Responsive Menu
Add more content here...

Tập 74 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

Tập 74

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 11 tháng 7 năm 2014.

Dịch giả: Như Hòa.

 Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang thứ 293, trang 293, bắt đầu xem từ hàng thứ 3, Khoa đề在家菩薩(他方影響眾)“Tại Gia Bồ-Tát (tha phương ảnh hưởng chúng)” (Bồ-Tát Tại Gia (chúng ảnh hưởng [từ] phương khác). Những vị Bồ-tát tại gia này: đều là Đẳng giác Bồ-tát trong cõi báu: của mười phương chư Phật Như Lai, ngày nay đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng bộ Kinh này, 《大乘無量壽經》 Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, các ngài vô cùng hoan hỉ, đều đến tham dự, tùy hỉ, làm chứng cho chúng ta. Mời xem kinh văn:

【又賢護等十六正士。所謂善思惟菩薩。慧辯才菩薩。觀無住菩薩。神通華菩薩。光英菩薩。寶幢菩薩。智上菩薩。寂根菩薩。信慧菩薩。願慧菩薩。香象菩薩。寶英菩薩。 中住菩薩。制行菩薩。解脫菩薩。而為上首。】 “Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh sĩ. Sở vị Thiện Tư Duy Bồ-tát. Huệ Biện Tài Bồ-tát. Quán Vô Trụ Bồ-tát. Thần Thông Hoa Bồ-tát. Quang Anh Bồ-tát. Bảo Tràng Bồ-tát. Trí Thượng Bồ-tát. Tịch Căn Bồ-tát. Tín Huệ Bồ-tát. Nguyện Huệ Bồ-tát. Hương Tượng Bồ-tát. Bảo Anh Bồ-tát. Trung Trú Bồ-tát. Chế Hạnh Bồ-tát. Giải Thoát Bồ-tát: Nhi vi thượng thủ” (Lại có nhóm Bồ-tát tại gia 16 vị Hiền Hộ. Đó là Thiện Tư Duy Bồ-tát. Huệ Biện Tài Bồ-tát. Quán Vô Trụ Bồ-tát. Thần Thông Hoa Bồ-tát. Quang Anh Bồ-tát. Bảo Tràng Bồ-tát. Trí Thượng Bồ-tát. Tịch Căn Bồ-tát. Tín Huệ Bồ-tát. Nguyện Huệ Bồ-tát. Hương Tượng Bồ-tát. Bảo Anh Bồ-tát. Trung Trú Bồ-tát. Chế Hạnh Bồ-tát. Giải Thoát Bồ-tát: đến làm thượng thủ).

 眾成就 “Chúng thành tựu” trong Lục chủng Thành tựu, chúng Bồ-tát tại gia trong Chúng thành tựu. Ở trong phần tựa của bộ Kinh này: chúng ta xem thấy đoạn kinh văn này, thù thắng không gì bằng, trong kinh thông thường chưa từng thấy. Mời xem Chú giải của Niệm lão, 正士者 “Chánh sĩ giả” (Chánh sĩ là), 16 vị Chánh sĩ, 《度世經》曰:開士、 大士、聖士、力士、正士等 “Độ Thế Kinh viết: Khai sĩ, Đại sĩ, Thánh sĩ, Lực sĩ, Chánh sĩ đẳng” (trong Kinh Độ Thế nói rằng: Khai sĩ, Đại sĩ, Thánh sĩ, Lực sĩ, Chánh sĩ v.v…), những tên này đều là Đức hiệu của Bồ-tát, 皆菩薩之異稱 “giai Bồ-tát chi dị xưng” (đều là tên gọi khác nhau của Bồ-tát). 又《甄解》云 “Hựu Chân Giải vân” (Thêm nữa trong sách Chân Giải nói), đây là Tổ sư Đại đức của Tịnh tông Nhật Bản, nói ở trong Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, 正 “Chánh”, ý nghĩa là nói Chánh đạo, 士 “Sĩ” là giảng về Sĩ đại phu [ở] Trung Hoa thời xưa, 在家之稱 “Tại gia chi xưng” ( [là] cách gọi của tại gia). Nói được cũng khá hay. 此等大士 “Thử đẳng Đại sĩ” (Các vị Đại sĩ đó), những vị đại Bồ-tát ấy, 外現凡形,內深達正道故 “ngoại hiện phàm hình, nội thâm đạt Chánh đạo cố” (cho nên bên ngoài hiện tướng phàm phu, bên trong đạt sâu Chánh đạo), 居家名為正士 “cư gia danh vi Chánh sĩ” (ở tại gia gọi là Chánh sĩ). Hình tướng mà các ngài thị hiện: là người học Phật tại gia, không có xuất gia. [Bậc] xuất gia cũng gọi là Bồ-tát, [bậc] tại gia cũng là Bồ-tát, hơn nữa 16 vị này đều là Đẳng giác Bồ-tát, địa vị của các ngài là cùng một tầng bậc: với các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng; Nói cách khác, cũng đều là có địa vị của Hậu bổ Phật. Bởi vì thị hiện khác nhau, thị hiện là thân phận tại gia, trên thực tế bên trong đạt sâu Chánh đạo. Đạt sâu Chánh đạo được chú trọng ở trong chữ 深 “thâm”, thâm sâu đến mức độ nào? Trong Đại thừa nước ta đã nói: Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật. 16 vị Đại sĩ đó đều là người Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, chứ không phải người bình thường.

又《會疏》曰 “Hựu Hội Sớ viết” (Lại nữa sách Hội Sớ ghi), Hội Sớ cũng là tác phẩm của Đại đức Nhật Bản, trong Chú giải của ngài nói, 十六正士者, 《文殊師利嚴淨經》言: 菩薩八萬四千及十六正士 “Thập lục Chánh sĩ giả, Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh ngôn: Bồ-tát bát vạn tứ thiên cập thập lục Chánh sĩ” (Về mười sáu vị Chánh sĩ, trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh nói: 84 ngàn vị Bồ-tát và 16 vị Chánh sĩ), Kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh,xem thấy điều này ở trong phần tựa,có 84 ngàn vị Bồ-tát,những vị Bồ-tát này là chỉ Bồ-tát xuất gia. Và 16 vị Chánh sĩ, ngoài 84 ngàn vị Bồ-tát xuất gia ra, còn có 16 vị Đẳng giác Bồ-tát tại gia, là cùng cấp bậc với địa vị của Bồ-tát xuất gia. 則明知正士之名 “Tắc minh tri Chánh sĩ chi danh” (Thì biết rõ về tên gọi của Chánh sĩ), vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ: nói cho chúng ta biết, nói về Chánh sĩ đều là nói Bồ-tát tại gia. 正謂正道 “Chánh vị Chánh đạo” (Chánh là Chánh đạo), “Sĩ”, chúng ta thường nói là Cư sĩ, 此等大士 “thử đẳng Đại sĩ” (các bậc Đại sĩ này), hàng đại Bồ-tát này, 雖葆光和塵 “tuy bảo quang hòa trần” (mặc dù hòa vào trong trần), “bảo” là giữ gìn, trí huệ của các ngài, đức hạnh của các ngài: người bình thường bên ngoài nhìn không ra, hòa quang đồng trần. 久出於邪道,深達於正法 “Cửu xuất ư tà đạo, thâm đạt ư Chánh pháp” (từ lâu [đã] ra khỏi tà đạo, thâm đạt đối với Chánh pháp), những người đó là người tu hành, cửa đạo tu hành rất nhiều, dùng lời nói hiện nay của chúng ta, các ngài đã từng tu rất nhiều Tôn giáo, sau cùng đều trở về đạo Phật, mà còn đều quay về Đại thừa. Đại thừa là Chánh pháp, đạt sâu ở Chánh pháp, 故云正士 “cố vân Chánh sĩ” (nên gọi là Chánh sĩ). 準上可知 “Chuẩn thượng khả tri” (Y theo ở trên, có thể biết), đây là giới thiệu Danh từ này, kinh được trích dẫn ở phần trên, chúng ta đều có thể biết, Phật pháp Đại thừa, hễ gọi là Chánh sĩ: đều là Bồ-tát tại gia.

又十六者 “Hựu thập lục giả” (Lại nữa về số 16), con số 16 này là biểu pháp, 密宗以十六數,表圓滿無盡 “Mật tông dĩ thập lục số, biểu viên mãn vô tận” (Mật tông dùng con số 16, biểu thị sự viên mãn vô tận), điều đó có ý nghĩa này. Có thể không chỉ [có] 16 vị trong hội, mà 16 là biểu thị viên mãn. 《出生義》云 “Xuất Sanh Nghĩa vân” (Trong Sách Xuất Sanh Nghĩa nói rằng), trên kinh Phật thường nói lời như vậy, 厥有河沙塵海數量 “quyết hữu hà sa trần hải số lượng” (có số lượng hà sa trần hải), “hà”, “hà sa” là chỉ cát sông Hằng ở Ấn Độ.Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời giảng kinh thuyết pháp, thời gian ở lưu vực sông Hằng là dài nhất, [khi] nói đến con số thì thường dùng cát sông Hằng, bởi vì mọi người đều nhìn thấy được cát sông Hằng, mỗi người đều nhận thức rất sâu: về cát sông Hằng, số cát sông Hằng. “Trần hải”, trần là vi trần, số vi trần, hải cũng là ví như số lượng, số lượng về biển vi trần. Con số ấy, số lượng hà sa trần hải, không có cách nào tính được con số ấy, đưa ra số lượng rất nhiều, thường dùng những lời này để biểu thị. 舉十六位焉, 亦塵沙之數不出於此 “Cử thập lục vị yên, diệc trần sa chi số bất xuất ư thử” (Nêu ra 16 vị Chánh sĩ, cũng là số của trần sa không vượt ra khỏi số này). Cho nên số 16 này biểu thị sự viên mãn vô tận. Có nhiều như vậy không? Có phải nói quá không? Chúng ta biết rằng Giới căn bản của Phật pháp là năm Giới, trong năm Giới có giới không Vọng ngữ, đây là giới trọng của đức Phật, đức Phật làm sao có thể Vọng ngữ? Ngay trong Đại hội giảng kinh của chư Phật Như Lai, đặc biệt giảng đến Kinh điển trọng yếu, Pháp môn chủ yếu, chắc chắn những Pháp môn đó là pháp lớn, tu học theo đó có thể chứng được quả lớn, cũng tức là có thể thành Phật. Kinh điển nói như vậy, mười phương thế giới, quả thật là số lượng cát sông Hằng, số lượng vi trần đại hải, Nhục nhãn của chúng ta thực sự nhìn không thấy được, năng lực con mắt này của chúng ta quá kém.

