PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 02/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 24
Chư vị đồng tu tôn
kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật!
Hôm nay chúng tôi bắt
đầu giảng kinh văn phẩm thứ tư.
PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
Từ “Pháp Tạng nhân
địa” trở xuống, là phần Chánh Tông của quyển kinh này. Phần Chánh
Tông giống như cơ thể: tim, là hệ thống máu huyết; phổi, là hệ hô
hấp; dạ dày, là hệ tiêu hóa, đều ở trong này, cho nên phần này rất
quan trọng. Kinh văn phẩm này có hai ý nghĩa:
– Ý nghĩa thứ
nhất: nói rõ hoàn cảnh phát tâm tu học (chính là sơ phát
tâm) của A-di-đà Phật ở nhân địa, giống như chúng ta hiện
nay, cũng tức là giới thiệu lịch sử của A-di-đà Phật cho chúng
ta, giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc lịch sử của thế giới Tây Phương
Cực Lạc, khai phát tín tâm của chúng ta.
– Ý nghĩa thứ
hai: dẫn khởi chúng ta nên học theo Tỳ-kheo Pháp Tạng, sự phát tâm,
tu hành, thành tựu của ngài đều là tấm gương tốt nhất cho chúng
ta, chúng ta nên học tập theo.
Mời xem câu kinh tiếp
theo:
Phật cáo A-nan: Quá khứ vô lượng bất khả tư nghị vô
ương số kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Thế Gian Tự Tại Vương Như
Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế
Tôn. Tại thế giáo thọ tứ thập nhị kiếp, thời vị chư thiên cập thế
nhân dân thuyết kinh, giảng đạo.
“Phật cáo A-nan”. Đây là Phật bắt đầu trả lời câu hỏi
của A-nan.
“Quá khứ vô lượng bất khả tư nghị vô ương số kiếp, hữu Phật
xuất thế”. Câu
này nghĩa là thời gian quá dài, “vô ương số” phía trước lại có thêm
“vô lượng bất khả tư nghị”, vậy thì càng không thể nói rõ, trong nhiều
kiếp quá khứ như vậy, có một vị Phật xuất thế, danh hiệu của ngài là
“Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai”. Sách Chân Giải dùng ba đức của Niết-bàn
để giải thích danh hiệu Phật:
“Thế gian”, có trí tuệ
mới có thể thông đạt thế gian, đây là đức Bát-nhã; “Tự tại”, bị phiền
não trói buộc thì không tự tại, tự tại thì được giải thoát, đây là
đức Giải Thoát; “Vương” đại diện cho đức Pháp Thân, từ pháp thân lưu
hiện hết thảy. Thế Gian Tự Tại Vương nhiếp trọn ba đức.
“Như Lai, Ứng Cúng…
Phật Thế Tôn”. Đây là mười đức hiệu của Phật. Hết thảy Phật đều có
mười đức hiệu, trên thực tế là vô lượng đức hiệu, nhưng mà giản lược
còn mười đức hiệu. Mười đức hiệu của Phật có ý nghĩa khác nhau, cách
giải thích này căn cứ theo kinh Niết-bàn tách Vô Thượng Sĩ và Điều
Ngự Trượng Phu thành hai đức hiệu, Phật và Thế Tôn gộp lại thành một
đức hiệu.
“Như Lai”.
