TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)
PHẨM 47: PHƯỚC HUỆ MỚI ĐƯỢC NGHE
TẬP 505
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 1 tháng 11 năm 2017.
Dịch giả: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng
tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung
tôn (3 lần)
Mời xem Đại Kinh
Khoa Chú, trang 1098, đếm ngược hàng thứ 6, từ trong 普賢十大願王‘Phổ Hiền Thập Đại
Nguyện Vương’(Phổ Hiền Thập Đại Nguyện
Vương), bắt đầu xem từ đây:
普賢十大願王導歸極樂,今則念念即是彌陀。且十大願王,義理深廣,非是常人,所能發起。而持名一法,普被三根,五逆十惡,亦能依之而度生死。譬如能愈不治之症者,推為良醫之首。是故能度極惡之人者,應稱善法之王。故謂持名,行超普賢。信願持名,定登彼岸,故云行超普賢登彼岸。‘Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Vương đạo quy Cực Lạc, kim tắc niệm niệm
tức thị Di Đà. Thả Thập Đại Nguyện Vương, nghĩa lý thâm quảng, phi thị thường
nhân, sở năng phát khởi. Nhi trì danh nhất pháp, phổ bị tam căn,
ngũ nghịch thập ác, diệc năng y chi nhi độ sanh tử. Thí như năng dũ bất trị chi
chứng giả, thôi vi lương y chi thủ. Thị cố năng độ cực ác chi nhân giả, ưng xứng
thiện pháp chi vương. Cố vị trì danh, hạnh siêu Phổ Hiền. Tín nguyện trì danh, định
đăng bỉ ngạn, cố vân hạnh siêu Phổ Hiền đăng bỉ ngạn.’ (Mười Đại Nguyện Vương Phổ
Hiền dẫn về Cực Lạc, giờ thì niệm niệm chính là Di Ðà.
Vả lại Mười Đại Nguyện Vương nghĩa lý sâu rộng, chẳng phải người thường có thể
phát khởi được. Còn với một pháp Trì Danh: rộng bao trùm ba căn, Ngũ Nghịch, Thập
Ác cũng có thể nương theo mà vượt sanh tử. Thí như người chữa được chứng bệnh không trị được
thì tôn là đứng đầu trong các vị lương y. Cũng vậy, pháp độ được người cực ác
thì xứng là vua của các pháp lành. Nên pháp Trì Danh là hạnh siêu Phổ Hiền. Tín
nguyện trì danh thì nhất định vượt lên bờ kia, nên nói là vượt hạnh Phổ Hiền
lên bờ kia.) Chúng ta xem đoạn này. Càng về
sau, từng chữ từng câu đều quan trọng, quyết định không thể lơ là, chúng ta thấy
ra được sự từ bi của Đức Di Đà Thế Tôn, cũng hiển thị sự từ bi của Ngài Hạ Liên
Cư và Niệm Lão, đem hết sức để giảng rõ ràng, giảng thấu triệt Kinh này, khiến
cho người có chút thiện căn, đọc chú giải kinh này, nghe diễn nghĩa, đều có thể
tín thọ phụng hành. Người nào nương theo lời của kinh này, thì họ được độ rồi,
vì sao vậy? Vì ngay trong đời này, họ quyết định được sanh Tịnh-độ.
Công đức của niệm
Phật, vượt qua Mười Đại Nguyện Vương Phổ Hiền Bồ-tát dẫn về Cực Lạc. Tiếp theo
lại nói với chúng ta, ‘Thả Thập Đại Nguyện
Vương, nghĩa lý thâm quảng’(Vả lại Mười
Đại Nguyện Vương nghĩa lý sâu rộng), mười điều này thì nghĩa lý mỗi một điều
sâu rộng vô tận, người bình thường không thể phát khởi được. Mười Đại Nguyện
Vương là sở tu của Pháp thân Bồ-tát, không phải của người thông thường, người
thông thường thì phát thôi cũng không phát được. Thật sự phát được Phổ Hiền Bồ-tát
Đại nguyện, thì người đó là Bồ-tát, không phải là phàm phu, phàm phu làm không
được. ‘Khả thị trì danh nhất pháp, phổ bị
tam căn’(Nhưng một pháp trì danh,
trùm khắp tam căn), tam căn là ba căn: thượng, trung, hạ; hạ căn là phàm
phu, trung căn là Tiểu-thừa, đại căn là Bồ-tát. Không luận là căn tánh nào, quý
vị gặp được mà có thể tin, có thể hiểu, đều được lợi ích lớn đến không ngờ, là thành
tựu cứu cánh viên mãn ngay trong đời này, còn gì hơn được nữa! Nên tiếp theo
nói, ‘ngũ nghịch thập ác’, tội ngũ nghịch gồm: giết cha, giết mẹ, giết mẹ là xếp
vào nghiêm trọng nhất; thứ hai là giết cha; thứ ba là giết A-la-hán; thứ tư là
làm thân Phật ra máu, phước báo của Phật lớn, có thần hộ pháp nhiều, không ai hại
Phật được, nhưng khiến thân Phật bị thương một chút, chảy một chút máu thì có
thể, trên kinh điển đều có ghi lại, tội ngũ nghịch bị đọa địa ngục Vô Gián; Còn
Thập ác gồm: thân ba, miệng bốn, ý ba; là trái ngược với Thập Thiện. Thập ác là
không ác nào mà không làm, tội của người đó nặng như vậy, nếu họ không gặp được
pháp môn này, thì tương lai quyết định đọa địa ngục. Nếu gặp được pháp môn này,
‘diệc năng y chi nhi độ sanh tử’ (cũng có thể nương theo mà vượt sanh tử). Đây thật lạ thường! Ngũ nghịch thập ác gặp được pháp môn này, nếu
họ y giáo phụng hành, thật tin, thật mong muốn vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, đến
Thế Giới Cực Lạc, thì A Di Đà Phật là thầy của quý vị, dạy học một đối một, nên
không ai mà không thể thành tựu, đều vượt sanh tử, xuất tam giới.
