PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG
GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 26/11/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 11
Chư vị đồng tu tôn
kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật!
Mời xem câu kinh tiếp
theo:
Nguyện ư vô lượng thế giới thành Đẳng chánh giác.
Câu này là cách nói
chung về tha thọ dụng. Cho thấy Bồ-tát tham gia pháp hội vì độ chúng sanh mà
bằng lòng tới mười phương vô lượng vô biên thế giới thị hiện thành Phật. Giống
như phẩm Phổ Môn có nói: “Nên dùng thân Phật độ được thì hiện thân Phật để
thuyết pháp”. Nguyện là thệ nguyện, đối với pháp xuất thế có mong cầu gọi là
nguyện. Thế giới, thế đại biểu cho thời gian, quá khứ, vị lai, hiện tại gọi là
ba đời; giới đại biểu cho không gian, tức là mười phương.
Đẳng chánh giác, xưa
dịch là Đẳng giác. Đẳng giác có hai hàm nghĩa: Thứ nhất là vị trí cao nhất của
Bồ-tát, tức là sắp đạt được Phật quả Diệu giác, xưng là Đẳng giác, công đức trí
tuệ của họ đã gần tương đương với Diệu giác Phật. Đã là mặt trăng ngày 14 rồi,
còn kém ngày 15 một ít, nhưng đã rất gần rồi. Thứ hai, Đẳng giác chính là Phật.
Sách Vãng Sanh Luận Chú nói: “Do các pháp bình đẳng nên các Như Lai bình đẳng. Vì
vậy chư Phật Như Lai gọi là Đẳng giác. Đại Trí Độ Luận nói: “Chư Phật bình đẳng
nên gọi là Đẳng giác”. Tổng hợp những điều vừa nói, Đẳng giác có hai hàm nghĩa,
có thể là Đẳng giác Bồ-tát, cũng có thể là Phật. Trong cuốn kinh này Đẳng giác
là Phật. Đại biểu Bồ-tát trong pháp hội tới mười phương thế giới thị hiện thành
Phật.
Bồ-tát thành tựu trí
tuệ đức năng, tuyệt đối không phải vì chính mình, hoàn toàn vì lợi ích hết thảy
chúng sanh. Tại sao vậy? Không có lý do! Chính vì không có lý do, cho nên gọi
là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”. Các đồng tu chắc rất là quen thuộc với
hai câu này, nhưng vẫn chưa hiểu ý nghĩa thật sự của hai câu này, đừng nói tới
vận dụng vào trong cuộc sống. Ví như có người cần giúp đỡ, bạn sẽ hỏi tại sao
tôi phải giúp họ? Đó là bởi vì bạn chưa biết chân tướng sự thật rằng chúng sanh
và bạn là một thể. Bạn sẽ cho rằng như vậy, tôi không phải là họ, họ không phải
là tôi, tôi và họ có quan hệ gì? Lấy một ví dụ cho dễ hiểu: tay trái của bạn bị
muỗi cắn, tay phải có đuổi muỗi đi không? Nếu như tay phải hỏi như vậy: nó là
nó, tôi là tôi, dựa vào cái gì mà tôi phải giúp tay trái đuổi muỗi? Bạn nghe
xong câu này có cảm thấy buồn cười không? Không nên cười, chuyện như vậy thường
xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, chỉ là chúng ta không cảm nhận được mà thôi.
Tại sao vậy? Phàm phu thường làm những chuyện hồ đồ này, không biết tất cả
chúng sanh và chính mình là một thể. Đã là một thể, là đồng thể, tay phải giúp
đỡ tay trái, hà tất phải hỏi tại sao? Chư Phật Bồ-tát biết chúng sanh và chính
mình đồng thể, cho nên mới độ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, biểu thị “đồng
thể đại bi”. Thể tức là bản tánh chân như. Hiện tượng y chánh trong mười pháp
giới đều là cảnh giới do bản tánh chân như biến hiện ra, là một không phải hai.
Chúng sanh mê mất chân
tướng sự thật, sanh khởi vọng tưởng, chấp trước cho nên mới phân biệt mình,
phân biệt người, mê hoặc điên đảo, không biết rằng hư không pháp giới vốn là
một thể. Chư Phật Bồ-tát biết là một thể cho nên độ chúng sanh chính là độ
chính mình, không độ chúng sanh tức là không độ chính mình, có lý nào lại không
độ chính mình! Chúng sanh và chính mình là tự – tha không hai, đích thực là một
thể, Phật độ chúng ta, Phật biết ngài cùng chúng ta là một thể. Chúng ta lại đi
phân ranh giới với Phật, không phải Phật không độ chúng sanh, mà là chúng sanh
không tiếp nhận sự hóa độ của Phật.
Trong hội kinh Pháp
Hoa, Quán Thế Âm Bồ-tát nói rất hay: “Nên dùng thân gì mới độ thoát được thì
hiện thân đó mà thuyết pháp”. Trong kinh Pháp Hoa nói 32 ứng thân, “Nguyện
trong vô lượng thế giới thành Đẳng chánh giác”, chính là nên dùng thân Phật để
độ thoát; nên dùng thân Bồ-tát để độ thoát thì ngài liền hiện tướng Bồ-tát.
Chúng sanh chúng ta có phân biệt, chấp trước đối với Phật Bồ-tát. Chúng ta sẽ
lấy ví dụ về Bồ-tát kể cho mọi người nghe.
