TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 32: THỌ LẠC VÔ CỰC:
Thọ Mạng Và Niềm Vui Vô Cực
Tập 381
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Trường Đại học Xứ Wales, Anh Quốc.
Thời
gian: Ngày 10 tháng 10 năm 2016.
Ban Phiên
Dịch Hoa Tạng Huyền Môn
Dịch giả:
Diệu Yến
Giảo
chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào: chư vị Pháp
sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi
người cùng
tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi
chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung
tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú,
trang 884, dòng thứ hai từ dưới lên, 「中道自然」“trung đạo tự nhiên” (trung đạo tự nhiên). Mời xem kinh văn:
【外若遲緩。內獨駛急。容容虛空。適得其中。中表相應。自然嚴整。】“Ngoại nhược trì hoãn. Nội độc sử cấp. Dung dung hư
không. Thích đắc kỳ trung. Trung biểu tương ưng. Tự
nhiên nghiêm chỉnh” (Bề ngoài thong thả, bên trong
luôn khẩn trương. Tâm thênh thang như hư không, khế nhập trung đạo. Trong ngoài
tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh). Sau đoạn này còn bốn chữ nữa, là một câu
phía sau, nên đặt ở chỗ nãy, 「檢斂端直」“kiểm liễm đoan trực” (kiểm điểm đoan nghiêm
chính trực), đây là một đoạn. Kiểm liễm đoan trực.
Chúng ta xem chú giải. 『遲緩』“trì hoãn” (trì hoãn), 「遲者,遲徐、安徐之義」“trì giả, trì từ, an từ chi nghĩa” (trì
là chầm chậm từ từ, nghĩa là bình thản thong dong). Chữ từ này chính là trì
hoãn chầm chậm, không gấp gáp, chữ này cùng nối liền với chữ hoãn, ý nghĩa tương đồng,
Niệm lão giải thích cho chúng ta, 「寬緩之義」“khoan hoãn chi nghĩa” (nghĩa
là khoan thư hòa dịu), an nhàn, khoan thư. 「故遲緩者,即安閑沉穩而不緊張急燥也」“Cố
trì hoãn giả, tức an nhàn trầm ổn nhi bất khẩn trương cấp táo dã” (cho nên trì hoãn, là an nhàn bình thản mà chẳng khẩn trương gấp gáp),
là ý nghĩa này. Đây là biểu hiện ở bên ngoài.
Tu hành là tu điều gì? Không
thể không biết. Tu là tu sửa, hành là hành vi sai lầm, hành vi không thích đáng,
phải đem hành vi đó sửa lại, gọi là tu hành. Phạm vi của hành vi vô cùng rộng lớn,
Phật pháp đem
quy lại thành ba loại lớn, là thân, khẩu, ý. Hành vi có nhiều
hơn, cũng không ra khỏi ba loại lớn này. Thân là tạo tác, khẩu là ngôn ngữ, ý
là suy nghĩ, chúng ta đã khởi tâm động niệm sai, phải đem điều đó sửa lại cho đúng. Đặc
biệt là trong thời đại hiện nay, mọi người đã lơ là giáo dục Thánh hiền, ngày
xưa ở Trung Hoa, từ nhỏ đã đọc sách Thánh hiền, đã hiểu được bớt phóng túng, hiểu
được không vi phạm luân lý đạo đức, không vi phạm giáo huấn của cha mẹ, không
vi phạm những quy củ của tổ tông lập ra, một gia đình từ trên xuống dưới đều phải
học. Ngày xưa, nhà của người Trung Hoa là đại gia đình, người bình thường bây
giờ rất khó hiểu, thế nào là đại gia đình, chưa từng nghe nói, chưa
từng thấy qua. Đại
gia đình là anh em trai không ở riêng, chị em gái
đã lấy chồng, anh em trai không ra ở riêng.
Tôi ở tuổi này, hồi nhỏ, đại gia đình
còn tồn tại phổ biến, nhà của chúng tôi chính là đại gia đình.
Nhưng đến khi tôi sanh ra, nhà chúng tôi đã hỏng rồi, cũng chính là anh em ra ở
riêng, đã không ở cùng nhau nữa, nhà Trung Hoa truyền thống đã không còn nữa.
Cha tôi ở bên ngoài kiếm sống, cha tôi là nhân viên công vụ, chúng tôi sống ở
nông thôn, ở nhà bác gái, bác gái tôi, là chị của cha tôi. Nhà chúng tôi vẫn
chưa ra ở riêng, mười anh em ở cùng nhau, trong một thôn trang rất lớn, trang
viên, người trong nhà, trên dưới tôi nhớ lúc đó: vẫn có gần 200 người, sống
cùng với nhau. Trên bản đồ Trung Hoa hiện nay còn có thể nhìn thấy, quý vị nhìn
thấy ở nông thôn, nhà này là Vương thôn, nhà kia là Lý thôn, nhà kia là Trương thôn, đó
chính là một gia đình, không ở riêng. Sau kháng chiến, sau thắng lợi không còn
nữa, trong thời gian kháng chiến vẫn còn, sau chiến tranh thì không còn nữa.
Tám năm, đã phá hủy gia đình Trung Hoa chúng ta, không còn đại gia đình nữa rồi.
Khuôn phép của đại gia đình rất
nghiêm ngặt, cho nên có thể quản giáo một gia đình, người Trung Hoa xưa gọi là
tề gia, tề là chỉnh tề. Một gia đình này
của quý vị, tuy đông người, nhưng thịnh vượng, một đại gia đình bày, tám trăm
người, thấp nhất cũng phải có đến 200 người, nếu không có khuôn phép, thì nhà
này loạn mất. Cho nên nhà có gia quy, có gia pháp, có gia quy, có gia học, có
gia nghiệp, gia học chính là giáo dục. Từ nhỏ, người lớn trong gia đình này, đều
phải là tấm gương tốt nhất cho trẻ nhỏ, để những đứa trẻ: từ khi còn nhỏ đã nhận
được sự hun đúc tôi luyện của giáo dục gia đình. Giáo dục gia đình là gì? Hiện
nay chư vị biết có cuốn Đệ Tử Quy, Đệ Tử Quy là sách giáo khoa quan trọng nhất:
trong giáo dục gia đình. Tổng cộng bên trong có hơn 1000 chữ, nội dung giảng về
113 sự việc, đều là cuốn sách mà mỗi người từ nhỏ đến lớn: đều phải tuân thủ,
đây là gia giáo. Gia học, người nhà tu dưỡng, cha mẹ tôn trưởng, người lớn làm
mẫu cho chúng ta xem.
Nơi này là giảng về học Phật,
tôi đã làm báo cáo với các đồng học, lần đầu tiên tôi gặp Đại sư Chương Gia, thỉnh
giáo với ngài. Chúng tôi còn trẻ, không hiểu khuôn phép, biểu hiện ra điều gì?
Là tâm nóng nảy bao chao, hoàn toàn trái ngược với những gì nơi đây nói đến. Đại
sư dạy tôi thế nào? Đại sư nhìn tôi, tôi cũng nhìn ngài, nhìn hơn nửa tiếng đồng
hồ, sự nôn nóng đó của chúng tôi chậm dần, tâm này được định lại. Thì thầy mới
nói, chỉ nói một chữ “có”. Chúng tôi nghe thấy có, trong tâm lập tức liền hồi hộp
lại, động tác nôn nóng đó lại xuất hiện. Thói quen này, từ nhỏ chưa có ai dạy. Xa
gia đình nhiều năm như vậy, lưu lạc ở bên ngoài, tìm một công việc, thu nhập chỉ
có thể bảo đảm cho mình những sinh hoạt thấp nhất, cuộc sống rất khó khăn. Phật
pháp cũng không hiểu được dễ dàng như thế, bởi từ nhỏ nhận được sự giáo dục, ngoài
thời kỳ đó ở nông thôn, thấy
được lý luận, đạo đức, nhân quả, dù sao vẫn còn quá nhỏ, mười
tuổi đã rời xa gia đình rồi. Những gì thấy được trong xã hội, không giống với những điều được nói ở
nhà, nhưng nền tảng và khái niệm đó của gia đình vẫn có. Thế nhưng, hoàn cảnh
bên ngoài ảnh hưởng rất lớn, không thể không bị ảnh hưởng. Cho nên, mấy câu này
nói ở trong kinh, chúng ta đã hoàn toàn đi ngược, không ai dạy quý vị.
