng cách nói này để tán dương. Những người
đó: sau khi được đón đến Thế giới Cực Lạc, thì tất cả đều thành Phật ở Thế giới
Cực Lạc rồi. Chúng ta phải từ chỗ này mà quán tưởng, biết rằng Thế giới Cực Lạc:
phước lớn, trí huệ lớn, công đức lớn, đều lớn đến không có hạn lượng, vô lượng
vô biên không có giới hạn. Người sanh đến Thế giới Cực Lạc, đều là người có phước
báo lớn, người trí huệ lớn, người công đức lớn, mà còn một đời thành tựu. Nơi
như vậy mà không đến, thì chư vị đi đến nơi nào? Do đó thật sự đọc hiểu Kinh
này rồi, làm rõ ràng, làm sáng tỏ, họ sẽ quyết trọn một lòng cầu sanh Tịnh Độ, họ
sẽ không ở trong sáu đường luân hồi này thêm nữa, không làm việc ngu muội này
thêm nữa.
Tín tâm của chúng ta không đủ, nguyện
tâm không tha thiết. Thì làm thế nào? Nhất thiết phải cần Kinh giáo để giúp chư
vị, chúng ta hiểu không đầy đủ về Kinh giáo. Nếu thật sự hiểu thấu triệt Kinh
giáo, vậy dùng phương pháp gì? Dùng đọc tụng. Đọc sách ngàn lần, thì nghi ngờ của
chư vị không còn nữa, không nghi ngờ thêm nữa, chư vị khởi lên ý niệm cầu sanh
Tịnh Độ, thật sự khởi lên rồi. Nếu chư vị đọc tiếp 2000 lần, đọc 3000 lần, thì
làm gì có đạo lý không vãng sanh? Tại sao vậy? Bởi tín tâm kiên định, nguyện
tâm khẩn thiết, một câu Phật hiệu này, nhất định giống như lão Hòa thượng Hải
Hiền: ngày đêm không gián đoạn, nhất định sanh Tịnh Độ. Sanh đến Tịnh Độ, thân
thể của chư vị giống như A Di Đà Phật vậy, trong 48 nguyện nói, không phải thân
máu thịt. Thân máu thịt này có sanh có diệt, vẫn phải ăn uống, vẫn phải đi ngủ,
chư vị nói xem phiền phức biết bao. Thân ở Thế giới Cực Lạc là thân Pháp tánh, thân
Pháp tánh không cần phải ăn uống, nên tự tại, không cần phải đi ngủ. Vì vậy Thế
giới Cực Lạc không có đêm tối, Thế giới đó của Phật là Thế giới quang minh, tất
cả mọi sự vật đều phóng ánh sáng, cung điện phát sáng, cây cối hoa cỏ phát
sáng, thân thể mỗi người phát sáng, mặt đất cũng phát sáng, là Thế giới quang
minh, ánh sáng của các ngài không cần đến ánh sáng nhật nguyệt, là ánh sáng của
Thường Tịch Quang trong Tự Tánh phát ra. Tự Tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng
công đức, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, đều hiện tiền, là bình đẳng với
A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là thân thế nào, thì thân chúng ta giống như thân Phật;
A Di Đà Phật là tướng nào, thì tướng của chúng ta giống như tướng của A Di Đà
Phật, không chỉ 32 tướng, mà sanh tướng đồng Phật. Đoạn thứ hai tiếp theo: 聞法不退 “văn Pháp bất thoái” (nghe Pháp không thoái chuyển).
【速得聞法。永不退轉。】 “Tốc
đắc văn Pháp, vĩnh bất thoái chuyển”(Mau được nghe Pháp, vĩnh viễn không thoái chuyển).
Chú Giải của Niệm lão nói rằng:
『生寶剎中,速得聞法』“sanh bảo sát trung, tốc đắc
văn Pháp” (sanh trong
cõi báu, mau được nghe Pháp).
