PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ,
TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH.
Tập 10
Chủ giảng: Cô Lưu Tố Vân
Giảng ngày 18/3/2018
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Hoa Tạng
Huyền Môn
Chủ giảo chánh: Thích Thiện Trang
Chư vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi
người. A Di Đà Phật.
Tiết học này tôi sẽ giảng tiếp phần nội dung: của buổi học trước, độ chúng sanh cần phải
tuân thủ Tứ hoằng Thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đây là câu thứ nhất trong Tứ hoằng
Thệ nguyện.
Các buổi học trước chúng tôi đã nhắc đến, phải “tâm
thường đế trụ độ thế chi đạo”. Có đồng tu có thể hỏi: thế nào
gọi là “tâm thường đế trụ độ thế chi đạo”? Hiện nay đã có đáp án, chính là tâm
phải an trụ: vào đại nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, thì đó chính là
“tâm thường đế trụ độ thế chi đạo”.
Vấn đề
tiếp theo là: làm thế nào để an trụ? Làm thế nào mới được xem là: an trụ tâm
vào đạo độ thế? Có một phương pháp, là học tập giảng Kinh dạy học, hoằng Pháp
lợi sanh. Thông qua giảng Kinh dạy học để độ chúng sanh, thực hiện hoằng nguyện
thứ nhất: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Đây chính là phương pháp cụ thể, giảng
Kinh hoằng Pháp lợi sanh. Có đồng tu nói: “Hiện nay tôi không biết giảng Kinh
thì làm sao?”. Có thể học tập. Có đồng tu lại nói: “Cụ thể là học thế nào? Dùng
phương thức nào để học?”. Đáp án của tôi hiện nay cho mọi người là: dùng cách
giảng lại mà học tập, phục giảng là từ không xa lạ đối với mọi người. Việc phục
giảng bắt nguồn từ Tôn giả A Nan, toàn bộ Kinh điển: mà đức Thích Ca Mâu Ni
Phật đã giảng trong 49 năm, đều thông qua việc phục giảng của Tôn giả A Nan, rồi
sau kết tập lại mà thành. Cho nên trước đây tôi đã nói: Ngài A Nan là tổng biên
tập của Kinh Phật, chính là từ đây mà ra.
Việc phục
giảng bắt nguồn từ Ngài A Nan cho đến nay, đời đời tương truyền, làm được hiệu
quả. Từ xưa đến nay các Tổ sư Đại đức: đều như vậy mà thành công. Cho nên hàng
hậu học chúng ta, phải tiếp tục tuân theo nguyên tắc này, dùng phương pháp phục
giảng để giảng giải Kinh điển của Phật.
Lần giảng thử
Kinh Vô Lượng Thọ này của tôi, cũng là dùng phương thức phục giảng. Sự phục
giảng này của tôi: có thể có chút khác biệt so với việc phục giảng trước đây, không
hoàn toàn giống nhau. Việc phục giảng trước đây. Ví dụ, khi lão Pháp sư Tịnh
Không theo thầy Lý Bỉnh Nam: học tập Kinh giáo. Khi đó quý Ngài, cũng dùng hình
thức phục giảng. Ngày thứ nhất thầy giảng Kinh, có hai học trò phải phụ trách
giảng lại vào hôm sau, những học sinh khác thì nghe phục giảng, là sắp xếp như
thế. Khi thầy giảng xong một tiết học, thì hôm sau học sinh sẽ giảng lại bài: mà
thầy đã giảng ngày hôm trước. Việc phục giảng lần này của tôi, khác biệt so với
cách đó ở chỗ nào? Chính là tôi không giảng lại: một buổi giảng nào đó của lão
Pháp sư, cũng chẳng giảng lại: phiên bản bài giảng Kinh Vô Lượng Thọ nào đó của
lão Pháp sư. Mà đem tất cả những tài liệu của lão Pháp sư giảng Kinh Vô Lượng
Thọ trong những năm qua, tôi muốn đem dung hội quán thông tổng hợp lại. Vì sao
tôi có cách nghĩ này? Bởi vì tôi cảm thấy: lão Pháp sư đã từng nói về việc
giảng Kinh, bài giảng của quý vị trong tiết học thứ nhất cho dù quý vị giảng
lại trong buổi học thứ hai, thì cũng không giống nhau. Lão Pháp sư nói với
chúng ta: sau sẽ hay hơn trước. Nghĩa là lần giảng sau sẽ cao hơn lần giảng
trước.
Tôi nghĩ
thế này, chúng ta nghe các đồng tu giảng, có thứ bậc và trình độ không như
nhau. Ví dụ những đồng tu nhiều năm học tập: bản hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, đối
với bộ Kinh này vô cùng quen thuộc. Nghe lão Pháp sư giảng Kinh nhiều năm như
vậy, có lẽ trình độ lĩnh hội của các vị ấy sẽ cao hơn một chút. Có những đồng
tu chưa quen thuộc với bộ Kinh này, bỗng nhiên họ nghe bộ Kinh này, nếu quý vị
giảng sâu thì có thể họ nghe không hiểu. Cho nên lần phục giảng này, tôi dùng
phương pháp, đem tất cả những điều lão Pháp sư giảng nhiều năm, tôi nghe đi
nghe lại xem đi xem lại. Sau đó dung hội quán thông lại với nhau. Dùng tiêu
chuẩn gì để giảng? Tôi đã định ra thế này, ví dụ như chia thành ba cấp bậc: Bậc
thấp, bậc trung, bậc cao. Tôi nghĩ đối với bậc trung hay hơn một chút, dựa vào
trình độ đó để giảng. Như vậy thì bậc trung và bậc thượng, đều có thể nghe
hiểu. Đối với các đồng tu hậu học, một bộ phận sẽ nghe hiểu. Nếu muốn tất cả
đồng tu trình độ khác nhau: đều nghe hiểu, thì việc này không thực tế cho lắm. Tôi
cũng không có năng lực để: giảng được trình độ như thế.
Vì vậy lần
này tôi dùng phương pháp phục giảng: Là giảng như thế, không phải là giảng lại
riêng một phiên bản nào cả. Có đồng tu có thể hỏi: “Thưa cô, cô giảng dựa sách
nào? Để chúng tôi dùng tham khảo”. Việc này vừa mở đầu tôi đã nói: tất cả những
điều mà lão Pháp sư đã giảng trước đây, những ngày trước đây, tôi đều đang xem,
đều đang nghe, chính là như vậy.