Những thành phần chung sống cùng một nơi với người, có một phần trong đường Ngạ quỷ, người nhìn không thấy quỷ thần, quỷ thần cũng nhìn không thấy người, không cản trở lẫn nhau. Vì sao vậy? Bởi vì tướng đều là tướng giả, không có giống nhau là thật, nếu là thật, thì nhất định nảy sinh chướng ngại, [nhưng] do không phải thật. Đây là nói hoàn cảnh hiện tại của chúng ta: toàn là giả. Các nhà Cơ học Lượng tử ngày nay: Đối với sự việc trong Phật pháp này, đó gọi là bí mật của vũ trụ, đã phơi bày rồi. Sự phơi bày này, không chỉ là thế giới trước mắt chúng ta, mà trong kinh giáo cũng nói, Lục đạo Luân hồi, mười Pháp giới đều không phải thật. Mệnh đề này là bí mật sâu xa của vũ trụ. Hơn 20 năm qua, rất nhiều nhà Khoa học, có thể nói là kinh nghiệm của thí nghiệm Khoa học: đã tích lũy hơn 400 năm, tìm thấy vật chất rốt cuộc là gì. Hiện tượng của vũ trụ, hiện tượng hình thành lên cả vũ trụ: có vật chất, có tinh thần, có hiện tượng tự nhiên, chia làm ba loại lớn đó, ba loại lớn đó là: hạng mục nghiên cứu chủ yếu được Khoa học coi trọng nhất. Ngàn vạn năm qua, nhân loại đều suy nghĩ về điều đó, rất nhiều cách nói, [nhưng] không có chứng cứ Khoa học. Ngày nay Khoa học thực sự có chứng cứ, đã phơi bày ra đáp án về hiện tượng vật chất. Phương pháp họ sử dụng: hoàn toàn giống như đức Phật nói ở trên kinh, chính là phân tích vật chất, một vật chất được chia làm hai, lại đem hai chia thành bốn, bốn lại chia thành tám, tám lại chia thành mười sáu, cứ chia tiếp [như thế], chia đến không thể chia được nữa, cuối cùng xem đó là thứ gì?

80 năm trước, nhà Khoa học phát hiện ra nguyên tử, lúc đó cho rằng nguyên tử là vật chất nhỏ nhất, không thể chia tiếp nữa. Cùng với sự phát triển không ngừng của Khoa học, phát minh ra rất nhiều thiết bị mới, lại phá vỡ nguyên tử. Phá vỡ phát hiện nguyên tử đó được hình thành như thế nào? Là do Hạt nhân nguyên tử, có nơ-tron, có electron, cấu tạo thành một nguyên tử. Hạt nhân nguyên tử là một, [còn] số lượng nơ-tron, electron không nhất định, vậy là phát hiện rất nhiều nguyên tử khác nhau. 80 năm nay, Khoa học có thể nói là vươn lên mạnh mẽ, sau khi phá vỡ nguyên tử, vẫn còn nơ-tron, hạt nhân nguyên tử, electron, phá vỡ từng loại hạt, [thì] phát hiện ra đó không phải là thứ nhỏ nhất, đó là do hạt sơ cấp cấu tạo thành, hạt sơ cấp có hơn mấy chục loại. Hạt sơ cấp có phải là hạt nhỏ nhất? Vẫn còn cách phá vỡ hạt ấy, sau khi phá vỡ phát hiện có vật chất nhỏ hơn, đó không phải là nhỏ nhất, gọi là hạt Quark. Hạt Quark cũng có mấy chục loại, hình dạng của nó gần 100 loại. Lại phá vỡ chúng, thì phát hiện Neutrino, đó là Neutrino, Neutrino lớn bao nhiêu? Nhà Khoa học nói cho chúng ta biết, mười tỉ Neutrino tụ hội lại, thể tích của đó bằng với một electron, electron trong hạt nhân nguyên tử, đó chính là một phần mười tỉ của electron, đó thực sự là vật chất nhỏ nhất, không thể chia được nữa. Lại phá vỡ chúng, phá vỡ thì không còn nữa, thành Không rồi, chính là như kinh Phật nói, trên kinh Phật gọi đó là Cực vi sắc, cũng gọi đó là Lân hư trần, nó rất gần với hư không. Tức là không thể chia nó được nữa, hễ chia tiếp thì trở thành hư không, liền không còn nữa. Những thứ này được các nhà Khoa học tìm ra.

Đức Phật nói ở trên kinh, từng nói điều này, phàm phu sáu đường, giảng về người và trời, ý thức của nhân Thiên, Ý thức Thứ sáu, chính là suy nghĩ của chúng ta, nghĩ được quá khứ, nghĩ được tương lai, đây là năng lực lớn nhất trong sáu căn. Mắt chúng ta chỉ thấy được sắc, tai chỉ nghe được âm thanh, năng lực rất có hạn. Năng lực của ý niệm rất lớn, năng lực ý niệm của người, chính là Ý thức Thứ sáu, với bên ngoài, dựa vào tưởng tượng của họ, họ có thể nghĩ đến hư không Pháp giới; Với bên trong, họ có thể duyên đến A-lại-da. Hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên thuộc về A-lại-da, Tam tế tướng của A-lại-da. Quý vị xem, các nhà Khoa học nghiên cứu điều đó, Phật pháp cũng không ngoại lệ, Phật pháp gọi là Tam tế tướng. Phải đến mức nào: mới hoàn toàn hiểu rõ thấu triệt Tam tế tướng? Trên Đại thừa giáo nói cho chúng ta biết, Bát địa trở lên, Bát địa Bồ-tát, hướng lên trên, là Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác, năm ngôi bậc đó hoàn toàn hiểu rõ; Cũng chính là nói, vật chất là gì, tinh thần là gì? Hiện tượng tự nhiên là gì, các ngài biết hết cả.

Minh tâm Kiến tánh thì sẽ biết được, biết được [nhưng] không thấy được. Giống như hiện tại chúng ta xem được báo cáo Khoa học, biết được hiện tượng vật chất là sự việc như thế nào, nhưng chúng ta không thấy được. Còn các nhà Khoa học ở trong phòng thí nghiệm: thì thấy được, họ nói cho chúng ta biết tình hình đó. Giống với việc nói, người tu hành phá Vô minh, phá Vô minh rồi chính là Pháp thân Bồ-tát, Tập khí của các ngài vẫn rất nặng, Tập khí này không dễ dàng bỏ, vì sao vậy? Bởi không có cách nào. Các ngài đã tu đến không khởi tâm không động niệm, nếu lại còn dùng một phương pháp: để giúp các ngài phá bỏ Tập khí Vô minh, vậy chẳng phải đã khởi tâm động niệm nữa sao? Đã không khởi tâm không động niệm, thì sẽ không khởi tâm động niệm nữa, cho nên các ngài không có cách nào. Hết cách thì làm sao loại bỏ thứ đó? Thời gian lâu rồi, không cần để ý đến nó, tự nhiên sẽ không còn nữa. Vậy phải cần thời gian bao lâu? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: ở trên kinh Đại thừa nói với chúng ta, phải ba a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ kiếp là thời gian đặc biệt rất dài, không phải một kiếp hay ba kiếp. Chúng ta xưng danh hiệu này: gọi đó là vô lượng thọ của hữu lượng, thời gian thật sự quá dài, nhưng quá dài vẫn là hữu lượng. Vì sao vậy? Bởi đến lúc đó, thì thật sự bỏ sạch Tập khí Vô thỉ Vô minh rồi, vậy các ngài không phải là Bồ-tát nữa, mà các ngài đã thành Phật, vị Phật ấy gọi là Phật cứu cánh, Phật cứu cánh viên mãn, chính là Diệu Giác. Cho nên các ngài là có hữu lượng.

Địa vị Diệu Giác là thực sự vô lượng, các ngài Minh tâm Kiến tánh, khế nhập vào cõi Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang chính là Tự Tánh, trong Thường Tịch Quang không có hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên: hoàn toàn không có, là một khối ánh sáng, với ánh sáng này, mắt thường của chúng ta nhìn không thấy. Nó ở khắp mọi nơi, nó ở khắp mọi lúc, cho nên tất cả ánh sáng đều ở trong ánh sáng đó, không có một thứ nào ngoại lệ. Đây là Tự Tánh của chúng ta, đây là Bản thể của chúng ta, đây thực sự là chính chúng ta. Mục tiêu cuối cùng của Phật pháp: chính là phải tìm lại chính mình, trở về với Tự Tánh. Tự Tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức năng, có vô lượng tướng hảo, thực sự là vạn đức vạn năng, tuy rằng tất cả tướng đều không có, nhưng nó có thể hiện ra tất cả tướng. Tất cả tướng không có, cho nên gọi nó là Không; Có thể hiện ra tất cả tướng, Không đó, không phải không có, Không đó không phải là xem thành ‘không có‘ để giảng, mà trong Không đó là có. Có, [nhưng] tại vì sao gọi nó là không có? Bởi vì chư vị nhìn không thấy, chư vị nghe không được, đó không phải là hiện tượng vật chất, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân bên ngoài không khởi tác dụng với nó; Đó không phải là hiện tượng tâm lý, chư vị nghĩ không được, chư vị dùng suy nghĩ cũng nghĩ không được, không có cách nào tiếp xúc với nó. Cho nên đều buông xuống tất cả, thì nó hiện ra, có duyên thì nó hiện tướng, tướng gì cũng hiện được; Tuy hiện tướng, nhưng không có Khởi tâm Động niệm. Tướng hiện ra thế nào? Theo tâm chúng sanh, ứng sở tri lượng, chúng sanh nghĩ Phật thì hiện tướng Phật, chúng sanh nghĩ Bồ-tát thì hiện tướng Bồ-tát, chư vị nghĩ gì thì hiện ra đó, do Tự Tánh biến hiện. Đó [là] không thể nghĩ bàn, đó thực sự là được đại tự tại.

Hiện tượng này có ở đâu? Nói với các vị, ở Thế giới Cực Lạc có, nếu chư vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì chư vị hoàn toàn đều chứng đắc được. Thế giới Cực Lạc chắc chắn không phải giả, Hòa thượng Hải Hiền ở chùa Lai Phật tại Nam Dương: làm chứng minh cho chúng ta, ngài vãng sanh vào năm ngoái, tháng một năm ngoái vãng sanh, rời khỏi chúng ta một năm rưỡi rồi. Khi ngài vãng sanh là 112 tuổi, 20 tuổi xuất gia, Sư phụ chỉ dạy ngài một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, dạy ngài một mạch mà niệm, ngài niệm câu Phật hiệu này được 92 năm. Niệm đến mức độ nào? Trong Tịnh tông nói, ngài niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn. Thế nào gọi là Lý nhất tâm Bất loạn? Lý nhất tâm Bất loạn chính là phá được Vô minh, Minh tâm Kiến tánh. Mọi thứ ngài đều biết, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giống như Lục tổ Đại sư Huệ Năng. Ở thời đại đó, Sư phụ nói với ngài, đến [khi] con biết thì đừng nói, không được nói, ngài thật sự thật thà, nghe lời, thật làm, thật sự không nói.