Như là Chân
Như, nương theo đạo Chân Như để thành Chánh Giác, nên gọi là “Như
Lai”. Lại nữa, Như Lai: giống như chư Phật quá khứ mà tới
vậy, chư Phật quá khứ thuyết pháp độ chúng sanh, chư Phật hiện tại
cũng như vậy, cho nên gọi là Như Lai. Sách Hội Sớ nói: “Như Lai có ba
thân: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân”. Kinh Kim Cang nói: “Không từ
đâu mà đến, cũng chẳng đi về đâu”, đây là nói về Pháp Thân của Như
Lai, cảnh giới của Pháp Thân. Sách Thiên Thai Thọ Lượng Phẩm Sớ
nói: “Ở khắp mọi nơi mà chẳng có khác biệt là Như, bất động mà đến là
Lai”. Luận Chuyển Pháp Luân nói: “Ðệ Nhất Nghĩa Ðế gọi là Như, Chánh
Giác gọi là Lai”, đệ nhất nghĩa đế, không và có viên dung, vốn không
hai, là Như. Tự nhiên khế hợp với đệ nhất nghĩa đế, thành Đẳng Chánh
Giác, chính là Báo Thân của Như Lai. Luận Thành Thật nói: “Từ đạo mà
Như Lai quá khứ đã thực hành để thành Vô thượng Chánh Giác, đây là
Ứng Thân của Như Lai”. Thích-ca Mâu-ni Phật thị hiện thành Thái
Tử, ngồi dưới gốc cây, đêm nhìn sao sáng mà thành Đạo, đây là Ứng
Thân của Như Lai. Vì Như Lai có Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân, cho
nên cũng có ba cách giải thích “Như Lai” khác nhau.
“Ứng Cúng”.
Vạn hạnh của Phật viên
mãn, phước tuệ đầy đủ, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của hết thảy
trời người, nên xưng là Ứng Cúng.
“Đẳng Chánh Giác”.
Tiếng Phạn là Tam Miệu
Tam Bồ-đề, nói đầy đủ là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cựu
dịch là Vô Thượng Chánh Biến Tri, đạo mạc chi đại là vô thượng, không
có bất kỳ đạo nào khác có thể vượt hơn đạo này chính là vô thượng. Có
thể chiếu soi rốt ráo lý thể thực tế (bổn thể) nên xưng là Chánh Biến
Tri.
“Minh Hạnh Túc”.
Chữ “Minh” có nhiều
cách giải thích. Thông thường giải thích là Tam Minh: Túc Mạng minh,
Thiên Nhãn minh, Lậu Tận minh. Tịnh Ảnh Sớ giải thích cao hơn là trí
tuệ. Kinh Niết-bàn nói: “Minh, gọi là đắc vô lượng thiện
quả… Thiện quả, gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Điều
này có nghĩa là được vô thượng thiện quả chính là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, gọi là Minh. “Hạnh Túc”, kinh Niết-bàn nói: “Hạnh
gọi là cước túc… Cước túc gọi là Giới Tuệ”. Tu giới tu tuệ công đức
viên mãn, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, gọi là Minh Hạnh
Túc. Cho nên Minh Hạnh Túc có nghĩa là đầy đủ viên mãn giới và định
tuệ, chứng nhập Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
“Thiện Thệ”.
Thiện là Hảo, thệ
là Khứ, vì vậy còn được gọi là Hảo Khứ. Luận Đại Trí Độ nói: Quá
khứ chính là trong tất cả Tam Ma Địa thâm sâu (chính là Tam-muội), vào
trong vô lượng đại trí tuệ. Phật xem hết thảy trí tuệ là cỗ xe
lớn, đi trên con đường giác Bát Chánh Đạo, chứng nhập
Niết-bàn, gọi là “Hảo Khứ”.
“Thế Gian Giải”.
Còn gọi là Tri Thế
Gian. Cách giải thích của Tịnh Ảnh, Chân Giải, Hội Sớ, Thế Gian Giải
là trí tuệ thù thắng hóa tha, Như Lai biết hết thảy các pháp nhân quả thế
gian, xuất thế gian đúng như thật, tới giáo hóa chúng sanh, giúp họ
được giải thoát.
“Vô Thượng Sĩ”.
“Trên trời dưới trời,
chỉ Phật là tôn quý nhất”, nên gọi là Vô Thượng. “Có thứ để đoạn thì
gọi là Hữu Thượng Sĩ”. Bạn có sở tu, có sở đoạn, thì chỉ là Hữu
Thượng Sĩ. “Không có gì để đoạn gọi là Vô Thượng Sĩ”. Luận Trí Độ
nói: “Phật sẽ dẫn dắt hết thảy chúng sanh nhập Niết-bàn. Trong hết
thảy pháp, Niết-bàn là vô thượng. Phật dùng trì giới, thiền định, trí tuệ
để giáo hóa chúng sanh, mọi người cũng không thể bằng Phật, đương
nhiên càng không thể hơn được ngài, vì vậy gọi là Vô Thượng.