此人命終,色相如佛,並速得聞法 “Thử nhân mạng chung, sắc tướng như Phật, tịnh tốc đắc
văn Pháp” (Người đó lúc
mạng chung, hình sắc tướng mạo như Phật, đồng thời mau được nghe Pháp). Người đó là giảng: người đó
vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, người vãng sanh ấy: rất nhanh thì đến Thế giới
Cực Lạc. Tại sao vậy? Vì người dùng Vọng Tâm chúng ta: có khái niệm thời gian,
có khái niệm không gian, người dùng thân Pháp tánh không có khái niệm này. Nói
cách khác, Thế giới Cực Lạc: không có thời gian, không có không gian, không có
thời gian chính là: không có quá khứ, hiện tại, vị lai, là ngay lập tức, mười
phương Thế giới cũng ở ngay đây. Nếu ở Thế giới Cực Lạc muốn đến trái đất, thì
chính chúng ta lập tức cảm thấy rằng: chúng ta đã đứng ở trên trái đất, đã ở Thế
giới này. Trái đất có đến Thế giới Cực Lạc hay không? Không có, Thế giới Cực Lạc
cũng không đến địa cầu, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Sanh ở Thế giới Cực Lạc,
hoa sen nở ra. Vãng sanh là ngồi trong hoa sen mà đi, hoa sen này: là do tự
mình niệm Phật thành tựu, hoa sen do tâm niệm Phật của chúng ta sanh ra, ở Thế
giới Cực Lạc, khi thời gian đến, A Di Đà Phật cầm hoa đó trên tay, đến tiếp dẫn
chư vị. Cầm đến chỗ chư vị, khi chư vị vãng sanh hoa nở ra, chư vị ngồi trong
hoa, hoa đó lại khép lại, Phật mang đến Thế giới Cực Lạc đặt vào trong ao bảy
báu. Trong ao bảy báu làm gì? Thoát thai đổi cốt, chính là chúng ta thực sự xả
bỏ thân này, thì thân Pháp tánh hiện tiền, cũng chính là như trong Tướng Tông
đã nói, chuyển tám thức thành bốn trí, không còn tám thức nữa, bốn trí Bồ-đề hiện
ra, Đại Viên Cảnh trí, Bình Đẳng Tánh trí, Diệu Quan Sát trí, Thành Sở Tác trí.
Dùng thân đó, hoa nở thấy Phật, đi đến
chỗ nào? Đến Giảng đường, A Di Đà Phật đang giảng Kinh trong Giảng đường. Đi
vào trong Giảng đường, Giảng đường có chỗ ngồi của chư vị, ao báu có hoa sen của
chư vị, Giảng đường có chỗ ngồi của chư vị, chư vị ngồi vào chỗ đó nghe Kinh, muốn
nghe Kinh nào thì Phật giảng Kinh đó. Đồng thời A Di Đà Phật còn hóa thân, hóa
vô lượng vô biên thân tướng. Để làm gì? Đến mười phương Thế giới để tiếp dẫn
chúng sanh, trên Giảng đường thuyết Pháp không gián đoạn, mà hóa Phật vẫn đến
mười phương Thế giới để tiếp dẫn chúng sanh, những chúng sanh ấy, sau khi được
tiếp dẫn đến Thế giới Cực Lạc, giống như người vãng sanh trước vậy, hoa nở đi
vào Giảng đường của Phật nghe Pháp, đồng thời họ cũng có thể hóa vô lượng vô
biên thân, đến Thế giới Cực Lạc thì chứng được, là do uy thần bổn nguyện của A
Di Đà Phật gia trì, không phải do tự chư vị tu được. Hóa vô lượng vô biên thân,
giống như A Di Đà Phật vậy, A Di Đà Phật là tiếp dẫn chúng sanh, những Bồ-tát ấy
hóa thân để làm gì? Hóa thân đến tất cả cõi nước chư Phật: để nghe Kinh văn
Pháp, vì thế 速得聞法 “tốc đắc văn pháp” (mau được nghe pháp). Nghe Pháp gì? Tất cả Pháp, Kinh
mà mỗi tôn Phật giảng là khác nhau, chư vị đồng thời đều học hiểu rồi, ngay
trong thời gian rất ngắn, tất cả đều đạt được hết. Thật sự, khắp Pháp giới hư
không giới, còn có quá khứ, vị lai, ngay trong cõi báu của tất cả chư Phật Như
Lai, đang giảng Kinh ở đó, người ở Thế giới Cực Lạc, mỗi mỗi đều có khả năng
tham gia, cho nên họ nhanh chóng được nghe Pháp. Chúng ta ở bên này nghe Pháp
khó như vậy, Thế giới Cực Lạc thì quá dễ dàng rồi.