Tiếp theo Niệm
Lão cử hai thí dụ để nói với chúng ta, ‘Thí như năng dũ bất trị chi
chứng giả’(Thí như người
chữa được chứng bệnh không trị được), Bác sĩ có thể trị lành loại bệnh mà
Bác sĩ thông thường không trị được, thì chúng ta ‘thôi vi lương y chi thủ’(tôn là đứng đầu trong
các vị lương y), Bác sĩ đó tuyệt vời rồi, thật có khả năng, dùng thí dụ này
để tỷ dụ cho pháp môn Tịnh-tông, ‘Thị cố năng độ cực ác chi nhân giả,
ưng xứng thiện pháp chi vương’(Cũng vậy pháp độ được người cực ác thì xứng
là vua của các pháp lành), dùng như vậy để tỷ dụ, người cực ác là ngũ nghịch
thập ác, sau khi chết đọa Vô Gián địa ngục, địa ngục Vô Gián là nặng nhất đứng
đầu trong các địa ngục, chịu tội từ khi xuống địa ngục, đợi đến khi tội họ chịu
hết hoàn toàn mới được ra, thời gian chịu tội dài bao lâu? Trên kinh nói với
chúng ta là tám vạn đại kiếp, tức là thế này thành trụ hoại không 80 ngàn lần. Đại
kiếp, nói theo khoa học hiện nay là vũ trụ nổ tung lớn, đại nổ tung bao nhiêu lần?
80 ngàn lần, không cách nào tưởng tượng được. Cho nên, cực ác nhất định không
thể làm, ngũ nghịch không thể làm, Thập ác không thể làm, làm rồi thì về sau hối
hận không kịp, đó thật là khổ không nói nên lời. Người tạo tác cực ác, nếu như
họ có duyên, trong đời quá khứ họ đã từng cúng dường chư Phật Như Lai, có một
chút thiện căn, nhưng trong đời này họ gặp ác duyên, gặp ác duyên thì thuận theo
mà làm ác, khi làm ác là đại ác chứ không phải ác nhỏ. Nếu không gặp được pháp
môn này, thì tương lai tất đọa địa ngục, là Vô Gián địa ngục. Vì vậy, vị Bác sĩ
này trị được bệnh mà Bác sĩ thông thường không trị được, Bác sĩ trị lành được, thì
chúng ta tôn xưng là đứng đầu trong các vị thầy thuốc, cao minh nhất, tốt nhất
trong Lương y. Cùng đạo lý như vậy, độ được người cực ác, thì xứng là vua của
các pháp lành. Pháp lành nào có thể độ Ngũ nghịch Thập ác? Đó chính là Tịnh-tông.
‘Cố
vị trì danh, hạnh siêu Phổ Hiền’(Nên nói pháp Trì Danh là hạnh siêu Phổ Hiền),
cách tu hành này vượt qua Phổ Hiền Bồ-Tát, Bồ-tát Phổ Hiền là trưởng tử của Hoa
Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm là vua trong kinh Phật, thời trẻ, tôi đối với kinh này
vô cùng ưa thích. Lúc đó có một vị Cư sĩ, khi tôi vừa mới xuất gia, vị Cư sĩ đó
tặng phong bì đỏ cho tôi, tôi liền nói với ông ta, tôi không cần phong bì đỏ, tôi
cần Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, có thể cầm số tiền này, đi thỉnh giúp tôi một bộ
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao được không? Ông ta hỏi thỉnh ở đâu? Ở Hồng Kông Phật
Kinh có lưu thông, ông ta liên hệ, quả nhiên có, thật mua một bộ Sớ Sao, đem tặng
cho tôi. Bộ Sớ Sao đó tôi hiện đang để tại Úc, quá khứ tôi từng giảng Kinh Hoa
Nghiêm, là nương theo tài liệu ấy để tham khảo. Với ngài Phổ Hiền, thì thành phần
trí thức thông thường không ai mà không ngưỡng mộ, không ưa thích. Nhưng đâu biết
còn có bậc cao minh hơn, diệu hơn Ngài, khi Bồ-tát Phổ Hiền không thể độ được nữa,
thì pháp môn này độ được. Pháp môn này là tín nguyện trì danh, đơn giản hơn so
với Phổ Hiền Bồ-tát. Phổ Hiền Bồ-tát phải tu Thập nguyện: Lễ kính chư Phật,
xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng… không đơn giản, mỗi
một điều đều không dễ dàng.