Có người phân định rất
rạch ròi về các vị Bồ-tát, phân công rõ ràng, mỗi vị Bồ-tát chỉ làm một chuyện,
họ cho rằng Quán Thế Âm Bồ-tát chắc chắn không phải là Phổ Hiền Bồ-tát, Phổ
Hiền Bồ-tát chắc chắn không phải là Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát chắc
chắn không phải là Địa Tạng Bồ-tát. Thực ra trong pháp giới, Bồ-tát không có
danh hiệu. Thế giới Tây Phương Cực Lạc có danh hiệu không? Không có danh hiệu,
không có tên gọi, như vậy mới bình đẳng, có tên gọi liền không bình đẳng. Cho
rằng đây là Quán Thế Âm Bồ-tát, kia là Đại Thế Chí Bồ-tát thì làm sao có thể
bình đẳng được? Tây Phương Tịnh Độ là pháp giới bình đẳng, cho nên không có
danh hiệu. Cho dù vị ấy là người nào, gọi là Quán Thế Âm Bồ-tát cũng được, gọi
là Đại Thế Chí Bồ-tát cũng được, gọi là Phổ Hiền Bồ-tát cũng được, đều được,
bạn muốn vị Bồ-tát nào tới độ bạn học Phật thì vị Bồ-tát đó sẽ tới. Chắc chắn
không sai! Cho nên hết thảy danh hiệu của Bồ-tát đều là “thông hiệu”. Bồ-tát ở
thế giới Tây Phương Cực Lạc đầy đủ hết thảy danh hiệu, bạn gọi các ngài là
Bồ-tát gì cũng được.
Phật cũng là như vậy,
có người tu học Tịnh độ niệm A-di-đà Phật. Đến lúc sanh bệnh mau chóng buông
xuống A-di-đà Phật, đổi thành niệm Dược Sư Phật. Lại không biết Dược Sư Phật
cũng là A-di-đà Phật, A-di-đà Phật là vạn đức hồng danh, mười phương ba đời hết
thảy chư Phật Như Lai đều là A-di-đà Phật, chuyện này họ không biết. Cho nên
làm việc này thì tìm vị Phật này, làm việc kia thì tìm vị Phật kia, phiền phức
biết bao!
Nhiều năm như vậy tôi
chỉ tìm A-di-đà Phật, chỉ tìm Quán Thế Âm Bồ-tát. Bởi vì tôi biết hết thảy Phật
đều là A-di-đà Phật, hết thảy Bồ-tát đều là Quán Thế Âm Bồ-tát. Đường dây liên
lạc đặc biệt, thật là tiện lợi. Có linh nghiệm không? Linh nghiệm. Những gì tôi
vừa nói, nếu như người chưa từng đọc qua kinh Vô Lượng Thọ nghe được, họ sẽ
hoài nghi. Các đồng tu tu học pháp môn niệm Phật vãng sanh Tịnh độ, thọ trì
kinh Vô Lượng Thọ, đã đọc kinh Vô Lượng Thọ mấy trăm lần, mấy ngàn lần, thậm
chí là mấy vạn lần, những lời này chắc mọi người sẽ không hoài nghi chứ? Bởi vì
trong kinh nói như vậy.
Hết thảy chư Phật
Bồ-tát đều do tâm chúng ta chiêu cảm, trong tâm tôi thích Quán Âm Bồ-tát thì
ngài sẽ thị hiện tướng Quán Âm Bồ-tát. Nếu tôi thích Đại Thế Chí Bồ-tát thì
ngài sẽ hiện tướng Đại Thế Chí Bồ-tát. Thân tướng thiên biến vạn hóa, giống như
trong kinh Lăng Nghiêm nói “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Chư Phật
Bồ-tát có tướng hay không? Vô tướng. Bởi vì vô tướng mới có thể hiện hết thảy
các tướng. Hiện hết thảy các tướng không phải là chính mình muốn hiện, mà hiện
tùy theo tâm chúng sanh. Cũng giống như nước, bạn đổ vào ly hình tròn thì nó có
hình tròn; bạn đổ chúng vào ly vuông thì nó có hình vuông. Đồ đựng có hình dáng
khác nhau thì nước có hình dáng khác nhau. Vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ sẽ được
đại tự tại như vậy. Không giống chúng ta hiện nay chấp trước có tướng, muốn
biến ra tướng thứ hai cũng không biến ra được.
Xin mời xem bốn câu
kinh sau:
Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân. Thường dĩ pháp
âm. Giác chư thế gian.
Bốn câu này là nói
pháp duyên của Thích-ca Mâu-ni Phật đã chín muồi. Hết thảy thiên nhân đều quy y
kính ngưỡng đức Phật, tiếp nhận giáo học của đức Phật. Cơ duyên chúng sanh đời
này thành Phật chín muồi, đức Phật nhất định dạy họ pháp môn thành Phật, tức là
kinh Vô Lương Thọ, pháp môn niệm Phật. Chúng sanh căn cơ chưa chín muồi thì
giảng pháp môn khác, hằng thuận chúng sanh, tùy theo nguyện vọng của họ; đối
với chúng sanh chưa có thiện căn, phước đức, giúp đỡ họ bồi dưỡng thiện căn
phước đức. Đây chính là cơ động linh hoạt của Phật-đà, phương tiện thiện xảo
dạy theo trình độ. Theo Trí Độ Luận ghi lại, sau khi Thích-ca Mâu-ni Phật thành
đạo 35 ngày không có thuyết pháp ở Ấn Độ, 21 ngày đầu tiên là ngài giảng kinh
Hoa Nghiêm ở thiên cung, nhưng mà các đệ tử Thanh văn, Duyên giác thừa này lại
như điếc như mù, không lãnh hội được. Mãi cho đến ngày thứ 35 đức Phật tự mình
nói: “Pháp của ta thâm sâu, khó giải khó biết, đệ tử A-la-hán còn không thể
biết, chúng sanh thông thường càng không cách nào biết được. Hết thảy chúng
sanh đều bị những triền phược (phược là trói buộc, trước là dính mắc) không ai
có thể hiểu được, chi bằng ta nhập Niết-bàn”!
