PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG
GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ
hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 21/11/2020
Địa điểm: Tiểu viện
Lục Hòa
Tập 2
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người. A-di-đà Phật!
Từ
hôm nay trở đi, chúng tôi chính thức bắt đầu phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ
lần thứ hai. Tôi vô cùng vui mừng muốn nói cho mọi người biết, lúc
tôi viết bản thảo bài giảng tập 1, lại một lần nữa cảm nhận được sự
gia trì từ oai thần của chư Phật Như Lai, cảm nhận được sự thân thiết chân
thực này khiến tôi vui mừng phấn khởi, tín tâm tăng gấp bội. Tôi tin
chắc có sự từ bi gia trì của mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như
Lai, có sự từ bi che chở của thiên long hộ pháp và chư thiện thần hộ
pháp, có sự hộ trì mạnh mẽ của đoàn thể hộ pháp nhìn thấy được và
không nhìn thấy được ở đạo tràng, có sự ủng hộ và khích lệ của đông đảo
đồng tu, lần thứ hai phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ nhất định sẽ thành
công viên mãn. Đem công đức giảng kinh này hồi hướng cho sư
phụ, cầu nguyện sư phụ trụ thế độ chúng sanh, đây là động lực lớn
nhất giúp tôi phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai. Hôm nay bắt
đầu giảng đề kinh.
Lần
đầu tiên phúc giảng vào năm 2018 tôi đã giảng qua đề kinh này, lần
này tôi vẫn phải giảng, tại sao vậy? Không chỉ kinh văn có vô lượng ý
nghĩa, mà đề kinh cũng có vô lượng ý nghĩa. Vô lượng ý nghĩa này có
giảng vô lượng kiếp cũng giảng không hết. Lần này chúng ta từ một góc độ
khác, từ một cấp bậc khác giải thích đề kinh này, mục đích là giúp
cho quý vị đồng tu có sự lý giải và nhận thức càng phong phú, càng sâu sắc
hơn đối với đề kinh này. Đối với kinh văn, có giảng sâu, có giảng
cạn; đối với đề kinh cũng như vậy, có giảng sâu, có giảng cạn. Như
vậy thì chúng sanh căn tánh khác nhau, cấp bậc khác nhau đều có được
thu hoạch, có được lợi ích trong đó, chứ không ra về tay trắng.
“Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”
Đề
kinh này “độc cụ đặc sắc”. Độc cụ chính là độc nhất vô nhị, đặc sắc
chính là khác biệt với các bộ kinh khác.
Điểm
đặc sắc thứ nhất: đề kinh của bản kinh này là do hội tập mà thành. Kinh
văn trong bộ kinh này là hội tập, đề kinh cũng là hội tập, là bản hội
tập danh xứng với thực.
Điểm
đặc sắc thứ hai: trình độ hội tập đề kinh này khiến người tán thán chẳng
ngớt. Hội tập vô cùng tự nhiên, không chê vào đâu được, thật đúng là
bút tích như thần.
Kinh
Vô Lượng Thọ tổng cộng có mười hai bản dịch. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư không
lấy đề kinh của bản dịch thời Tống là “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Kinh” mà lấy một đề kinh khác là “Phật Thuyết Đại Thừa
vô lượng thọ trang nghiêm”, sau đó lại lấy đề kinh của bản dịch thời Hán
là “Thanh tịnh bình đẳng giác kinh”. Kết hợp lại thành “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang
Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”, đề mục này đặt hay biết
bao! Mười hai bản dịch, bản dịch thời Hán là bản dịch sớm nhất, bản
dịch thời Tống là bản sau cùng, hội tập đề kinh của hai bản dịch này thành
một, ý nghĩa đề kinh của mười hai bản dịch đều viên mãn hàm nhiếp ở
trong đó. Thật sự là quá vi diệu, quá tuyệt vời. Nếu như không phải
là người tái lai thì ai có thể hội tập đề kinh cực kì hay như vậy!
Điểm
đặc sắc thứ ba: y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc đã
hiển lộ rất rõ ràng ở trong đề kinh. Điều này thật đáng quý! Nội đề
kinh thôi cũng đã thu hút người khác, nơi tốt như vậy ai mà không muốn
đi! Đề kinh này chẳng khác nào là thể lệ chiêu sinh của thế giới Tây
Phương Cực Lạc.
Điểm
đặc sắc thứ tư: những gì chúng ta học, chúng ta tu, chúng ta hy vọng chứng
đắc, toàn bộ đều nằm trong đề kinh này. Khiến chúng ta vừa đọc đề
kinh này sẽ thấy một cảm giác rất thân thiết. Đặc biệt là đối với
những đồng tu tu học pháp môn Tịnh độ niệm Phật mà nói, quý vị có cảm
giác đang trở về nhà không? Tôi sẽ giải thích cụ thể một chút đề kinh
này. Có thể chia làm tám đoạn để giải thích:
Thứ nhất là “Phật”.