Pháp môn Tịnh-tông
này diệu, diệu ở chỗ chỉ cần quý vị tin tưởng, quý vị không hoài nghi. Thật sự
không được hoài nghi, hễ người nào mà nói tôi không thể không hoài nghi, thì
duyên này đoạn đứt rồi. Không thể không hoài nghi cũng không được hoài nghi, vì
sao vậy? Đây là lời Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, Phật có thể nói vọng
ngữ sao? Phật dạy hàng đệ tử, không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm,
không vọng ngữ, thì làm sao Ngài có thể vọng ngữ chứ? Sao có đạo lý như vậy được!
Nên Niệm Lão nhiều lần đề cập đến vấn đề này, khuyến đạo chúng ta phải ngưỡng
tin, vì chúng ta không có trí huệ, nên chúng ta không dám tin tưởng. Phật Bồ-tát
chí cao vô thượng, chúng ta ngẩng lên là kính ngưỡng vô hạn, thì từ kính ngưỡng
đó mà sinh ra niềm tin, tôi không hoài nghi nữa, tôi tin tưởng rồi, tôi tiếp nhận
rồi, tôi chân chánh phát nguyện cầu sanh Thế Giới Cực Lạc, buông xuống vạn
duyên, ngay cả Phật pháp cũng phải buông xả, chuyên niệm A Di Đà Phật, tu hành
như vậy thì siêu vượt Phổ Hiền rồi. Phổ Hiền không độ được Ngũ nghịch Thập ác, còn
tín nguyện trì danh độ được Ngũ nghịch Thập ác; Hay nói cách khác, không có gì mà
không độ được. Hôm nay, chúng ta rất khó khăn mới gặp được, gặp được rồi mà còn
hoài nghi, đó là sai lầm quá lớn rồi, thật sai lầm. Nếu gặp được rồi mà không
nghi ngờ, thì tôi chúc mừng quý vị, chúc phúc quý vị; Không chỉ tôi chúc mừng,
chúc phúc quý vị, mà Thích Ca Như Lai, tất cả Bồ-tát La-hán đều chúc phúc quý vị;
đều tán thán quý vị. Quý vị thật nhanh chóng, cao minh hơn Phổ Hiền Thập đại
Nguyện vương, một đời thành tựu rồi. ‘Tín nguyện trì danh, định
đăng bỉ ngạn, cố vân hạnh siêu Phổ Hiền đăng bỉ ngạn’ (Tín nguyện trì danh thì
nhất định vượt lên bờ kia, nên nói là vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ kia).
世尊垂慈,復勸諭博學多聞,有智之人‘Thế Tôn thùy từ, phục khuyến dụ bác học đa văn, hữu trí chi
nhân’(Thế Tôn rủ lòng từ,
lại khuyên những người học rộng nghe nhiều, người có trí), Ngài từ bi đến tột
cùng, 當信如來所教,皆契實相理體‘đương tín Như Lai sở giáo, giai khế thật tướng lý thể’(nên tin lời dạy của Như
Lai đều khế hợp với Thật Tướng lý thể). Tức là bậc có trí, nên tin lời dạy
của Như Lai đều khế hợp với Thật Tướng lý thể. 經中如理而說,唯是真實,故云應信我教如實言‘Kinh trung như lý nhi
thuyết, duy thị chân thật, cố vân ưng tín ngã giáo như thật ngôn’(Trong kinh theo đúng như lý
mà thuyết, chỉ là chân thật, nên nói: cần phải tin lời như thật của giáo ta),
giáo ta tức là bao gồm tất cả kinh giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết trong
49 năm, đều bao gồm tất cả ở trong đây. Phật đã dạy những gì? Chữ chữ câu câu đều
là lời chân thật, không có một lời vọng ngữ, không có một lời giả nào, nên cần
phải tin tưởng lời chân thật của chư Phật Như Lai.
Chúng ta xem tiếp
bài kệ sau cùng, bài kệ thứ tám là: 勸持廣度‘khuyến trì quảng độ’(khuyên giữ gìn rộng độ).
Mời xem kinh văn:
如是妙法幸聽聞
應常念佛而生喜
受持廣度生死流
佛說此人真善友.
Như thị diệu pháp hạnh thính văn
Ưng thường niệm Phật nhi sanh hỷ
Thọ trì quảng độ sanh tử lưu
Phật thuyết thử nhân chân thiện hữu.
(Diệu pháp như thế may được nghe
Nên thường niệm Phật, mà sanh hỷ
Thọ trì rộng độ dòng sanh tử
Phật nói người ấy thật bạn lành.)