Lúc này chư Bồ-tát và
thiên nhân đều cung kính chắp tay tới trước Phật, thỉnh cầu Thích-ca Mâu-ni
Phật vì chúng sanh chuyển pháp luân. Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh, giảng
pháp Tiểu thừa trước. “Chuyển pháp luân”, trong Pháp Hoa Văn Cú giải thích: “Chuyển pháp cảm hóa chúng sanh trong tâm
Phật đi vào tâm chúng sanh gọi là chuyển pháp luân”. Nói đơn giản hơn một
chút là trong tâm chư Phật có pháp giáo hóa chúng sanh, Phật đem pháp này
truyền vào trong tâm chúng sanh gọi là chuyển pháp luân. Hiểu câu “đem pháp
trong tâm Phật chuyển vào tâm chúng sanh” chính là câu chúng ta thường nói khai
tri kiến Phật, thị tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật, đây là
hàm nghĩa của “chuyển”. Đại sư Gia Tường nói: “Tự ngã chí bỉ, cố xưng vi
chuyển”, từ ta đến đối phương, nên gọi là chuyển. “Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh
chuyển pháp luân” là duyên khởi của đại giáo, Thế Tôn nhận lời thỉnh, chuyển
diệu pháp luân.
“Thường dĩ pháp âm,
giác chư thế gian”, chư Phật Bồ-tát đại triệt đại ngộ để làm gì? Để giáo học.
Cho nên Phật pháp là giáo dục. Thường là vĩnh viễn không đứt đoạn. Đức Phật
thuyết pháp chưa từng gián đoạn, bởi vì Thế Tôn thuyết pháp gọi là thuyết pháp
trong vi trần, thuyết pháp trong cõi nước, thuyết pháp mạnh mẽ, thuyết pháp
không gián đoạn, lúc nói là thuyết pháp mà lúc im lặng cũng đang thuyết pháp,
không chỉ thuyết pháp cho hữu tình mà ngay cả vô tình cũng thuyết pháp. Vì vậy
chẳng thể cho rằng Phật Bồ-tát hiện ra thân tướng giảng kinh thuyết pháp mới là
pháp âm. Nên biết “ý của tổ sư trên đầu trăm cỏ”. Trên đầu trăm cỏ vô tình cũng
đang thuyết pháp, đây là nghĩa rộng của pháp âm. Tại sao đức Phật lại tới thế
gian này? Vì muốn giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, vì muốn giúp chúng sanh lìa
khổ được vui. Phá mê thì lìa khổ, khai ngộ thì được vui, đây là giáo dục của
Phật. Bạn thật sự hiểu được giáo dục của Phật là gì rồi thì bạn có thể không
học sao? Bạn có thể không tiếp nhận sao?
Phá mê khai ngộ là
giáo học, chỉ có Thích-ca Mâu-ni Phật có, ngoài ngài ra, thế gian và xuất thế
gian không tìm được người thứ hai. Đặc biệt là đức Phật từ bi đến tột cùng,
ngài có pháp môn đặc biệt, có diệu pháp vô thượng, đó chính là tín nguyện trì
danh, một đời thành Phật. Pháp môn này là thuyết cho ai? Cho người có đại thiện
căn, đại phước đức, đại nhân duyên thì mới có tác dụng. Tại sao vậy? Họ tin
tưởng, họ tiếp nhận. Chú ý tới chữ đại này, không phải đại thiện căn, đại phước
đức, đại nhân duyên thì Phật sẽ không nói, không phải Phật không muốn nói, mà
không cần thiết phải nói, bởi vì họ không tin, không tiếp nhận. Trong kinh
A-di-đà có nói rất hay: “Chẳng thể dùng chút thiện căn phước đức nhân duyên mà
được sanh vào cõi kia”, mỗi một người vãng sanh đều đầy đủ thiện căn, đầy đủ
phước đức, đầy đủ nhân duyên, ba điều này không thể thiếu điều nào. Trong Tịnh
tông gọi là chúng sanh căn cơ chín muồi, mỗi một người vãng sanh đều là chúng
sanh căn cơ chín muồi.
Thế gian tức là tam
giới: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Thế Tôn tiếp nhận lời thỉnh cầu của
Bồ-tát, thiên nhân, cả một đời diễn giảng đủ các pháp Đại thừa, Tiểu thừa,
Quyền, Thật, Thiên, Viên v.v… Đều là đang chuyển pháp luân. Bởi vì căn cơ chúng
sanh không giống nhau, mức độ căn cơ chín muồi cũng không giống nhau, cho nên nói
Tiểu thừa trước, sau đó từ từ hồi tiểu hướng đại. Nói quyền pháp trước, làm sao
chứng A-la-hán, chứng Duyên giác, làm thế nào để hành Bồ-tát đạo; sau đó nói
thật pháp, nói kinh Pháp Hoa, khai quyền hiển thật, mục đích cuối cùng là toàn
bộ đều thành Phật. Pháp Hoa là Viên giáo, Tịnh độ tông cũng là Viên giáo. Thế
Tôn nói hết thảy pháp để giác tỉnh hết thảy chúng sanh trong tam giới, pháp nào
cũng đều là thuốc tùy theo bệnh, đều là vì muốn chúng sanh giác ngộ.