Chữ đầu tiên trong đề kinh là “Phật”. “Phật” là dịch âm từ
tiếng Phạn của Ấn Độ, là tên gọi tắt của Phật-đà trong tiếng Phạn. Trong
chữ Hán của Trung Quốc vốn không có chữ Phật này, sau khi Phật pháp truyền
đến Trung Quốc, phiên dịch kinh Phật, lúc đó văn tự của Trung Quốc không
đủ dùng, có rất nhiều ý nghĩa mà trong từ vựng của chúng ta không
có, vì thế đã tạo ra không ít chữ mới để phù hợp với nhu cầu phiên
dịch kinh điển. Chữ Phật chính là từ mới tạo ra. Chữ Phật không có bộ
nhân bên cạnh là chữ thời xưa, trước đó đã có rồi, âm đọc khá
giống. Người Ấn Độ gọi Phật là bậc đại giác, cho nên mới mượn chữ
Phất này, thêm một chữ nhân bên cạnh thì trở thành chữ “Phật”, trở
thành danh từ chuyên dùng cho Phật giáo. “Phật là bậc giác ngộ”, giác
là đối với mê mà nói, mê tức là chúng sanh. Ba giác viên mãn thì gọi là
Phật-đà. Phật có nghĩa là “trí”, cũng có ý nghĩa là “giác”, trí là
thể, giác là dụng. Không có trí tuệ thì không giác, không có trí tuệ
thì mê hoặc điên đảo. Thể và dụng không hai, dụng đương nhiên bao hàm
thể. Ý nghĩa của Phật chính là bậc giác ngộ, là bậc giác ngộ cứu cánh
viên mãn thấu triệt vũ trụ nhân sinh. Đối với bổn thể, hiện tượng,
tác dụng, quá khứ, hiện tại, vị lai của nhân sinh không gì không
giác, chẳng chút mê hoặc. Người như vậy, mọi người tôn xưng ngài là
Phật. Hay nói cách khác, Phật là chúng sanh có đầy đủ viên mãn ba
loại giác, chúng sanh là Phật chưa giác.
“Giác” có ba loại: thứ nhất là “tự giác”, thứ hai là “giác
tha”, thứ ba là “giác mãn”. “Tự giác” là nói phàm phu chưa giác ngộ
như chúng ta. Phàm phu mê hoặc điên đảo là chưa giác. Phàm phu
trong lục đạo, không chỉ là cõi người, mà bao gồm chư thiên. Kinh
Phật nói có 28 tầng trời, chia làm Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc
giới. Thiên nhân trong 28 tầng trời này đều mê mà chưa giác. Quý
vị đồng tu, quý vị nhất định không nên cho rằng “tôi giác, tôi không
mê”, quý vị làm sao lại không mê? Chỉ dựa vào câu nói này của quý
vị cũng đủ thấy quý vị vô cùng mê rồi. Thiên nhân còn mê hoặc
điên đảo, những cõi dưới cõi trời thì càng không cần nói tới, càng mê
sâu hơn!
Người như thế nào mới
không mê? Phật nói, chứng quả A-la-hán mới được xem là không mê, là
tứ quả La-hán của Tiểu thừa. Trong Đại thừa thường nói rằng, thực sự
không mê là từ Sơ trụ trở lên. Bồ-tát Sơ trụ phá một phẩm vô minh, thấy
một phần chân tánh, thật sự không mê, thật sự giác rồi. Hôm nay chúng
ta đặt tiêu chuẩn thấp nhất, đó là Tiểu thừa tứ quả La-hán, đoạn hết
kiến tư phiền não mới được xem là tự giác, giác ngộ, không còn mê
hoặc. Trong kinh đức Phật nói với chúng ta, nhất định phải chứng đắc
tứ quả La-hán mới có thể tin vào tư tưởng, kiến giải của chính mình
không có sai lầm. Hay nói cách khác, [người chứng] tam quả không dám nói
rằng cách nhìn, cách nói của tôi không sai. Chứng đắc tứ quả La-hán
mới có thể nói tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi của chính
mình không có sai lầm. Có thể thấy tiêu chuẩn này thực sự
cao, nếu như chúng ta biết chính mình mê hoặc điên đảo, biết chính
mình không giác thì có sự trợ giúp rất lớn đối với tu học. Biết sai
là cái gốc để sửa sai, chính mình biết khiêm tốn, biết chính mình chưa
được cho nên phải nghiêm túc nỗ lực tu học. Người trên thế gian tại
sao lại xem thường Phật pháp? Tại sao lại không muốn học Phật? Chính
bởi vì họ cho rằng bản thân rất giỏi rồi, sự thông minh tài trí của họ đã vượt
xa mọi người, thậm chí cho rằng trí tuệ năng lực của họ vượt hơn chư
Phật Bồ-tát. Tư tưởng kiến giải như vậy thì họ làm sao có thể tiếp
nhận thánh giáo của chư Phật Bồ-tát! Đây là sự khác biệt của giác và không
giác.
Kinh Viên Giác nói rằng,
hết thảy chúng sanh vốn dĩ là Phật, nhưng vì mê mất chính mình mà trở
thành phàm phu. Phật thuyết pháp 49 năm, không ngoài dạy chúng ta
khôi phục bổn lai diện mục, phá bỏ mê hoặc của chính mình mà thôi. “Viên mãn Bồ-đề rồi, rốt cuộc không có gì
đạt được”.