Cho nên
việc phục giảng, trong nhà Phật gọi là “giảng tiểu tòa”. Chúng ta cũng từng
nghe qua từ “giảng tiểu tòa” rồi. Trong lúc lão Pháp sư giảng Kinh cũng từng
nêu ví dụ này cho chúng ta.
Vì thế lần
đầu tiên này, tôi giảng thử Kinh Vô Lượng Thọ, cũng là lần đầu tiên sử dụng
phương thức phục giảng: để thử giảng Kinh Vô Lượng Thọ. Tôi chưa có kinh
nghiệm. Quý đồng tu đều biết, những buổi giao lưu trước đây với mọi người, đều
là những thể hội tâm đắc của tôi về học tập Kinh Vô Lượng Thọ. Thể hội đó, không
giống với việc giảng Kinh chính quy. Có thể đến hiện giờ, hôm nay là bài giảng
lần thứ 10 của tôi. Mười bài giảng này tôi gọi là: những bài giảng thí nghiệm
tiêu chuẩn chính thức, chẳng phải là giảng thử đó sao? Bởi vì trước đây tôi
chưa từng giảng nên tôi phải lần dò, xem xem giảng sao để phù hợp hơn với thính
chúng một chút. Mười buổi giảng này chúng ta xem như buổi thí nghiệm. Ví dụ tốc
độ nói và âm thanh lớn nhỏ, dùng thái độ gì để biểu đạt, dùng cách biểu cảm như
thế nào, những vấn đề này chúng tôi vừa giảng, vừa nghiên cứu, vừa cải tiến.
Có đồng tu
hy vọng, là đồng tu ở bên cạnh tôi, họ nói: Cô ơi! Có thể giảng bài sinh động
hơn chút, sống động hơn chút không? Lần này sao cảm thấy: cô nghiêm túc hơn
những lần trước vậy? Tôi nghĩ như thế này, khi giao lưu chia sẻ tâm đắc với mọi
người, và lần giảng chính thức Kinh Vô Lượng Thọ này, là hai khái niệm, hai
hình thức khác nhau, hình thức không như nhau. Phương thức trước đây là giao
lưu tâm đắc, có thể giảng sôi động hơn một chút. Còn giảng đại Kinh chính thức
thì không không thể quá sôi động, vẫn phải tuân thủ thái độ nghiêm cẩn và
nghiêm túc. Tôi không biết nói như vậy: quý đồng tu có hiểu được ý của tôi hay
không?
Nên sinh
động thì sinh động, nên nghiêm túc thì phải nghiêm túc. Nếu hiện tại tôi đang
giảng Kinh Vô Lượng Thọ, mà nói năng lung tung, ba hoa, đùa giỡn, có lẽ rất
nhiều đồng tu thấy sẽ không hài lòng. Cô giáo Lưu giảng Kinh sao lại không
nghiêm túc như vậy? Quý đồng tu nêu ý kiến như vậy là đúng rồi. Cho nên tôi
giảng Kinh lần này, khi nào nghiêm túc tôi nhất định phải nghiêm túc, nếu lúc
nào nên sinh động tôi nhất định sẽ sinh động. Tôi đã nghĩ như thế.
Vì thế lần
giảng Kinh này, thật sự là lần giảng đầu tiên, thật sự là chưa có kinh nghiệm. Nhưng
tôi có niềm tin: nhờ sự gia trì của Phật, tôi sẽ tận hết khả năng của chính
mình, nhất định giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ này viên mãn.
Tiếp theo
chúng tôi giảng đến: “Ư nhất thiết vạn vật, tùy ý tự tại”. Xin xem hai câu Kinh
văn này, ý nghĩa của hai câu Kinh văn này là: Phật Bồ-tát có thể được đại tự
tại trong hoàn cảnh. Đây mới thật sự là lìa khổ được vui. Chư Phật Bồ-tát có
thể đạt được, vì sao phàm phu chúng ta không đạt được? Nguyên nhân là gì? Nguyên
nhân vì phàm phu chúng ta: chấp trước vạn vật là có thật, là thật có. Tôi xin
nói lại nguyên nhân một lần nữa: “Bởi vì phàm phu chúng ta: chấp trước vạn vật
là có thật, là thật có”. Ở trong “có” đó mà nghĩ trăm phương ngàn kế để chiếm
hữu nó, không chịu buông xả. Đây là tâm niệm của phàm phu chúng ta. Chư Phật
Bồ-tát biết rằng: tất cả vạn vật đều là hư huyễn, là giả có. Cho nên trong tất
cả vạn vật quý Ngài có thể tự tại thọ dụng. Phật
Bồ-tát có thể tự tại thọ dụng. Chẳng những đối với tất cả vạn vật không có ý
niệm chiếm hữu, mà ngay cả thân thể của chính mình: cũng không có ý niệm chiếm
hữu. Như vậy Phật Bồ-tát mới có thể được đại tự tại.
Tôi đã nói
rõ nguyên nhân cho mọi người, vì sao Phật Bồ-tát có thể được đại tự tại, chúng
ta không thể được đại tự tại. Do lý niệm chẳng đồng. Chính là cách nhìn đối với
tất cả vạn vật, một bên là có thật, thật sự có, đây là ý niệm của phàm phu. Một
bên là hư huyễn, giả có, đó là nhận thức của Phật Bồ-tát. Hai loại nhận thức
không hề giống nhau, cho nên một bên tự tại, một bên không tự tại.
Phật
Bồ-tát hoằng pháp lợi sanh nhất định phải có năng lực này. Nếu vừa tiếp xúc với
vạn vật, chưa độ được vạn vật lại bị vạn vật độ mất rồi. Quý vị xem: Phật
Bồ-tát như vậy, làm sao độ được chúng sanh? Thế nên năng lực này, là năng lực
mà Phật Bồ-tát bắt buộc phải có. Nhà Thiền nói: “Nếu đã vô tâm với vạn vật, ngại
gì vạn vật thường quấy nhiễu?”. Bí quyết này, chính là biết được chân tướng của
tất cả vạn pháp, đối với tất cả pháp thanh tịnh tự tại, chẳng nhiễm mảy trần, đây
là đức năng của Bồ-tát, trí huệ của Bồ-tát, phàm phu chúng ta thì thiếu: loại
đức năng và trí huệ này.