Đoạn tiếp theo đây: 精修十善,自利得生 “Tinh tu Thập Thiện, tự lợi đắc sanh” (tinh tấn tu Thập Thiện, tự lợi
được sanh), chia làm hai
khoa, thứ nhất 勝因 “Thắng nhân” (nhân thù thắng), trong “thắng nhân” lại chia
thành ba khoa, khoa nhỏ thứ nhất 當修十善 “Đương tu Thập Thiện” (Phải tu Thập Thiện). Những Kinh văn này đều hết sức
quan trọng, đều là giúp chúng ta, thành tựu cho chúng ta.
【復次阿難。】 “Phục thứ A Nan” (Lại
này A Nan!).
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gọi ngài A
Nan mà nói rằng:
【若有眾生。欲生彼國。】 “Nhược hữu chúng sanh, dục sanh bỉ quốc.” (Nếu có chúng sanh: muốn sanh về nước kia).
Giả sử có người muốn sanh đến Thế giới
Cực Lạc.
【雖不能大精進禪定。】 “Tuy bất năng đại Tinh tấn Thiền định.” (Tuy không thể đại
Tinh tấn Thiền định).
Căn tánh của họ kém, 『不能大精進禪定』“bất năng đại Tinh tấn Thiền định” (không thể đại Tinh tấn Thiền định). [Nhưng]:
【盡持經戒。要當作善。所謂一不殺生。二不偷盜。三不淫欲。四不妄言。五不綺語。六不惡口。七不兩舌。八不貪。九不瞋。十不痴。】 “Tận trì kinh giới, yếu đương tác thiện. Sở vị: nhất bất sát sanh; Nhị bất
thâu đạo; Tam bất dâm dục; Tứ bất vọng ngôn; Ngũ bất ỷ ngữ; Lục bất ác khẩu; Thất
bất lưỡng thiệt; Bát bất tham; Cửu bất sân; Thập bất si.” (Hết
sức trì Kinh giữ giới, cũng phải làm những điều thiện. Đó là: Một không sát
sanh; Hai không trộm cướp; Ba không dâm dục; Bốn không nói dối; Năm không nói lời
thêu dệt; Sáu không nói lời thô lỗ; Bảy không nói lưỡi đôi chiều; Tám không
tham lam; Chín không sân hận; Mười không si mê).