Thứ hai là “giác tha”. Giác tha để phân biệt với người tự
giác. Thánh giả Tiểu thừa là Tự giác, không chịu giác tha, chỉ lo hoàn
thiện bản thân, không quan tâm người khác, tâm lượng nhỏ, tâm từ bi
nhỏ, nếu như quý vị có duyên tìm họ, họ cũng chịu dạy quý
vị; nếu vô duyên thì họ sẽ không giúp đỡ. Bồ-tát Đại thừa tự giác
giác tha, làm người bạn không mời, tâm lượng lớn, chủ động hoằng
pháp, không sợ cực khổ. Chính mình giác ngộ, chính mình đạt được lợi
ích thật sự của Phật pháp, còn phải giúp đỡ người khác, hi vọng ai
cũng có thể đạt được, đây là Bồ-tát Đại thừa. Không giống như Bồ-tát
Tiểu thừa, có thể chủ động đi giúp người khác, tuyệt đối không tự tư
tự lợi. Bồ-tát Đại thừa giác hạnh còn chưa viên mãn, sau khi viên mãn
thì liền thành Phật.
Thứ ba là “giác mãn”. Bồ-tát mặc dù tự giác giác tha, nhưng
chưa viên mãn, không chỉ giác tha chưa viên mãn mà tự giác cũng chưa
viên mãn. Người Tiểu thừa tự giác, chỉ là đoạn trừ kiến tư phiền
não; vẫn chưa phá trần sa, vô minh. Bồ-tát mặc dù có thể phá trần sa,
có thể đoạn trừ vô minh, nhưng vô minh không thể đoạn trừ tận gốc cho nên
chưa viên mãn. Vô minh tổng cộng có 41 phẩm, phá một phẩm chính là
Pháp thân Đại sĩ. Cho nên nghiêm túc mà nói, trong pháp Đại
thừa, Bồ-tát có 41 giai vị. 41 phẩm vô minh phá được hết thì giác hạnh
viên mãn. Giác mãn chính là chứng Phật quả rốt ráo. Cho nên chữ Giác
có ba ý nghĩa, chính là ba quả vị tu học trong Phật pháp, ba loại
thành tựu. Ví dụ như trường đại học hiện nay có ba học vị, cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ. Tự giác chứng quả vị A-la-hán, cũng giống như cử
nhân; giác tha chứng quả vị Bồ-tát, giống như thạc sĩ; giác mãn là đã
viên mãn, chứng được quả vị Phật, cũng giống như tiến sĩ, không còn
quả vị nào cao hơn nữa, đây là quả vị cao nhất trong nhà Phật. Chữ
Phật trong đề kinh chính là Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Ngài đã
chứng được quả vị cứu cánh, đó là tự giác, giác tha viên mãn, chúng
ta tôn xưng ngài là Phật. Thích-ca Mâu-ni Phật là danh hiệu của
ngài. Chư Phật Bồ-tát vốn không có danh hiệu. “Tên có thể gọi được không phải là tên thường hằng; Đạo có thể nói
được không phải đạo thường hằng”, Bồ-tát làm gì có danh
hiệu? Kiến lập danh hiệu của chư Phật Bồ-tát không giống với người
thế gian chúng ta đặt tên. Người thế gian đặt tên đều là kì vọng
chính mình, hi vọng tương lai danh xứng với thực. Danh hiệu của chư
Phật Bồ-tát là đại biểu cho tôn chỉ giáo hóa của các ngài. Cũng giống
như dạy học ở trường, bạn dạy ngữ văn, mọi người gọi bạn là giáo viên dạy
văn; bạn dạy toán học, mọi người gọi bạn là giáo viên dạy toán. Thêm
danh hiệu liền biết bạn dạy môn nào. Đức Phật là hiệu trưởng, Bồ-tát là
giáo viên, hiệu trưởng phải đại biểu cho toàn bộ tôn chỉ giáo
dục. Thời đại của Thích-ca Mâu-ni Phật cũng là thời đại mà ngài giáo
hóa, cũng chính là giai đoạn trước mắt. Chúng sanh hiện nay không có
tâm yêu thương, không có tâm đồng cảm, tự tư tự lợi. Cho nên tôn chỉ
giáo dục của đức Phật phải dùng chữ “Thích-ca”. Thích-ca là tiếng Phạn, có
nghĩa là nhân từ.
Phật giáo chính là dạy con người coi trọng nhân từ, năng
nhân, đối đãi chúng sanh phải nhân từ. Đối với chúng ta mà
nói, thói quen xấu lớn nhất chính là tán loạn, từ sáng đến tối nghĩ
ngợi lung tung. Đây là nguồn gốc căn bệnh lấy mạng chúng ta! Tôn chỉ
giáo dục của đức Phật, đối với chính mình phải “Mâu-ni”. Hai chữ “Mâu-ni”
này, dùng lời hiện nay mà nói tức là tâm địa thanh tịnh, dịch thành
“tịch tĩnh”. Thích-ca Mâu-ni chính là “nhân từ thanh tịnh”. Có thể
thấy tôn chỉ giáo dục của đức Phật hoàn toàn được tỏ rõ ở trong danh hiệu.