Phương pháp dạy học này của Đại sư Chương Gia, quý vị đặt
ra câu hỏi, nhìn quý vi, đợi đến lúc quý vị tâm bình khí hòa, dáng vẻ nôn nóng
giảm xuống, ngài mới chịu nói chuyện với quý vị. Tại sao vậy? Lúc này tinh thần
quý vị tập trung, chỗ này nói 『容容虛空,適得其中,中表相應,自然嚴整』“Dung dung hư không. Thích đắc kỳ trung. Trung biểu tương ứng. Tự nhiên
nghiêm chỉnh” (Tâm bao dung như hư không, khế nhập
trung đạo. Trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh), thầy mới thực sự
dạy cho quý vị, quý vị có thể nghe vào, quý vị có thể không nghi ngờ, có thể tiếp
nhận. Nếu tâm nóng nảy bao chao, không thể tiếp nhân, lời thầy giảng cho quý vị,
quả thật gọi là vào tai này, ra tai kia. Cho nên giảng mà không để ý, vậy giảng
đó là giảng uổng công rồi. Cho nên phương pháp dạy học của Đại sư Chương Gia: vẫn
tuân theo quy củ của người xưa, tâm nóng nảy bao chao, không nói chuyện với quý
vị, đến khi tất cả háo hức của quý vị ổn định lại, lúc đó mới được. Lời ngài nói,
cả đời này chúng ta đều không thể quên được, mà còn nghiêm túc thực hiện đầy đủ,
điều đó đã khởi tác dụng.
[18:05]
Chúng ta học rồi, cầu học cách học thế nào, đã học rồi. Học
thuật của thánh hiền phải dùng tâm chân thành, không có thành ý, không cần phải
nói, nói rồi cũng chẳng có tác dụng, tâm không thanh tịnh cũng không có tác dụng,
tâm không tôn kính cũng không có tác dụng. Cho nên điều kiện cơ bản là phải
chân thành, phải thanh tịnh, phải cung kính, tiếp nhận thật sự được lợi ích như
vậy, sẽ không thể quên, sẽ y giáo phụng hành, vậy là thực hiện tu rồi, chính là
tu hành. Hai chữ tu hành này, tu là sửa cho đúng, hành là hành vi, đem hành vi
lệch lạc sửa lại cho đúng, gọi là tu hành. Hành vi có rất nhiều, vô lượng vô
biên, Phật đem chia thành ba loại lớn, thứ nhất là khởi tâm động niệm, ý niệm
là hành vi của ý nghiệp, trong thân khẩu ý, thì là tâm, hành vi của tâm, điều
này quan trọng nhất. Thứ hai là ngôn ngữ. Thứ ba là thân thể, tạo tác của thân
thể. Không phù hợp với luân lý đạo đức, thì là sai trái; không phù hợp với lời
dạy của Thánh hiền, đây là sai trái, phải sử dụng tiêu chuẩn của Thánh hiền. Ở Trung Hoa, tiêu
chuẩn chủ yếu chính là ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức, không có nhiều.
Ngũ luân là nói về mối quan hệ, cha con có tình thân thiết,
yêu thương, đem điều này đặt làm điều đầu tiên. Trong tôn giáo, đại từ đại bi,
chính là yêu thương. Yêu thương từ đâu đến? Từ đại từ đại bi đến. Trong tôn
giáo phương Tây, thần linh yêu thương người đời, yêu thương từ đâu đến? Yêu
thương từ thần linh ấy đến, từ thần thánh đến. Thứ ba chính là giáo huấn của Thánh
hiền, đặc biệt là giáo dục tôn giáo. Trung Hoa từ xưa đến nay, 5000 năm, có
giáo dục Thánh hiền; ở phương Tây các nhóm dân tộc nhiều như vậy, có thể kéo dài đến ngày nay,
là dựa vào giáo dục tôn giáo, xã hội có trật tự. Nếu như
đều có thể vâng theo, người người đều có thể tiếp nhận, nuôi dưỡng thành thói
quen tốt từ nhỏ, thì trái đất này là thế giới Cực Lạc, trái đất này chính là
thiên đường, quý vị thấy mỗi người đều hành thiện tích đức, không có sai lầm.
Bây giờ, xã hội này chúng ta gặp được, chính là xã hội hiện tại,
đi quan sát kỹ lưỡng, người trái đất, con người sinh trưởng trên trái đất, họ nghĩ
gì? Họ nói gì? Họ làm gì? Quý vị bình tĩnh quan sát kĩ lưỡng là hiểu rõ, hiểu
rõ điều gì? Đây
không phải là nhân đạo.
[23:45]
Tiêu chuẩn của cõi người,
truyền thống ở Trung Hoa là ngũ luân, ngũ thường.
Ngũ luân là cha con có tình thân, vợ chồng có phân biệt, vua tôi có nghĩa, già
trẻ có thứ tự, bạn bè có lòng tin. Bây giờ năm chữ này không tìm được nữa.
Thân, yêu thương không còn nữa; vợ chồng có phân biệt, nhiệm vụ khác nhau không
còn nữa; vua tôi không có đạo nghĩa, lãnh đạo cùng với được lãnh đạo; già trẻ
cũng không nói, bạn bè cũng không nói chữ tín. Ngũ luân rối loạn rồi, ngũ luân
rối loạn, thiên hạ cũng loạn, xã hội cùng động loạn. Ngũ luân là đạo, không phải
là phát minh nào cả, không phải là sáng tạo nào cả, mà là tự nhiên, ngũ thường
là đức, đạo đức này.
Đức,
là năm chữ, nhân nghĩa lễ trí tín. Nhân là yêu người, suy mình ra người, điều
mình không muốn, chớ làm cho người khác. Trong xã hội hiện nay không thấy được, nhân không còn,
quan hệ giữa người với người là hoàn toàn nói về thiệt hơn, không nói về luân lý đạo đức.
Nghĩa là hành vi chính đáng, là hành vi như lý như pháp, cũng chính là
nói, hành vi tương ứng với luân lý đạo đức gọi
là nghĩa. Lễ, lễ không còn nữa, hiện tại ai nói về lễ? Lễ không có, xã hội liền
loạn. Trí, hiện tại không biết gì. Điều cuối cùng, không có lòng tin,
không nói lòng tin, người học lừa dối người. Nhân nghĩa lễ trí tín không còn nữa.
Tiêu chuẩn làm người trước đây của Trung Hoa là ngũ luân, ngũ thường, ngũ luân
ngũ thường mất rồi, thì không phải là người, con người không khác gì cầm thú. Điều con người cao hơn
cầm thú: chính là hiểu được luân thường đạo đức.
Cuối cùng nói đến bát đức, tứ duy là lễ nghĩa liêm sỉ,
bát đức, là trung hiếu nhân ái tín nghĩa
hòa bình. Xã hội bây giờ, mọi người vứt bỏ hết những điều này, không có người học,
không có người giảng, cũng không có người thật làm. Cho nên người hiện tại khổ.
Người ngày xưa vui vẻ, hạnh phúc, vui vẻ từ đâu mà đến? Vui
vẻ từ luân lý đạo đức đến, không liên quan đến địa vị, cũng không liên quan đến
của cải. Khổng Tử không có địa vị cao, cũng không có của cải, cuộc sống gắng gượng
để có thể qua ngày. Trong các học trò, Nhan Hồi thật sự nghèo túng, nghèo đến
ba bữa ăn đều cũng là vấn đề. Nhưng Nhan Hồi với Khổng Tử, bất luận thời điểm
nào, bất luận ở nơi nào, quý vị thấy quý ngài đều nét mặt tươi cười vui vẻ, hạnh
phúc, sự vui vẻ đó của quý ngài từ đâu mà đến? Đặc biệt là Nhan Hồi, ăn cơm bằng
giỏ, uống nước trong bầu. Đó là nghèo túng thực sự, nhưng ngài vui vẻ, trong
3000 học trò của Khổng Tử, ngài là vui vẻ nhất. Hay nói cách khác, vui vẻ,
không liên quan đến giàu nghèo, không liên quan đến địa vị cao thấp, từ đâu mà
đến? Phu tử đã giải đáp cho chúng ta. Câu đầu tiên mở đầu Luận Ngữ, Khổng Tử
nói rằng, 「學而時習之,不亦說乎」“học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học
mà luôn rèn tập những điều được học, chẳng phải vui lắm sao). Duyệt chính
là vui vẻ, là vui vẻ từ trong nội tâm phát ra bên ngoài, đó là vui vẻ thật sự,
đó không phải là giả, đó là niềm vui của Thánh nhân. Người ngày xưa đọc sách ngưỡng mộ niềm vui
của Khổng Nhan, niềm vui của Khổng Nhan là niềm vui của Thánh hiền, là niềm vui
của Phật Bồ-tát.