Hai câu
tiếp theo: “Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu”. Đây là nói về lòng từ bi
của chư Phật Bồ-tát. Bồ-tát không những phải có trí huệ mà còn phải có từ bi. Phật
Pháp là sư đạo, cho nên Phật giáo hóa chúng sanh, là phải đợi chúng sanh đến
thỉnh Pháp, phải cầu Pháp, phải thỉnh Pháp. “Chỉ nghe người đến học, chưa nghe
người đến dạy bao giờ”. Đối với Phật thì thỉnh Phật giảng Pháp, phải thỉnh
Pháp, phải cầu Pháp. Phật và Bồ-tát không giống nhau. Không giống nhau chỗ nào?
Bởi vì Phật là thầy của chúng ta, là thầy của chúng sanh. Bồ-tát và chúng sanh
là quan hệ đồng học. Điều này mọi người đã nghe rõ chưa ạ? Một bên là quan hệ
thầy trò, một bên là quan hệ đồng học. Bồ-tát vốn là quan hệ bạn học với chúng
sanh, nên quý Ngài có thể chủ động đến nhà của chúng sanh, giới thiệu Phật Pháp
cho họ. Không cần chúng sanh mời Bồ-tát vẫn tự đến. Đây chính là ý nghĩa của
hai câu Kinh Phật: “Vị chư thứ loại, tác bất thỉnh chi hữu”, không mời mà tự
đến là bằng hữu của chúng sanh. Đây là khác biệt nhỏ trên phương diện độ chúng
sanh: giữa Phật và Bồ-tát.
Chư Phật
Bồ-tát thường ở bên cạnh chúng ta, chỉ là chúng ta không nhận ra mà thôi. Như năm
xưa Di Lặc Bồ-tát, trước khi nhập diệt đã nói một câu, Di Lặc Bồ-tát đã nói: “Thời
thời chỉ dạy người, thế nhân thường chẳng biết”. Hai câu nói này phát âm hơi
khó. Tôi xin nói lại lần nữa: “Thời thời”, chữ “thời” trong “thời gian”, “thị”
là “thị” trong “chỉ thị”. Sau là “Thế nhân”, “thế” trong “thế giới”, “nhân”
trong “nhân dân”. Câu đầu tiên là “thời thời thị thế nhân. Câu thứ hai “thế
nhân thường bất thức”, nghĩa là người thế gian thường không biết.
Di Lặc
Bồ-tát như vậy, thì có vị Phật Bồ-tát nào mà không như vậy chứ? Cho nên ân đức
từ bi của chư Phật Bồ-tát, thật sự là phàm phu bình thường chúng ta: không thể
nào tưởng tượng được. Chúng ta không biết: Phật Bồ-tát đối với chúng ta rốt
cuộc có ân đức lớn như thế nào. Quý vị có nghĩ cũng nghĩ không ra. Quý vị có
nói cũng nói không được. Ai quan tâm đến chúng ta nhất? Chỉ có chư Phật Bồ-tát
quan tâm đến chúng ta nhất. Tôi nhớ trong hai buổi học trước đã từng nói rằng, cha
mẹ quan tâm con cái, chỉ quan tâm được một đời, chính là đời này. Còn chư Phật
Bồ-tát quan tâm chúng sanh, là đời đời kiếp kiếp. Quan tâm đến khi nào? Một mực
quan tâm đến khi quý vị thành Phật.
Tiếp theo
là ba câu: “Thọ trì Như Lai thậm thâm Pháp tạng, hộ Phật chủng tánh, thường sử
bất tuyệt”. Ba câu này biểu thị: sự hành trì của tâm đại từ bi. Những vị Bồ-tát
này vì chúng sanh làm bạn không mời, quý Ngài đối với chúng sanh rốt cuộc có
lợi ích gì? Bồ-tát thọ trì thậm thâm Pháp tạng của Như Lai. “Thậm thâm Pháp
tạng” là gì? Thậm thâm Pháp tạng chính là: chỉ bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, chính
là câu Phật hiệu A Di Đà Phật này.
Bộ Kinh Vô
Lượng Thọ này, là Phật Thích Ca Mâu Ni dặn dò Bồ-tát Di Lặc hộ trì lưu thông. Mọi
người có nghĩ rằng, Bồ-tát Di Lặc: chẳng qua là đại biểu cho tất cả chư Bồ-tát
mà thôi. Có thể như vậy không? Thích Ca Mâu Ni Phật: chỉ giao phó bộ Kinh này
cho một mình Bồ-tát Di Lặc hộ trì lưu thông ư? Không thể như vậy. Tuyệt đối
không phải chỉ giao cho một mình Bồ-tát Di Lặc, mà giao cho ai? Giao cho 12
ngàn người tham dự Pháp hội. Những vị Bồ-tát ấy, không một ai chẳng được Phật
phó chúc. Phật giao phó cho: tất cả đại chúng tham dự Pháp hội, chính là những
vị Bồ-tát ấy.
Lại nói,
chúng ta hiện nay thọ trì bộ Kinh này, thì có thể nói như vầy được không? Phật
phó chúc bộ Kinh này cho chúng ta, bảo chúng ta thọ trì bộ Kinh này, như vậy
được không? Hoàn toàn là như vậy. Nếu quý vị cho rằng không phải như vậy, thì
quý vị đã nhận định sai rồi. Quý vị nhận định như thế nào mới là đúng? Tôi xin
nói lại lần nữa, Phật giao phó bộ Kinh này cho Di Lặc Bồ-tát, để Ngài thọ trì
và hộ trì; Giao phó cho tất cả Bồ-tát tham dự đại Pháp hội: hộ trì bộ Kinh này;
Giao phó cho chúng ta, chính là chúng ta hiện nay cũng phải hộ trì bộ Kinh này,
hộ trì việc lưu thông bộ Kinh này. Chúng ta cũng có trách nhiệm, chúng ta cần
phải tiếp nhận: bộ Kinh và phương pháp tu học, rồi giới thiệu cho tất cả chúng
sanh, đó chính là hộ trì hạt giống Phật, để không tuyệt dứt. Từng đời từng thế
hệ khiến cho bộ Kinh này, và phương pháp lý luận của việc tu học bộ Kinh này, được
truyền thừa tiếp tục. Đó chính là hộ trì hạt giống Phật, không để đứt đoạn.
Đoạn Kinh
văn phía trên đã giảng xong rồi. Tổng kết khái quát lại, đoạn Kinh văn này nói:
tâm của những vị đại Bồ-tát này thường an trụ ở trong: việc giúp đỡ tất cả
chúng sanh liễu sanh tử, xuất Tam giới, vãng sanh bất thoái thành Phật. Quý
Ngài đối với tất cả Pháp đều không chấp-trước, lại có thể thông đạt vô ngại, tùy
duyên độ hóa tất cả chúng sanh; Đồng thời chẳng đợi đến khi chúng sanh thỉnh
cầu, mà chủ động đến giúp đỡ chúng sanh, phát Bồ-đề tâm, tu Phổ Hiền hạnh, chấp
trì danh hiệu. Chẳng những các vị đại Bồ-tát này: nhất hướng chuyên niệm, mà
còn đem phương pháp tu học bộ Kinh này, giới thiệu cho tất cả chúng sanh. Ý
nghĩa khái quát: của đoạn Kinh văn trên chính là như vậy.