Ý nghĩa của Thích-ca
Mâu-ni chúng ta hiểu rồi, phía trước tại sao lại phải thêm vào hai chữ
“Bổn sư”? Bởi vì giáo dục Phật giáo trong giai đoạn này là do ngài
lập ra, ngài là người thầy hướng dẫn sớm nhất của chúng ta, cho nên
chúng ta cũng gọi ngài là “vị thầy căn bản”. Từ trên xưng hô này chúng ta
hiểu được, Phật giáo là giáo dục mà Thích-ca Mâu-ni Phật dùng để dạy
hết thảy chúng sanh, Phật giáo không phải là tôn giáo. Kinh Vô Lượng
Thọ là bộ kinh mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai tận
thuyết, phải chú ý! Cái gì gọi là tận thuyết? Tức là không có một vị
Phật nào mà không tuyên thuyết. Do đó mà chữ Phật trong đề kinh cũng
biểu thị mười phương ba đời hết thảy chư Phật [thuyết], chứ không phải chỉ
một mình Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết. Chữ Phật này hàm nghĩa sâu rộng vô
tận. Chúng ta tạm nói tới đây thôi.
Thứ hai là chữ
“Thuyết”.
“Duyệt là vui mừng
được như lòng mong mỏi. Phật lấy việc độ sanh làm nguyện, nay chúng sanh
cơ duyên chín muồi, có thể tiếp nhận đại pháp Tịnh độ, rốt ráo giải
thoát, nên đã thỏa mãn tâm nguyện của ngài”.
Giải thích cho đoạn này như sau: chữ “thuyết” và chữ
“duyệt” trong từ “hỷ duyệt”, vào thời xưa là cùng một chữ, hiện nay
gọi là chữ đa âm. “Thuyết” nghĩa là hỷ duyệt. Nếu như ngài không hoan
hỷ thì sẽ không nói. Bởi vì ngài hoan hỷ cho nên mới nói với chúng
ta, hơn nữa còn nói một cách chi tiết rõ ràng. Không phải có câu nói
như thế này hay sao? “Nói chuyện không hợp nửa câu cũng là
nhiều”, nhất định là khi vô cùng hoan hỷ mới nói nhiều như
vậy. Thuyết pháp có nghĩa là “duyệt sở hoài”. Hoài là nguyện vọng
trong lòng. Nguyện vọng sắp được thực hiện, cuối cùng cũng đợi được
đến ngày này, làm sao mà không hoan hỷ cho được! Nguyện vọng của Phật
là độ hóa chúng sanh, dạy dỗ chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được
vui. Giáo hóa chúng sanh là nguyện vọng duy nhất của đức Phật, chú ý
hai chữ duy nhất này. Thầy muốn dạy nhưng chúng sanh không chịu
học, vậy thì hết cách. Đức Phật muốn dạy chúng sanh, ngài có tâm tốt
này nhưng chúng sanh không chịu tiếp nhận, cũng là uổng công. Học
sinh nhất định phải hoan hỷ tiếp nhận thì thầy cô mới hoan hỷ dạy học, đây
gọi là “thầy trò đạo hợp”. Đây là chuyện vui nhất trên đời. Niềm vui
này không phải người thông thường có thể hiểu được. Người xưa có
câu: “Gặp và được dạy anh tài trong
thiên hạ là niềm vui”. Hiện nay đức Phật nhìn thấy cơ duyên của chúng
sanh đã chín muồi, hoan hỷ tiếp nhận, đặc biệt là có thể tiếp nhận
giáo học Tịnh độ, đức Phật thật sự là hoan hỷ không gì bằng.
Trong kinh Vô Lượng Thọ chúng ta thấy được, trong cuộc đời
của đức Phật, ngài giảng bộ kinh này cảm thấy vui vẻ hơn so với giảng bất
kì bộ kinh gì khác, thực sự là niềm vui thù thắng không gì sánh
được. Tại sao vậy? Bởi vì bộ kinh này là “hết thảy chúng sanh
ngay đời này thành tựu cứu cánh giải thoát”. Câu nói này quá quan
trọng, chúng ta chia làm ba đoạn để giảng, hết thảy chúng sanh là phạm
vi; đời này thành tựu là thời gian; cứu cánh giải thoát là Phật quả
viên mãn. Không so sánh thì không biết, vừa so sánh mới biết được bộ
kinh này thật tuyệt diệu, đúng là tuyệt không thể tả! Những kinh điển
khác, giải thoát không rốt ráo. Đừng nói đâu xa, kinh Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa là nhất thừa cứu cánh giải thoát, nhưng mà phải có điều
kiện, bạn phải là bậc thượng thượng căn mới được, người có căn tánh
thông thường không thể tu học.