“Giác chư thế gian”, chư thế gian tức chỉ mười pháp giới, không
chỉ là lục đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát nằm ngoài lục đạo, thậm chí cõi
Phật cũng bao gồm trong đó. Phật có Tạng giáo Phật, Thông giáo Phật, Biệt giáo
Phật, Viên giáo Phật. Viên giáo Phật thuyết pháp, ba hạng Phật còn lại cũng tới
nghe, tới tiếp nhận giáo hóa. Đây chính là “thường dĩ pháp âm, giác chư thế
gian”. Thời đại mà chúng ta sống ngày nay là một thời đại phi thường, lịch sử
Trung Quốc và lịch sử ngoài nước cũng chưa từng xuất hiện qua, trật tự xã hội
trên toàn thế giới đã hỗn loạn, một xã hội không có trật tự, thế nào cũng sẽ
chiêu cảm tai họa lớn nhỏ lũ lượt kéo tới, loài người đã tới sát ranh giới sanh
tử tồn vong.
Tả Khưu Minh trong Tả
Truyện có nói một câu gọi là “nhân khí thường tắc yêu hưng”. Xã hội hiện nay
thật sự là xã hội yêu quái hưng thịnh, lời của Tả Khưu Minh nói có đạo lý. Thế
nào là người? Đầy đủ năm chữ “nhân nghĩa lễ trí tín”, đó là người. Con người
thì phải ra dáng con người, con người phải có đạo đức. Tổ tiên chúng ta giảng
ngũ luân ngũ thường. Ngũ luân là đạo, ngũ thường là đức, đây là tánh đức. Con
người rời khỏi đạo đức thì là yêu ma quỷ quái. Không còn ngũ luân ngũ thường,
xã hội này chính là yêu ma quỷ quái.
Ai tới cứu vớt thế
giới khổ nạn này? Chư Phật Bồ-tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn không bỏ chúng
sanh, cho nên xã hội ngày nay yêu ma quỷ quái nhiều, chư Phật Bồ-tát cũng không
ít. Nếu không có chư Phật Bồ-tát ứng hóa xuống đây thì thế giới này còn có thể
sống nổi sao? Xin mời xem bốn câu kinh tiếp theo:
Phá phiền não thành, hoại chư dục tiệm. Tẩy trạc cấu ô, hiển
minh thanh bạch.
Bốn câu này là tông
chỉ của hết thảy chư Phật thị hiện trên thế gian này giảng kinh thuyết pháp.
“Phá phiền não thành”, phá là phá trừ. Thành là ví dụ phiền não kiên cố như
tường thành. Phiền não tổng cộng có mười loại: tham, sân, si, mạn, nghi, năm
loại này là tư phiền não. Thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến,
tà kiến, năm loại này là kiến phiền não. Hợp lại gọi là kiến tư phiền não. Mười
loại phiền não này là phiền não căn bản. Tại sao lại gọi là phiền não? Nó phiền
tâm não thân, khiến cho thân tâm của bạn không yên cho nên gọi là phiền não.
Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai nói: “Ba thứ hoặc: kiến tư, trần sa, vô minh
gọi là ba phiền não”. Mười loại phiền não mà chúng ta nói ở trên thuộc về kiến
tư phiền não trong “ba phiền não”. Đức Phật diễn thuyết diệu âm chính là muốn
phá tan thành trì phiền não trong thân tâm chúng sanh.
“Hoại chư dục tiệm”.
Hoại là phá hoại, dục là dục vọng, tiệm là hào, ở đây ví với dục vọng nhiều,
sâu, kiên cố. Dục vọng là căn nguyên của phiền não, dục vọng không được thỏa
mãn liền sanh phiền não. Dục vọng của người hiện nay thật quá nhiều quá nhiều,
giống như động không đáy vậy, thật sự là dục vọng nhiều ắt khổ. Nếu con người
biết đủ chẳng phải thường vui sao? Bởi vì không biết đủ cho nên mới thường khổ.
Ham ăn, ham sắc đều là dục, trong đó nghiêm trọng nhất là sắc dục.
Sách “Chân Giải” nói:
“Ái dục là gốc các khổ”. Tịnh Ảnh Sớ nói: “Tâm ái dục sâu thẳm khó vượt được”.
Đức Phật dạy “ái” đáng sợ nhất, khó xử lý nhất, nếu trên thế gian này vẫn còn
một chuyện khó xử lý như ái dục thì hết thảy chúng sanh đều không thể thành
đạo. Hết thảy chúng sanh đều do ái dục mà trở thành gốc sanh tử, nếu như còn có
một chuyện khó phá giống như vậy thì chúng sanh sẽ không có ngày thoát khỏi khổ.
Tiệm tức là hào, ái dục như nước lũ, chúng sanh chìm nổi trong ấy, lúc chìm lúc
nổi, không dễ gì độ thoát, cho nên mới nói là dục tiệm, bỏ đi tâm ái dục chính
là phá hoại dục tiệm. “Phá phiền não thành, hoại chư dục tiệm”. Hai câu kinh
này có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh “hàng phục ma oán”. Phiền não là ma, dục
là oan gia.
“Tẩy trạc cấu ô”, cấu
ô tức là ô nhiễm, sự ô nhiễm của thân tâm loài người hiện nay thật sự là trước
đây chưa từng có. Ô nhiễm tâm địa, ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm sinh lý, những
thứ ô nhiễm này không nằm ngoài hai loại lớn: Sở tri chướng và phiền não
chướng. Báo chí, tạp chí, truyền hình tivi, mạng internet hiện nay là ô nhiễm
nặng nề nhất.