Nếu là người khác để nói, thì đáng lẽ ngài vãng sanh sớm rồi. Tôi thấy ngài [trong] đĩa CD này, dự đoán lão nhân gia ngài: được Lý nhất tâm Bất loạn: phải khoảng ở 40 tuổi; Nói cách khác, ngài có thể đi đến Thế giới Cực Lạc. Tại vì sao [ngài] không đi? Bởi vì A Mi Đà Phật phó chúc ngài, A Mi Đà Phật khen ngài tu tốt, thực sự tu tốt, bảo ngài trụ thế biểu pháp, biểu pháp chính là làm tấm gương cho người học Phật thấy, người học Phật phải học tập giống ngài thì đúng rồi. Trong một đời tu hành chứng quả: không có ai biết, ngài không nói. Biểu pháp cuối cùng, hoàn toàn làm chứng minh cho người tu Tịnh Độ tông, chứng minh quan trọng nhất, là Thế giới Tây Phương Cực Lạc có thật, A Mi Đà Phật là có thật, ngài từng thấy, không chỉ thấy một lần. Ngài không biết chữ, chưa từng đọc sách, từ trước đến giờ chưa từng xem qua Kinh điển, ngài chỉ biết niệm một câu A Mi Đà Phật. Từ sáng đến tối, công tác, xử việc đối người tiếp vật, câu Phật hiệu này từ trước đến giờ chưa hề gián đoạn, trong miệng không có niệm, nhưng trong tâm niệm, người khác không biết.

Chúng ta quan sát thời Đại sư Huệ Viễn, bên trên đây là [hình chư vị] Tổ sư của Tịnh Độ tông chúng ta, gồm 13 đời, Tổ sư đời thứ nhất là Đại sư Huệ Viễn, chúng ta đọc thấy ở trong truyện ký, Đại sư Viễn Công từng nhìn thấy: Thế giới Cực Lạc bốn lần trong đời, lần cuối cùng là đức A Mi Đà Phật tiếp dẫn ngài vãng sanh. Chúng ta có thể lãnh hội được, người niệm Phật thông thường: thực sự vãng sanh Thế giới Cực Lạc: chí ít ba lần thấy Phật. Lần thứ nhất là chư vị niệm đến Công phu Thành phiến, đức Phật sẽ hiện thân cho chư vị thấy, sẽ nói với chư vị, chư vị còn bao nhiêu năm thọ mạng, đợi đến khi thọ mạng của chư vị chấm dứt, đức Phật nói Ta sẽ đến tiếp dẫn con tới Thế giới Cực Lạc, đây là lần thứ nhất gặp Phật. Lần thứ hai gặp Phật phải là trước khi thọ mạng hết, thông thường là ba tháng, đến nói với chư vị, để chư vị có sự chuẩn bị đầy đủ. Lần thứ ba là ngày đó vãng sanh, Ngài đến tiếp dẫn chư vị. Chí ít là ba lần, đây là trên Kinh Lăng Nghiêm: do Bồ-tát Đại Thế Chí nói, 憶佛念佛,現前當來,必定見佛 “ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai, chắc chắn thấy Phật), chư vị thấy được rồi thì sẽ không hoài nghi nữa. Ba lần này đều là hiện tiền, tại vì sao? Bởi người chúng ta [vẫn] sống ở thế gian này mà thấy được. Cho nên vãng sanh là do sống mà đi, không phải chết rồi mới đi. Vãng sanh là chư vị thấy được đức Phật rồi, chư vị thấy đức Phật cầm đài hoa sen, để chư vị ngồi ngay trong hoa sen, hoa sen khép lại, đức Phật cầm đài hoa sen đó đến Thế giới Cực Lạc, đặt ở trong ao Thất Bảo. Thật sự, không phải giả.

Lão Pháp sư vì chúng ta mà biểu pháp, ngài sống được lâu như vậy, 92 năm, chư vị thử nghĩ xem, 40 tuổi thì ngài chứng được Lý nhất tâm Bất loạn, còn niệm 5-60 năm, công hạnh đó tuyệt vời, thật sự không thể nghĩ bàn, lão Hòa thượng ấy. Ngài vì điều gì? Thực tế nói là: vì thời cận đại chúng ta, trong Tịnh độ Tông, xuất hiện Bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư, [vì] về vấn đề này. Rất nhiều người phản đối bài bác, hủy báng phê bình, vô cùng nghiêm trọng, lịch sử Phật giáo 2000 năm đến nay: từ trước tới giờ chưa từng thấy. Cho nên rất nhiều người: không dám đọc bản này, để sang một bên rồi. Đây là lão Hòa thượng Hải Hiền: tiếp nhận sự dạy bảo của A Mi Đà Phật, đến làm chứng minh cho chúng ta, chứng minh Bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư: là chân kinh, không phải là giả; Điều chứng minh thứ hai: là bản Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: là chính xác, không có sai lầm; Điều thứ ba là vì chúng ta mà chứng minh, xu thế trong 20 năm gần đây của chúng ta, [là] dựa vào bộ Kinh này, chiếu theo bản Chú Giải này để tu hành, [là] không có sai lầm. Ngài đã rời khỏi thế gian này rồi.

Chứng minh đó chính là: ngài thấy được cuốn sách này, cuốn sách này là do Pháp sư Hoằng Lâm biên soạn, Pháp sư Hoằng Lâm, tựa đề của sách là: 《若要佛法興,唯有僧讚僧》 “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng” (Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Khen Tăng). Thầy ấy sưu tập rất nhiều tài liệu, dùng thời gian mười mấy năm viết xong cuốn sách này, để trả lời đối với sự nghi ngờ đó của người thông thường, nghi ngờ đối với Bản Hội Tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư. Sau khi chư vị đọc được cuốn sách này, toàn bộ vấn đề của chư vị đối với Bản Hội Tập được giải quyết. Lão Hòa thượng nhìn thấy cuốn sách này, có lẽ là đức Phật nói với ngài, con chỉ cần nhìn thấy được cuốn sách này, thì con có thể vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc rồi. Cho nên có người tặng ngài cuốn sách này, ngài vừa nghe được tên cuốn sách này thì vô cùng hoan hỉ, ngài mang áo tràng rất quý của mình: mặc lên người, trên tay cầm cuốn sách này, [nói] mọi người quý vị hãy chụp hình cho tôi. Ý nghĩa này chính là làm chứng mình cho điều đó, ngày thứ ba thì ngài vãng sanh rồi.

Đĩa CD này về ngài, trong cuốn sách này viết những điều gì? Đệ tử của ngài mang đến phần tài liệu này, [cũng] mang đến đĩa CD, đem đến Hồng Kông cho tôi xem. Lời văn không nhiều, tôi rất nhanh thì xem xong rồi. Ở mặt sau có đĩa CD, đĩa CD tôi cũng đã xem, một tiếng đồng hồ. Tôi làm bản tổng kết cho ngài, cuốn sách và đĩa CD này về lão Hòa thượng: là tổng kết của Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, chúng tôi [thấy] lý luận được giảng, phương pháp tu học được giảng trong bộ Kinh này, ngài hoàn toàn làm được hết. Thực sự, không có một câu nào mà không tìm được chứng cứ ở trong đĩa CD, tất cả có thể tìm thấy, vô cùng thù thắng. Cho nên tôi khuyên nhủ mọi người, mang đĩa CD này hoặc là cuốn sách này: đem làm Kinh Vô Lượng Thọ để học tập. Chư vị học Kinh Vô Lượng Thọ mà vẫn không hiểu, thì trước tiên xem [tư liệu] về ngài, xem nội dung về ngài, nhưng phải xem nhiều lần thì chư vị mới hiểu được, số lần ít thì không được. Tiêu chuẩn của người Trung Hoa là một ngàn lần, đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa ấy, chư vị sẽ hoàn toàn sáng tỏ ý nghĩa ở trong đó. Cho nên tôi khuyên mọi người nên xem một ngàn lần, một ngày xem ba lần, niệm 10 ngàn câu Phật hiệu, xem một năm, một năm không được gián đoạn, thì một năm sẽ đủ một ngàn lần. Một ngàn lần này, 3 triệu câu Phật hiệu, đảm bảo đời này: chư vị vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, dễ dàng hơn nghe kinh. Nghe kinh phụ giúp chư vị, điều này hỗ trợ chủ yếu chư vị, ngay trong năm này lấy điều đó làm chính, nghe kinh là phụ. Sau một năm, chư vị nghe kinh trở lại: thì khác rồi, chư vị nghe hiểu được hoàn toàn.

Ngày nay tôi giảng kinh, người thực sự nghe hiểu được không nhiều, đại khái cũng tìm không được 20 người, không dễ dàng. Tại sao chư vị nghe không hiểu? Bởi tâm trôi nổi không ổn định, vọng tưởng quá nhiều, tạp niệm quá nhiều, sự việc quá nhiều, chư vị không buông xuống được sự việc lo lắng trong lòng, thì sẽ chướng ngại chư vị nghe [giảng] kinh. Sau khi nghe được một ngàn lần này, tâm của chư vị sẽ định lại, tâm thanh tịnh hiện tiền. Mức độ thấp nhất, trên đề Kinh chúng ta là thanh tịnh bình đẳng giác, một năm này tu tâm thanh tịnh, buông xuống vạn duyên. Tâm thanh tịnh là A-la-hán chứng được, [là] Sự nhất tâm Bất loạn; Lý nhất tâm Bất loạn là Bồ-tát, là Pháp thân Bồ-tát chứng được. Bình đẳng giác, nhất định là trước tiên đạt được thanh tịnh, sau đó mới có thể được bình đẳng giác, đều quan trọng hơn tất cả. Thật sự muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, mà không buông xuống thì không được, đều phải buông xuống tất cả. Những sự việc thế gian, có những thứ cần phải giúp đỡ, vì sao vậy? Bởi có lợi ích đối với chúng sanh, nên cần phải giúp đỡ. Giúp xong rồi thì đừng để trong tâm, để trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, trừ A Mi Đà Phật ra, đều không có thứ gì, thì chư vị mới được Nhất tâm Bất loạn. Niệm Phật vãng sanh thân cận A Mi Đà Phật, đến Thế giới Cực Lạc để làm Phật, điều này quan trọng, đều quan trọng hơn tất cả. Việc lớn của đời người: không có điều gì lớn hơn điều này, chúng ta phải nhận thức rõ ràng, làm sáng tỏ, tất cả thứ khác đều là giả, tất cả là việc nhỏ, không phải việc thật. Tôi hi vọng chúng ta ngay trong đời này, gặp được Phật pháp, gặp được Tịnh Độ, rất khó, quá hiếm có, dựa vào sự gia trì bởi công đức nguyện lực của lão Hòa thượng Hải Hiền, đời này chúng ta nhất định được vãng sanh. Khi chúng ta vãng sanh, chư vị chắc chắn nhìn thấy Pháp sư Hải Hiền: cùng đến với A Mi Đà Phật tiếp dẫn chư vị.