Thích Ca Mâu Ni Phật trước đây còn tại thế, Ngài sinh ra
là Hoàng tử, nếu Ngài không xuất gia mà ngài kế thừa vương vị, làm quốc vương. Đã
từ bỏ địa vị quốc vương, nhường cho người khác, bản thân xuất gia đi làm khổ hạnh
tăng, giữa ngày ăn một bữa, tối ở dưới gốc cây. Buổi tối nghỉ ngơi ở đâu? Tìm đến dưới một
gốc cây tĩnh tọa. Thời gian nghỉ ngơi mỗi ngày bốn tiếng, cũng là lúc thời
gian mà quý ngài nghỉ ngơi, ngài nghỉ ngơi là tĩnh tọa, buổi tối từ mười giờ
đến hai giờ đêm, bốn tiếng đồng hồ này, gọi là nửa đêm. Nửa
đêm là lúc nghỉ ngơi, thì tĩnh tọa. Hai giờ thức dậy, thức dậy làm gì? Thức dậy
dụng công, có tham thiền, có tu Chỉ Quán, có học kinh giáo, học kinh giáo là đọc
thuộc kinh điển, Tịnh-độ tông là niệm Phật. Khi nào thức dậy niệm Phật? Hai giờ
sáng thì phải thức dậy, lạy Phật, niệm Phật, niệm đến khi trời sáng.
[33:49]
Đến lúc trời sáng ấy,
người xuất gia chuẩn bị đi khất thực, khất thực là buổi
sáng, thường thường tám chín giờ đã phải đi ra ngoài. Người xuất gia sống ở
trên núi, sống ở ven sông, không có nhà cửa, sau khi thức dậy, rửa mặt súc miệng,
tự mình làm thời khóa sáng, sau khi xong thời khóa sáng, ra ngoài khất thực.
Cho nên, quý ngài ở thôn làng, đô thị không phải nơi quá xa, để thuận tiện khất
thực. Bữa trưa ăn trước 11 giờ rưỡi, không được quá 12 giờ, quá 12 giờ sẽ phá
luật trai giới. Trai chính là một bữa cơm trong ngày, đây là quy tắc của đức Phật.
Không được quá trung, trung là 12 giờ, phải ăn xong trước 12 giờ, rửa bát sạch
sẽ. Thời gian này, là lúc Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học.
Giảng kinh dạy học, các đồng học tu học giảng lại,
hoặc là trong thôn xóm, đô thị đều có pháp duyên này, có người thỉnh quý vị đi
giảng kinh. Các vị đệ tử ấy, ai có duyên thì người đó đi, đây
là báo đáp thí chủ cúng dường, chính là tín đồ. Các tín đồ cúng dường tài vật
cho người xuất gia, cúng dường một bát cơm, những gì quý ngài cần; quần áo đã hỏng,
cúng dường một bộ quần áo; quý ngài bị bệnh, cúng dường quý ngài thuốc thang. Vậy
người xuất gia, người xuất gia cúng dường Phật pháp, giảng kinh dạy học, giúp họ
nhập môn, giúp họ hiểu được chánh pháp, giúp họ tu hành, cho nên là bố thí
pháp. Người xuất gia bố thí pháp cho người tại gia, người tại gia bố thí tài
cho người xuất gia. Rất có trật tự, là tấm gương tốt cho đại chúng trong xã hội,
những người ấy đều là người tốt, tại sao vậy? Quý ngài trì giới, quý ngài tu định.
Định, là không ở trên hình thức, mà ở không có vọng niệm, không có vọng tưởng,
không có tạp niệm, không có phân biệt, không có chấp trước, đây chính là định.
Khởi tâm động niệm, định liền không còn nữa, phân biệt chấp trước, vậy liền tạo
nghiệp rồi.
Cho nên chỗ này trong kinh dạy chúng ta, bên ngoài quý vị
nhìn thấy: những người xuất gia, người tu hành chậm rãi, làm điều gì đều là
thong thả, không luống cuống không khoa trương, nhưng bên trong không vậy, 「內獨駛急」“nội độc sử cấp” (bên trong luôn nhanh chóng). “Sử cấp”, trong chú giải nói, 「駛者疾速」 “sử giả tật tốc” (sử là mau lẹ), nhanh chóng, 「急者緊急、急速」“cấp giả khẩn cấp, cấp tốc” (cấp là khẩn cấp, cấp tốc). Đó là gì? Lòng cầu đạo khẩn thiết. Hôm qua thầy đã nói,
có nghe hiểu rõ không, có thực hiện trong cuộc sống không, đó gọi là chân thật
tu hành. Nghe được Phật pháp, mà Phật pháp không liên quan với cuộc sống của
bản thân, không liên quan đến sự nghiệp của chính mình, không liên quan đến đối
người tiếp vật của bản thân, vậy không thể gọi là học uổng phí! Đã học có tác
dụng thật sự, quý vị thật sự dùng được, hỷ pháp sung mãn, thật hanh phúc vui vẻ!
Cho nên bất luận là giảng kinh, là tu quán, hay là tu định, thậm chí học thuộc
kinh điển, nghiên cứu thảo luận, những chương trình học này đại khái đều vào
buổi chiều, sau khi khất thực. Đem bộ đồ ăn rửa sạch sẽ, đều sắp đặt xong xuôi,
lúc này chương trình học được bắt đầu.
[41:52]
Trước đây Thế Tôn còn tại thế, giảng kinh dạy học 49 năm,
ngài [giảng] có thứ tự, đầu tiên giảng A Hàm, Tiểu thừa, cũng chính là lớp Tiểu học mà
ngày nay
chúng ta nói. Tiểu học bao lâu? 12 năm, [là] giáo dục cắm rễ, Tiểu học chúng ta ngày nay sáu năm, [còn] Tiểu học của đức Phật là 12
năm. Trung học của chúng ta sáu năm, trung học của đức Phật tám năm, giảng
Phương Đẳng. Cao hơn nữa, là Đại học. Giáo dục Đại học hiện nay, chính quy ba
năm, bốn năm, thông thường đều là vậy, Đại học của Thích Ca Mâu Ni Phật là
22 năm. Tám năm cuối cùng đó là Viện nghiên cứu. Ở Đại học, học sinh gọi là Bồ-tát,
ở Trung học, học sinh gọi là A-la-hán, là Bích-chi-Phật.
Tốt nghiệp Tiểu học thì chứng quả A-la-hán, Đại học là Bồ-tát,
từ Đại học đến Viện nghiên cứu, thì thành Phật, hoặc chúng ta xưng các ngài là
pháp thân Bồ-tát, đó đều là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Cho nên, quý
vị phải làm rõ ràng làm sáng tỏ điều này, Thích Ca Mâu Ni Phật là tôn giáo nào?
Ngài không giống các tôn giáo thông thường, ngài là dạy học, Ngài là trường học.
Tuân theo lời dạy của Phật, đây chính là kinh luật luận những điển tịch này, tu
sửa khởi tâm động niệm của chính chúng ta, hành vi của ý nghiệp, hành vi của
tâm lý; tu sửa ngôn ngữ, nghị luận của chúng ta; tu sửa động tác việc làm của
thân thể chúng ta, nhất cử nhất động phù hợp với quy củ.
Điều quan trọng nhất là
tâm thanh tịnh, tựa đề kinh của chúng ta, nửa đoạn trên là nói về quả báo, nửa
đoạn dưới nói về tu hành, trước là nói về quả, sau nói về nhân, đây là điều
Phật pháp thường thấy. Tại sao nói đến quả? Quý vị ưa thích, sau đó nói với quý
vị, quý vị muốn được quả này, quý vị nên tu thế nào. Tựa đề Kinh Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đây là quả báo. Đại thừa là
trí huệ, trí huệ viên mãn; vô lượng thọ là đức hạnh, đức hạnh cứu cánh nhất
viên mãn nhất, vô lượng thọ, ai mà không thích? Quý vị muốn có trí huệ không?
Quý vị muốn phước báo không? Phước báo thật sự là vô lượng thọ; trang nghiêm là
tất cả đều tốt đẹp, tất cả đều vừa lòng đẹp ý. Học Phật có lợi ích gì? Lợi ích ở
chỗ này, trên tựa đề kinh đã thể hiện ra rồi.