“Hiển minh thanh
bạch”, chân tâm bản tánh hiển lộ ra, đây là mục đích giáo học của Phật-đà. Điều
kiện tiên quyết để hiển minh thanh bạch đó là tẩy trạc cấu ô. Sách “Chân Giải”
nói: Rửa sạch cấu ô, hiển minh thanh bạch là “thấm nhuần mưa đức”. Giống như
trời mưa vậy, sau cơn mưa cây cối, nhà cửa đều sạch sẽ, hiển lộ bản thể thanh
bạch. Chúng sanh làm thế nào để rửa sạch? Chỉ có hiểu rõ bổn tâm, thấy được bản
tánh, thật sự nhận thức được bản thể thì mới là hiển minh thanh bạch. Đại sư
Bách Trượng của Thiền tông nói “quýnh thoát căn trần” chính là “rửa sạch cấu
ô”, “linh quang độc diệu” chính là “hiển minh thanh bạch”. “Quýnh thoát căn
trần” tức là vĩnh viễn thoát khỏi lục căn lục trần; “linh quang độc diệu”, ánh
sáng này không phải ánh sáng phàm tục thế gian, mà là ánh sáng linh minh không
thể nghĩ bàn. “độc diệu” tức là không hai, không đối lập với vạn pháp, không có
mặt đối lập, vừa có đối lập liền có mâu thuẫn.
Theo Tịnh tông mà nói,
“đô nhiếp lục căn” là rửa sạch cấu ô; “tịnh niệm tương tục”, “tự đắc tâm khai”
là hiển minh thanh bạch.
“Phá phiền não thành,
hoại chư dục tiệm. Tẩy trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch”. Bốn câu này vô cùng
quan trọng, là chỗ mấu chốt mà chư Phật Bồ-tát chuyển pháp luân. Hết thảy đại
Bồ-tát đều đi qua những chỗ này, cho nên có thể “thường dùng pháp âm, giác ngộ
các thế gian”. Tại sao bây giờ chúng ta làm không được? Bởi vì chính chúng ta
còn mang theo vô số phiền não ô nhiễm, cũng chưa thật sự minh tâm kiến tánh,
chỉ nghĩ tới thành danh thành gia, làm đại sư Phật học, so sánh dưới tòa có bao
nhiêu đệ tử, thích người khác cung kính cúng dường, thích ủng hộ rầm rộ, xe cộ
tấp nập, thích lập bè phái, tranh giành tín chúng v.v… Những điều này đều là
ô nhiễm.
Đệ tử Phật chân chánh
phải mau chóng tránh xa những thứ này, một chút rìa cũng không được dính, chính
mình chưa giác ngộ thì sao có thể giúp người khác tỉnh ngộ? Phật Bồ-tát giáo
hóa chúng sanh dựa vào điều gì? Thứ nhất dựa vào âm thanh giáo hóa, giảng kinh
thuyết pháp; thứ hai là dẫn đầu làm gương, tự mình nỗ lực thực hành; thứ ba là
đức hạnh chiêu cảm, làm ra tấm gương.
Nếu như bây giờ hỏi
bạn một vấn đề như thế này, nội dung mà Thích-ca Mâu-ni Phật giảng pháp là gì?
Phật giáo đang dạy điều gì? Bạn biết trả lời không? Năm câu kinh này là đáp án
tiêu chuẩn. “Giác chư thế gian, phá phiền não thành, hoại chư dục tiệm, tẩy
trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch”. Đoạn kinh phía trước là để chúng ta hiểu rõ,
mục đích chư Phật Bồ-tát giáo hóa chúng sanh là giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá
mê khai ngộ, thấu hiểu triệt để chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Vũ trụ là hoàn
cảnh sinh sống của chúng ta, nhân sanh tức là bản thân chúng ta. Phật để cho
chúng ta nhận thức chính mình, nhận thức hoàn cảnh sinh sống của chính mình.
Mời xem đoạn kinh văn tiếp theo:
Điều chúng sanh. Tuyên diệu lý. Trữ công đức. Thị phước điền. Dĩ
chư pháp dược cứu liệu tam khổ. Thăng quán đảnh giai. Thọ Bồ-đề ký. Vị giáo
Bồ-tát. Tác A-xà-lê. Thường tập tương ưng vô biên chư hạnh. Thành thục Bồ-tát
vô biên thiện căn. Vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm.
Đoạn này là nói chư
Phật dạy học như thế nào. Chúng sanh chúng ta đã mê mất chân tướng vũ trụ nhân
sanh, có phiền não, vọng tưởng chướng ngại tâm thanh tịnh của chúng ta, chướng
ngại chúng ta quay về chân như bản tánh. Phật giúp chúng sanh giải quyết những
vấn đề này như thế nào? Giảng kinh dạy học. Chúng ta xem đức Phật dạy học như
thế nào.
“Điều chúng sanh,
tuyên diệu lý”. Trong chú giải có nói: Điều là điều hòa, chúng sanh là hết thảy
hữu tình. Câu “điều chúng sanh” này rất quan trọng. Xã hội ngày nay động loạn,
tai họa trên trái đất nhiều như vậy, nguyên nhân căn bản từ đâu đến? Chúng sanh
sống trên trái đất này bất hòa, người với người bất hòa, súc sanh với súc sanh
bất hòa, quỷ thần với quỷ thần bất hòa. Chúng ta nói tới con người trước, trong
thân thể chúng ta, không nói [những điều] ngoài thân thể, chính bản thân chúng
ta còn bất hòa với chính mình. Từ chỗ nào có thể thấy được? Trong lòng bực bội,
bực bội chính là bất hòa, sáu căn không thể hòa hợp. Chúng ta lại xem gia đình,
bây giờ có được mấy gia đình hòa hợp? So sánh với những năm 50, 60 thật sự là
hoàn toàn trái ngược, vào thời đó không thấy nhà ai bất hòa, hiện nay nhìn thấy
rất ít gia đình hòa hợp. Gia đình hiện nay, vợ chồng xung đột, cha con xung
đột, anh em xung đột, luân thường không còn nữa. Y báo tùy theo chánh báo
chuyển, chánh báo bất thiện như vậy, khiến cho tất cả sinh vật trên trái đất
này đều mất đi điều hòa. Chuyện này rất nghiêm trọng.