Pháp sư Hoằng Lâm, đồng tu ở bên Bắc Kinh gửi cho tôi một thông tin, hiện tại sức khỏe [thầy ấy] không tốt, bị bệnh rồi, một trận bệnh rất nặng, mấy ngày gần đây chuyển biến tương đối tốt. Chúng tôi mỗi ngày giảng kinh đều hồi hướng cho thầy ấy, cho nên hi vọng đồng tu chúng ta: mỗi ngày xem đĩa CD đều là công đức, đem công đức xem đĩa CD, nghe kinh, niệm Phật hồi hướng cho thầy ấy, hi vọng sức khỏe thầy ấy sớm ngày có thể hồi phục. Thầy ấy là người tốt, hiếm có khó gặp. Tịnh tông gặp phải tai họa lớn như vậy, không có nghe thấy người nào đứng ra nói: để cứu giúp, không có! Chỉ có mình thầy ấy lặng lẽ không có danh tiếng. Biên soạn thành cuốn sách này, in được rất nhiều lần, mỗi lần in đều tăng số quyển lên, nên là rất rõ ràng, rất sáng tỏ rồi. Đặc biệt là phần《幻住問答》“Huyễn Trụ Vấn Đáp”, có người đưa ra câu hỏi hỏi thầy ấy, giải đáp của thầy ấy, tôi đều xem qua những lời văn đó. Công đức của thầy ấy, công đức Hộ pháp, không có người nào có thể so sánh được với thầy ấy. Chúng ta hi vọng A Mi Đà Phật: gia trì cho thầy ấy giống như gia trì cho Pháp sư Hải Hiền, kéo dài thọ mạng cho thầy ấy, giúp Phật giáo, giúp tất cả Tôn giáo, tất cả hi vọng đều có thể làm được: các bên khen ngợi lẫn nhau, không được phê bình, không được hủy báng.

Phê bình, hủy báng: khiến đại chúng trong xã hội sẽ sanh khởi nghi ngờ, đối với Phật pháp, đối với tất cả Tôn giáo: đều sẽ mất đi lòng tin. Mất đi lòng tin, thì trách nhiệm nhân quả này quá lớn rồi, mất đi lòng tin chính là: đoạn mất Pháp thân huệ mạng mà trên kinh nói, điều này còn nặng hơn tội giết thân người. Chư vị đoạn Pháp thân huệ mạng của họ, quả báo đều ở Địa ngục, vô cùng đáng sợ, không thể làm sự việc này. Chúng ta nghe thấy hủy báng, trong lòng mau chóng niệm A Mi Đà Phật, đừng để những thứ khác quấy nhiễu, giữ gìn tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của chính mình. Thật sự không thể nhẫn chịu, [thì] tránh đi; có thể nhẫn chịu, thì ở đó niệm Phật, họ hủy báng chúng ta, chúng ta niệm Phật hồi hướng cho họ, vậy thì đúng rồi, hi vọng tội nghiệp của họ được giảm nhẹ. Đối người, xử việc, tiếp vật: đều phải đem chân tướng sự thật: làm rõ ràng, làm sáng tỏ, không làm rõ ràng, không làm sáng tỏ, mà phê bình, mà hủy báng, thì rất dễ dàng làm người khác bị oan. Người ta phải chịu oan uổng quá lớn, không có chỗ nào có thể minh oan, trách nhiệm nhân quả này thì ai gánh chịu? Người tạo tội này: trước mắt họ không biết, sau khi chết thì họ sáng tỏ rồi, khi đó hối hận không kịp nữa.

Cổ thánh Tiên Hiền, chư Phật Bồ-tát, Tổ sư Đại đức: đều dạy chúng ta học Phật: phải học Nhẫn nhục Ba-la-mật, Nhẫn nhục Tiên nhân là tấm gương tốt nhất của chúng ta. Chịu bất kỳ oan ức gì đều không cần nói, như vậy mới tiêu được nghiệp chướng của chính mình, tăng thêm công đức của chính mình, không cần đi minh oan, không cần đi trả thù, không được. Đại thừa, đặc biệt là Tịnh tông, ngay trong cảm nhận xem tất cả chúng sanh đều là Phật, Lễ kính chư Phật, Xưng tán Như Lai, nhất định không có hủy báng. Họ hủy báng tôi, sỉ nhục tôi, hãm hại tôi, tôi vẫn cảm ân họ, vì sao vậy? Bởi họ thay tôi tiêu nghiệp chướng. Đời này tôi không tạo nghiệp nặng như vậy, nhưng cõ lẽ đời trước tạo rồi, nhiều đời nhiều kiếp về trước, không giữ được. Rất hoan hỉ tiếp nhận, oan uổng gì cũng vui lòng nhẫn chịu, tốt, trong tâm không có việc gì, một câu A Mi Đà Phật niệm đến cùng, chúng ta đối với mọi thứ của thế gian này đều không cầu, chỉ cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Cho nên với bất kỳ người nào: chúng ta đều có thể đối xử được rất tốt, không tranh với người, không cầu với đời. Có cầu có tranh thì có xung đột, chúng ta không cầu, nên không có xung đột, với bất kỳ người nào đều không có xung đột, thực sự là thanh tịnh bình đẳng giác. Cho nên, lời nói của chúng ta là ngay thẳng, không có thiên vị bên nào cả, không có đi chỉ trích bên nào, phê bình [cũng] như vậy, không có, là chí công vô tư.

Hi vọng mọi người: đều có thể đối với giáo dục Luân lý, giáo dục Đạo đức của truyền thống, giáo dục Nhân quả, giáo dục Cổ thánh Tiên hiền: học thêm một chút, nhất định có lợi đối với đời này của chúng ta. Giáo dục của Phật-Đà là viên mãn nhất, một bộ Kinh Vô Lượng Thọ này là đầy đủ rồi, trong này đã viên mãn rồi, pháp Đại Tiểu thừa, Hiển giáo Mật giáo, tất cả đều bao gồm ngay trong bộ Kinh điển này. Ngài Hoàng Niệm Tổ dùng 83 loại kinh luận, 110 loại Chú sớ của Tổ sư Đại đức: để Chú giải bộ Kinh này, cho nên nội dung của Chú Giải này vô cùng phong phú, đọc bản Kinh này: bằng với đọc hết một bộ Đại Tạng Kinh.Cho nên có bộ Kinh này, cộng với đĩa CD về lão Hòa thượng Hải Hiền, thì đủ rồi, viên mãn rồi.

Chúng ta xem tiếp đoạn sau đây, đây là giới thiệu, ngài Hoàng Niệm Tổ vì chúng ta mà giới thiệu: 16 vị Đại sĩ. Vị thứ nhất “Hiền Hộ”, 賢護等十六正士,常見經論 “Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh sĩ, thường kiến kinh luận” (nhóm mười sáu vị Chánh sĩ của ngài Hiền Hộ, thường thấy trong kinh luận). Đức Thế Tôn giảng kinh dạy học, những ngài ấy thường đến tham dự, đều ở trong Pháp hội. 《勝思惟梵天經》及《思益經》列十六名。 《智度論》標十六,但僅列六名 “Thắng Tư Duy Phạm Thiên Kinh cập Tư Ích Kinh liệt thập lục danh. Trí Độ Luận tiêu thập lục, đãn cận liệt lục danh” (Trong Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên và Kinh Tư Ích nêu tên 16 vị. Trong Luận Đại Trí Độ nêu lên 16, nhưng chỉ kể tên 6 vị), lược bớt rồi, đây chỉ đưa ra 6 vị làm thí dụ, con số [đầy đủ] là 16. 論曰 “Luận viết” (Trong Luận nói), dưới đây là dẫn ra: lời nói trong Đại Trí Độ Luận, Luận nói, 善守 “Thiện Thủ”, Thiện Thủ này chính là ngài Hiền Hộ, 等十六菩薩是居家菩薩。下列五名,茲不俱引 “đẳng thập lục Bồ-tát thị cư gia Bồ-tát. Hạ liệt ngũ danh, tư bất câu dẫn” (nhóm Bồ-tát tại gia 16 vị là Bồ-tát tại gia. Tiếp theo nêu 5 tên, ở đây không trích dẫn đủ), Niệm lão đã lược bớt ở trong này rồi, lược bớt đi, điều đó không quan trọng. 《思益經》云:若眾生聞名者,畢竟得三菩提,故云善守 “Tư Ích Kinh vân: Nhược chúng sanh văn danh giả, tất cánh đắc Tam Bồ-đề, cố vân Thiện Thủ” (Trong Kinh Tư Ích nói:Nếu có chúng sanh nghe được danh hiệu ngài,thì cuối cùng đắc Tam Bồ-đề, nên gọi là Thiện Thủ). Ý nghĩa của Hiền Hộ với Thiện Thủ là thông nhau, thủ chính là thủ hộ, thiện chính là thiện hiền. Nghe danh này, nghe danh tư duy nghĩa, chúng ta phải giữ gìn Chánh pháp của chúng ta.

Chánh pháp là gì? Từ trên Lý mà nói, [là] thanh tịnh bình đẳng giác; Trên Sự mà nói, phải giữ gìn tâm Bồ-đề, phải giữ gìn câu danh hiệu này không được rơi mất. Đây là lão Hòa thượng Hải Hiền: vì chúng ta mà làm ra tấm gương, ngài 92 năm một câu Phật hiệu: không có đánh mất, thường ở trên miệng, thường ở trong tâm, cho nên chứng được viên mãn rốt ráo. Đại sư Viễn Công thấy Phật bốn lần, còn ngài 92 năm, tôi tin ngài thấy Thế giới Cực Lạc, thấy A Mi Đà Phật: sẽ không ít hơn 10 lần; Nói cách khác, [ngài] là bằng hữu với A Mi Đà Phật, ngài rất quen thuộc với Thế giới Cực Lạc. Ngài đã chứng minh cho chúng ta sự việc này: là thật, không phải giả, vậy chúng ta phải tin. Huống hồ ngài ấy là người thật thà, cả đời từ trước đến nay chưa từng lừa gạt ai, từ trước đến nay chưa từng có một câu nói dối, giữ được tốt Giới luật, ngài không có Giới Luật nhiều như vậy, Tam Quy, Ngũ giới, Thập thiện, tôi tin với Sa di Luật nghi:ngài đều chưa từng học, nhưng giữ những điều này thì đầy đủ rồi!