Xin xem đoạn Kinh văn kế tiếp:
興大悲,愍有情,演慈辯,授法眼,杜惡趣,開善門。於諸眾生,視若自己,拯濟負荷,皆度彼岸。“Hưng đại bi, mẫn hữu tình. Diễn từ biện,
thọ Pháp nhãn. Đỗ ác thú, khai thiện môn. Ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ. Chẩn
tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn. ” (Khởi lòng đại bi, thương
xót hữu tình; Diễn thuyết từ bi, truyền trao Pháp nhãn, đóng đường ác, mở cửa
lành. Đối với chúng sanh xem như chính mình; Gánh vác việc cứu giúp, độ hết đến
bờ giác ngộ).
Chúng ta xem hai câu đầu: “Hưng đại bi, mẫn hữu tình”, “hưng”
là hưng khởi, “mẫn” là ai mẫn. Tức là nói Bồ-tát phát khởi tâm: đồng cảm thương
xót chúng sanh, đem Pháp môn niệm Phật giới thiệu cho chúng sanh, giúp đỡ tất
cả chúng sanh liễu thoát sanh tử. Hai câu Kinh văn này biểu đạt ý nghĩa như
vậy.
Hai câu Kinh văn tiếp theo: “Diễn từ biện, thọ Pháp
nhãn”. “Diễn” là diễn thuyết, “biện” là Biện tài Vô ngại. Cũng chính là nói
Bồ-tát phát tâm đại từ bi, không những nói Pháp mà còn đích thân: làm ra tấm
gương tốt cho chúng sanh học tập.
“Thọ” là truyền thọ, dạy dỗ. “Pháp nhãn” là: có thể nhận
thức được chân tướng của tất cả Pháp, nên gọi là Pháp nhãn. “Thọ Pháp nhãn”
nghĩa là: Bồ-tát thấy được chân tướng của tất cả Pháp, quý Ngài đã đem trí huệ
và năng lực này: truyền trao cho chúng sanh. Bản thân Bồ-tát đã có Pháp nhãn, có
thể biết được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, Quý Ngài không ích kỷ, mà đem
năng lực và trí huệ này truyền lại cho chúng sanh, khiến chúng sanh cũng đạt
được lợi ích.
Câu Kinh văn kế tiếp, “đỗ ác thú”. “Đỗ” là đóng bít, “ác
thú” là chỉ Tam ác đạo, “đỗ ác thú” là
đóng bít tất cả các lối: khiến chúng sanh đọa lạc vào Tam ác đạo, tức là khóa
chặt tất cả các cửa: khiến chúng sanh đọa lạc vào Tam ác đạo.
Câu tiếp theo,
“khai thiện môn”. Chính là cánh cửa vãng sanh thế giới Cực Lạc, khiến cho trí
huệ và đức năng của tất cả chúng sanh: đều giống như Phật. Như vậy mới thật sự
là khai thiện môn.
Câu tiếp theo: “chẩn tế phụ hà”, “chẩn tế” nghĩa là cứu
độ và giúp đỡ. “Phụ hà” là gánh vác. Ở đây nói ý nghĩa gì? Nghĩa là Phật Bồ-tát
gánh vác nhiệm vụ cứu độ giúp đỡ chúng sanh: phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
Là nhiệm vụ vĩ đại gian khó.
Tiếp theo kết hợp lại để nói: “Hưng đại bi, mẫn hữu tình,
diễn từ biện, thọ Pháp nhãn, đỗ ác thú, khai thiện môn”, tổng cộng là sáu câu. Kết
hợp sáu câu này lại: chính là cương lĩnh hành động làm lợi ích cho chúng sanh. Đó
chính là hành động cụ thể của: “Vì chúng sanh mà làm bạn không mời”, nghĩa là
Phật Bồ-tát chẳng những nói mà còn phải thực hiện, xác thực khiến chúng sanh
đạt được lợi ích chân thật.
Bồ-tát
hưng khởi tâm đại bi, thương xót tất cả hữu tình chúng sanh, giảng Kinh thuyết
Pháp dẫn dắt quần sanh không nề hà mệt mỏi. Động lực này từ đâu? Động lực từ
tâm từ bi của Bồ-tát. Bởi vì Phật Bồ-tát: đối với tất cả danh văn lợi dưỡng thế
gian, đều buông bỏ toàn bộ. Sức mạnh nào: đã khiến quý Ngài nỗ lực vất vả, giáo
hóa ở thế gian như vậy? Đó chính là sức mạnh của tâm đại từ bi. Từ đây chúng ta
đã tìm ra được câu trả lời, vì sao Phật Bồ-tát có thể chẳng từ gian khổ, chẳng
quản mệt nhọc giáo hóa chúng sanh? Nguyên nhân đến từ sức mạnh của tâm đại từ
bi.
Tiếp theo,
“thọ” trong “thọ Pháp nhãn” là truyền thọ. “Pháp nhãn” không phải nhục nhãn, có
thể nhìn thấy thật tướng của tất cả Pháp gọi là Pháp nhãn. Chúng ta đọc trong
Kinh Kim Cang thấy: Như Lai có ngũ nhãn. Phàm phu có Nhục nhãn, thiên nhân có
Thiên nhãn. Năng lực của Thiên nhãn mạnh hơn Nhục nhãn, A-la-hán và
Bích-chi-Phật có Huệ nhãn, Bồ-tát có Pháp nhãn. Pháp nhãn của Bồ-tát rất độc
đáo. Ngũ nhãn thì nhãn sau gồm đủ các nhãn trước, nhưng nhãn trước không có đầy
đủ nhãn sau. Ví dụ như: phàm phu có Nhục nhãn, thiên nhân có Thiên nhãn, năng
lực của Thiên nhãn mạnh hơn Nhục nhãn. Nghĩa là thứ mà phàm phu không nhìn thấy
nhưng thiên nhân thấy được. A-la-hán và Bích-chi-Phật có Huệ nhãn. Thiên nhân ở
trước có Thiên nhãn, nhưng không có Huệ nhãn; Còn A-la-hán: vừa có Huệ nhãn vừa
có Thiên nhãn. Nghĩa là nhãn sau có đầy đủ các nhãn trước, nhãn trước không có
những nhãn sau. Bồ-tát đem năng lực và trí huệ này: truyền lại cho chúng sanh
gọi là “thọ Pháp nhãn”.