Đây
chính là Thập Thiện nghiệp. Trong Chú Giải nói, chánh nhân của hạng thứ hai, hạng
thứ nhất ở phía trước là phát Bồ-đề tâm, chánh nhân trong hạng thứ hai, bên
trong tổng cộng có ba câu. Câu thứ nhất: 修行十善 “Tu hành Thập Thiện” (Tu hành Thập Thiện), thứ hai là: 晝夜念佛 “Trú dạ niệm Phật” (Ngày đêm niệm Phật), thứ ba là: 志心歸依,頂禮供養 “chí tâm Quy y, đảnh lễ cúng dường” (Chí tâm Quy y, đảnh
lễ cúng dường). Chú giải tiếp theo, theo thứ tự
này. Thứ nhất, 修行十善 “tu hành Thập Thiện” (tu hành Thập Thiện). Căn cứ sách Pháp Giới Thứ Đệ, thì十善即是止惡 “Thập
Thiện tức thị chỉ ác” (Thập Thiện tức là dừng
ác). Ngược lại là ác, chư vị xem sát sanh là ác, không
sát sanh là thiện; Trộm cướp là ác, không trộm cướp là thiện; Dâm dục là ác,
không dâm dục là thiện. 止前之惡,則不惱於他。行今之善,以利樂一切 “Chỉ tiền chi ác, tắc bất não ư tha. Hành kim chi
thiện, dĩ lợi lạc nhất thiết” (Dừng việc ác trước, thì không phiền não người khác. Làm việc thiện đây, nhằm lợi lạc tất cả). Thập Thiện đây: chính là đã dừng lại mười loại ác,
không tạo thêm nữa, vì thế sẽ không gây phiền phức cho người khác, không làm
người phiền não. Sau khi quay trở lại, lại có thể lợi lạc tất cả chúng sanh hữu
tình. Chúng sanh hữu tình vui vẻ chung sống với người thiện, không bằng lòng
chung sống với người ác. “Chỉ ác” chính là đoạn ác, có thể đoạn ác tu thiện,
tích công lũy đức, thì tất cả chúng sanh đều vui vẻ với chư vị, đều mong muốn gần
gũi chư vị, đều hy vọng học tập chư vị.
Do đó,
止前殺生之惡行 “chỉ tiền sát
sanh chi ác hạnh” (dừng việc ác sát sanh trước đây), không sát sanh, 當行放生之善 “đương hành
phóng sanh chi thiện” (cần làm việc thiện phóng sanh). Chỗ này nói đến phóng sanh, phóng sanh phải có trí
huệ, không thể làm việc theo cảm tình, làm việc theo cảm tình là pháp thế gian,
làm việc theo trí huệ là Phật pháp, vì thế Phật pháp giảng cầu trí huệ. Phóng
sanh, khi nào phóng sanh? Không định thời gian, tùy thời gặp được, thì tùy
duyên. Gặp được chúng sanh nào, có người muốn giết chúng, chư vị mua chúng để
phóng sanh, vậy thì tốt. Không nhất định ngày giờ, có lòng muốn phóng sanh, tùy
duyên tốt. Do đó những ngày lễ vía Phật Bồ-tát trong nhà Phật, lúc làm Pháp hội
đã viên mãn thì phóng sanh, những tín chúng đó, không biết rõ về: ý nghĩa thật
sự của phóng sanh, và công đức lợi ích, đều theo số đông. Thậm chí không phóng
còn đỡ, vì người khác không bắt chúng. Hẹn với họ rồi, hôm nay tôi cần mấy trăm
cân cá, cần bao nhiêu con chim, khuyến khích những thợ săn đi săn bắt, vậy thì
sai rồi, hết sức sai lầm! Đây là giúp sát sanh, khuyến khích sát sanh, như vậy
không được. Năm xưa chúng tôi học Phật, thầy khuyên răn chúng tôi chính là tùy
duyên, tùy phận tùy sức. Gia đình sống qua ngày, mỗi ngày xuống phố mua rau,
sáng sớm đi mua rau, nhìn thấy cá còn sức sống mạnh, chúng thực sự vẫn có khả
năng để sống tiếp, thì mua chúng để phóng sanh. Nếu thấy chúng sống không nổi nữa,
chúng sắp chết rồi, thì niệm Phật hồi hướng cho chúng, không nhất thiết phải
mua chúng phóng sanh. Chim cũng như vậy, nếu là do thợ săn đánh bắt về, chúng
mà bị thương rồi, thì phải xem tình trạng bị thương của chúng, có thể sống thì
cứu chúng, không thể sống, cũng phải niệm Phật hồi hướng cho chúng. Phật dạy
chúng ta làm việc, tự chúng ta phải có trí huệ để quyết đoán, không thể miễn cưỡng,
miễn cưỡng thì sai rồi, nên không thể không biết điều này.