Cách tu như thế nào? 「清淨平等覺」“thanh tịnh bình đẳng giác” (thanh tịnh bình đẳng giác). Thanh tịnh là A-la-hán, là Tiểu học của
Phật giáo, chú trọng tâm thanh tịnh; bình đẳng là Đại thừa, Phương Đẳng, Bát
Nhã, là đại định; giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, là đã thành Phật.
Chúng ta cũng có thể nhìn nhận theo cách thế này, thanh tịnh là A-la-hán, bình
đẳng là Bồ-tát, giác là Phật, ba học vị này. Làm thế nào mới có được học vị
này? Tâm thanh tịnh có được học vị A-la-hán, tâm bình đẳng có được học vị Bồ-tát,
đại triệt đại ngộ có được học vị Phật. Đây là danh xưng ba học vị này trong Phật
giáo, ai ai cũng có thể đạt được, ai ai cũng nên nắm lấy. Phải dùng cách nào?
Đoạn kinh văn này rất quan trọng, trong này có sáu câu, 24 chữ, chỗ này rất
quan trọng.
[48:42]
Chúng ta xem Niệm lão chỉ dẫn cho chúng ta, 「外若遲緩,內獨駛急」“ngoại
nhược trì hoãn, nội độc sử cấp” (Bề
ngoài thong thả, bên trong chỉ nhanh chóng) hai câu này, 「指其表現於外者,寬緩安閑,渾若無事」“chỉ kỳ
biểu hiện ư ngoại giả, khoan hoãn an nhàn, hồn nhược vô sự” (chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài, thong dong nhàn hạ, hoàn toàn như không
có chuyện gì). Quý vị thấy ngài rất tự tại, đây là bên ngoài. Trong Luận Ngữ
của Trung Hoa ghi lại, Khổng phu tử, học trò tán thán thầy, là sự thật, không
phải giả, Khổng Tử bất kể vào lúc nào, bất kể ở nơi nào, quý vị thấy ngài, quý
vị có thể nhìn thấy ngài ôn lương cung kiệm nhượng. So sánh với câu này để thấy, những biểu
hiện ở bên ngoài, phu tử ôn hòa, lương thiện; quý vị nhìn vào đây, thong dong
nhàn hạ, hoàn toàn như không có gì, điềm nhiên như không có việc gì, nhàn nhã
tự tại. Phu tử giảng càng cụ thể, ôn hòa, lương thiện, cung kính, đối người đối
việc đối vật quý vị thấy ngài cung kính, tiết kiệm, khiêm nhường, khiêm tốn,
mọi thứ đều có thể nhường người khác. Nhường là không
tranh giành, tranh giành là không tốt.
Người ngoại quốc, trước đây tôi ở nước Mỹ, nhìn thấy những
đứa trẻ: trong nhà các tín đồ đi nhà trẻ, cha mẹ đều dạy con trẻ phải cạnh
tranh, không được rớt lại phía sau người khác. Cho nên, trẻ con từ nhỏ áp lực rất
lớn, cha mẹ hy vọng chúng có thành tích tốt, hy vọng chúng mọi thứ đều hơn các bạn
học khác, giáo dục như vậy không tốt. Giáo dục Trung Hoa từ xưa đến nay, dạy trẻ
nhỏ nhường nhịn, từ nhỏ đã phải dạy; nhường nhịn tiến lên cao hơn, là khiêm nhường,
khiêm tốn, khiêm nhường; cao hơn nữa, lịch thiệp. Từ nhỏ nhường đến cùng, không
tranh giành với người khác, cho nên tranh đấu của xã hội này từ đâu đến? Chiến
tranh ở đâu đến? Không thể nào. Hiện nay đấu tranh, chiến tranh đều xảy ra ở mọi
nơi, khắp nơi đều là chiến trường, nguy cấp như vậy! Người sống trong thế gian
này, giành giật, cạnh tranh, khổ nhiều, vất vả biết bao! Giành được lại sợ mất
đi, cho nên tranh cũng khổ, không tranh cũng khổ.
Tổ tiên không dạy chúng ta như vậy, Nho với Đạo đều không
nói về cạnh tranh, Phật cũng không dạy cạnh tranh. Làm sao có thể qua được đời
này một cách an nhàn vô sự? Không tranh với người, không cầu ở đời, thì đạt được
an nhiên vô sự. Thứ cần trong cuộc sống rất ít, thật sự học Phật, cuộc sống đơn
giản, mỗi ngày ăn một bữa cơm. Thầy tôi Cư sĩ Lý Bính Nam, tôi theo thầy 10
năm, thấy thầy mỗi ngày ăn một bữa. Thầy nói với tôi, thầy học Phật từ lúc 30
tuổi, hơn một năm thầy đã học ăn một bữa vào giữa ngày, cho nên
thầy mấy mươi năm ngày ăn một bữa, ăn rất ít. Khối lượng công việc: là khối lượng
công việc của năm người bình thường, cũng chính là nói, những việc thầy làm một
mình là những việc được năm người cùng làm, thầy bao được tất cả, không có người
giúp sức.
[Ăn] một bữa được không? Thời gian tôi theo thầy Lý, tôi
31 tuổi, 33 tuổi xuất gia, lúc đó tôi ăn hai bữa, đã bỏ bữa tối rồi, trước khi
xuất gia đã bỏ rồi. Cho nên, từ hai bữa tiến vào một bữa không khó, tôi ăn hai
bữa có hai, ba năm, thì tôi đã ăn một bữa, học theo thầy Lý. Nhưng một bữa của
tôi ăn nhiều hơn thầy, thầy là người Sơn Đông, thích đồ ăn từ bột mỳ, nói với
tôi, người học Phật ngày ăn một bữa, hai bữa, bột mỳ nhiều dinh dưỡng hơn gạo,
thầy khuyên tôi ăn thức ăn từ bột mỳ. Tôi mỗi ngày, phải ăn ba chiếc bánh bao
nhỏ, một đồng một cái, một bữa phải mất ba đồng, còn thầy chỉ cần hai đồng, một
bữa của thầy hai đồng, Đài tệ. Đài tệ, một đô la Mỹ đổi sang Đài tệ, hình như
vào thời điểm đó là 34 đồng. Quý vị nghĩ xem, một bữa của thẩy chỉ có hai đồng,
một tháng 60 đồng, 60 đồng đại khái chỉ một đô la rưỡi. Quý vị nói thầy có tự tại
không, cuộc sống rất đơn giản, rất dễ dàng, trong lòng ngập tràn vui vẻ. Mỗi tháng tôi ăn uống phải 90 đồng, thầy 60 đồng
đã giải quyết được rồi, điều này tôi không theo kịp thầy. Tôi ăn đến tháng thứ tám tôi mới nói với
thầy, thầy hỏi tôi, cơ thể thế nào? Tôi nói rất bình thường. Thầy đập một phát
vào bàn, mãi mãi tiếp tục làm điều đó, cả đời không cầu
người khác. Người đến không cầu nhân phẩm tự cao, quý vị nhiều vọng niệm, hy vọng
nhận được nhiều, vậy rất khổ, buông xuống tất cả, một chút trong cuộc sống: quý
vị đã có thể tiếp tục sống rất bình thường, rất tốt!
[59:20]
33 tuổi xuất gia, 26 tuổi tôi học Phật, đến 33 tuổi xuất
gia, là bảy năm. Bảy năm này, tôi ở Đài Trung học 13 bộ kinh với thầy Lý, 13 bộ
kinh này đều có thể giảng, trong này có Kinh Kim Cang, có Phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện, có Kinh A Di Đà. Cho nên tôi vừa xuất gia liền dạy Viện Phật học, rồi
tiếp nhận một vài đạo tràng Cư sĩ: mời tôi giảng kinh. Giảng kinh, dạy học cùng
tiến bộ. Sau khi thọ giới, cảm thấy 13 bộ kinh này không phải đại kinh, tôi lại
về Đài Trung, sống cùng thầy Lý tròn mười năm, học hai bộ đại kinh. Học trọn vẹn
Kinh Lăng Nghiêm, từ đầu đến cuối, tôi nghe thầy giảng một lần, tôi cũng có thể
giảng lại một lần. Sau đó học Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm là bộ phận lớn nhất
trong kinh điển. Tôi nghe thầy giảng, 80 quyển, tôi nghe thầy giảng quyển thứ
nhất, nghe hết quyển thứ nhất xong, sau đó tôi đều có thể giảng được rồi. Tôi rời
Đài Trung về Đài Bắc, ở Đài Bắc giảng Kinh Hoa Nghiêm. Cả đời dạy học, giảng
kinh, vui không biết mệt.