Chúng ta xem chú giải của Niệm
Lão, 今謂‘kim
vị’ (nay nói), kim là hiện tại, bây giờ nói với chúng ta, 念佛乃行超普賢之法,故稱妙法‘niệm
Phật nãi hạnh siêu Phổ Hiền chi pháp, cố xưng diệu pháp’(Niệm
Phật là pháp siêu hạnh Phổ Hiền, nên gọi là diệu pháp). Pháp của Phổ Hiền chưa
diệu, pháp mà vượt qua Phổ Hiền mới diệu, là diệu pháp. 如是難值‘Như thị nan trị’ (khó
gặp như thế), không dễ dàng gặp được, gặp được Phật pháp, mà quý vị không gặp
được Tịnh-tông, vì pháp môn này là 難聞‘nan
văn’(khó được nghe). Đã có duyên nghe được Tịnh-tông, gặp
được Kinh Vô Lượng Thọ rồi, thì thế nào? 難信‘nan tín’(Khó tin). Quý vị hãy xem xét! Cho nên, 我今幸得聽聞‘ngã kim hạnh đắc thính văn’(nay ta may mắn được nghe), quá hạnh phúc,
quá may mắn rồi! Hai chữ này một chút đều không giả, quá may mắn rồi, quý vị
làm sao có thể được nghe! Nên cần thật tin, chân chánh phát nguyện thọ trì, 依教奉行,時時念佛,而深自慶喜也‘y
giáo phụng hành, thời thời niệm Phật, nhi thâm tự khánh hỷ dã’, (y
giáo phụng hành, luôn luôn niệm Phật, thì tự rất hạnh phúc vậy). 念佛之人蒙佛慈光攝受,垢滅善生,心意柔軟。身得輕安,心生歡喜‘Niệm
Phật chi nhân, mông Phật từ quang nhiếp thụ, cấu diệt thiện sanh, tâm ý nhu
nhuyễn, thân đắc khinh an, tâm sanh hoan hỷ.’(Người niệm
Phật nhờ được từ quang của Phật nhiếp thọ, nên cấu diệt thiện sanh, tâm ý nhu
nhuyễn, thân được nhẹ nhàng, tâm sanh hoan hỷ). Đây là công phu niệm Phật đắc
lực, nên sinh ra hiện tượng như vậy. Chúng ta quay lại nhìn mình xem xét chính
mình có hay không? Lúc trước chúng tôi giới thiệu qua, Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, lần
đầu tiếp xúc Kinh Vô Lượng Thọ, vui mừng đến múa tay giậm chân, hoan hỷ như vậy
ba, bốn ngày, tại sao vậy? Vì thân Ngài được khinh an, tâm sanh hoan hỷ. 如《觀經》中‘Như Quán Kinh trung’(Như
trong Quán Kinh), Quán Kinh cũng có ví dụ, 韋提希夫人因阿彌陀佛國清淨光明忽現眼前,應時即得無生法忍‘Vy
Đề Hy phu nhân nhân A Di Đà Phật quốc thanh tịnh quang minh hốt hiện nhãn tiền,
ưng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn’(Phu
nhân Vy Ðề Hy do chợt thấy quang minh thanh tịnh của cõi A Di Ðà Phật hiện ra
trước mắt, liền đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn). Đây là thiện căn sâu dày, Phu nhân
Vy Ðề Hy là người phước báo lớn ở nhân gian, là đệ tử tại gia tốt của Thích Ca
Mâu Ni Phật. Bà bị hoạn nạn, Phật khuyên bà niệm Phật vãng sanh Thế Giới Cực Lạc,
đem Thế Giới Cực Lạc hiển thị để bà nhìn thấy, bà thấy được y chánh trang
nghiêm của Thế Giới Cực Lạc, cõi nước ấy thanh tịnh quang minh, ngay lúc đó bà
liền đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn, Minh tâm Kiến tánh thì Bồ-tát mới
chứng đắc, không phải là người phàm thông thường, đã rõ ràng đối với vũ trụ này
rồi. Rõ ràng là thế nào? Là không có một thứ gì là thật, toàn bộ đều là giả, vô
sanh pháp, chữ ‘nhẫn’ là tiếp thọ, thừa nhận rồi, lúc này thông suốt đại ngộ, hoàn
toàn rõ ràng rồi.