Làm các loại công đức đều có tác dụng
phụ, đều có vấn đề bên trong, chư vị đều phải nghĩ đến mọi mặt. Ngày nay tôi
nhìn thấy, có đồng học nói là tôi tán thán, đồng ý thừa nhận, đề xướng tập hợp
mọi người lại thuê xe, nhiễu Phật vòng thành phố. Tôi chưa từng đề xướng, không
biết là do ai đề xướng, tôi cũng không dạy ai cách làm như vậy. Thế nhưng tôi
đã từng làm việc này một lần, tôi không khuyên ai làm, là tôi tự làm. Lúc bấy
giờ, đại khái chúng tôi thuê xe chỉ bốn người, thuê một chiếc xe, ba người,
tính luôn cả tôi là bốn người, chúng tôi từ Bắc Kinh chọn lựa: đi đường cao tốc
về đến Lư Giang. Lúc xuất phát, bốn người chúng tôi, trên xe tổng cộng bốn người,
niệm A Di Đà Phật, đã nhiễu ba vòng xung quanh Bắc Kinh, công đức hồi hướng cho
cư dân Bắc Kinh, rồi chúng tôi lái xe đi đến Lư Giang. Đây là tôi tự phát tâm, tôi
không khuyên ai, tôi không dạy ai. Nếu như chư vị bây giờ, nghe nói vừa tập hợp
mọi người vừa thuê xe, làm việc này giống như biểu diễn vậy, việc đó là không
được phép đối với an ninh trật tự của đất nước, không thể làm như vậy. Nếu chư
vị muốn làm, thì học cách làm đó của tôi, hai, ba người, chư vị trên xe taxi có
thể ngồi mấy người thì ngồi, nhất định không thể dùng xe buýt, không thể tập
trung mọi người lại, không thể gây chuyện lôi thôi, chư vị làm như vậy thì có
thể, hồi hướng công đức niệm Phật: cho khu vực đó. Việc này thì tôi tán thành. Tôi
không tán thành chư vị tụ họp mời rất nhiều người, xem đó như làm Pháp hội, tôi
không tán thành việc này. Trong đời này của tôi, ngoài việc đề xướng Pháp hội
Tam Thời Hệ Niệm ra, thì tôi chưa từng làm Pháp hội, tôi chưa từng làm Kinh sám
Phật sự. Cả đời này của tôi, công việc mỗi ngày chính là giảng Kinh dạy học, ngoài
việc này ra thì tôi không có, tôi không có Đạo tràng, mãi đến hiện tại cũng
không có Đạo tràng. Tôi cũng không có tín đồ, tôi cũng không có cúng dường. Những
đồng tham đạo hữu đến thăm tôi, đều là nhìn thấy tôi trên mạng, nhìn thấy trên
truyền hình vệ tinh, đến Hongkong thì tiện đến thăm tôi. Tôi nghĩ họ cũng không
phải có ý đặc biệt đến, đến Hongkong phải có visa, cũng không phải là việc dễ
dàng như thế. Cả đời tôi sợ nhất phiền phức, người khác thích đông người, tôi
thích ít người, tốt nhất là không ai đến tìm tôi. Nếu nói tôi tán thành, tôi đề
xướng, tôi muốn mọi người làm như vậy, vậy là vọng ngữ, vậy thì không thật thà
rồi.