“Đỗ ác
thú”. Phải đến khi thành Phật thì đường ác mới xem như đoạn tận. Chưa thành
Phật thì vẫn chưa đoạn hết ác. Chúng ta cần phải biết tiêu chuẩn này. Thế nào
gọi là “đỗ ác thú”? Mãi cho đến khi thành Phật thì mới đóng hết đường ác. Chưa
thành Phật thì đường ác vẫn chưa đoạn hết. Không nên cho rằng chính mình hiện
nay tham sân si mạn đã ít hơn một chút, ác niệm không còn là đủ rồi. Chúng ta
phải không ngừng nâng cao, bởi vì bộ Kinh này, Pháp môn này là Đại thừa trong
Đại thừa, viên trong viên, đốn trong đốn, chuyên trong chuyên. Cho nên đó là tiêu chuẩn tuyệt đối, không
phải tiêu chuẩn thông thường, chúng ta làm thế nào để đánh giá? Chúng ta đã
đoạn hết ác chưa, đường ác của chúng ta đã đoạn dứt chưa? Hãy dùng bộ Kinh này
mà đánh giá. Đây là tiêu chuẩn tuyệt đối, không phải tiêu chuẩn thông thường.
“Khai
thiện môn”. “Thiện” được nói ở đây: không phải là “thiện” trong “thiện ác”. “Thiện
môn” là chỉ minh tâm kiến tánh, đây mới là thiện môn chân thật. Sau khi Tự-tánh
hiển lộ, thì vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng trong Tự-tánh tự nhiên sẽ hiện
tiền. Đó là thiện chân chánh. Thiện này phải cầu, có thể nói là: thiện ở tầng
cao nhất. Thiện cao nhất đó là gì? Minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh thì
thế nào? Thì thành Phật rồi! Cho nên thiện này là thiện ở tầng cao nhất. Hiện
nay suy xét Tịnh-tông chúng ta: có một điểm rất thù thắng, có một phương pháp
tu hành siêu vượt tất cả tiêu chuẩn. Đó là gì vậy? Đó chính là nhất tâm xưng
niệm A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật này, đột phá rất nhiều tiêu chuẩn thứ
lớp. Đây là Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, bất kỳ Pháp môn nào khác cũng không
có. Một câu A Di Đà Phật, đột phá rất nhiều tiêu chuẩn tầng bậc. Cho nên nói:
đây là Pháp môn, mà tất cả chư Phật đều xưng tán. Pháp môn này vô cùng vi diệu
đặc biệt. Chúng ta thấy những từ ngữ được giải thích ở đây: đều thuộc dạng cao
cấp. Pháp môn này vô cùng vi diệu đặc biệt, những Pháp môn khác không thể nào
sánh được, cũng chính là nói: các Pháp môn khác đều có thứ bậc. Câu A Di Đà
Phật của Tịnh-tông: không có thứ bậc. Sơ phát tâm có thể viên thành Phật đạo. Vì
vậy đây là Pháp khó tin.
“Đỗ ác
thú, khai thiện môn”. Dùng tiêu chuẩn của Tịnh-tông để nói: “Thiện môn” chính
là một câu A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật ra, đều là đường ác. Tham Thiền,
nghiên cứu Kinh giáo, chỉ quán đều là đường ác, duy chỉ câu A Di Đà Phật này là
thiện môn. Nhất tâm chấp trì, một đời này nhất định vãng sanh bất thoái thành
Phật.
“Ư chư
chúng sanh thị nhược tự kỷ”. Hai câu Kinh văn này là nói: thái độ của Bồ-tát
đối với chúng sanh. Đây là điều chúng ta cần học tập. Bồ-tát xem tất cả chúng
sanh: như là chính mình, tự tha bất nhị. Chúng sanh mê chính là nỗi khổ của
Bồ-tát; Chúng sanh giác ngộ rồi thì chính Bồ-tát sẽ vui. Chúng sanh mê mà chẳng
giác thì làm sao? Bồ-tát chỉ đành đợi đến cơ duyên, đợi đến khi nào họ có thể
tiếp nhận, thì sẽ đem Phật Pháp truyền cho họ. Hiện tại họ không thể tiếp nhận,
Bồ-tát cần có tâm nhẫn nại chờ đợi. Nhưng sự chờ đợi này, không phải là cả ngày
giương mắt ngồi đợi, mà làm sao? Nếu quý vị chỉ nhìn và đợi thôi thì sai rồi. Phải
đợi thế nào? Trong quá trình chờ đợi, bản thân chúng ta phải nỗ lực tu học, thành
tựu đức hạnh và trí huệ của chính mình. Đó là chờ đợi, đợi như vậy thì đúng
rồi. Trong quá trình chờ đợi, chúng ta phải nỗ lực tu học, thành tựu đức năng
và trí huệ của chính mình. Đợi sau khi cơ duyên đã chín muồi, chúng sanh có thể
tiếp nhận bộ Kinh này, có thể tiếp nhận Pháp môn này. Đến lúc đó, nếu chính quý
vị không có năng lực, thì quý vị không có trí huệ để giúp họ. Nếu trong thời
gian này, quý vị chăm chỉ tu học nâng cao chính mình, thì trí huệ đức năng sẽ
đầy đủ. Đến lúc đó, chúng sanh cần đến quý vị, quý vị sẽ có năng lực giúp đỡ
họ. Cho nên khi duyên của chúng sanh chưa chín muồi, thì chính mình phải thành
tựu trước; Sau khi duyên đã chín muồi, thì phải toàn tâm toàn lực giúp đỡ tha
nhân. Vì vậy bản thân cần phải tu học Phật Pháp không mệt mỏi.