善導大師‘Thiện Đạo Đại sư’(ngài
Đại sư Thiện Đạo),
đây là cách nhìn của Ngài, 謂韋提希夫人所得之無生法忍為喜忍、悟忍與信忍‘Vị Vy Đề Hy Phu nhân sở đắc chi Vô
Sanh Pháp Nhẫn vi Hỷ Nhẫn, Ngộ Nhẫn dữ Tín Nhẫn’(Nói
Vô Sanh Pháp Nhẫn mà Phu nhân Vy Ðề Hy chứng được là Hỷ Nhẫn, Ngộ Nhẫn và Tín
Nhẫn). Đây là chia nhỏ ra, vì chúng ta phân tích, chia nhỏ để sanh tâm hoan
hỷ, và tin tưởng. 喜忍者,大師謂念阿彌陀佛而生歡喜心 ‘Hỷ Nhẫn giả, Đại sư vị niệm
A Di Đà Phật nhi sanh hoan hỷ tâm’(Hỷ Nhẫn, thì Ðại sư nói niệm A Di
Ðà Phật mà sanh tâm hoan hỷ). Do đó có thể biết, Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư lần đầu
tiên gặp được Kinh Vô Lượng Thọ, đọc bộ kinh này cũng là ở trong cảnh giới ấy,
sanh tâm hoan hỷ. 是故經中念佛生喜。因念佛而自心自生歡喜‘Thị cố kinh trung niệm Phật sanh hỷ.
Nhân niệm Phật nhi tự tâm tự sanh hoan hỷ’(Vì vậy, trong
kinh nói: Niệm Phật sanh hỷ. Vì do niệm
Phật mà tâm mình tự sanh hoan hỷ). Hoan hỷ này không phải đến từ bên ngoài,
mà đến từ niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật, thì tự tự nhiên nhiên tâm liền sanh
ra hoan hỷ. 末後復勸諭行人,不但自身受持此法而度生死,且應自他俱利,廣宏此經,勸導持名,輾轉度脫,出離生死。如是之人,世尊讚之為真善友‘Mạt hậu phục khuyến dụ hành
nhân, bất đãn tự thân thọ trì thử pháp nhi độ sanh tử, thả ưng tự tha câu lợi,
quảng hoành thử kinh, khuyến đạo trì danh, triển chuyển độ thoát, xuất ly sanh
tử. Như thị chi nhân, Thế Tôn tán chi vi chân thiện hữu.’(Sau
cùng, Phật lại khuyên bảo hành nhân, không chỉ tự mình thọ trì pháp này để vượt
sanh tử, mà còn cần phải làm lợi mình lẫn người, bằng cách rộng truyền kinh
này, khuyên dạy trì danh, triển chuyển độ thoát, ra khỏi sanh tử. Người như vậy,
thì được Thế Tôn khen là chân thiện hữu). Thế nào là chân thiện hữu? Là
chân thiện tri thức, 即真善知識也‘tức
chân thiện tri thức dã’(tức là chân thiện tri thức vậy). Đây
không phải giả, mà giống như gặp được Phật vậy. 此乃世尊極讚之辭,蓋善知識即同如來。此末後四句,正是世尊對後世能逢此經能聞此法之一切眾生之期望與訓誨‘Thử nãi Thế Tôn cực tán chi từ, cái
thiện tri thức tức đồng Như Lai. Thử mạt hậu tứ cú, chánh thị Thế Tôn đối hậu
thế năng phùng thử kinh năng văn thử pháp chi nhất thiết chúng sanh chi kỳ vọng
dữ huấn hối’(Ðây là lời khen tột bậc của Thế Tôn, vì xem thiện
tri thức đồng với Như Lai. Bốn câu sau cùng, chính là kỳ vọng và dạy bảo của Thế
Tôn đối với tất cả chúng sanh đời sau gặp được, nghe được kinh pháp này). Kỳ
vọng của Đức Phật đối với chúng ta, là hy vọng trong thời kỳ mạt pháp, những
người nghe được pháp này, đều có thể triển chuyển đem giới thiệu cho người
khác, người tu học pháp môn khác, phải thật làm việc này.
Ngài Hạ Liên Cư thông Tông
thông Giáo, hiển Mật viên dung, nhưng đến sau cùng kết lại, là tín nguyện trì
danh, cầu sanh Tịnh-độ, buông xả hết rồi. Chúng ta phải chú ý điểm này, đó là
Ngài biểu diễn cho chúng ta. Ngài dùng phương pháp khác thì Ngài cũng vãng sanh
được, nhưng Ngài đem tất cả phương pháp đều buông xả rồi, học đã nhiều năm, mà không
dùng nữa, lâm chung chỉ dùng tín nguyện trì danh, thì Ngài thành tựu rồi. Lão
Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng là thông Tông thông Giáo, hiển Mật viên dung, là đại
thiện tri thức. Ngài làm bộ sách chú giải này hoàn thành rồi, tôi in một vạn
quyển tặng cho Ngài, thời gian đó thân thể Ngài còn khỏe, Ngài lại làm bổ sung
thêm một chút, đã làm giảo chánh lần cuối cùng. Bộ sách này, hiện nay đều bày
trên giá sách của chúng tôi, chúng tôi rất cảm ơn! Ngài biểu diễn cho chúng ta,
trước khi vãng sanh nửa năm, sáu tháng cuối đó, mỗi ngày một câu Phật hiệu niệm
140 ngàn tiếng, những thứ khác đều buông xả rồi. Là từ bi đến tột cùng, biểu diễn
cho chúng ta xem, nếu kết lại Ngài dùng phương pháp khác thì cũng đến được Thế
Giới Tây Phương Cực Lạc, nhưng vậy thì chúng ta đối với Tịnh-tông, với lời nói
của Kinh Vô Lượng Thọ sẽ sinh ra nghi ngờ, nên bắt buộc thời gian lúc sắp đi
hai vị Lão nhân Gia đó đều buông xả vạn duyên, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến khi
A Di Đà Phật tới tiếp dẫn. Đó là thật, không phải giả. Chúng ta đọc kinh học
giáo, đối với những chỗ này phải đặc biệt chú ý, mới xứng đáng với Niệm Lão, xứng
đáng với Hạ Lão đã vì chúng ta mà hội tập, vì chúng ta mà chú giải chi tiết
Kinh này.