Bậc thượng thượng căn tu học có thể đạt được quả vị pháp
thân Bồ-tát, [nhưng] không thể thành Phật. Nếu như niệm Phật vãng
sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, không bao lâu sau liền có thể viên
mãn thành Phật. Cho nên pháp môn niệm Phật mới thực sự giải
thoát. Kinh Hoa Nghiêm nếu như không có thập đại nguyện vương ở sau
cùng dẫn về Cực Lạc thì Hoa Nghiêm sẽ không cứu cánh. Cho nên, trong
hết thảy kinh điển bộ kinh này thù thắng không gì bằng. Hiện nay, đức
Phật thấy cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi, có thể tiếp nhận pháp môn
này, đức Phật vui mừng biết bao! Vô lượng kiếp tới nay, ngài chỉ đợi
ngày này, cuối cùng cũng đợi được, ngài vui vẻ biết bao! “Vì thế, nay mới vui vẻ nói ra, thỏa mãn tâm
nguyện của mình”, bổn nguyện của ngài đã đạt được.
Đại sư Ngẫu Ích có chú giải chữ “thuyết” này trong “Yếu
Giải”. “Yếu Giải” là chú giải của kinh A-di-đà. Kinh A-di-đà và kinh
Vô Lượng Thọ là cùng một bộ kinh, do đó chú giải kinh A-di-đà hoàn
toàn có thể dùng cho kinh Vô Lượng Thọ. Ngài giải thích chữ thuyết trong
đề kinh “Phật Thuyết A-di-đà Kinh” như thế này, “Phật lấy việc độ sanh làm nguyện vọng, cơ
duyên chúng sanh thành Phật đã chín muồi”, so sánh với câu “ngày nay cơ duyên của chúng sanh đã chín
muồi” vừa nói phía trước, thì giữa “chúng sanh” và “cơ duyên chín
muồi” ngài thêm hai chữ “thành Phật”, thể hiện cơ duyên thành Phật
của chúng sanh đã chín muồi. “Vì thuyết
pháp môn khó tin, khiến được cứu cánh giải thoát, nên hoan hỷ vậy”. Chân
thật cứu cánh viên mãn như đại sư Ngẫu Ích đã nói, trong chú giải kinh Vô
Lượng Thọ nói càng triệt để rõ ràng. Pháp môn niệm Phật là nói cho
người cơ duyên thành Phật đã chín muồi, đương nhiên người có thể tin tưởng
pháp môn niệm Phật này rất ít, là “pháp khó tin” mà, chúng sanh cơ
duyên thành Phật chưa chín muồi sẽ không tin pháp môn này, chuyện này
không có gì làm lạ. Thử nhìn những người xung quanh chúng ta, có
giống dáng vẻ sắp thành Phật hay không? Không giống, tự nhiên họ sẽ không
phải là người có cơ duyên với pháp môn niệm Phật. Pháp môn niệm
Phật là nói cho người có cơ duyên thành Phật chín muồi. Chúng ta hỏi
lại chính mình, có phải là sắp thành Phật hay không? Quý vị đồng tu,
có vị nào giống dáng vẻ sắp thành Phật không? Cho nên đây là pháp môn khó
tin, thật sự khó tin! Pháp môn niệm Phật, người tin tưởng ít cũng là
chuyện đương nhiên. Người một đời này có thể thành Phật đích thực không
nhiều, nhưng mà người có duyên với pháp môn niệm Phật rất nhiều, kết
pháp duyên này, đời này không thành tựu thì đợi đời sau. Phải đợi đến
khi nào thì cũng khó mà nói được, có thể là vô lượng kiếp về sau mới
có cơ hội gặp lại. Trong kinh nói rằng, trong vô lượng kiếp chúng ta
từng cúng dường vô lượng vô số chư Phật Như Lai, thiện căn sâu dày như
vậy, hiện nay còn phải nhờ Tam bảo âm thầm gia trì mới có cơ duyên
gặp được. Nếu không làm sao có thể gặp được? Cho nên chúng ta phải
trân trọng cơ duyên này, phải nắm chắc cơ duyên này, quyết định thành
tựu ở đời này.
Từ hôm nay trở đi, chúng ta phải làm Phật! Không làm chuyện
khác nữa, chỉ muốn thành Phật. Không phải có câu nói như vậy hay
sao? “Tâm tưởng sự thành”, trong
tâm chúng ta nghĩ thành Phật, đương nhiên sẽ thành Phật, nghĩ thành
Bồ-tát sẽ thành Bồ-tát. Đây chính là câu trong Phật pháp nói “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Vũ
trụ vạn pháp từ đâu mà có? Chính là do chúng ta tưởng tượng mà
ra. Trong tâm nghĩ cái gì thì sẽ hiện ra cái đó, cho nên nghĩ Phật
thì hiện Phật, nghĩ tam ác đạo thì hiện tam ác đạo. Kinh Vô Lượng Thọ
là Thích-ca Mâu-ni Phật vì chúng sanh có cơ duyên thành Phật chín muồi mà
thuyết. Bạn có phải là người có cơ duyên thành Phật chín muồi không?
Ba là “Đại thừa”.
“Đại thừa là tỉ dụ,
thừa là nghĩa chuyên chở. Kinh này nêu ra, tâm có thể niệm, vốn dĩ là
Phật, là chủ thể chở vô lượng. Khởi tâm niệm Phật, niệm niệm làm
Phật, nên đối tượng chở cũng là vô lượng, do đó miễn cưỡng gọi là Đại
thừa”.