Bây giờ
nêu lên một vấn đề cho quý vị, người thế gian học tập và làm việc rất siêng
năng, sức mạnh gì đã thôi thúc họ vậy? Bản thân chúng ta có thể tìm ra đáp án
không? Đừng hỏi người khác mà hãy hỏi chính mình. Ví dụ quý vị học tập, làm
việc quý vị vô cùng chăm chỉ, một tuần làm việc 7 ngày, mỗi ngày làm việc 12
giờ. Sự tích cực này quả thật rất cao. Sức mạnh gì đã thôi thúc vậy? Danh lợi,
là do danh lợi thôi thúc. Có tiền thì dễ
kiếm mà. Cho nên ráng sức mà làm. Đó là người thế gian chúng ta. Lại xem Phật
Bồ-tát, sức mạnh nào đã thúc đẩy Phật Bồ-tát vậy? Vì sao quý Ngài phục vụ chúng
sanh: chẳng biết mỏi mệt? Sức mạnh nào đang thôi thúc các Ngài? Là sức mạnh của
từ bi đang thôi thúc, là trí huệ đang thôi thúc. Quý vị nghe có hiểu không? Phàm
phu và Phật Bồ-tát, một bên là do danh lợi thôi thúc, một bên là sức mạnh của
từ bi thôi thúc, sức mạnh của trí huệ thôi thúc. Điều thôi thúc Phật Bồ-tát
không phải là danh lợi. Phật Bồ-tát có trí huệ, đối với chân tướng của vũ trụ
nhân sanh, thấy thật sự rõ ràng, thực sự đã thấu hiểu rằng: đó là việc thuộc
bổn phận của chính mình, là nghĩa vụ của quý Ngài. Cho nên quý Ngài không cần
bất kỳ sự báo đáp nào, có thể “đối với chúng sanh xem như chính mình”. Như nói:
nêu ví dụ mà chúng ta đều biết. Mỗi lần chúng ta mở Pháp hội, đặc biệt là Pháp
hội có quy mô tương đối lớn, thì có rất nhiều đồng tu nghĩa công, đang tích cực
làm việc. Họ không mong đền đáp, toàn tâm toàn lực phục vụ vì Pháp hội. Những
người đó là ai? Những người đó đều là Bồ-tát, phải vậy không? Tôi đã tham gia
mấy lần Pháp hội rồi, tôi thấy các đồng tu nghĩa công thật sự rất vất vả. Có
lúc tôi rất là thương họ. Nhưng họ không hề than thở chút nào, có khi thiếu cơm
ăn, không được ngủ, nhưng họ đều không thở than, toàn tâm toàn lực phục vụ Pháp
hội.
Hai câu Kinh văn tiếp theo là: “Chẩn tế
phụ hà, giai độ bỉ ngạn”. Giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ lìa khổ được vui. Phật
Bồ-tát gánh vác trọng trách này. Cho nên sự nghiệp của Phật Bồ-tát, chính là
gia nghiệp Như Lai. Gia nghiệp Như Lai là gì? Độ sanh là sự nghiệp, hoằng Pháp
là gia nghiệp. Hai câu này rất quan trọng, thế nào là gia nghiệp của Như Lai? Độ
sanh là sự nghiệp, hoằng Pháp là gia nghiệp. Đây chính là gia nghiệp của Như
Lai. Chúng ta thường nói: gánh vác gia nghiệp của Như Lai. Trên thực tế có rất
nhiều đồng tu: không biết thế nào là gia nghiệp của Như Lai. Quý vị không biết
thế nào là gia nghiệp Như Lai thì sao có thể bàn đến gánh vác gia nghiệp Như
Lai được?
Mỗi một đệ
tử Phật chúng ta, đều phải dùng đủ loại phương tiện thiện xảo, giới thiệu phổ
biến Phật Pháp đến tất cả chúng sanh có duyên, đó chính là gánh vác gia nghiệp
Như Lai.
“Giai độ
bỉ ngạn”, chính là phát nguyện cầu sanh Di Đà Tịnh-độ. Đoạn kinh văn trên đã
được giảng xong, chúng ta sẽ quay lại khái quát một chút: ý nghĩa mà đoạn Kinh
văn này biểu đạt. Đoạn Kinh văn này nói với chúng ta: chư Bồ-tát phát khởi tâm
đại từ bi, thương xót tất cả chúng sanh, không những giảng Kinh thuyết Pháp, mà
chính mình còn nỗ lực làm tấm gương tốt cho chúng sanh. Đồng thời đem năng lực
và trí huệ: hiểu rõ các Pháp của chính mình, truyền cho chúng sanh, khuyên bảo
dẫn dắt chúng sanh niệm Phật. Do đó đã đóng bít tất cả con đường: khiến chúng
sanh đọa lạc Tam ác đạo; mở cánh cửa đại thiện để chúng sanh: vãng sanh về Thế
Giới Tây Phương Cực Lạc. Bởi vì Bồ-tát thấy chúng sanh chịu khổ: như chính mình
chịu khổ, nên phát đại thệ nguyện: gánh vác sứ mạng to lớn cứu độ tất cả chúng
sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, từ bờ sanh tử sang đến bờ an
lạc. Theo bản Kinh này mà nói, chính là dạy cho tất cả chúng sanh niệm Phật, cầu
nguyện vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây chính là phần tổng kết và
khái quát: của đoạn Kinh văn trên.
Mời xem đoạn Kinh văn kế tiếp:
悉獲諸佛無量功德,智慧聖明,不可思議。如是等 諸大菩薩,無量無邊,一時來集。“Tất hoạch chư Phật vô lượng công đức. Trí huệ thánh
minh, bất khả tư nghị. Như thị đẳng chư đại Bồ-tát, vô lượng vô biên, nhất thời
lai tập”. (Đều đạt được vô lượng công đức của chư Phật, trí huệ
sáng suốt không thể nghĩ bàn. Vô lượng vô biên đại Bồ-tát như vậy đồng đến Pháp
hội).
Mời xem giải thích một số từ ngữ:
“Tất hoạch” là đạt được toàn bộ.
“Thánh minh” là hiểu sâu sáng tỏ chính xác về sự lý.
“Bất khả tư nghị”. Ở đây có hai ý nghĩa. Câu “bất khả tư
nghị”: xuất hiện ở rất nhiều chỗ trong bộ Kinh này, nhưng ở những chỗ khác
nhau, sẽ có hàm nghĩa khác nhau. Câu “Bất khả tư nghị” trong đoạn Kinh văn này biểu
đạt hai ý nghĩa. Ý nghĩa gì vậy?
Thứ nhất, không phải tư duy và ý thức của chúng sanh phàm
phu: có thể tưởng tượng lý giải được. Tôi xin nói lại lần nữa: “Không phải tư
duy và ý thức của chúng sanh phàm phu có thể tưởng tượng lý giải được”.
Thứ hai, không phải ngôn ngữ văn tự của thế gian: có thể
miêu tả biểu đạt được. Chính là nói: Trí huệ và đức năng của Phật Bồ-tát vô
lượng vô biên; Chúng sanh phàm phu chúng ta: không thể ước đoán tưởng tượng
được; Ngôn ngữ văn tự trong thế gian: cũng không thể hình dung biểu đạt được. Câu
“bất khả tư nghị”: là biểu đạt hai lớp ý nghĩa trên.