Trước kia khi thành lập Tịnh tông Học hội ở nước Mỹ, tôi viết một bài duyên khởi, đưa ra năm điều cho đồng tu Tịnh tông, Phật môn gọi là Ngũ khoa, năm khoa mục. Thứ nhất Tam phước, Tam phước là nguyên tắc: chỉ đạo tu hành tối cao của chúng ta, không thể không biết. Phước đầu tiên, 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “Hiếu dưỡng phụ mẫu, Phụng sự Sư trưởng, Từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp” (Hiếu dưỡng cha mẹ, Phụng sự Sư Trưởng, tâm từ bi không sát sanh, tu Mười nghiệp thiện), đây là phước đầu tiên, phước đầu tiên là gốc, gốc rễ của gốc rễ. Vận dụng thế nào? Hai-ba mươi năm nay, chúng ta nói với mọi người một cách rất cụ thể, Hiếu thân Tôn sư vận dụng ở trong Đệ Tử Quy, Từ tâm Bất sát vận dụng ở trongCảm Ứng Thiên, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên,là của Đạo gia; Câu cuối cùng là tu Thập Thiện Nghiệp, Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Tôi gọi đây là ba cội rễ, Đệ Tử Quy là gốc rễ của Đạo nho, Cảm Ứng Thiên là gốc rễ của Đạo gia, Thập Thiện Nghiệp là gốc rễ của Đạo Phật, ba gốc rễ của Nho, Thích, Đạo, bắt đầu làm từ đây, nếu không bắt đầu làm từ đây, thì là giả, không phải thật.

Điều thứ hai của Tam Phước, có được điều thứ nhất mới có được điều thứ hai. Điều thứ nhất là Thiện pháp của trời người, trời người trong Lục đạo chiếu theo điều này tu, thì đời sau không mất thân trời người, quả trời người. Có quả người trời mới có thể từng bước đi lên học Phật, Quy Y Tam Bảo. Cho nên phước thứ hai là: 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀 “Thọ trì Tam Quy, Cụ túc chúng Giới, Bất phạm Oai nghi” (Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các Giới, không phạm Oai nghi), Tiểu thừa, giới Tiểu thừa này, nhất định bắt đầu làm từ đây. Cho nên trước khi chúng ta khai kinh, trước tiên chúng ta Quy Y Tam Bảo, chính là thọ trì Tam Quy, không nên quên điều này, đây là nguyên tắc chỉ đạo tu hành cao nhất. Quy Y Phật là giác thì không mê, thường xuyên nghĩ đến, tôi thời thời khắc khắc: phải giác, không nên mê hoặc; Chánh thì không tà, tư tưởng, lời nói hành vi phải chánh, không được có Tà tri Tà kiến, nhất định phải nương theo sự dạy dỗ của Tổ tông, Thánh Hiền; Thứ ba tịnh thì không nhiễm, người xuất gia thanh tịnh, chúng ta nhìn thấy hình tượng của người xuất gia, thì nghĩ đến tịnh chứ không nhiễm, không nghĩ điều khác. Họ tịnh hay không tịnh không liên quan, không liên quan với tôi, tôi nhìn thấy hình tượng ấy, hồi quang phản chiếu, tôi nghĩ người xuất gia Lục căn thanh tịnh không nhiễm một trần, tôi học điều này. Học thứ gì? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn, ở trong cảnh giới sáu trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không nhiễm, đây gọi là Quy Y Tăng.

Trụ trì Tam Bảo khởi tác dụng, nhìn thấy tượng Phật, nghĩ đến giác thì không mê; Nhìn thấy Kinh điển, nghĩ đến Chánh thì không Tà; Nhìn thấy người xuất gia, nghĩ đến Tịnh thì không Nhiễm, vậy gọi là thật tu hành. Nếu nhìn thấy người xuất gia: liền phê bình người này tốt người kia xấu, thì chư vị đang tạo nghiệp, tương lai chư vị sẽ đọa Địa ngục, sai rồi! Đây không phải là việc của chúng ta, chúng ta không được phê bình, chúng ta chỉ có thể tán thán. Cho nên tán thán, thì Phật pháp hưng; Phê bình, thì Phật pháp hủy diệt. Chúng ta bất tri bất giác đang phê bình, đó chính là tạo việc diệt Phật pháp, tội nghiệp này rất nặng. Chúng ta tán thán, không phê bình. Chúng ta học tập, ở trước Tam Bảo học Giác Chánh Tịnh, đây gọi là thọ trì Tam Quy, đầy đủ chúng Giới. Chúng ta vừa mới giảng: năm mục này chính là Giới, trong Giới này bao gồm Lục hòa, Tam học, Lục độ, Phổ Hiền Thập Nguyện, rất dễ dàng nhớ, phải thường xuyên thời thời khắc khắc: lấy điều đó để đối chiếu chính mình: khởi tâm động niệm, lời nói tạo tác, thì đúng rồi, đây gọi là chân thật học Phật. Học Kinh Vô Lượng Thọ: mục đích là nhận biết Thế giới Cực Lạc, thực sự nhận biết Thế giới Cực Lạc, chư vị sẽ hướng về Thế giới Cực Lạc, tôi nhất tâm nhất ý đi con đường đó, tôi nhất định trong đời này phải vãng sanh Thế giới Cực Lạc, kết pháp duyên thù thắng với A Mi Đà Phật, dụng ý đọc kinh ở đây.

Cho nên nghe tên của ngài Hiền Hộ, chư vị xem dùng chữ này hồi quang phản chiếu, tôi phải học Thánh Hiền, tôi mong tiếp nối giáo dục của Thánh Hiền, tôi phải chăm chỉ đi làm. Chỉ cần giữ được Tịnh nghiệp Tam phước, Lục hòa kính, Tam học Giới Định Huệ, Lục độ, Thập nguyện, thực hành được, nhất tâm thường niệm A Mi Đà Phật, thì không một ai không vãng sanh. Lão Hòa thượng nghiêm trì Tịnh giới, cũng chính là chỉ năm khoa mục này, năm khoa mục này bao gồm tất cả Giới luật, đều ở trong đó. Cho nên quý vị xem, Kinh Tư Ích nói rất hay, chúng sanh nghe được danh hiệu của những vị Bồ-tát này, đều có thể hồi quang phản chiếu nhắc nhở chính mình, cuối cùng đắc Tam Bồ-đề, cho nên gọi là Thiện Thủ.

又《大方等大集賢護經》“Hựu Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh” (Thêm nữa Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ), bộ kinh ấy chỉ chuyên giới thiệu Bồ-tát Hiền Hộ, khen ngợi công đức tu hành của ngài, Hoằng pháp Hộ pháp. 王舍大城有優婆塞,名曰賢護 “Vương Xá Đại Thành hữu Ưu-bà-tắc, danh viết Hiền Hộ” (Thành lớn Vương Xá có Ưu-bà-tắc, tên là Hiền Hộ), 16 vị Chánh sĩ này, chỉ có ngài Hiền Hộ: là người trên trái đất của chúng ta, các vị khác đều không phải, các vị khác đều đến từ bên ngoài, 為眾上首 “vi chúng Thượng thủ” (làm Thượng thủ trong chúng), đầu tiên nêu ra một vị trên trái đất của chính chúng ta, những vị khác xếp ở phần sau. 又《大寶積經賢護長者會》佛說賢護長者眾樂事 “Hựu Đại Bảo Tích Kinh Hiền Hộ Trưởng Giả Hội – Phật thuyết Hiền Hộ Trưởng giả Chúng Lạc Sự” (Thêm nữa Hội Hiền Hộ Trưởng Giả trong Kinh Đại Bảo Tích, phần Phật Thuyết những sự việc vui vẻ của Trưởng giả Hiền Hộ), chữ lạc này là vui vẻ, xưng tán ngài, việc vui chắc chắn là bởi nhân thiện cảm được, từ trên quả thì sẽ nhìn thấy được nhân, 其受於快樂果報,雖復忉利帝釋天王, 猶不能及,況復人間 “kỳ thọ ư khoái lạc quả báo, tuy phục Đao Lợi Đế Thích Thiên vương, do bất năng cập, huống phục nhân gian” (sự cảm thọ của ngài đối với quả báo vui vẻ, tuy dù vua trời Đao Lợi Đế Thích, mà còn không bằng được, huống hồ nhân gian). Đây là lời tán thán của đức Phật với Bồ-tát Hiền Hộ, tuy ở nhân gian, nhưng niềm vui ngài nhận được lại cao hơn trời Đao Lợi. Vua trời Đế Thích: người nước ta gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế, Ngọc Hoàng Đại Đế cũng không so được với ngài, đây là khen ngợi đối với ngài. Thêm nữa ở trong《名義集》Danh Nghĩa Tập nói, 颰陀婆羅 “Bạt Đà Bà La” là âm tiếng Phạn, dịch sang ý nghĩa nước ta chính là Hiền Hộ, 翻為賢護,自護賢德,復護眾生故 “phiên vi Hiền Hộ, tự hộ hiền đức, phục hộ chúng sanh cố” (phiên dịch thành Hiền Hộ, vì tự bảo hộ đức của mình, lại còn bảo hộ chúng sanh), không những ngài biết bảo hộ chính mình, mà còn bảo hộ chúng sanh, hộ chúng sanh, hộ pháp, bảo hộ pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Như thế nào được gọi là hộ pháp? Thứ nhất là y giáo phụng hành, bản thân không thể y giáo phụng hành, thì hộ pháp đó là giả, không phải thật, nhất định phải làm được.