Thừa là công cụ giao thông vận chuyển. Đại thừa trong kinh
là ví dụ. Danh từ “Đại thừa” là bất đắc dĩ miễn cưỡng lập
ra, nên mới nói là “miễn cưỡng gọi”. Phật pháp là pháp bình đẳng,
không có lớn nhỏ. Đại thừa Tiểu thừa là danh xưng được giả thuyết lập
ra từ vô số phân biệt chấp trước của chúng sanh, giúp người sơ học dễ
dàng hiểu được. Pháp Đại thừa là đạo pháp mà Bồ-tát tu học. Lấy cứu
thế lợi tha làm tôn chỉ, quả vị cao nhất là Phật quả.
Đại thừa là để thuyết cho Tiểu thừa, người theo Tiểu thừa
chỉ cầu lợi ích cho chính mình, mà không có tâm từ bi với người
khác. Đại từ đại bi sanh ra từ tâm bình đẳng, tâm Phật là bình
đẳng, đức Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết pháp, lúc đức
Phật còn tại thế, bất kì người nào gặp Phật cũng đều có được lợi
ích. Tâm mà có thể niệm của chúng ta vốn là Phật. Phật chính là tâm,
tâm chính là Phật. Ý nghĩa của Phật là giác, tâm giác ngộ là
Phật, Phật có nghĩa là giác ngộ. Ai giác ngộ? Tâm giác ngộ! Tâm
mê là chúng sanh, giác ngộ rồi là Phật, cho nên chúng sanh và Phật
bình đẳng, đều là do tâm mà ra. Tâm có giác mê không? Tâm không có
giác mê, là người có giác mê. Giác ngộ rồi thì tâm của chúng ta gọi là
Phật; mê hoặc thì tâm của chúng ta gọi là chúng sanh. Thực ra trong
chân tâm không có Phật, cũng không có chúng sanh, không có giác, cũng
không có mê. “Trong Thường Tịch Quang không có một vật”. Chúng ta
lắng lòng thể hội, “tâm mà có thể niệm ấy vốn là Phật”, ý nghĩa của
câu này rất sâu. Có thể niệm A-di-đà Phật, tâm này chính là tâm
giác. Không niệm A-di-đà Phật, tâm này là tâm mê. Quý vị muốn
hỏi, tâm của tôi lúc nào mới có thể giác ngộ? Niệm A-di-đà Phật liền
giác ngộ. Lúc nào thì mê? Không niệm A-di-đà Phật liền mê. Đây
là sự thực vô cùng chính xác.
Cổ đức nói “khởi tâm niệm Phật” là thỉ giác, bắt đầu giác
ngộ; “vị Phật được niệm” chính là A-di-đà Phật mà chúng ta niệm, là
bổn giác của chúng ta. Khởi tâm niệm Phật là thỉ giác và bổn giác hợp
nhất lại. Thỉ giác và bổn giác không hai, cùng là giác, cho nên nói, “một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm
niệm tương ưng niệm niệm Phật”, niệm Phật thì thành Phật! Bạn
quên mất Phật thì liền mê hoặc, liền điên đảo. Vì vậy, câu Phật hiệu
này ngày đêm sáu thời chắc chắn không được quên. Đại sư giải thích
“Đại thừa” theo ý này là viên mãn đến cực điểm. Tâm mà có thể niệm ấy
là chủ thể chở vô lượng. Phật mà chúng ta niệm, A-di-đà Phật là cứu cánh
giác, đây là đối tượng chở vô lượng. Cho nên cổ đức nói
rằng, pháp môn niệm Phật là Đại thừa trong Đại thừa, viên mãn trong
viên mãn, chuyên trong chuyên, thật sự không thể nghĩ bàn!
Bốn là “Vô Lượng
Thọ”.
“Vô Lượng Thọ” hàm nghĩa vô lượng. Chữ “A” trong tiếng Phạn
dịch thành “Vô”, “Di-đà” dịch thành “Lượng”. “Vô Lượng” là chỉ hết
thảy vô lượng, trí tuệ, đức năng, tài nghệ, thọ mạng đều là vô
lượng, đều vốn có đầy đủ. Lục Tổ khi khai ngộ dưới hội của Ngũ Tổ đã
nói rằng: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
đầy đủ, nào ngờ tự tánh, có thể sanh vạn pháp”. Vô lượng mà chúng
ta cầu mong thì thọ mạng là đứng đầu, nếu như tuổi thọ ngắn thì không
thành tựu được việc gì, cho nên chữ thọ trong Vô Lượng Thọ mang tính đại
biểu.
Phạn ngữ A-di-đà, ba chữ mật ngữ A-di-đà bao hàm vô lượng ý
nghĩa. Hiện nay dịch thành Vô Lượng Thọ là dùng một nghĩa trong
đó, “đức hiệu này nêu rõ nguyện hạnh khi ở nhân địa của ngài Pháp
Tạng cùng với quả địa Phật đức, nêu rõ chủ khách là y báo và chánh báo ở
cõi Cực Lạc, khi vừa nói ra liền thâu nhiếp hết tất cả”, toàn bộ đều
bao hàm trong đó.