Xin xem ba câu Kinh văn kế tiếp: “Tất
hoạch chư Phật vô lượng công đức. Trí huệ thánh minh, bất khả tư nghị”. Những
câu Kinh văn này biểu đạt: phước đức trang nghiêm, trí huệ trang nghiêm. Địa vị
chứng đắc so với quả địa Như Lai là bình đẳng không khác, cũng chính là thành
Phật rồi. Phật giúp đỡ chúng sanh, chăm sóc một mạch cho đến khi thành Phật. Tất
cả chúng sanh trong mười phương vô lượng vô biên thế giới: đều là đối tượng
giáo hóa của Phật Bồ-tát.
Tiếp theo là từ “tất hoạch”. Chính là nói tất cả chúng
sanh đều đạt được, chẳng sót một ai.
“Chư Phật vô lượng công đức”. Câu này là nói phước đức, “trí
huệ thánh minh” là phước huệ lưỡng túc tôn. Chúng ta thường nói: là “nhị túc
tôn”, nhị túc tôn. Rốt cuộc thế nào là “nhị túc tôn”? Không nhất định có thể
quá chính xác. “Trí huệ thánh minh” ở đây, chính là nói phước huệ nhị túc tôn, chính
là chúng ta thường nói về quy y Phật. “Nhị túc” chính là công đức trí huệ hoàn
toàn viên mãn, nên gọi là “nhị túc tôn”. Chỉ có viên mãn thì mới chẳng thể nghĩ
bàn, không viên mãn thì có thể nghĩ bàn, viên mãn thì chẳng thể nghĩ bàn. Cho
nên viên mãn và không viên mãn, một bên viên mãn là chẳng thể nghĩ bàn, không
viên mãn thì có thể nghĩ có thể bàn.
Ba câu này nói với chúng ta rằng: thành Phật rồi. Nếu
nói: với ba câu này, trước đây chúng ta không hiểu ý nghĩa, thì giờ chúng ta đã
hiểu rồi. Ba câu này là nói với chúng ta: thành Phật rồi, phước huệ của chư Bồ-tát
tham dự Pháp hội đến đây viên mãn rồi. Đây là biểu thị rõ: người tín nguyện trì
danh cầu sanh Tịnh-độ, vãng sanh bất thoái thành Phật: là vô lượng công đức
chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta hay nói vô lượng công đức. Thế nào là vô lượng
công đức thật sự? Chính là thành Phật rồi.
Ba câu kế
tiếp: “Như thị đẳng chư đại Bồ-tát, vô lượng vô biên, nhất thời lai tập”. Ba
câu Kinh văn này là nói: như phần trước đã giảng, những đại Bồ-tát có trí huệ,
phước đức, từ bi viên mãn, là rất nhiều rất nhiều. Tuyệt đối chẳng phải là chỉ
có ngài Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Thế Chí, Di Lặc, Hiền Hộ mười sáu vị Chánh
sĩ v.v.. Những vị Bồ-tát mà chúng ta nói đây: đương nhiên đều có phước đức, trí
huệ, từ bi viên mãn. Không chỉ là những vị đại Bồ-tát: chúng ta đã nêu tên ở
phần trước. Mà những đại Bồ-tát đạt đến trình độ này, quả thật là rất nhiều, vô
lượng vô biên chẳng thể kể xiết. Những vị đại Bồ-tát này đồng đến Pháp hội, có
thể thấy ra được điều gì? Có thể thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa giảng
Kinh Vô Lượng Thọ: Pháp hội trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Trước đây chúng ta
thật sự không biết, có đến vô lượng vô biên đại Bồ-tát đạt đến trình độ như
vậy. Chúng ta thường biết đến, thường nói đến Bồ-tát Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù,
Phổ Hiền, Di Lặc v.v. nào biết có rất nhiều đại Bồ-tát: đều đã đạt đến trình độ
đại viên mãn như thế.
Vô lượng
vô biên chư đại Bồ-tát này: đều đến tập hội. Có thể có đồng tu sẽ nói: vậy
thành Xá Vệ bao lớn, có thể chứa hết được không? Phật nói bộ Kinh này ở núi
Linh Thứu. Năm xưa dùng nhục nhãn có thể thấy được: thính chúng đến dự Pháp hội
là 20.000 người. Phần mở đầu chúng ta đã nói là 12.000 người, hiện nay giải
thích cho chúng ta: số người có thể thấy được là 20.000 người. Không chỉ là
12.000 người. Còn rất nhiều chư Phật Bồ-tát: mà nhục nhãn của chúng ta không
thấy được, đều đến Pháp hội.
Cảnh giới
này quả thật là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Vừa rồi tôi đã nói một câu, nhiều
người như thế đến tham gia đại Pháp hội ấy. Nơi đó gọi là thành Xá Vệ, thành đó
bao lớn, có thể chứa hết nổi không? Xin nêu một ví dụ. Vì sao nói đây là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn? Giống như căn phòng một trượng vuông của Cư sĩ Duy Ma
trong Kinh Duy Ma vậy. Phòng của Ngài không lớn, chỉ có một trượng vuông. Nhưng
trong căn phòng một trượng vuông ấy, có thể chứa được 10.000 tòa sư tử. 10.000
tòa sư tử không hề thu nhỏ, căn phòng một trượng vuông ấy cũng chẳng hề phóng
to. Quý vị nói làm sao có thể chứa được hết? Cảnh giới kỳ lạ này, được nói
trong Kinh Hoa Nghiêm: là cảnh giới Lý-sự-vô-ngại, Sự-sự-vô-ngại. Quý vị thấy
có phải là chẳng thể nghĩ bàn không? Chúng ta nghĩ thế nào cũng nghĩ không ra. Trước
đây chúng ta thường nghe nói “hạt vi trần chứa núi Tu Di”. Quả núi Tu Di: có
thể nằm trong một hạt vi trần. Có thể tưởng tượng ra được không? Có phải là
chẳng thể nghĩ bàn không? Đó chính là cảnh giới Hoa Nghiêm.