Chúng sanh mà lão cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ nói tới trong chú giải là hết thảy chúng sanh hữu tình. Hoa cỏ
cây cối, núi sông đại địa, đây là chúng sanh vô tình. Hiện nay chúng sanh vô
tình bị ô nhiễm bởi chúng sanh hữu tình, cũng đánh mất điều hòa, phiền phức này
rất lớn. Tai họa tới, đại tự nhiên muốn trừng phạt loài người. Cả thế giới này
không hòa hợp, khiến loài người đối mặt trước tai họa trở nên nhỏ bé biết bao,
không chịu nổi một đòn. Nhưng mà chúng sanh mê quá sâu quá sâu rồi, gọi thế nào
cũng không chịu thức tỉnh! Ác báo chưa hiện tiền thì chưa biết sợ, khi ác báo
hiện tiền, hiểu rõ rồi thì đã muộn, hối hận cũng không kịp nữa, sợ hãi cũng vô
dụng, bạn phải chịu quả báo khổ thôi!
Lại xem tôn giáo, tôn
giáo với tôn giáo cũng bất hòa. Cùng một tôn giáo còn muốn chia bè chia phái,
các bè phái này cũng bất hòa với nhau, đến cả cùng một sư phụ mà còn tranh ta
đấu nhau. Thậm chí là trong một ngôi chùa có mấy chục người sinh sống cũng bất
hòa, có chùa chỉ ở hai người, một người xuất gia, một người tại gia, vậy mà
cũng bất hòa. Thánh hiền xưa rất coi trọng vấn đề này, nói với chúng ta hòa và
bất hòa có liên quan đến sự hưng suy của Phật pháp. Hòa thì Phật pháp hưng
thịnh; bất hòa thì Phật pháp suy bại, suy bại tới cực điểm, Phật pháp sẽ diệt
vong, cho nên không được bất hòa. Phải bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ chính
mình, họ không hòa với mình thì mình hòa với họ. Như vậy mới có thể thực hành
chung sống hòa hợp.
Chư Phật Bồ-tát giáo
hóa chúng sanh như thế nào? Đó là “điều chúng sanh, tuyên diệu lý”. Điều tức là
điều hòa, điều thuận, điều phục. Dùng điều gì để điều hòa? Dùng giới, định,
tuệ. Giới luật là điều thân, định là điều tâm, tuệ là thân tâm cùng điều. Hay
nói cách khác cả người chúng ta đều là bệnh, muốn học Phật, không thể nhập môn,
trước tiên phải điều hòa bản thân thành pháp khí, “điều chúng sanh” tức là giúp
đỡ chúng sanh đoạn phiền não. Làm thế nào áp dụng “điều chúng sanh”? Phải tuyên
diệu lý. Thế nào là diệu lý? Đó là lý thể của thật tướng, Cũng chính là tri
kiến Phật nói trong kinh Pháp Hoa. Khai tri kiến Phật, thị tri kiến Phật, đây
là tuyên diệu lý, tuyên thuyết chân tướng vũ trụ nhân sanh. Để cho hết thảy
chúng hữu tình ngộ nhập tri kiến Phật, đây chính là “điều chúng sanh”. Thân tâm
được điều phục mới có tư cách tiếp nhận Phật pháp. Thời đại chúng ta, người học
Phật rất nhiều, tại sao lại không thể thành tựu? Nguyên nhân là do thân tâm
chưa được điều phục mà đã đi học tập kinh điển Đại thừa. Kinh điển học không
ít, kết quả chỉ tăng trưởng tà kiến, không phải tăng trưởng trí tuệ, mà là tăng
trưởng tà tri tà kiến. Vậy thì phiền phức lớn rồi, nhất định phải để thân tâm
hồi phục khỏe mạnh, thì tiếp nhận Phật pháp mới có thể tăng trưởng trí tuệ.
Trước tiên phải thành
tựu pháp khí, sau đó mới có thể chứa đựng các diệu pháp. Người xưa so sánh
rằng, Phật pháp là cam lộ, đề hồ cam lộ nếu như đựng trong chén chứa thuốc độc,
đề hồ cam lộ cũng biến thành thuốc độc, bởi vì có độc tố trộn lẫn trong đó,
nhất định phải rửa sạch chén từng chứa thuốc độc này trước. Thế nào là thuốc
độc? Tham sân si mạn nghi, còn độc hơn thuốc độc. Nhất định phải loại trừ sạch
sẽ trong tâm, lúc đó Phật giảng kinh thuyết pháp cho bạn, bạn mới có thể tiếp
nhận đại pháp đề hồ cam lộ của Như Lai. “Điều chúng sanh” là đoạn phiền não,
“tuyên diệu lý” là học Pháp môn. Phải có thứ tự, không thể [tiến hành] cùng
lúc, chỉ có bậc thượng căn lợi trí mới có thể làm được [cùng lúc như vậy].