Không thế độ cho ai, cho nên có người hỏi tôi, thầy có Đệ
tử không? Không có, chỉ có thính chúng. Nhất là 20 năm gần đây, chúng tôi sử dụng
mạng Internet, dùng truyền hình vệ tinh, công cụ này tốt. Cho nên, thính giả rất
nhiều, họ biết tôi, tôi không biết họ, tôi mới có thanh nhàn tự tại. Đây là tôi
học Đại sư Ấn Quang, Đại sư Ấn Quang cả đời không xuống tóc cho ai, tại sao vậy?
Đây là thời mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, căn tánh của người không như trước,
thiện căn phước đức nhân duyên: đều không thể so với người xưa, nếu quý vị xuống
tóc quý vị phải chịu trách nhiệm. Cho nên đời này tôi chỉ có đồng tu, chúng ta
cùng đến tu học Phật pháp, cùng đến học tập Tịnh-tông, không dám thế độ cho người
khác. Họ muốn có thể thành tựu, nương theo cổ nhân làm thầy là tốt rồi, đây
cũng là điều lão Cư sĩ Lý Bính Nam dạy tôi. Chính chúng ta thật sự có thể tự
thành tựu, thật sự có duyên phận này, có thể; Chúng tôi không có duyên phận
này, không có chùa chiền, không có đạo tràng, lang thang khắp chốn, cho nên việc
này không thể làm. Chúng ta muốn chính mình trong đời này, thật sự đến được niềm vui đọc sách, niềm vui dạy
học: như chư Phật Bồ-tát, cổ Thánh tiên Hiền, là tốt. Học trò có thể thành tựu hay không, thật ra mà nói, chỉ cần quý vị đầy đủ: thật thà, nghe
lời, thật làm, thì chắc chắn quý vị có thành tựu.
Đại sư Ấn Quang cả đời
không có đạo tràng, đây là điều tôi học ngài, vì sao vậy? Có
đạo tràng quý vị phải quản người, quý vị phải quản việc, quý vị phải quản tiền,
là xong rồi, quý vị có thể không sanh phiền não không? Quý vị có thể ngày ngày
pháp hỷ sung mãn không? Không làm được. Niềm vui
thật sự giúp đỡ đối với người, người cả đời hạnh phúc, vui vẻ, không dễ dàng
già yếu đi, khỏe mạnh sống lâu, niệm niệm vì người, vì chánh pháp. Đức Thích Ca
Mâu Ni Phật cả đời không có đạo tràng, Ngài có thể thu nhận đồ đệ, lúc đó người
có thiện căn thâm hậu nhiều; ngày nay người có thiện căn thâm hậu rất ít rồi. Với
tôi, thật sự đã phát đại tâm, đi theo tôi, theo một năm, hai năm [thì] thay đổi, rất
nhiều. Tôi thấy tình hình này, tôi còn dám xuống tóc cho người khác sao? Không
xuống tóc cho người khác là chính xác. Chúng ta phải học Hòa thượng Hải Hiền, ngài
nghiêm túc thật sự: một câu Phật hiệu niệm đến cùng, sau này vãng sanh, không
cần người trợ niệm, giống như ngài, tôi tự niệm Phật là đi được rồi. Đây là tấm
gương tốt của chúng ta.
[1:08:39]
Cho nên sự biểu hiện ra ngoài, an nhàn vô sự, nhưng trong
lòng 「精進不已」“tinh tấn bất dĩ” (tinh
tấn không ngừng). Tinh tấn thế nào? 「念念相繼,心心無間」“Niệm niệm tương kế, tâm tâm
vô gián” (niệm niệm tiếp nối, tâm tâm không gián
đoạn), tâm chính là niệm, niệm niệm tiếp nối, niệm niệm không gián đoạn. 「不令剎那失照」“Bất
linh sát-na thất chiếu” (không để một sát-na
nào mất quán chiếu), sát-na là ý niệm đã dừng. Thời gian rất ngắn, một
phút, một giây, ý niệm này dừng lại, ý niệm dừng lại thì sanh ra điều gì? Vọng
niệm khởi lên, đây là sai rồi. Nhất định phải xem xét tốt, niệm trước diệt, niệm
sau sanh, ý niệm này tiếp nối ý niệm kia, tuyệt đối không để tạm thời gián đoạn,
người đó gọi là tinh tấn thật sự. Công phu niệm Phật như vậy, ba năm liền có thể
chứng đắc công phu thành phiến. Sau khi đạt được công phu thành phiến, thật sự
có công phu giới định huệ. Lên cao hơn nữa, [là] sự nhất tâm bất loạn, tại sao
vậy? Việc nâng cao này, vãng sanh đến phẩm vị cao của thế giới Cực Lạc, không
phải sanh đến Phàm Thánh Đồng Cư Độ, mà là sanh đến Phương Tiện Hữu Dư Độ.
Trong Phương Tiện Hữu Dư Độ, là nơi tu học của các ngài tứ quả A-la-hán. Nếu
nâng cao hơn nữa, lên cao đến lý nhất tâm bất loạn, chính là đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, đây đương nhiên là điều tốt nhất, sanh đến Thật Báo Trang
Nghiêm Độ, đến thế giới Cực Lạc, thấy báo thân của A Di Đà Phật. Nếu là lục đạo
phàm phu, công phu thành phiến vãng sanh, sanh đến Phàm Thánh Đồng Cư Độ, vị
trí này rất thấp.
Thế giới Cực Lạc chính xác có: bốn cõi, ba bậc, chín phẩm,
giống như một trường học viên mãn, có Viện nghiên cứu, có Đại học, có Trung học,
có Tiểu học. Nhưng điều thù thắng không gì bằng: là nguyện lực của A Di Đà Phật,
đến đó chắc chắn có thứ bậc, nhưng đãi ngộ đều viên mãn, đãi ngộ như nhau. Đãi
ngộ trong cuộc sống bình đẳng với Đẳng giác Bồ-tát, dùng tiêu chuẩn của Đẳng
giác Bồ-tát, khiến cho mỗi người vãng sanh, người vãng sanh hạ hạ phẩm: đều là được
đãi ngộ như Đẳng giác Bồ-tát, vậy quá tốt rồi! Đãi ngộ ở Đâu Suất nội viện, trí
huệ, thần thông, đạo lực: đều không khác với Đẳng giác Bồ-tát mấy. Cho nên quý
ngài có năng lực đến cõi nước chư Phật ở mười phương, đi tham học, đi cúng dường
Phật, đi nghe pháp. Giống như A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là hiện vô lượng thân,
phân vô lượng thân, đến mười phương thế giới tiếp dẫn người vãng sanh. Sanh đến
thế giới Tây Phương Cực Lạc, là có khả năng của A Di Đà Phật, phân thân, cũng
phân vô lượng thân, giống như A Di Đà Phật, đến cõi nước mười phương chư Phật, để
cúng dường Phật, đi nghe pháp. Điều này, Thích Ca Mâu Ni Phật: 49 năm giảng
kinh thuyết pháp trước đây chưa nói đến, chỉ có thế giới Cực Lạc có.
Cho nên, tại sao chúng ta phải vãng sanh thế giới Cực Lạc?
Vãng sanh thế giới Cực Lạc, có thể nói tương đương với thành Phật, khoảng cách
thành Phật rất xa, tương đương với thành Phật. Trí huệ của Phật, đức năng của
Phật, thần thông của Phật, niềm vui của Phật đều có, điều này rất khó đạt được!
Quý vị thật sự làm rõ ràng, làm tường tận, quý vị có thể không đi ư? Hôm nay
chúng ta muốn đi, nhưng lại không muốn rời khỏi nơi này, vậy là thế nào? Chưa
nhận thức rõ ràng đối với nơi này, cũng chưa nhận thức rõ ràng đối với thế giới
Cực Lạc. Nếu sau khi quý vị rõ ràng tất cả hai bên, thì thái độ sẽ hoàn toàn
khác.