Chúng ta
hiện nay nơi nơi đều có chướng ngại. Chướng ngại này từ đâu đến? Do vọng-tưởng
phân-biệt chấp-trước tạo thành. Rời khỏi vọng-tưởng phân-biệt chấp-trước, thì
không có chướng ngại. Chúng ta mỗi ngày nói những câu này: nhưng đến khi gặp
hoàn cảnh thực tế thì lại không làm được; Vừa đụng chuyện thì khởi lên
vọng-tưởng, phân-biệt chấp-trước liền đến. Không buông xuống được vọng-tưởng
phân-biệt chấp-trước. Đây chính là nguyên nhân khổ của chúng ta. Trước đây tôi
nhớ đã nói với mọi người, khi lão Pháp sư giảng Kinh từng nói: “Đời người vì
sao lại khổ như thế?”. Chính vì câu nói ấy, mà tôi đã nghiêm túc nghe bộ Kinh
này. Tôi đã tìm được đáp án ở bên trong. Vì sao khổ như vậy? Lão Pháp sư nói: “Bởi
vì quý vị đem giả cho là thật, sau đó quý vị lại khổ sở truy cầu nó. Truy cầu
được rồi cũng khổ, truy cầu không được cũng khổ”. Đồ giả thì quý vị làm sao
truy cầu được chứ? Cho nên đó là do vọng-tưởng phân-biệt chấp-trước: mang đến
cho chúng ta. Nỗi khổ này chính là nhân duyên như thế.
Đoạn Kinh
văn này tương đối đơn giản, nói với chúng ta điều gì? Phàm là các Bồ-tát hướng
vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc của A Di Đà Phật. Quý Ngài đều đạt được: vô
lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, cho đến trí huệ thánh minh. Ở
đây có thể thấy được: vô lượng vô biên đại Bồ-tát có thân phận địa vị tương
đương với ngài Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, đồng thời cùng đến tham dự đại Pháp
hội này.
Đoạn Kinh
văn sau cùng của phẩm này:
又有比丘尼五百人,清信士七千人,清信女五百人,欲界天,色界天,諸天梵眾,悉共大會。“Hựu hữu
Tỳ-kheo-ni ngũ bá nhân. Thanh-tín-sĩ thất thiên nhân. Thanh-tín-nữ ngũ bá nhân.
Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm Chúng, tất cộng đại hội”. (Lại có năm
trăm vị Tỳ-kheo-ni, bảy ngàn vị Nam-cư-sĩ, năm trăm vị Nữ-cư-sĩ, và chư thiên
cõi Dục, cõi Sắc, cõi trời Phạm Chúng đồng đến dự đại hội).
Tỳ-kheo-ni
chúng ta thông thường gọi là Ni chúng, chỉ cho hàng nữ giới sau khi xuất gia đã
thọ đại giới. Thanh-tín-sĩ là nam Cư sĩ tại gia học Phật, gọi là Thanh-tín-sĩ. Thanh-tín-nữ
là nữ Cư sĩ tại gia học Phật. Chư thiên là chỉ chư thiên đại chúng của Dục
giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Đạo tràng giảng Kinh của Phật thù thắng trang
nghiêm. Còn có 500 Tỳ-kheo-ni, nam Cư sĩ 7000 người, nữ Cư sĩ 500 người. Dục
giới thiên là 6 tầng trời. Sắc giới thiên là 18 tầng trời. Vô sắc giới thiên là
4 tầng trời. Chư thiên người trời đại chúng đều đến tham dự: đại Pháp hội Phật
Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh. Phật giảng bộ Kinh này, là đại Pháp viên đốn quảng
đại viên mãn, thật sự khác với những Pháp hội giảng kinh khác.
Phẩm Kinh
thứ hai này, chúng tôi đã giảng xong. Ngày mai chúng tôi sẽ giảng tiếp phẩm thứ
ba. Vẫn còn một ít thời gian, tôi muốn nói một chút với mọi người. Bởi vì đây
là lần đầu tiên tôi giảng thử bộ Kinh Vô Lượng Thọ, chưa có kinh nghiệm. Chúng
tôi sẽ từ từ thăm dò, từ từ cải tiến. Tôi muốn giảng bộ Kinh này như vậy. Sau
khi giảng xong 10 buổi học, tôi không biết mọi người đã nắm được chút quy luật
nào chưa? Tôi giảng mỗi một đoạn Kinh văn, thì chia làm 4 tầng bậc. Mọi người
thấy có như vậy không?
Tầng bậc thứ nhất trước là đọc nguyên văn của Kinh. Để
mọi người biết nguyên văn của Kinh, từng đoạn từng đoạn một, mỗi một đoạn đều
theo thứ lớp này.
Tầng bậc thứ hai, là giải thích những từ ngữ tương đối xa
lạ: trong đoạn Kinh văn này. Đó là tầng bậc thứ hai.
Tầng bậc thứ ba, là giải thích rõ ý nghĩa: của từng câu
trong đoạn Kinh văn ấy, chính là với mỗi câu Kinh văn: biểu đạt ý nghĩa gì.
Tầng bậc thứ tư, là phần tổng kết khái quát: đoạn Kinh văn
đó nói với chúng ta điều gì, biểu đạt ý nghĩa gì.
Nói chung
trong 10 buổi học này, tôi đều dựa theo thứ tự này để giảng cho mọi người. Nếu
quý vị nắm được quy luật này, thì quý vị có thể nghe dễ dàng hơn một chút. Nếu
quý đồng tu hỏi: “Thưa cô, chúng tôi nên dùng sách tham khảo nào?”. Tôi xin nói
với mọi người: quý vị không cần dùng sách tham khảo nào cả. Quý vị chỉ cần mang
một bộ Kinh Vô Lượng Thọ là được rồi. Xem nguyên văn của Kinh Vô Lượng Thọ, sau
này khi được đăng lên mạng có thể đánh thành văn bản, cúng dường mọi người tham
khảo. Quý vị xem phần tôi giảng rồi đối chiếu với nguyên văn của Kinh. Sau đó
lại xem phần văn tự. Tôi dự đoán những thứ này kết hợp lại, sẽ giúp quý vị nghe
hiểu bộ Kinh này, giúp quý vị lý giải bộ Kinh này. Không biết cách nghĩ này, cách
nói này và cách làm này của tôi: có giúp được cho mọi người hay không? Tôi có
suy nghĩ bất chợt. Đó là trong lần giảng Kinh này, tôi cố hết sức giúp chư vị
đồng tu thuộc trình độ khác nhau: đều đạt được lợi ích. Đây là nguyện vọng của tôi,
xin cúng dường mọi người tham khảo. Hôm nay buổi học này xin giảng đến đây. Cảm
ơn mọi người! A Di Đà Phật!
(Hết tập 10)
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát Bồ-đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Nam
Mô A Mi Đà Phật