Lão Hòa thượng Hải Hiền nắm được: nguyên tắc chung, cương lĩnh chung của Phật pháp, hộ một thì hộ tất cả, không sót một điều gì, tổng cương lĩnh này chính là một câu Phật hiệu, rất ít người biết. Chúng tôi giảng kinh thường nói, nhưng thính chúng cũng không phải rất nhiều, mà đa phần thính chúng lơ là sơ suất, không cẩn thận, công đức câu Phật hiệu không thể nghĩ bàn. Một câu A Mi Đà Phật này: hoàn toàn là dịch âm của Phạn văn, nếu dịch sang ý nghĩa nước ta thì, A dịch thành Vô, vô của nước ta, Mi Đà dịch thành Lượng, Vô Lượng, Phật dịch thành Giác, dịch thành quang, dịch thành trí huệ, dịch thành thọ mạng, dịch thành phước đức, rất nhiều, chữ Phật này dịch được rất nhiều. Đức Thế Tôn ở trên Kinh A Di Đà:nói ra cho chúng ta hai ý nghĩa, A Mi Đà Phật [có] ý nghĩa gì? Thứ nhất là Vô Lượng Thọ, thứ hai là Vô Lượng Quang, thọ đại diện cho thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai; Quang đại diện cho không gian, ánh sáng chiếu khắp. Ý nghĩa này là viên mãn rồi, trong danh hiệu này, đã bao gồm tất cả trong không gian, thời gian: không bỏ sót một điều gì, vô lượng không gian thời gian. Cho nên, câu danh hiệu này là danh hiệu chung của tất cả chư Phật: trong mười phương ba đời. Chư vị nghĩ xem, vị Phật nào không phải là Vô Lượng Giác, thành Phật chính là thành Vô Lượng Giác, thành Vô Lượng Giác thì gọi là thành Phật.

Giác là Bổn giác, không phải do từ bên ngoài. Bồ-tát Mã Minh: trong 《起信論》 Khởi Tín Luận nói rất hay, 本覺本有,不覺本無 “Bổn giác bổn hữu, Bất giác bổn vô” (Bổn giác vốn có, bất giác vốn không), không giác thì là mê, mê vốn không có, giác là xưa nay vốn có. Người thời nay tại sao làm giác mất đi, tất cả mê rồi? Chính là đã có Khởi tâm Động niệm, đã có Phân biệt, đã có Chấp trước. Sau khi có Chấp trước, Chấp trước thân là ta, Chấp trước tham sân si mạn, Chấp trước bảy loại tình cảm ngũ dục, vấn đề phát sinh ở chỗ đó. Phật Bồ-tát hoàn toàn hiểu rõ những việc này, chúng ta học Phật chính là muốn trở về Bổn giác, Phật Bồ-tát có phương pháp, có năng lực: giúp chúng ta trở về, chúng ta mới vào trong cửa Phật để cầu học. Trong cửa Phật không có pháp thế gian, pháp xuất thế gian, thứ nhất vượt khỏi Lục đạo Luân hồi, thứ hai vượt khỏi Mười pháp giới, thứ ba vượt khỏi Nhất chân Pháp giới, trở về Thường Tịch Quang, dung nhập vào Thường Tịch Quang, đó gọi là giác viên mãn. Đây là con đường của chúng ta đi, quá cao rồi, quá sâu rồi, quá vi diệu rồi. Đối với pháp thế gian, có thể biết tất cả pháp, thế gian và xuất thế gian không có gì không biết, đó gọi là chân thật trí huệ. Cầu thế nào? 84 ngàn Pháp môn, pháp là phương pháp, môn là con đường, điều này trên kinh Phật thường nói: Tiểu thừa 3 ngàn, Đại thừa 84 ngàn, lại thường xuyên nói với chúng ta vô lượng vô biên, vô lượng vô biên: đó chính là hết thảy tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian: bao gồm toàn bộ ở trong đó.

Lão Hòa thượng Hải Hiền niệm một câu A Mi Đà Phật này, đã niệm 92 năm, Đại triệt Đại ngộ. Chúng ta đổi lại, chúng ta đổi danh hiệu đó thành: Chúa Giê-Su được không? Chúa Giê-Su của Cơ đốc giáo, giống như lão Hòa thượng vậy, thật thà, nghe lời, thật làm, tâm chân thành, thanh tịnh, cung kính: niệm câu Chúa Giê-Su đó, niệm trên 92 năm: được Đại triệt Đại ngộ không? Được, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, vấn đề là chư vị biết hay không? Chư vị biết niệm thì được Minh tâm Kiến tánh, tại sao? Bởi niệm hết phiền não, niệm hết đi Chấp trước, niệm hết đi Phân biệt, niệm hết đi Khởi tâm Động niệm, thì thành công rồi, cho dù dùng phương pháp nào cũng được. Trong tất cả các phương pháp, A Mi Đà Phật là thù thắng nhất, bởi danh hiệu này bao gồm tất cả rồi, không sót một pháp. Chúa Giê-Su không bao gồm tất cả được, nhưng có thể niệm hết đi Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước, có năng lực này. Trong tâm quý vị chỉ cần thực sự có Chúa Giê-Su, giống như người niệm Phật, không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, được, có thể niệm đến Minh tâm Kiến tánh. Cho nên Pháp môn thật sự bình đẳng, thật sự không có cao thấp, tất cả đều được, chỉ cần chư vị chịu tin, chư vị chịu chuyên nhất. Lão Hòa thượng nói rất hay, trên đời không việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên, chuyên thì được. Chư vị xem người nước ta nói: 教之道,貴以專 “Giáo chi đạo, quý dĩ chuyên” (Đạo lý dạy học, quý ở chuyên nhất), giáo dục của nước ta coi trọng chuyên, cho nên người nước ta có trí huệ, sanh ra Thánh nhân, sanh ra Hiền nhân, sanh ra Quân tử, có trí huệ, có đức hạnh. Giáo học truyền thống nước ta tương ưng với Phật pháp, Phật pháp giúp nền văn hóa truyền thống nước ta, đưa nền văn hóa nước ta lên tầm cao độ, nâng lên hoàn toàn bình đẳng với Phật pháp. Ngày nay đạo lý này: càng phải được coi trọng.

Chúng ta thấy được tự hộ hiền đức của chính mình, lại hộ chúng sanh, phải ghi nhớ điều này, giúp đỡ tất cả chúng sanh: thành Thánh, thành Hiền, thành Quân tử. 或云賢首 “Hoặc vân Hiền Thủ” (Hoặc gọi là Hiền Thủ), Hiền Hộ cũng có thể dịch thành Hiền Thủ, 以位居等覺,為眾賢之首 “dĩ vị cư Đẳng giác, vi chúng Hiền chi thủ” (với địa vị ở Đẳng giác, là vị đứng đầu trong bậc Hiền). Hiền Thủ là ý nghĩa này, bởi vì ngài là Đẳng giác Bồ-tát, trong Pháp thân Bồ-tát, tên của các ngài được xếp ở vị trí thứ nhất, cho nên có thể xưng là Hiền Thủ. 可見賢護正士,乃示生於王舍城,位登等覺之在家菩薩 “Khả kiến Hiền Hộ Chánh sĩ, nãi thị sanh ư Vương Xá thành, vị đăng Đẳng giác chi tại gia Bồ-tát” (Có thể thấy Chánh sĩ Hiền Hộ, là thị hiện sanh ở thành Vương Xá, địa vị lên đến Bồ-tát tại gia của Đẳng giác), đây là nói ra thân phận thật sự của ngài, ngài đã chứng được địa vị Đẳng giác Bồ-tát, đến đây để biểu pháp, thị hiện thân phận Cư sĩ tại gia, xuất hiện ở thế gian cùng thời với đức Phật. 若按今經別意 “Nhược án kim Kinh biệt ý” (Nếu chiếu theo nghĩa đặc biệt của Kinh này), nếu là y theo lý niệm của Kinh Vô Lượng Thọ: đối với việc học tập, thì có ý nghĩa đặc biệt. Ý nghĩa đặc biệt này, 《般舟三昧經》Kinh Bát Chu Tam Muội, trong kinh đó đã đề xướng, “Thử Bạt Đà Hòa” (Bạt Đà Hoà ấy), Bạt Đà Hoà chính là Bạt Đà Bà La đã nói ở trước, dịch sang ý nghĩa nước ta thành Hiền Hộ, Bồ-tát Hiền Hộ, Bồ-tát Bạt Đà Hoà. 是念佛三昧發起人 “Thị Niệm Phật Tam-muội phát khởi nhân” (Là người phát khởi Niệm Phật Tam-muội), điều này liên hệ vô cùng mật thiết với Tịnh Độ, ngài là người phát khởi Niệm Phật Tam-muội, 親見彌陀。今故來此勝會,助顯念佛三昧 無上法門 “Thân kiến Mi Đà. Kim cố lai thử thắng hội, trợ hiển Niệm Phật Tam-muội vô thượng Pháp môn” (Đích thân thấy đức A Mi Đà. Nên đến pháp hội thù thắng này, giúp rạng rỡ vẻ vang Pháp môn vô thượng Niệm Phật Tam-muội). Có ý nghĩa như vậy.

Từng thân cận A Mi Đà Phật, chỉ cần thân cận A Mi Đà Phật, thì có đạo lý nào không thành Phật! Nếu chúng ta nghĩ, Bồ-tát Hiền Hộ có thành Phật không? Thành Phật rồi, chắc chắn thành Phật rồi. Thành Phật nhưng thế nào? Lùi lại vị trí Bồ-tát: giúp Phật giáo hóa chúng sanh, đây gọi là Quả hậu Hiền Hộ. Ở phần trước chúng ta thấy được Quả hậu Phổ Hiền, Bồ-tát đều có Quả tiền, Quả trung, Quả hậu, Quả trung là Đẳng giác, trước Đẳng giác gọi là Quả tiền, sau Đẳng giác gọi là Quả hậu. Quả hậu chính là thành Phật rồi, Ngài lại đến, nhưng khi đến dùng thân Bồ-tát, trong thân phận Bồ-tát. Lại thị hiện thân phận Bồ-tát tại gia, chứ không phải xuất gia. Ý nghĩa biểu pháp của ngài: hoàn toàn tương đồng với ngài Phổ Hiền ở phần trước, Phổ Hiền là Quả hậu, dùng thân phận xuất gia để xuất hiện, còn ngài Hiền Hộ dùng thân phận Cư sĩ tại gia để xuất hiện, đều là Đẳng giác Bồ-tát. Thực sự ngài là do biểu pháp mà đến, trợ giúp làm cho vẻ vang Pháp môn vô thượng Niệm Phật Tam-muội. Ai tu được Niệm Phật Tam-muội? Bồ-tát Phổ Hiền tu, Bồ-tát Hiền Hộ tu, đó là chí cao vô thượng ngay trong hàng Bồ-tát, các ngài học Pháp môn này: cũng chính là Pháp môn chí cao vô thượng. Pháp môn chí cao vô thượng là gì? Chính là một câu A Mi Đà Phật này. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã niệm 92 năm, ngài sống đến 112 tuổi, 20 tuổi bắt đầu, 112 tuổi vãng sanh. Đó thật tuyệt vời, 92 năm ngày nào cũng tu như vậy: Pháp môn vô thượng Niệm Phật Tam muội. Chúng ta phải hiểu ý nghĩa này.