Trong đề kinh, ba chữ Vô Lượng Thọ là chủ, quan trọng
nhất là ba chữ này. Phạn ngữ A-di-đà phiên dịch thành Vô Lượng
Thọ. Ba chữ A-di-đà là mật ngữ, cũng là mật chú, là chú trong
chú. Có người hỏi, người niệm Phật có cần niệm chú Lăng Nghiêm, chú
Đại Bi, chú Vãng Sanh v.v… hay không? Nên biết A-di-đà Phật là vua trong
các chú, niệm A-di-đà Phật thì không cần niệm những chú kia nữa, đều
bao hàm trong câu Chú Vương rồi. Bạn niệm những chú kia không thể bao
hàm A-di-đà Phật; nhưng bạn niệm A-di-đà Phật thì đều bao hàm những
thần chú kia, là thần chú vô thượng, vô thượng đó! Phần cuối trong
Tâm Kinh có câu “là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú,
là vô đẳng đẳng chú, có thể trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư”, chính
là nói A-di-đà Phật, không cần đi tìm cái khác, danh hiệu Di-đà đã là
vô thượng thần chú rồi. Danh hiệu bao hàm vô lượng nghĩa.
“Hiện nay dịch là Vô Lượng Thọ, là dùng một nghĩa chủ yếu trong
đó”, trên thực tế, trong danh hiệu A-di-đà Phật bao hàm vô lượng thọ
mạng, vô lượng quang minh, vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô
lượng tài nghệ, hết thảy vô lượng đều được bao gồm bên trong. Thảy
đều là vô lượng vô biên. Trong vô lượng vô biên, vô lượng nào quan
trọng nhất? Đương nhiên là thọ mạng quan trọng nhất. Nếu như không có
thọ mạng, cho dù có vô lượng tài phú thì ai được hưởng? Cho nên,
trong hết thảy vô lượng, thọ mạng đứng đầu. Lấy nghĩa đứng đầu
này, quan trọng nhất là vô lượng thọ thực sự, vô lượng thọ chính cống. Cũng
có đồng tu xem kinh điển rồi nói, tương lai pháp duyên Phật pháp của
A-di-đà Phật hết rồi thì ngài cũng nhập Niết-bàn, Quán Thế Âm Bồ-tát
tiếp đó thành Phật. Nói như vậy thì thọ mạng của A-di-đà Phật vẫn là
có hạn. Làm sao có thể gọi là Vô Lượng Thọ? Đúng vậy, trong kinh điển
Phật thực sự có nói như vậy, sau khi Quán Thế Âm Bồ-tát diệt độ, Đại
Thế Chí Bồ-tát tiếp đó thành Phật. Nhưng mà thọ mạng của A-di-đà
Phật, bạn tính thử mà xem, có thể tính được không? Trong kinh điển
Phật nói rằng, nếu như mười phương chúng sanh đều chứng đắc quả vị
Bích-chi Phật, thần thông như Mục-kiền-liên đều cùng nhau tính
toán, dùng hết thọ mạng cũng chưa tính ra được. Nên chỉ đành nói là
Vô Lượng, thật sự là Vô Lượng Thọ.
A-di-đà Phật có thật sự nhập diệt hay không? Trong kinh nói
rằng “đối với hàng trung căn và hạ căn thị hiện diệt độ”. Trong cảm nhận
của bậc thượng căn, Phật không hề diệt độ; thị hiện diệt độ là để cho
người trung hạ căn thấy mà thôi. Có thể thấy diệt độ là thị hiện, không
phải là thật, thật sự là vô lượng thọ. Cho nên chúng ta không nên
hoài nghi, không nên vọng tưởng. “Đức hiệu này nêu rõ nguyện hạnh khi
ở nhân địa của ngài Pháp Tạng cùng với quả địa Phật đức, nêu rõ chủ khách
là y báo và chánh báo ở cõi Cực Lạc, một khi vừa nói ra liền thâu nhiếp
hết tất cả”, toàn bộ thế giới Tây Phương Cực Lạc, một câu A-di-đà
Phật đều bao gồm hết thảy, không có pháp nào vượt ra ngoài pháp
này. Bộ kinh này, câu nào từ nào cũng được hàm nhiếp trong câu
A-di-đà Phật, cũng không thể nào thoát ra khỏi phạm vi của câu A-di-đà Phật. Không
chỉ là bộ kinh này, Tây Phương, thậm chí là tận hư không khắp pháp
giới, hết thảy y chánh trang nghiêm nơi cõi nước của chư Phật, hết
thảy vạn pháp đều không ở ngoài phạm vi một câu A-di-đà Phật. Vậy mới
biết được, công đức lợi ích của câu danh hiệu này thật không thể nghĩ
bàn.