[1:16:13]
Chúng ta xem tiếp giải thích dưới đây, dung dung, 「容容者,和同之義」“dung
dung giả, hòa đồng chi nghĩa” (dung
dung nghĩa là hòa đồng), hòa thuận, đồng tâm. Tâm thế nào? Sáu căn tiếp xúc
cảnh giới lục trần, không khởi tâm động niệm, là đồng tâm với Pháp thân Bồ-tát;
Nếu vẫn có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, là đồng tâm của Bồ-tát,
đồng tâm với Bồ-tát; vẫn còn phân biệt, không có chấp trước; đồng tâm với
A-la-hán, Bích-chi-phật. Phải học, hòa là quan trọng. Phật dạy chúng ta Lục hòa,
thứ nhất là “kiến hòa đồng giải”. Điều này phải học Phật, chúng ta đối với vũ trụ, Phật
pháp giảng khắp cả pháp giới hư không giới, chính là vũ
trụ mà người bình thường chúng ta nói đến. Vạn vật, vạn pháp cùng một thể, cùng
là do Tự-tánh sanh ra. Tự-tánh của ai? Tự-tánh của chính mình. Đây là căn bản của
Lục hòa. Làm cách nào hòa? Đồng thể, từ chỗ này kiến lập lục hòa, không có điều
này, hòa không thể khởi lên. Quý vị xem, Lục hòa mọi người đều biết, quý vị là
hòa không khởi lên, không chỉ người nhà quý vị bất hòa, anh em bất hòa, đoàn thể
bất hòa, không một nơi nào quý vị có thể làm được hòa. Tại sao vậy? Quý vị
không có gốc rễ. Người thế nào mới có thể tu Lục hòa? Cách vật, trí tri, thành
ý, chánh tâm, thì có tư cách tu Lục hòa. Không có thành ý, chánh tâm, dựa vào
đâu để hòa?
Tu thành ý, chánh tâm như thế nào? Đó là nhìn thấu được,
buông xuống. Nhìn thấu là trí tri được nói trong sách Đại Học, nhìn thấu là trí
tri, buông xuống là cách vật. Phật với Nho, cùng với tổ tiên Trung Hoa, cổ
Thánh tiên Hiền đều như nhau, cho nên tôi nói, Văn Vũ Chu Công, Khổng Mạnh Lão
Trang của chúng ta: nếu sanh tại Ấn Độ, người Ấn Độ sẽ xưng các ngài là đức Phật,
Bồ-tát; nếu Thích Ca Mâu Ni Phật sanh tại Trung Hoa, người Trung Hoa sẽ xưng
ngài là thánh nhân. Hai nơi xưng hô khác nhau, thứ bậc của quý ngài là ngang
nhau, đại triệt đại ngộ của quý
ngài là ngang nhau, đều bình đẳng. Chúng ta hiểu rõ đạo lý
này, quay về xem lại: kinh điển của các
tôn giáo khác, quý vị hãy xem kĩ càng một lượt, cũng là cảnh giới như nhau, thì
mới hoát nhiên đại ngộ.
Tôi giảng kinh ở Nhật Bản, đến thăm lão Hòa thượng Trung
Thôn Khang Long, năm đó là ngài 100 tuổi, tôi đi thăm ngài. Gặp mặt ngài liền nói
với tôi, người sáng lập các tôn giáo toàn thế giới: đều là hóa thân của Bồ-tát Quán
Thế Âm. Nói với tôi một câu như vậy. Đệ tử Kiều Bổn của ngài, lúc tôi ra về, ngài
tiễn tôi ra tận cổng, nói với tôi: những lời này mà hôm nay lão Hòa thượng nói
với ngài, chúng tôi chưa từng nghe nói qua trong đời này, vì sao Sư phụ lại muốn
nói với ngài? Bởi tôi đang làm đoàn kết tôn giáo, ngài đang khích lệ tôi. 32 ứng
thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, cần dùng thân nào độ được liền hiện ra thân đó,
cho nên ngài nói người sáng lập các tôn giáo: đều là Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài
nói rất đúng, nói không sai! Chúng ta có được nhận thức này, mới có thể bước
vào Lục hòa kính, nếu quý vị không có nhận thức này, thì không hiểu được đối với
chân tướng thật sự này, không có cách nào hòa. Thật sự hiểu được biến pháp giới
hư không giới: là một Tự-tánh, là thể, bản thể được nói trong Triết học, tất cả
mọi việc mọi vật của toàn bộ vũ trụ, đều là từ một thể biến hiện ra. Cho nên, mối
quan hệ là gì? Cùng một thể. Trong kinh thường nói, đồng thể đại bi, vô duyên đại
từ, vô duyên chính là không điều kiện, đều là yêu thương, yêu thương vô điều kiện,
thương xót vô điều kiện. Bi là thương xót, chúng sanh đang chịu khổ, chúng sanh
chịu khổ là chính mình chịu khổ, chúng sanh được vui là chính mình được vui, điểm này Phật pháp thực sự giảng tường tận
nhất rõ ràng nhất.
Tiếp theo, Niệm lão trích ra trong Tả Hùng Truyện đời Hậu
Hán, trong Tả Hùng Truyện có câu này, 「容容多後福」“dung dung đa hậu phước” (bao dung chứa
đựng nhiều phước dày). Phước tướng chính là hòa đồng, thật sự cùng một thể
với chúng sanh, tự nhiên liền có thể chung sống hòa thuận, có thể bao dung. Có
thể bao dung, có thể chung sống, có thể sanh tâm từ bi, người đó về sau đương
nhiên phước vô cùng. Có muốn không? Trong phước bao gồm giàu có, thông minh trí
huệ, khỏe mạnh sống lâu, đây đều là phước. Cho nên, quý vị muốn tu phước, Lục
hòa kính là tu đại phước báo. Làm về đoàn kết tôn giáo, nhất định phải đem tôn
giáo đó: xem thành một thể với tôn giáo của mình. Tại sao lại có hai tôn giáo?
Bởi vì căn tánh chúng sanh khác nhau, họ thích chúa Giê-su, thì hiện tướng chúa
Giê-su; họ thích Quán Âm, thì hiện tướng Quán Âm. Bản thân có khởi tâm động niệm
không? Không, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, cảm ứng đạo giao, chúng
sanh có cảm, đức Phật liền có ứng. Bản thân đức Phật không có động một ý niệm,
tôi muốn hiện thân nào, tôi cần giảng về pháp nào, không có, trước giờ không có
khởi tâm động niệm, giảng kinh dạy học cũng không có khởi tâm động niệm, tuyệt
diệu! Tuyệt diệu không thể nói. Lời Ngài nói là từ Tự-tánh lưu xuất ra, từ Tự-tánh
phát ra, chúng ta nói đó là lời chân thật. Lời nói của chúng ta là từ A-lại-da
lưu chuyển ra, A-lại-da là giả; hay nói cách khác, lời nói của chúng ta là lời
giả, Phật cùng Pháp thân Bồ-tát là lời thật. Câu này hay, bao dung chứa đựng nhiều
hậu phước, quý vị muốn giàu có, quý vị muốn thông minh trí huệ, quý vị muốn khỏe
mạnh sống lâu, quý vị phải bao dung hơn, quý vị mới làm được, quý vị không thể
bao dung thì không làm được. Câu này không phải lấy từ kinh Phật, mà ở trong Hậu
Hán Thư.
「今經容容虛空,指聖眾之心和同於虛空」“Kim kinh dung dung hư không, chỉ thánh chúng chi tâm hòa đồng ư hư không” (Câu dung dung hư không trong kinh này, chỉ tâm của thánh chúng hòa đồng
với hư không), hư không là gì? Tự-tánh, cùng một chân tâm, cùng một Tự-tánh.
「虛空無邊際,故自心無邊際。虛空無一物,故自心亦無物。虛空以空無故,森羅萬象十方剎土依空而生。虛空建立萬物,故自心亦建立萬物。無一物,故不落有邊,容萬物,則不落空邊。無一物而容萬物,雙照空有;容萬物而無一物,則空有俱泯,從容中道。故云適得其中。」“Hư không vô biên tế, cố tự tâm vô biên tế. Hư
không vô nhất vật, cố tự tâm diệc vô vật. Hư
không dĩ không vô cố, sum la vạn tượng thập phương sát độ y không nhi sanh. Hư
không kiến lập vạn vật, cố tự tâm diệc kiến lập vạn vật. Vô nhất vật, cố bất lạc
hữu biên, dung vạn vật, tắc bất lạc không biên. Vô nhất vật nhi dung vạn vật,
song chiếu không hữu; dung vạn vật nhi vô nhất vật, tắc không hữu câu mẫn, tùng
dung trung đạo. Cố vân thích đắc kỳ trung” (Hư không không có biên giới, nên tâm mình cũng không có biên giới. Hư
không chẳng có một vật, nên tâm mình cũng chẳng có một vật. Do hư không trống rỗng,
nên sum la vạn tượng mười phương cõi nước đều nương vào hư không mà sanh. Hư
không tạo dựng vạn vật, nên tâm mình cũng tạo dựng vạn vật. Không có một vật,
nên chẳng rơi vào hữu biên. Dung chứa vạn vật, nên không bị rơi vào không biên.