Xem tiếp đoạn thứ hai phía sau. Thứ hai『善思惟菩薩』“Thiện Tư Duy Bồ-tát”, 唐譯為善思惟義菩薩,魏譯為善思議菩薩。按《四童子經.現生品》,善思惟等正士是他方世界來此示現之在家菩薩 “Đường Dịch vi Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ-tát, Ngụy Dịch vi Thiện Tư Nghì Bồ-tát. Án Tứ Đồng Tử Kinh – Hiện Sanh Phẩm, Thiện Tư Duy đẳng Chánh sĩ thị tha phương Thế giới lai thử thị hiện chi tại gia Bồ-tát” (bản dịch triều Đường là Bồ-tát Thiện Tư Duy Nghĩa, bản dịch triều Ngụy là Bồ-tát Thiện Tư Nghì. Theo Phẩm Hiện Sanh trong Kinh Tứ Đồng Tử, thì Chánh sĩ như ngài Thiện Tư Duy v.v… là Bồ-tát tại gia của Thế giới phương khác đến đây thị hiện).Là có căn cứ, không phải nói tùy tiện. Đây chính là trí huệ của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ngài chú giải kinh không thể tùy tiện nói. Đều phải nói ra xuất xứ. Phẩm Hiện Sanh trong Kinh Tứ Đồng Tử. Nói các ngài là từ Thế giới phương khác đến. 經云 “Kinh vân”(Kinh dạy rằng), chữ kinh này chính là Kinh Tứ Đồng Tử, 東方去此佛剎十千俱胝,有一世界名寶鳴 “Đông phương khứ thử Phật sát thập thiên câu-chi, hữu nhất Thế giới danh Bảo Minh” (đi về phía Đông cõi Phật này 10 ngàn câu-chi [cõi nước], có một Thế giới tên là Bảo Minh), Thế giới đó gọi là Bảo Minh, có Phật xuất thế, danh hiệu của đức Phật gọi là 獅子鳴聲如來 “Sư Tử Minh Thanh Như Lai”. Có một vị Bồ-tát gọi là善思議 “Thiện Tư Nghị”,chính là ngài Thiện Tư Duy được nói ở đây, 應托來到此土,化生阿闍世王宮內 “Ứng thác lai đáo thử độ, hóa sanh A Xà Thế Vương cung nội” (ứng thân thác sanh đến cõi này, hóa sanh trong cung của vua A Xà Thế), cõi này là đến Thế giới này của chúng ta, ứng là ứng thân, đến Thế giới này để đầu thai, sanh ở trong Hoàng cung của vua A Xà Thế. Đây là nói rõ ra về Thiện Tư Duy Bồ-tát rồi, là Bồ-tát tại gia.

南方去此五百億世界,有一世界,佛名寶積善現如來,有一菩薩名寂靜轉 “Nam phương khứ thử ngũ bá ức Thế giới, hữu nhất Thế giới, Phật danh Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, hữu nhất Bồ-tát danh Tịch Tĩnh Chuyển” (Đi về phía Nam của cõi này 500 ức Thế giới, có một Thế giới, đức Phật tên là Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, có một vị Bồ-tát tên là Tịch Tĩnh Chuyển), trong dấu ngoặc này nói, chính là ngài Huệ Biện Tài, là vị thứ 3 trong 16 vị này, vị thứ 3 là Bồ-tát Huệ Biện Tài. 於此舍衛城內,生大居士師子家 “Ư thử Xá Vệ thành nội, sanh đại Cư sĩ Tự Sư Tử gia” (Ở trong thành Xá Vệ này, sanh vào nhà vị đại Cư sĩ [tên] là Tự Sư Tử). Đây đều là Bồ-tát của Thế giới phương khác, đến Thế giới này, dùng Ứng hóa thân đến, dùng Ứng thân, Ứng thân đến nơi này đầu thai, trở thành người nơi này. Ngài sanh ở thành lớn Xá Vệ, sanh ở [nhà] vị đại Cư sĩ Tự Sư Tử, danh hiệu của vị đại Cư sĩ ấy là Tự Sư Tử, sanh ở nhà người đó. Xem tiếp phần sau, 西方去此過八億百千佛剎 “Tây phương khứ thử quá bát ức bá thiên Phật sát” (đi về phía Tây qua 8 ức trăm ngàn cõi Phật), đơn vị là trăm ngàn, trăm ngàn chính là mười vạn, 8 ức nhân với 10 vạn, cõi Phật nhiều như vậy, 樂音如來所,有一菩薩名無攀緣 “Nhạo Âm Như Lai sở, hữu nhất Bồ-tát danh Vô Phan Duyên” (chỗ của Nhạo Âm Như Lai, có một Bồ-tát tên là Vô Phan Duyên), chính là ngài 觀無住 “Quán Vô Trụ”. Quán Vô Trụ chính là Vô Phan Duyên, ngài quán, quán rõ không phan duyên, quán rõ như thế nào? Trong tâm không rơi vào ấn tượng, gọi là Quán Vô Trụ, đây thực sự là không phan duyên. 於此波羅奈國,化生大居士善鬼家 “Ư thử Ba La Nại quốc, hóa sanh đại Cư sĩ Thiện Quỷ gia” (Ở nước Ba La Nại, hóa sanh nhà Cư sĩ lớn có tên Thiện Quỷ), Thiện Quỷ là tên Cư sĩ, là tên gọi. Đây là vị thứ 4, Quán Vô Trụ Bồ-tát.

北方去此六萬四百千億佛土,住菩提分轉如來所 “Bắc phương khứ thử lục vạn tứ bá thiên ức Phật độ, Trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai sở” (Đi về phương Bắc cách đây 6 vạn 4 trăm ngàn ức cõi Phật, nơi của đức Trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai), đây là tên của đức Phật, Trụ Bồ Đề Phần Chuyển Phật, Phật chính là Như Lai. 有一菩薩名開敷神德 “Hữu nhất Bồ-tát danh Khai Phu Thần Đức” (Có một vị Bồ-tát tên là Khai Phu Thần Đức), chính là Thần Thông Hoa Bồ-tát, 生此毘耶離城大將師子家 “sanh thử Tì Da Li thành Đại tướng Sư Tử gia” (sanh vào nhà Đại tướng Sư Tử ở thành Tì Da Li này). Đây là Bồ-tát Thế giới phương khác, thác sanh trong nhà một vị Tướng quân ở Ấn Độ, 此四童子與無量大眾,共來娑羅雙樹所,恭敬供養 “thử tứ Đồng tử dữ vô lượng đại chúng, cộng lai Sa La Song Thọ sở, cung kính cúng dưỡng” (Bốn vị Đồng tử đó và vô lượng đại chúng, cùng đến rừng Sa La Song Thọ, cung kính cúng dường). Đây là kinh văn, kinh văn này chính là: những gì trong Kinh Tứ Đồng Tử nói, hiện thân đến thế gian này là bốn Đồng tử. Đồng tử, khi nhỏ tuổi: các ngài đã học Phật rồi, do là Đẳng giác Bồ-tát tái lai. Cho nên khi các ngài thấy được đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đến rừng Sa La Song Thọ, để cung kính cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

又此下光英菩薩等四正士,如《佛名經第七》 “Hựu thử hạ Quang Anh Bồ-tát đẳng tứ Chánh sĩ, như Phật Danh Kinh Đệ Thất (Thêm nữa bốn vị Chánh sĩ như Bồ-tát Quang Anh sau đây, như Phẩm thứ 7 của Kinh Phật Danh), có những danh hiệu này, 說光英、慧上 “thuyết Quang Anh, Huệ Thượng” (nói ngài Quang Anh, Huệ Thượng), Huệ Thượng chính là ngài Trí Thượng, 寂根、願慧四菩薩,從四方佛土,來集此界之相 “Tịch Căn, Nguyện Huệ tứ Bồ-tát, tùng tứ phương Phật độ, lai tập thử giới chi tướng” (bốn vị Bồ-tát Nguyện Huệ, Tịch Căn, từ cõi Phật bốn phương, [thị hiện] tướng đến tập hợp ở thế giới này). Đây là các ngài hóa thân đến nơi này,từ bốn phương, bốn phương Đông Tây Nam Bắc: lai tập [ở] Thế giới này. Ở những nơi này để chúng ta có thể tưởng tượng được, mỗi người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, chúng ta là phàm phu vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, nhưng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì đạt được sự gia trì bởi 48 nguyện của A Mi Đà Phật [ở] Thế giới Cực Lạc, không chỉ 48 nguyện, mà công đức tu hành trong vô lượng kiếp của A Mi Đà Phật: tất cả gia trì cho chư vị, chư vị sẽ trở thành A-duy-Việt-trí Bồ-tát, A-duy-Việt-trí chính là Pháp thân Bồ-tát. Cho nên, đức A Mi Đà luôn luôn đều đang hóa thân, hóa vô lượng vô biên, vô số vô tận thân, giống hóa thân của những vị Bồ-tát đó, hóa thân làm gì? Đến mười phương Thế giới để tiếp dẫn: người niệm Phật vãng sanh. Mỗi người vãng sanh đều nhìn thấy hóa thân của đức Phật, [nếu] không có hóa thân của đức Phật, thì chư vị không biết Thế giới Cực Lạc ở đâu, cho nên nhất định Ngài sẽ đến để dẫn chư vị đi.

Đến Thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, hoa nở thấy Phật chính là Pháp thân Bồ-tát. Nếu chưa chứng được Pháp thân, thì Pháp thân đó là do A Mi Đà Phật gia trì, không phải do chúng ta chứng được, bản thân chúng ta không có năng lực đó, là do sự gia trì, hiệu quả của sự gia trì. Hoa của chúng ta nở ra, hoa nở thấy Phật ngộ Vô sanh, Vô sanh Pháp nhẫn. Vô sanh Pháp nhẫn là Thất địa trở lên, Thất địa là Hạ phẩm Vô sanh nhẫn, Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm, Vô sanh Pháp nhẫn. Lại đi lên tiếp gọi là Tịch diệt nhẫn, Thập địa là Hạ phẩm Tịch diệt nhẫn, Đẳng giác là Trung phẩm, Diệu Giác là Thượng phẩm. Đến Diệu Giác là Vô thượng rồi, ở trên không còn nữa, [là] Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, địa vị này cao. Cho nên mỗi người đến Thế giới Cực Lạc, thấy Phật, hoa khai kiến Phật, bước vào giảng đường của A Mi Đà Phật, giảng đường có chỗ ngồi của chư vị, giống với hoa sen, chỗ ngồi của hoa sen có tên, chỗ ngồi của giảng đường cũng có tên, sẽ không sai được.