Học Phật, ngày nay giảng đến chỗ này, chỗ
này là giảng Ngũ Giới Thập Thiện, Thập Thiện cũng là mười điều giới. Giới càng
quan trọng hơn, trên Kinh Phạm Võng nói với chúng ta, 不作國賊,不謗國主 “bất tác quốc
tặc, bất báng Quốc chủ” (không làm giặc quốc gia, không phỉ báng Quốc chủ). Mọi người có tuân
thủ hay không? Không làm quốc tặc, nhất định không được làm việc tổn hại đến đất
nước, đó gọi là quốc tặc. Quốc chủ là người lãnh đạo đất nước, bao gồm người
lãnh đạo ở các cấp, người lãnh đạo Trung ương là Quốc chủ, người lãnh đạo tỉnh
cũng là Quốc chủ, người lãnh đạo huyện thành cũng là Quốc chủ, Trưởng thôn
trong thôn quê cũng là Quốc chủ, chính là người lãnh đạo ở các cấp. Tại sao vậy?
Bởi họ đứng ở địa vị lãnh đạo, không thể hủy báng, hủy báng khiến cho mọi người:
trong tâm mất đi sự tôn trọng đối với họ, thì họ không cách nào để thống lý đại
chúng, điều này có tổn hại cho đất nước. Họ làm việc sai, do nhà nước trừng phạt
họ, cần gì chúng ta phải loan truyền? Chúng ta tạo khẩu nghiệp? Thì sai rồi! Phải
hiểu đạo lý này. Trong Giới Kinh cũng có hai câu, nói với đồng tu học Phật tại
gia, điều thứ nhất 不漏國稅 “bất lậu quốc
thuế”
(không trốn thuế quốc gia), tận nghĩa vụ nộp thuế, không trốn thuế, lậu thuế; điều thứ hai 不犯國制 “bất phạm quốc chế” (không phạm quốc chế), pháp luật, chế độ,
quy định nhà nước định ra, phải tuân thủ, không được phạm pháp. Thế chư vị muốn
hỏi, chúng ta tụ hợp mọi người nhiễu quanh thành phố để niệm Phật, lãnh đạo
chính quyền địa phương có phê chuẩn hay không? Nếu không phê chuẩn, thì không
được làm. Làm Pháp hội cũng như vậy, đều phải đạt được: sự phê chuẩn của chính
quyền địa phương nơi đó. Đây là tôn trọng, đây là yêu nước. Do đó chúng ta phải
hiểu được, không hiểu được, thì làm sai việc mà không biết. Trong đó đã phát
sinh rất nhiều hiểu lầm, liền phát sinh chướng ngại đối với hoằng pháp lợi
sanh, thì không phải việc tốt.
Đệ tử Phật là người giữ quy củ nhất, là
người tuân thủ pháp luật nhất trong xã hội. Trên lịch sử có ba vị vua họ Vũ diệt
Pháp, tín đồ Phật giáo như thế nào? Tuân thủ, muốn diệt thì diệt, không có nói
câu nào cả. Vị Đế vương tiếp theo xuất hiện, thấy tín đồ Phật giáo nghe lời như
vậy, đây là người tốt, không phải người xấu, thì lập tức hưng thịnh trở lại rồi.
Vậy thì đúng rồi, biểu diễn cho người xem, tín đồ Phật giáo là tuân thủ pháp luật
nhất, bởi vì họ trì giới. Nếu họ không trì giới, thì họ không thể vào cửa Phật,
Phật môn không cho phép họ. Hy vọng mọi người phải hiểu rõ, đừng cố tình gây
chuyện. Nếu chư vị thật sự muốn niệm Phật, thì ở nhà niệm, ở trong Phật đường
mà niệm, không cần phải ra bên ngoài đi nhiễu, đi vòng quanh thành phố, vòng
quanh thành phố rất vất vả, tâm tán loạn, không công đức, ở nhà niệm, nhất tâm
niệm Phật, tâm địa thanh tịnh, thì có công đức. Đây là điều tôi ở đây [muốn] nói
với mọi người. Hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta giảng đến chỗ này thôi.
(Hết tập 332)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam
Mô A Di Đà Phật.