Chẳng có một vật mà lại dung chứa vạn vật, nên chiếu được cả không lẫn có; chứa
đựng vạn vật mà lại không có một vật nào cả, nên không lẫn hữu đều mất, ung
dung trung đạo. Nên gọi là thích đắc kỳ
trung). Đoạn văn này thật tuyệt diệu,
chư vị đã
xem đã nghe, có hiểu không? Nếu nghe hiểu rồi, chúc mừng quý vị,
khoảng cách quý vị tới Đại thừa không xa nữa; Nếu nghe không hiểu, xem không hiểu,
thì đọc nhiều, người xưa nói đọc sách ngàn lần, sẽ tự thấy nghĩa của sách, quý
vị đem đoạn: quý vị vừa đọc này đọc 300 lần xem. Quả thực có
không ít người [đọc] 300 lần, 500 lần, đã hiểu rõ, đã thông suốt. Tại sao vậy? 300 lần, 500
lần đó là tu định. Tôi đọc đoạn kinh văn này rất rõ ràng, không phân biệt,
không chấp trước, không đọc sai chữ, không đọc sót. Trong lúc đọc, không xen
lẫn vọng tưởng, không phân biệt chấp trước, rất thành thật để đọc, đọc đi đọc
lại, đọc ba trăm lần, năm trăm lần, thật sự, tự nhiên sẽ hiểu rõ.
Cảnh giới này, mỗi người giảng kinh, người xuất gia, hay
tại gia đều
có, đều có kinh nghiệm này. Gặp khó khăn trong kinh
văn, thì phải làm sao? Tra chú giải, nếu cách giải thích khác nhau, khiến chúng
ta càng khó lựa chọn. Lúc này phải làm sao? Buông xuống tất cả, nhất tâm chuyên
niệm, đây
chính là nói tôi không đòi hỏi dùng bộ não, mà tôi dùng thiền định.
Không dùng bộ não chính là tôi không dùng vọng tâm, thiền định tiếp cận chân
tâm, là “tịnh cực”, tịnh đến vô cùng, “quang thông đạt”, đó chính là giác ngộ, khai ngộ rồi, hiểu rõ
rồi, dùng cách này. Khi mới học, chúng ta là phàm phu, hai phương pháp này cùng
hỗ trợ lẫn nhau, cần dùng suy nghĩ, thì dùng suy nghĩ, cần dùng thiền định thì
nên đọc kinh, niệm kinh là tu thiền định. Định với huệ cùng vận dụng, bình đẳng
khởi tác dụng, có thể giúp chúng ta thể hội được.
[1:33:40]
Đoạn văn này nói rất hay, 「聖眾之心」“thánh chúng chi tâm” (tâm của thánh chúng),
hai chữ thánh chúng là chỉ: tất cả chúng sanh vãng sanh thế giới Cực Lạc. Tại
sao vậy? Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc đều là Bồ-tát, vãng sanh bậc hạ hạ phẩm
ở Phàm Thánh Đồng Cư Độ: cũng là Bồ-tát. Tuy phiền não tập khí chưa dứt, nhưng
trí huệ thần thông đạo lực của quý ngài, được gia trì bằng 48
nguyện của A
Di Đà Phật, gần giống như A Di Đà
Phật, phàm phu chúng ta nhìn không ra. Cho nên, tâm tự hòa đồng, bốn chữ này phải
nhớ kĩ, phải đem chữ này thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, phải đem những chữ này thực
hiện trong công phu học Phật. Thực sự mà nói, Phật pháp không khó, đặc biệt là
Tịnh-tông, tại sao Tịnh-tông lại học khó như vậy? Là tâm quý vị: chưa hòa chưa đồng với tất cả muôn vật,
nguyên nhân là ở chỗ này. Nếu quý vị thật sự hòa, thật sự đồng, thì quý vị khế
nhập cảnh giới không khó. Hòa đồng đến mức độ nào? Hòa đồng đến không
lộ dấu vết nào, hòa đồng thật sự, giống như hư không, đây chính là
tự nhiên, trung đạo tự nhiên.
Niệm lão dùng hư không làm ví dụ, hư không không có biên
giới, bản thân chúng ta khởi tâm động niệm, vậy tâm cũng không có biên giới, niệm
cũng không có biên giới, tự tâm không có biên giới, hư không chẳng có một vật,
tự tâm cũng chẳng có một vật. Chúng ta nhìn từ đâu? Nhìn từ màn hình ti vi,
hình ảnh màn hình ti vi ở trước mặt chúng ta, nó có một vật nào không? Người
không biết nhìn, dính tướng rồi, có! Hình ảnh này đang chuyển động, có nói có
cười; người nhìn thấu được, khi kênh đài đóng lại, sẽ không còn nữa. Lúc kênh đài
này đóng, sắc tướng không còn, âm thanh không còn nữa, màn hình là một tấm trống
không. Đem màn hình làm ví dụ năng sanh năng hiện, kênh đài là sở sanh sở hiện,
năng sở như nhau, năng sở đều bất khả đắc. Cho nên, lúc xem ti vi có thể thấy:
màn hình và kênh đài hòa hợp với nhau, tuy hòa hợp với nhau, nhưng mỗi thứ mỗi
khác. Quý vị thấy kênh đài đã tắt đi, không gây trở ngại đến màn hình, hai thứ
đó không trở ngại lẫn nhau, một thứ là như như bất động, một thứ là một giây,
chính là nói lấy giây làm đơn vị, một giây sanh diệt 100 lần, hình ảnh này, 100
lần một giây này là tần suất dao động sóng, chúng ta đã mê, cũng không nhìn thấy
như như bất động ở trong đó, cũng không thấy động ở trong bất động. Có thể sanh
pháp tướng là pháp tánh, pháp tánh là màn hình, pháp tướng là kênh đài.
Cho nên, thật sự là hư không chẳng có một vật, thì tự tâm
cũng không có vật nào, phải hiểu rõ đạo lý này. Vì sao vậy? Đã thật làm rõ
ràng, làm sáng tỏ rồi, không dính nhị biên, trung đạo không tồn tại, quý vị thật
sự đã quay về với Tự-tánh. Kênh đài là vọng tâm, màn hình là chân tâm, chân tâm
không thể được, vọng tâm càng không thể được. Cho nên phải buông xuống tất cả
các pháp trên thế gian này, cũng phải buông xuống Phật pháp, Phật pháp là màn
hình, thế gian pháp là kênh đài. Thật sự, chân thật mọi thứ không có một vật, thứ
gì cũng chẳng có, những thứ của vọng là ảo tướng: được sinh ra bởi dao động
sóng trong 1% của giây, thời gian tồn tại của chúng là 1% của giây. Phật nói với
chúng ta, hiện trước chúng ta, những gì mà mắt thấy được, những gì tai nghe được,
những gì mà sáu căn tiếp xúc được, dường như thật sự bày ra trước mặt chúng ta,
thời gian tồn tại của chúng bao lâu? Không phải bao nhiêu năm bao nhiêu tháng
bao nhiêu ngày, không phải, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một búng tay này
sanh diệt bao nhiêu lần? 320 ngàn tỷ, một búng tay này. Một giây có thể búng
bao nhiêu lần? Có người nói với tôi có thể búng được bảy lần, tôi tin có thể,
tôi một giây có thể búng khoảng bốn lần, so với lúc tôi còn trẻ, sức khỏe cường
tráng, búng được nhanh, có thể búng được bảy lần. 320 ngàn tỷ nhân với bảy,
chính là một giây, con số tính ra được, là 2 triệu 240 ngàn tỷ, đơn vị không phải
nghìn, không phải vạn, là ngàn tỷ, trong một giây. Khái niệm cũng không có, điều
đó quá nhanh. Những gì mà chúng ta thấy đều là tướng tương tục, tướng này nối
tiếp tướng kia, không giống nhau, tương tục là giống
nhau, chúng khác nhau, mỗi bức hình đều khác nhau, không có hai bức hình nào
giống nhau. Cho nên nói với quý vị, là giả tướng.