Ở Thế giới Cực Lạc, nghe A Mi Đà Phật giảng kinh dạy học, nghe đến Đại triệt Đại ngộ, chứng được rốt ráo viên mãn, chư vị liền thành Phật, thành Phật thì rời khỏi giảng đường. Chư vị xem, tiến vào giảng đường là phàm phu, rời khỏi giảng đường thì thành Phật rồi. Thời gian rời khỏi giảng đường dài hay ngắn [của] mỗi người: không giống nhau, có người rất nhanh, có người rất chậm, nhưng tuyệt đối không thoái chuyển. Chỗ tốt lớn nhất của người ở Thế giới Cực Lạc, là không cần phải ăn uống, không có đại tiểu tiện, thân thể sạch sẽ, không cần phải ăn uống, không cần phải ngủ. Thế giới Cực Lạc [là] Thế giới ánh sáng, không có đêm tối, Thế giới Cực Lạc không có tối tăm, đều là ánh sáng. Thế giới ấy hiếm có. Cho nên, đức Phật hóa thân để tiếp dẫn chúng sanh, Bồ-tát mỗi người đều hóa: vô lượng bô biên vô số vô tận thân, để làm gì? Đến mười phương Thế giới để lễ Phật. Mười phương Thế giới có vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, phân thân đến đó để lễ Phật, cúng dường Phật, là tu phước, nghe kinh thính pháp là mở trí huệ. Cho nên phân thân thì đi qua rồi, ở Thế giới Cực Lạc tu hành một ngày, thì [tu] vô lượng kiếp ở Thế giới khác cũng không bằng được, các ngài chỉ một ngày thì có thể làm được.

Chư vị phải thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ, không thể không đến Thế giới Cực Lạc. Duyên hiện tại này của chúng ta quá tốt rồi, nếu xả bỏ duyên phận này, thế thì chư vị là sai thật rồi, sai lầm chư vị phạm trong đời này: không có gì lớn hơn nữa. Thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì hạ quyết tâm không đi không được, hoàn toàn buông xuống thế gian này. Không tranh với người, quý vị muốn tranh [thì] quý vị đi tranh đi, quý vị muốn thì lấy tất cả đi, tôi hoàn toàn không cần nữa. Có một việc không buông xuống, thì đó là chướng ngại vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Tất cả buông xuống, không để trong tâm một thứ gì, trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, thì đúng rồi. Cho nên, hi vọng quý vị nghe nhiều đĩa CD đó, thực sự nghe hiểu rồi, lại nghe bộ Kinh này thì không vấn đề, xem bộ Kinh này, chư vị có thể thấy ra được ý nghĩa thực sự, tự thấy nghĩa ấy. Dùng đĩa CD đó để làm sạch nội tâm của chúng ta, tìm về lại thanh tịnh bình đẳng giác của chúng ta, vậy thì khác nhau rồi.

Phần tiếp theo nói, 又《文殊師利嚴淨經》 亦說此四正士 “hựu Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh diệc thuyết thử tứ Chánh sĩ” (thêm nữa Kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh cũng nói về bốn vị Chánh sĩ đó), trên kinh có nói, 從四方來 “tùng tứ phương lai” (đến từ bốn phương), tương đồng với những lời nói trên Kinh Phật Danh, phần dưới lại nói, 又《月燈三昧經第三》說:香象菩薩 “hựu Nguyện Đăng Tam Muội Kinh Đệ Tam thuyết: Hương Tượng Bồ-tát” (lại nữa trong quyển thứ 3 của Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: Hương Tượng Bồ-tát), Hương Tượng là vị thứ 12, vị thứ 12 trong 16 vị, 從東方阿閦佛,與那由多菩薩,共來問訊釋迦牟尼佛 “tùng Đông phương A Súc Phật, dữ na-do-đa Bồ-tát, cộng lai vấn tấn Thích Ca Mâu Ni Phật” (từ phương Đông [chỗ của] A Súc Phật, và na-do-đa Bồ-tát, cùng đến thăm hỏi đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Chúng ta ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì sẽ giống như thế, có khi một mình đi, có khi kết bạn đi. Đây gọi là kết bạn, cùng với na-do-đa Bồ-tát chung đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đến thăm hỏi, để cúng dường, để nghe pháp. 以上賢護至香象 “Dĩ thượng Hiền Hộ chí Hương Tượng” (Ngài Hiền Hộ đến ngài Hương Tượng ở trên), tất cả là 10 vị, 十正士。其餘六人如《甄解》云 “Thập Chánh sĩ. Kỳ dư lục nhân như Chân Giải vân” (mười vị Chánh sĩ. Còn lại 6 vị như sách Chân Giải nói), đây là Đại đức của Nhật Bản, ngài nói 其餘智幢 “kỳ dư Trí Tràng” (còn lại Trí Tràng), chính là Bảo Tràng, 寶英 “Bảo Anh”, Trí Tràng là vị thứ 7, ở đây xếp tên ở vị trí thứ 7, Bảo Anh là vị thứ 13, 中住 “Trung Trụ” là vị thứ 14, 制行 “Chế Hạnh” là vị trí thứ 15, 解脫 “Giải Thoát” là vị trí thứ 16. 雖未見經證 “Tuy vị kiến kinh chứng” (Tuy chưa thấy minh chứng trong kinh), không nhìn thấy trong kinh: nói về sự tích của mấy vị Bồ-tát đó, 但是準前思之 “đãn thị chuẩn tiền tư chi” (nhưng y chiếu ở trước [để] suy ra), dùng kinh luận của phần trước để làm tiêu chuẩn, 必應是他方來大士也 “tất ưng thị tha phương lai Đại sĩ dã” (chắc chắn phải là Đại sĩ đến từ phương khác). Chắc chắn là Thế giới phương khác, ở trong Thế giới này của chúng ta, tìm không được các ngài, [là ở] Thế giới phương khác.

按《甄解》所註是《魏譯》,《魏譯》僅列十五正士之名,其中缺慧辯才菩薩 “Án Chân Giải sở chú thị Ngụy Dịch, Ngụy Dịch cận liệt thập ngũ Chánh sĩ chi danh, kỳ trung khuyết Huệ Biện Tài Bồ-tát” (Theo sách Chân Giải là chú giải cho bản Ngụy Dịch, bản Ngụy Dịch chỉ nêu tên của 15 vị Chánh sĩ, trong đó thiếu Huệ Biện Tài Bồ-tát). Bản đó thiếu một vị, không có [ngài] Huệ Biện Tài. Huệ Biện Tài Bồ-tát thấy trong bản Đường Dịch, chính là trong《大寶積經》Kinh Đại Bảo Tích: ở trong Hội đó có. 《甄解》以為信慧即慧辯才,今經開為兩人,始合十六之數。故知信慧菩薩亦應如寶幢等正士,亦是他方來者。《甄解》於此,更有闡明 “Chân Giải dĩ vi Tín Huệ tức Huệ Biện Tài, kim Kinh khai vi lưỡng nhân, thuỷ hợp thập lục chi số. Cố tri Tín Huệ Bồ-tát diệc ưng như Bảo Tràng đẳng Chánh sĩ, diệc thị tha phương lai giả. Chân Giải ư thử, cánh hữu xiển minh” (Sách Chân Giải cho rằng ngài Tín Huệ là ngài Huệ Biện Tài, Kinh này tách ra thành hai vị, thì mới cộng lại thành số 16. Nên biết Tín Huệ Bồ-tát cũng phải là Chánh sĩ giống như ngài Bảo Tràng vân vân, cũng là người phương khác đến. Sách Chân Giải đối với điều này, càng làm sáng tỏ hơn). Sách đó có nói rõ. 文曰 “Văn viết” (Văn viết), đây làvăn trong sách Chân Giải,初列賢護等十六正士者,彰此法不以出家發心為本 “Sơ liệt Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh sĩ giả, chương thử pháp bất dĩ xuất gia phát tâm vi bổn (đầu tiên xếp nhóm 16 vị Chánh sĩ ngài Hiền Hộ, biểu lộ pháp này không lấy phát tâm xuất gia làm gốc). Câu nói này vô cùng quan trọng. Chữ “chương” chính là nói cho chúng ta biết rõ ràng, pháp này, chính là phương pháp Tịnh Độ Niệm Phật, không phải lấy phát tâm xuất gia làm căn bản, mà là lấy tại gia. 次列他方來者 “Thứ liệt tha phương lai giả” (Tiếp sau nêu ra những vị ở phương khác đến), trong này lại có ý nghĩa rất sâu, 彰十方佛土中,悉以此法為出世大事故,共來精進求此法 “chương thập phương Phật độ trung, tất dĩ thử pháp vi xuất thế đại sự cố, cộng lai tinh tấn cầu thử pháp” (tỏ rõ trong cõi Phật mười phương, đều dùng pháp này làm nguyên nhân của đại sự xuất thế, cùng đến tinh tấn cầu pháp này). 此議甚得經旨。蓋在家修行,最宜持名念佛也。十方大士悉來聽法,表此法殊勝,實為大事因緣故 “Thử nghĩa thậm đắc Kinh chỉ. Cái tại gia tu hành, tối nghi trì danh niệm Phật dã. Thập phương Đại sĩ tất lai thính pháp, biểu thử pháp thù thắng, thật vi đại sự nhân duyên cố” (Nghĩa này thâm sâu đạt được Tông chỉ của Kinh. Đại khái tại gia tu hành, thích hợp nhất [là] trì danh niệm Phật. Mười phương Đại sĩ đều đến nghe pháp, thể hiện pháp này thù thắng, cho nên thực sự là đại sự nhân duyên). Ý nghĩa này vô cùng hay.

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây. Sau cùng Tổ sư Đại đức nói vô cùng có đạo lý, tại sao Bồ-tát tại gia Thế giới phương khác nhiều như vậy: xuất hiện trong Pháp hội này? Có ý nghĩa biểu pháp, phương pháp này thích hợp đối với sự tu hành của tại gia, cho nên Bồ-tát tại gia đều đến hết. Số 16 cũng là biểu thị viên mãn, đó không phải là số lượng, đều là ý nghĩa biểu pháp, ở đây chúng ta phải nhận thức rõ ràng. Được rồi, hôm nay học tập đến đây.

(Hết tập 74)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.