Câu nói sau cùng này rất là
khẩn thiết, chân thiện tri thức, đây là lời khen của Thế Tôn, khen ngợi đến tận
cùng. Những câu cuối cùng, là hai dòng sau cùng này, chính là kỳ vọng và dạy bảo
của Thế Tôn đối với tất cả chúng sanh đời sau gặp được kinh này, nghe được pháp
này, 故我等實應哀切領受,刻骨銘心,恪遵遺教,勤修堅持,切莫辜負慈恩‘cố ngã đẳng thật ưng ai thiết lãnh thọ, khắc cốt minh tâm, khác tuân di
giáo, cần tu kiên trì, thiết mạc cô phụ từ ân’(Vì thế, chúng ta thật nên tha thiết lãnh thọ, khắc cốt ghi tâm, kính cẩn
tuân theo di giáo, tu hành siêng năng kiên trì, chớ phụ bạc từ ân). Chúng
ta đọc đến đây, thì dường như thấy năm đó Niệm Lão viết chú giải đến đây, rất cảm
ơn!
本經之末,世尊重勸念佛,十方如來本心,一時和盤托出‘Bổn kinh chi mạt, Thế Tôn
trùng khuyên niệm Phật, thập phương Như Lai bổn tâm, nhất thời hòa bàn thác xuất’(Cuối
kinh này, Thế Tôn nhiều lần khuyên niệm Phật, là đồng thời giãi bày trọn hết bản
tâm của mười phương Như Lai), ý nghĩa là một chút giữ lại đều không có, đem
bày ra hoàn toàn rồi. Ngay trong phẩm này, 福慧始聞‘Phước huệ thỉ văn’(Phước
huệ mới được nghe), quý vị thấy đó, quý vị có được phước báo, có trí huệ,
thì quý vị mới có duyên phận nghe được việc này; 微妙法、救世行‘Vi diệu pháp, cứu thế hạnh’(Pháp
vi diệu, hạnh cứu đời), nương theo phương pháp này mà tu hành cứu đời, thì
đó là hạnh cứu thế, không hai không khác so với mười phương Như Lai, khuyên người
niệm Phật tu Tịnh-độ là hạnh cứu đời. Chúng ta cần phải làm thế nào? Cần phải
làm gương tốt của niệm Phật, khiến người ta xem thấy đều có thể sanh lòng tin, đều
có thể thật sự làm. Đây sự thật không thể giả, thí dụ, như tôi đã tận mắt chứng
kiến, họ không phải là biểu diễn mà là thật, lúc mạng hết, A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn họ vãng sanh rồi. 智慧海、難中難、行超普賢等,均指此信願持名之無上妙法。至於念佛法門之妙,縱以無量身,一一身有無量口,一一口有無量舌,一一舌出無量音,窮未來劫,演說不絕,亦難道得少分。故不多說‘Trí huệ hải, nan trung nan, hạnh siêu Phổ Hiền đẳng, quân chỉ thử tín nguyện trì danh chi vô thượng
diệu pháp. Chí ư niệm Phật pháp môn chi diệu, túng dĩ vô lượng thân, nhất nhất
thân hữu vô lượng khẩu, nhất nhất khẩu hữu vô lượng thiệt, nhất nhất thiệt xuất
vô lượng âm, cùng vị lai kiếp, diễn thuyết bất tuyệt, diệc nan đạo đắc thiểu phần.
Cố bất đa thuyết.’(Biển trí huệ, khó
trong khó, vượt hạnh Phổ Hiền v.v… đều chỉ diệu pháp vô thượng Tín Nguyện Trì
Danh này. Ðối với sự diệu của pháp môn Niệm Phật, dù cho dùng vô lượng thân, mỗi
một thân có vô lượng miệng, mỗi một miệng có vô lượng lưỡi, mỗi một lưỡi phát
ra vô lượng âm đến cùng kiếp tương lai, diễn nói chẳng ngừng, cũng khó nói được
ít phần. Nên không nói thêm nữa). Đây đều là sự thật, không phải giả. Hôm
nay, chúng ta nghe được là loại phước báo nào? Chính chúng ta không biết, nhưng
Phật biết. Phật nói với chúng ta, nếu như không phải là trong đời quá khứ, từng
cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, thì tuyệt đối trong đời nay, quý vị sẽ không
có cơ duyên gặp được bộ kinh này, gặp được pháp môn này.