“Trữ công đức, thị
phước điền”. Hai câu kinh này lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giải thích như sau: tích
chứa nhiều đức gọi là trữ công đức. Bậc đại Bồ-tát đều có đủ loại công đức nên
có thể cho chúng sanh làm phước điền. Phước điền là ruộng gieo trồng. Trữ công
đức thị hiện bên ngoài là tiếp nhận chúng sanh cúng dường, để chúng sanh tạo
phước gọi là “thị phước điền”. Luận Câu Xá nói có bốn loại phước điền:
Thứ nhất là thú điền. Thú là súc sanh, hiện nay rất nhiều người yêu thương
bảo vệ động vật, bạn yêu thương bảo vệ chúng sanh, chúng sanh hoan hỉ, chư Phật
hoan hỉ.
Thứ hai là khổ điền. Chúng ta đi cứu tế những người bần cùng khốn khổ,
những người này đều có thể trở thành phước điền của chúng ta.
Thứ ba là ân điền. Cha mẹ sư trưởng có ân với chúng ta, chúng ta ở bên
cạnh cha mẹ thực hành hiếu đạo chính là trồng ân điền.
Thứ tư là đức điền. Hết thảy thánh hiền Tiểu thừa, Đại thừa đều là phước
điền.
Đối với hai câu kinh
này, lão pháp sư giải thích như sau: “Trữ công đức, thị phước điền”, hai câu
này là nói về cương lĩnh tu học sáu ba-la-mật của Bồ-tát. Nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định là “năng trữ”, tam học giới định tuệ là công đức, “sở trữ”. Phước
điền là bố thí, trì giới. Thế nào là người có phước trên thế gian này? Người
chịu bố thí có phước, người tuân theo phép tắc có phước. Trì giới chính là tuân
theo phép tắc. Người có thể xả, có thể tuân theo phép tắc là có phước. Chúng ta
trồng phước điền phải có huệ nhãn, biết phân biệt đâu là phước điền thật sự.
Niệm Phật đường nho nhỏ làm theo có thể trở thành phước điền thật sự. Vậy thì
phải xem người dẫn đầu dẫn dắt như thế nào, mọi người tu hành như thế nào. Để
tôi kể một ví dụ cho các đồng tu nghe: Giác Minh Diệu Hạnh Bồ-tát, nhóm cộng tu
của họ không nhiều, chỉ có tám người, thành lập một niệm Phật đường nho nhỏ
cùng nhau cộng tu, tám người đều vãng sanh. Niệm Phật đường nho nhỏ này công
đức thù thắng vô cùng! Bạn xem niệm Phật đường nho nhỏ đã thành tựu tám vị
Phật. Nếu như hộ trì cho đạo tràng niệm Phật đường nho nhỏ này, cúng dường một
bữa ăn hoặc cúng dường thứ khác, vậy thì phước báo còn hơn gấp trăm gấp ngàn
lần so với cúng dường nơi khác. Người tu hành chân chánh không thể không biết
đạo lý này.
“Dĩ chư pháp dược cứu
liệu tam khổ”. Việc này ai có thể làm được? Chỉ có Phật pháp mới có thể làm
được. Thân thể của chúng ta tại sao còn lưu lại thế gian này? Chư Phật Bồ-tát
tại sao thị hiện trên thế gian, thị hiện trong lục đạo? Chính là làm một chuyện
như vậy. “Dĩ chư pháp dược cứu liệu tam khổ”, “chư Phật độ sanh, tùy bệnh cho
thuốc”. Chúng sanh có đủ loại bệnh, gọi là chúng sanh có tám vạn bốn ngàn loại
bệnh, cho nên Phật sẽ có tám vạn bốn ngàn loại pháp. Bệnh ví với nỗi khổ của
chúng sanh, dược ví với diệu pháp của Như Lai. Kinh Niết-bàn nói: “Vì độ chúng
sanh nên nói pháp dược vi diệu vô thượng”. Chúng sanh có bệnh gì thì phải cho
thuốc đó, không được cho sai thuốc. “Vi diệu vô thượng” không phải là hạn định
dạy theo bộ kinh nào, trong kinh Bát-nhã, Phật nói rất hay: “Pháp môn bình
đẳng, không phân cao thấp”, nếu có vi diệu vô thượng thì có cao thấp rồi. Lời
này có mâu thuẫn hay không? Có xung đột hay không? Không hề. Gọi là vi diệu vô
thượng là nói với người, thuốc này rất thích hợp, trị bệnh của họ rất có hiệu
quả, uống thuốc liền hết bệnh, dùng phương pháp này họ liền thành tựu, nên đối
với họ mà nói đây là vô thượng. Bệnh của mỗi người khác nhau, cho nên thuốc mà
mỗi chúng sanh cần cũng khác nhau, do đó Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết pháp 49
năm, để lại nhiều điển tịch như vậy, không phải bảo bạn phải học hết, dùng hết
tất cả. Thuốc nhiều như vậy bạn đều uống hết, không chỉ bệnh không khỏi, uống
nhầm thuốc còn chết người nữa. Trong tiệm thuốc có nhiều thuốc như vậy, không
có bác sĩ kê đơn cho bạn, bạn không dám uống. Phật pháp có nhiều kinh điển như
vậy, không có người chỉ dẫn bạn, bạn làm sao có thể học hết cùng một lúc được?
Học hết cùng một lúc tức là uống hết thuốc cùng một lúc, vậy thì không chết mới
lạ. Cho nên phải lựa chọn pháp môn, chọn thuốc đúng chứng bệnh, thuốc vào liền
hết bệnh, không phải là uống càng nhiều thuốc càng tốt. Vậy mới gọi là vi diệu
vô thượng.