Pháp môn niệm Phật, mặc dù nhìn thì rất thuận tiện, rất đơn
giản, chỉ cần niệm một câu Phật hiệu A-di-đà Phật, vừa dạy là biết,
thường niệm sẽ quen. Nhưng muốn niệm cho tốt, niệm được nhất tâm bất
loạn, niệm được Tam-muội thành công thì không hề dễ dàng, cần có
một quá trình. Cũng giống như chúng ta cầm một sợi chỉ, xỏ qua 108
hạt chuỗi để gắn chúng lại với nhau, không được để đứt đoạn. Niệm
Phật cũng phải như vậy, niệm niệm tiếp nối, không được gián đoạn. Nhà
thơ nổi tiếng Bạch Cư Dị thời nhà Đường, mọi người thường rất quen
thuộc. Ông ấy tu pháp môn niệm Phật vô cùng thành khẩn, ông ấy nói
như thế này, tôi đọc nguyên văn những gì ông ấy nói như sau:
“Tuổi ta bảy mươi hai,
thơ phú nghĩ ngâm nga.
Xem kinh mau mỏi mắt,
làm phước ngại bôn ba.
Lấy gì độ tâm ta? Một
câu A-di-đà.
Đi cũng A-di-đà, đứng
cũng A-di-đà.
Ngồi cũng A-di-đà, nằm
cũng A-di-đà.
Dù gấp như tên bắn,
cũng không rời Di-đà.
Trời chiều đường còn
xa, đời luống qua vô ích.
Sớm chiều tâm thanh
tịnh, chỉ niệm A-di-đà”.
Đây chính là một đoạn thoại của đại thi nhân Bạch Cư
Dị, ông ấy đã niệm Phật như vậy. Nếu như chúng ta niệm Phật có
thể giống như Bạch Cư Dị, thành tâm thành ý buông xuống hết thảy, trì
danh niệm Phật thì không ai không thành tựu, đây gọi là niệm niệm
không quên, nhất tâm niệm Phật. Tôi từng đọc qua một bài thơ, gọi là
“thơ đi đứng nằm ngồi, bốn thời niệm Phật”. Bây giờ chép ra chia sẻ
với quý vị đồng tu. Đi đứng nằm ngồi chia làm bốn đoạn:
Khi đi niệm Phật
“Khi đi nhất tâm niệm
Di-đà, mỗi bước là thêm một câu qua,
Dưới chân thời thời
dạo Tịnh độ, trong tâm niệm niệm thoát Ta-bà.
Cảnh xuân tươi đẹp
phải quay đầu; du sơn ngoạn thủy đừng buông thả
Đợi bạn sanh về nơi
Cực Lạc; tùy ý mười phương muốn tới lui”.
Đây là đi niệm Phật.
Tiếp theo là đứng Khi
đứng niệm Phật
“Lúc đứng niệm Phật dễ
quán thân, nhất chân đó trong thân tứ đại,
Ta cùng Di-đà không
sai khác, hình bóng trăng sáng đúng ba người.
Phòng trống sắp mục
nên khó ở, Tịnh độ tuy xa sanh nhưng dễ sanh,
Ngày nào mới như ve
thoát xác, đầu thai liên hoa đắc kim thân”.
Đây là đứng niệm Phật.
Khi ngồi niệm Phật
“Lúc ngồi niệm Phật
chân xếp bằng, thân ở đài sen hoa đang nở,
Hào tướng rõ ràng tùy
niệm thấy, kim dung ánh hiện hợp với tâm.
Sự như mộng huyễn vốn
không tịch, lý được viên dung chẳng có không,
Ngày nào liên trì nâng
chân Phật, đề hồ quán đảnh rưới nơi thân”.
Cuối cùng là bài kệ Nằm:
Khi nằm niệm Phật
“Khi nằm niệm Phật
đừng ra tiếng, niệm theo hơi thở dễ trì danh,
Bên gối gió nhẹ thu
vạn dặm, nửa giường trăng sáng đã ba canh.
Tiếc rằng trần lụy tâm
khó dứt, duy chỉ liên hoa mộng dễ thành,
Chợp mắt mơ màng chư
Phật hiện, tỉnh rồi nhớ lại vẫn phân minh”.
Lúc tôi đọc bài thơ này cảm thấy [bài thơ] nói thật toàn
diện, mỗi một người chúng ta đều có thể đạt được lợi ích trong
đó. Pháp môn vô lượng vô biên, không có pháp môn nào có thể so sánh
với pháp môn này. Ngày nay, người niệm A-di-đà Phật ngoài miệng rất
nhiều, người thật sự hiểu được một chút ý nghĩa của câu Phật hiệu
không nhiều, thực sự là quá ít. Nếu như thật sự hiểu được thì họ
làm sao dám buông lơi. Không dám buông lơi, niệm niệm không ngừng, đó
là người hiểu được một chút hàm nghĩa của câu Phật hiệu. Niệm đó rồi
lại quên, niệm đó rồi lại không niệm nữa. Đối với hàm nghĩa của câu
Phật hiệu vẫn mơ hồ qua loa, thậm chí là không biết gì cả nên mới có
hiện tượng như vậy. Hi vọng quý vị đồng tu ngẫm nghĩ lại đạo lý này, chúng
ta mới thực sự có phần nắm chắc, mới thực sự có được lợi ích chân
thật, thù thắng vô cùng của pháp môn niệm Phật.
Tiết học hôm nay giao lưu tới đây thôi. Cảm ơn mọi người,
A-di-đà Phật!