Một môn thì được rồi, một
câu Phật hiệu thì được rồi. Trước mắt chúng ta cũng có một tấm gương, mọi người
đều biết đó là Lão Hòa thượng Hải Hiền. Ngài 20 tuổi xuất gia, Sư phụ liền dạy
Ngài một câu Nam Mô A Di Đà Phật, dặn bảo Ngài luôn luôn niệm không rời. Căn
tánh của Ngài tốt, căn tánh của Ngài là thế nào? Là lão thật, nghe lời, thật
làm, nên Ngài đã niệm một câu Phật hiệu này 92 năm, Ngài vãng sanh lúc bốn năm
trước, khi Ngài 112 tuổi, 92 năm là một câu Phật hiệu, trước lúc ra đi thì tiêu
dao tự tại. Chúng ta thấy tận mắt, nghe tận tai, mà nếu còn không giác ngộ, thì
thật sai lầm rồi.
Niệm
Lão nói đến đây, thì không nói được nữa, nên không nói thêm, 唯恭錄靈峰大師《要解》中二則‘duy
cung lục Linh Phong Đại sư Yếu Giải trung nhị tắc’(chỉ
cung kính trích dẫn hai đoạn trong Yếu Giải của Đại sư Linh Phong), làm giải
thích cho phẩm này, đây là tổng kết giải thích. 一、《要解》云:由無量光義,故眾生生極樂即生十方。見阿彌陀佛,即見十方諸佛‘Nhất, Yếu Giải vân: Do Vô Lượng Quang
nghĩa, cố chúng sanh sanh Cực Lạc tức sanh thập phương, kiến A Di Đà Phật, tức
kiến thập phương chư Phật’(Một, sách Yếu
Giải nói: Do nghĩa là Vô Lượng Quang, nên chúng sanh sanh về Cực Lạc tức là
sanh về mười phương, thấy A Di Ðà Phật tức là thấy mười phương chư Phật). Điều
này quá tuyệt vời! Thấy A Di Đà Phật là thấy tất cả chư Phật mười phương, một vị
Phật cũng không bỏ sót. 能自度即普利一切‘Năng
tự độ tức phổ lợi nhất thiết’(Độ được mình tức là rộng lợi tất
cả), là lợi ích tất cả chúng sanh. 由無量壽義‘Do Vô Lượng Thọ nghĩa’(Do
nghĩa là Vô Lượng Thọ), trước là nghĩa Vô Lượng Quang, giờ là nghĩa Vô Lượng
Thọ, 故極樂人民,即是一生補處,皆定此生成佛,不至異生‘cố
Cực Lạc nhân dân, tức thị nhất sanh bổ xứ, giai định thử sanh thành Phật, bất
chí dị sanh’(nên nhân dân cõi Cực Lạc
chính là Nhất Sanh Bổ Xứ, đều nhất định đời này thành Phật, không đợi đến đời
khác), nếu đến đời khác thì lại đầu thai, lại đi làm người, lại tu hành. Không
đợi đến đời khác, chúng ta tin tưởng điều này, vì sao vậy? Sanh đến nơi ấy là
vô lượng thọ, vô lượng thọ thì không luận là sớm hay muộn, đều quyết định một đời
thành Phật. Nên nhân dân cõi Cực Lạc chính là Nhất Sanh Bổ Xứ, ở Thế Giới Cực Lạc
quyết định một đời thành Phật, đến Thế Giới Cực Lạc liền tương đương với Bồ-tát
Bổ Xứ, đều quyết định đời này thành Phật, không đợi đến đời khác. 當知離卻現前一念無量光壽之心,何處有阿彌陀佛名號;而離卻阿彌陀佛名號,何由徹證現前一念無量光壽之心。願深思之,願深思之。‘Đương
tri ly khước hiện tiền nhất niệm vô lượng quang thọ chi tâm, hà xứ hữu A Di Đà
Phật danh hiệu; Nhi ly khước A Di Đà Phật danh hiệu, hà do triệt chứng hiện tiền
nhất niệm vô lượng quang thọ chi tâm. Nguyện thâm tư chi, nguyện thâm tư chi’(Nên
biết: ngay lúc một niệm tâm rời khỏi vô lượng quang thọ, thì nơi đâu mà có danh
hiệu A Di Ðà Phật; Mà rời bỏ danh hiệu A Di Ðà Phật, thì do đâu mà chứng ngay một
niệm tâm vô lượng quang thọ được? Mong suy xét kỹ, mong suy xét kỹ). Đây là
lời của Đại sư Ngẫu Ích.