[1:43:15]
Quý vị thật sự làm rõ ràng làm tường tận, quý vị mới có
thể buông xuống, buông xuống tất cả gánh nặng, để chính mình trở về với không
có một vật. Đại sư Lục tổ Huệ Năng nói, 本來無一物,何處惹塵埃」“Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ
trần ai” (Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi
trần), đây là gì? Cả Phật pháp cũng đã buông xuống, quý vị thật sự đã thành
Phật. Quý vị còn chấp trước có Phật pháp, quý vị vẫn là phàm phu, thì quý vị
chưa thành Phật được. Cho nên, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc nhập Bát-Niết-Bàn, phủ
nhận hoàn toàn tất cả pháp: đã thuyết trong 49 năm, nói có người nói Thích Ca
Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp, đó gọi là phỉ báng Phật, 49 năm một chữ
cũng không nói. Chúng ta hiện tại với câu nói này, đã có một chút khái niệm.
Hai bên tánh tướng đều không thể chấp trước, đều không thể
khởi tâm động niệm, tự tâm cũng không có một vật. Không rơi vào nhị biên, che lấp
chiếu rọi song song. Thật sự rõ ràng, thông đạt rõ ràng, nói có hay nói không đều
không có nói sai; Chưa có thật sự buông xuống, nói có hay nói không đều có vấn
đề. Cho nên, trung đạo là Bồ-tát, không rơi vào bên có cũng không rơi vào bên
không. Trong đây nói rất hay, không có một vật, không rơi vào hữu; dung chứa
muôn vật, không rơi vào không. Không có một vật mà dung chứa muôn vật, chiếu được
cả không lẫn hữu, chính là cũng không cũng hữu; dung chứa muôn vật mà không có
một vật, thì không hữu đều mất, không hữu đều không tồn tại. Thung dung trung đạo,
cho nên nói là thích đắc kỳ trung. Thích, chỉ hòa hợp. Đắc, chỉ khế hội. Trung,
là nói trung đạo. 「如《金剛經》云:應無所住而生其心。」“Như Kim Cang Kinh vân: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Như Kinh Kim Cang nói: nên không trụ vào đâu,
liền sanh tâm ấy). Vô trụ chính là sanh tâm, sanh tâm chính là vô trụ, đây
gọi là trung đạo. Đây là người nào? Bồ-tát, thật hiểu rõ, thật đã buông xuống.
Phật pháp Đại thừa: là xây dựng trên nền tảng lý luận
này, vô trụ sanh tâm, vô trụ là dấu vết trong tâm đều không có, sanh tâm là khởi
tâm động niệm. Phật Bồ-tát phổ độ chúng sanh, khả năng của quý ngài chính là:
sanh tâm đồng thời có vô trụ, đây là chỗ cao minh của quý ngài. Phàm phu chúng
ta, sanh tâm không thể vô trụ, vô trụ không thể sanh tâm, trong tâm nhất định
phải có trụ. Công phu của những người ấy, đây là nói đến công phu thật sự của Bồ-tát,
nhìn thấy rõ ràng, nghe được rõ ràng, hiểu rõ ràng, tường tận, đây là Tự-tánh Bát-nhã
quán chiếu, trong tâm có khởi tâm động niệm không? Không có. Phàm phu chúng ta có khởi tâm
động niệm, khởi tâm động niệm là A-lại-da, rơi vào ấn tượng. Bên trong A-lại-da, giống như kho tàng, nhà bảo tàng, ấn tượng này đặt ở
bên trong, mãi mãi không mất đi, gặp được duyên liền hiện hành lên, vô lượng kiếp
trước, vô lượng kiếp sau đều ở trong đó,
vọng tâm. Mắt thấy tai nghe đều thu thập vào đó lưu trữ, gặp được duyên
liền hiện hành lên, duyên này chính là mười pháp giới, thiện duyên pháp giới bốn
thánh, thành Phật đạo, độ chúng sanh; mặt trái là ác duyên, ác duyên là lục đạo
luân hồi, nó là hiện những thứ này.
Ngày nay chúng ta là nó hiện ở cõi người trong lục đạo.
Phật đặc biệt tán thán cõi người trong thập pháp giới, vì sao vậy? Chúng sanh ở
cõi này dễ giác ngộ, dễ giáo hóa, các đường khác đều khó, vì sao vậy? Chấp trước
rất nặng. Chúng ta ở đây có chấp trước, tương đối nhẹ, còn có cơ hội có thể
giác ngộ. Còn chúng sanh trong các cõi khác giác ngộ rất khó, người cõi trời rất
vui vẻ, vui nhiều khổ ít, đem chuyện này quên đi, quý vị bảo họ tu hành, họ cảm
thấy rất phiền toái, rất khổ, họ không muốn làm; ba đường ác rất khổ, cũng không
dễ dàng tiếp nhận. Chỉ duy nhất cõi người, khổ nhiều vui ít, dễ giác ngộ. Cho
nên, Phật đều xuất hiện trong
nhân đạo, thiên đạo ngài cũng đến, ba đường ác Ngài cũng đến, độ hóa chúng
sanh, làm cho chúng sanh thật sự có thành tựu, có thể siêu việt, cơ hội trong
nhân đạo nhiều nhất.
Chúng ta phải học Kinh Kim Cang, hai câu này là trung
tâm, cốt lõi của kinh đó,「應無所住,而生其心」“ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (nên không trụ
vào đâu, liền sanh tâm này), vì sao vậy? Vô trụ đồng thời với sanh tâm.
Không như phàm phu, phàm phu vô trụ không thể sanh tâm, sanh tâm không thể vô
trụ, chính là họ có chỗ trụ thì họ sẽ sanh tâm, đó là phàm phu. Khả năng này của
Bồ-tát không khởi lên, cũng chính là nói quý ngài có thể buông xuống, phàm phu
không buông được, quý ngài buông xuống triệt để. Vô trụ chính là buông xuống,
chúng ta thông thường nói không rơi vào ấn tượng. Phàm phu rơi vào ấn tượng,
ghi nhớ trong tâm, nhắc đến là biết; Bồ-tát không đặt trong tâm, tâm Bồ-tát
trong sạch, là thanh tịnh bình đẳng giác được nói trong kinh, đây là tâm của Phật
Bồ-tát, chúng ta phải học. Thanh tịnh, không bị ô nhiễm; bình đẳng, không có
phân biệt, vì sao vậy? Là một thể. Một tâm, một thể, có phân biệt gì sao? Cho
nên quý ngài có thể không rơi vào ấn tượng. Chúng ta là phàm phu, thấy sắc rơi
vào ấn tượng của sắc, nghe âm thanh nghe được ấn tượng của âm thanh, không có
cách nào để không rơi vào ấn tượng. Công phu của quý ngài chính là không rơi
vào ấn tượng, cao hơn so với A-la-hán, Bích-chi-phật, A-la-hán, Bích-chi-phật
chưa làm được.
「中表相應」“Trung
biểu tương ưng” (trong ngoài
tương ưng), trung là nội tâm; biểu, biểu hiện ở ngoài. 「菩薩心契中道,得於中而形於外,故表裡一如,自然相應,不必安排造作」“Bồ-tát tâm khế trung đạo, đắc ư trung nhi hình ư ngoại, cố biểu lý nhất
như, tự nhiên tương ưng, bất tất an bài tạo tác” (Tâm
Bồ-tát khế hợp trung đạo, đạt được bên trong và dáng vẻ ngoài, nên trong ngoài
như một, tự nhiên tương ưng, không cần phải an bài tạo tác), cho nên gọi là
「自然嚴整」“tự
nhiên nghiêm chỉnh” (tự nhiên nghiêm chỉnh). Hai
chữ tự nhiên ý nghĩa rất sâu, ý nghĩa rất rộng, người thật sự đến được hòa
thành một thể với đại tự nhiên, niềm vui đó vô cùng, tại sao vậy? Ý nghĩ đều
không có nữa. Chúng ta không có cách nào: để hòa thành một thể với đại tự
nhiên, chính là có vọng niệm. Xả đi vọng niệm, là đã buông xuống tận gốc.
Thời gian đã hết, hôm nay chúng ta học đến đây thôi.
( Hết tập 381)
Nguyện đem công
đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.