Khi Phật còn tại thế
thì không có vấn đề gì, Phật là Đại Y Vương, gặp được Phật, Phật nhất định
thuyết pháp cho bạn, bạn nhất định đắc độ. Tại sao vậy? Pháp đó là nói cho bạn,
chắc chắn là đúng bệnh! Hiện nay đức Phật không còn tại thế, phương thuốc để
lại rồi, kinh điển chính là phương thuốc! Phương thuốc này bạn có biết dùng
không? Rất khó nói, vậy thì phải xem là ai kê đơn cho bạn. Ở chỗ này tôi đang
muốn nói với mọi người điều gì? Chính là muốn nói với mọi người, học Phật nhất
định phải tìm được thầy tốt, vị thầy này là “minh sư” chứ không phải là “danh
sư”. Người thầy có ba loại:
–
Thứ nhất là có tu có chứng, đây là người thầy tốt nhất.
–
Thứ hai là có tu chưa chứng, đây là người thầy kém hơn một bậc.
–
Thứ ba là chưa tu chưa chứng, đây là người thầy tự khoe.
Bạn có thể gặp và chọn
lựa người thầy như thế nào, thật sự phải xem vận mệnh và duyên phận của bạn.
Lão pháp sư vận mệnh tốt, duyên phận tốt, gặp được tiên sinh Phương Đông Mỹ,
đại sư Chương Gia, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, trong một đời có thể gặp được ba vị
minh sư, có thể nói là vô cùng may mắn!
Tôi chạm một chút ánh
sáng của lão sư phụ, vận mệnh và duyên phận của tôi cũng không tệ, gặp được
pháp sư thượng Giác hạ Ngộ, Phật sống Lạp Mã Giao, Hương Căn đời thứ 15, lão
pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Đây là ba vị minh sư. Thầy là người kê đơn thuốc
cho bạn, người thầy có tu có chứng giống như bác sĩ. Người thầy có tu chưa
chứng giống như hộ lý. Người thầy chưa tu chưa chứng giống như vị nào thì tôi
không biết. Phương thuốc của bạn là do người thầy như thế nào kê đơn, tôi không
biết. Tệ nhất chính là người như thế này, bái thầy lung tung, dùng thuốc lung
tung. Ai nói gì cũng nghe, ai nói gì cũng tin, ai kê thuốc cũng uống, vậy thì
xong rồi, thật sự xong rồi. Nếu uống xong không chết thì bệnh tình cũng nguy
cấp.
Pháp môn Tịnh độ trong
hết thảy pháp môn mà nói, thật sự có thể coi là pháp dược vi diệu vô thượng.
Chúng ta có duyên gặp được mà không biết nhìn hàng! Bệnh của bạn chỉ cần một
loại thuốc này có thể trị khỏi, nhưng mà bạn nghi ngờ, bạn không tin, bạn nhất
định phải uống một trăm loại, một ngàn loại thuốc không trị bệnh của bạn, bạn
không biết thật giả, không nghe lời khuyên!
Tam khổ có hai cách
nói:
– Cách nói thứ nhất,
tam khổ là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
+ Thứ nhất, việc này
vốn là khổ, gọi là khổ khổ.
+ Thứ hai, việc này
vốn là vui, nhưng một khi bị phá hoại thì liền khổ, đây là hoại khổ.
+ Thứ ba, do hết thảy
đều thay đổi, chuyển hóa không ngừng nghỉ mà sanh phiền não, đây là hành khổ.
– Cách nói thứ hai là
đại sư Gia Tường nói tam khổ là sự khổ trong tam hữu, tam hữu chính là tam
giới: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới.
Tam khổ là nỗi khổ
sanh tử của chúng sanh trong tam giới. Hai cách nói này đều đúng, nhưng cách
giải thích của đại sư Gia Tường rất hợp với tông chỉ của Tịnh độ tông. Đặc điểm
của Tịnh độ tông là khiến chúng sanh ngay nơi thân này thoát khỏi biển khổ sanh
tử. Pháp môn khác muốn thoát khỏi tam giới phải đoạn kiến tư hoặc, đạt đến
trình độ của A-la-hán. Trên thế giới hiện nay tìm được người có thể chứng sơ
quả rất khó, huống hồ là A-la-hán. Chỉ có pháp môn Tịnh độ hoành xuất tam giới,
đây là mang theo “hoặc” vãng sanh, mang theo nghiệp vãng sanh. Không phải bảo
bạn đoạn hoặc, cho nên đây là chỗ vượt trội nhất. cho nên dùng diệu dược đề hồ
vô thượng của pháp môn Tịnh độ là: tín nguyện – trì danh để cứu vớt tất cả
chúng sanh đang trầm luân trong ách nạn biển khổ sanh tử của tam giới, gọi là
“dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ”.
Sự quy kết cao nhất,
rốt ráo nhất, viên mãn nhất đó chính là câu Phật hiệu này, pháp môn niệm Phật.
Pháp môn này gọi là thuốc a-già-đà, trị tất cả bệnh, không phải là một loại
thuốc trị một loại bệnh, đây là một loại thuốc trị tất cả bệnh. Tám vạn bốn
ngàn sự khổ, một câu Phật hiệu có thể trị; vô lượng khổ, một câu Phật hiệu cũng
có thể trị. Chúng ta phải tin tưởng điều này là thật, không được có chút hoài
nghi nào thì chúng ta mới có được thọ dụng thực sự.
Nói lời chân thật cho bạn nghe.
Nghe hiểu một câu liền
thọ dụng.
Nếu như một câu cũng
không hiểu.
Không duyên không phận
đợi kiếp sau.
Kiếp sau có được thân
người không?
Phải tự nhắc nhở bản
thân mình.
Tiết học hôm nay giao
lưu tới đây thôi. Cảm ơn mọi người, A-di-đà Phật!