Đoạn
tiếp theo lời ít ý nhiều, chữ chữ câu câu đều quan trọng. 二、《要解》云:蓋所持之名號,真實不可思議;能持之心性,亦真實不可思議。持一聲則一聲不可思議,持十百千萬無量無數聲,聲聲皆不可思議也。‘Nhị, Yếu Giải vân: Cái sở trì chi
danh hiệu, chân thật bất khả tư nghì; năng trì chi tâm tánh, diệc chân thật bất
khả tư nghì. Trì nhất thanh tắc nhất thanh bất khả tư nghì, trì thập bá thiên vạn
vô lượng vô số thanh, thanh thanh giai bất khả tư nghì dã’(Hai,
sách Yếu Giải nói: Do trì danh hiệu ấy, thật sự không thể nghĩ bàn; tâm tánh
trì được cũng thật sự không thể nghĩ bàn. Trì một tiếng thì một tiếng không thể
nghĩ bàn; trì mười, trăm, ngàn, vạn vô lượng vô số tiếng thì mỗi mỗi tiếng đều không
thể nghĩ bàn). Sự việc này ai biết được? Tôi đọc xong cảm nhận đó là thật,
không phải là giả. Nếu Ngẫu Ích Đại sư không là người nhập cảnh giới đó, thì
làm sao Ngài biết được! Ngài viết A Di Đà Kinh Yếu Giải trong thời gian 9 ngày,
ở sau sách Ngài có lời bạt, nói 9 ngày viết ra một quyển sách nhỏ này. Đại sư Ấn
Quang tán thán Ngài, nói cho dù cổ Phật tái lai, làm chú giải cho Kinh Di Đà,
cũng không thể vượt qua được. Lời khen ngợi này là tán thán đến tột cùng, không
thêm được nữa. Đại sư Ấn Quang là bậc Tổ sư của chúng ta. Tịnh-độ của Lão Cư sĩ
Lý Bỉnh Nam là học với Ấn Tổ, Tịnh-độ chi phái sở học của chúng tôi, là học với
Lão sư Lý. Lão sư Lý đem pháp môn này giới thiệu cho tôi, cũng là đắng miệng nhọc
lòng, bởi vì lúc đó tôi đang tuổi trẻ, nghiên cứu chưa sâu, đối với kinh giáo vô
cùng ưa thích. Cho nên, tôi một mạch tới năm 85 tuổi, mới thật sự quay đầu, lắng
lòng để phản tỉnh, đã nắm chắc vãng sanh chưa? Không dám nói có, không dám nói
có thì vấn đề nghiêm trọng rồi, đời sau sẽ ra sao? Nên càng nghĩ càng sợ hãi, cuối
cùng đem những đại kinh đại luận đều buông xuống rồi, sau 85 tuổi một mạch đến
nay, thì chuyên giảng Kinh Vô Lượng Thọ, chuyên hoằng Kinh Vô Lượng Thọ, cũng
là bản hội tập của Hạ Lão, bản chú giải của Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.
Những
năm đầu, tôi và Niệm Lão còn chưa gặp nhau, Lão sư Lý đã đem tặng cho tôi bản hội
tập Kinh Vô Lượng Thọ này, Ngài đã viết không ít chữ, chú thích bên lề sách này,
làm nổi bật lên ý nghĩa quan trọng, dùng bút lông để ghi. Tôi vô cùng cảm ơn,
sau khi xem xong tôi đã sinh tâm hoan hỷ, sanh tâm thích giảng, nên phát tâm giảng
bộ kinh ấy, nương theo chú thích bên lề của Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi đã giảng
10 lần, sau khi được bộ chú giải này, tôi thật vô cùng hoan hỷ, Niệm Lão vẫn vô
cùng khiêm nhường, khi in lần đầu tiên, Ngài nhờ tôi, viết lời nói đầu. Khi tôi
tỉ mỉ đọc qua bộ Chú giải này, tôi liền hạ quyết tâm, cùng với những đồng học thật
sự muốn sanh đến Thế Giới Cực Lạc, chúng ta thực hiện học tập làm sao, tu hành thế
nào, là đem giáo huấn của bộ kinh điển này, phải làm cho đuợc. Mục tiêu của
chúng ta là tại Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, đối với thế gian này không có một
tơ hào lưu luyến, buông xuống thật sạch sẽ, học Lão Hòa thượng Hải Hiền, học
Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, vậy thì đúng rồi.
Nên
sau cùng, chúng ta phải ghi nhớ lời của Đại sư Ngẫu Ích, trì một tiếng, niệm một
câu A Di Đà Phật, thì một tiếng ấy không thể nghĩ bàn; niệm mười tiếng, niệm
trăm tiếng, niệm ngàn tiếng, niệm vạn tiếng, niệm vô lượng vô số tiếng, mỗi tiếng
đều bất khả tư nghị! Chỉ có dùng không thể nghĩ bàn để hình dung, vì lợi ích,
công đức không có cách nào tưởng tượng được, bảo quý vị nói thì quý vị cũng nói
không ra. Như người uống nước, ấm lạnh tự biết, chỉ có công phu đến rồi thì tự
mình hiểu được, còn người khác, người có huệ nhãn nhìn ra được, người không có
huệ nhãn thì không nhìn ra được. Thời gian hôm
nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
( Hết tập 505)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.