“Điều Ngự Trượng Phu”.
Điều là điều
phục, ngự là chế ngự. Khéo có thể điều phục hết thảy chúng
sanh, khiến họ lìa khỏi cấu nhiễm, đắc Đại Niết-bàn, gọi là Điều
Ngự Trượng Phu. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu đầy đủ bốn pháp thì gọi
là Trượng Phu”.
Một, gần thiện tri thức. Thiện tri thức chính là Như
Lai, có đủ Chánh Tri Chánh Kiến thì có thể gọi là Thiện tri
thức. Có thể gặp được Thiện tri thức, thì nên tôn trọng người đó
giống như tôn trọng Như Lai vậy.
Hai, có thể nghe pháp. Phật giảng kinh Hoa Nghiêm, ngay cả
người có đại trí tuệ, đại thần thông cũng như điếc như mù, có thể
thấy, có thể nghe pháp không phải là một chuyện nhỏ, nhất định phải có tâm
chí thành, tâm cung kính, không cống cao ngã mạn, không tự cho mình
đúng, lắng nghe bằng tâm khiêm tốn, không bao giờ thỏa mãn, mới
có thể nghe vào tai.
Ba, tư duy ý nghĩa. Không những có thể nghe mà còn khéo
tư duy. Phải quay về chính mình, chứ không phải chuyên chú vào câu
từ. Những điều đó, những gì viết trong kinh điển đều là
sách. Hoặc là bạn rất có học vấn, thì bạn chỉ là cuốn từ điển Phật
Học sống mà thôi, đó đều là học vấn chết. Phải quay về chính
mình, dung nhập vào trí tuệ thù thắng của chính mình, cũng tức là để
trí tuệ huân phát bổn giác của chính mình. Trí tuệ thù thắng trong bổn
giác của chúng ta, bên trong chúng ta đốt cháy vô minh, hiện nay
chúng ta lại nghe được pháp, từ bên ngoài cũng đang đốt cháy vô
minh, cho nên vô minh chuyển biến rất nhanh, như vậy mới có thể biến
học vấn chết thành học vấn sống.
Bốn, tu hành như lời dạy. Có thể nói nhưng không thể thực
hành thì không phải là trượng phu, bởi vì nói được một
trượng không bằng làm được một tấc.
Đầy đủ bốn điều trên
mới là đại trượng phu. Ở đây chỉ nói đến trượng phu, Luận Trí Độ
nói Trượng Phu bao gồm người nữ, nhị căn, vô căn, v.v…
“Thiên Nhân Sư”.
Có thể dùng chánh pháp
giáo hóa trời người, gọi là Thiên Nhân Sư. Ngài có thể dùng chánh
pháp dạy bảo người và trời. Tất cả thiên thượng, nhân gian, Đế Thích,
Phạm thiên, chư thiên, long thần, vô số nhân dân, cho đến ma vương, ngoại
đạo đều tới làm đệ tử của ngài, nên gọi là Thiên Nhân Sư.
“Phật, Thế Tôn”.
Phật là ba giác viên
mãn. Thế Tôn là Bạc Già Phạm, đầy đủ trọn vẹn các đức, được thế
gian kính trọng, nên gọi là Thế Tôn.
Mười đức hiệu trên đây
của Như Lai là thông hiệu của Phật, Thế Gian Tự Tại Vương là biệt hiệu.
“Tại thế giáo thọ tứ thập nhị kiếp”.
Dạy bảo bốn mươi hai
kiếp, thời gian rất dài. Thời gian chư Phật trụ thế dài ngắn không
như nhau. Thời gian Thích-ca Mâu-ni Phật trụ thế rất ngắn, thời gian
Thế Gian Tự Tại Vương Phật trụ thế rất dài.
“Thời vị chư thiên cập thế nhân dân thuyết kinh, giảng đạo”.
Thuyết pháp cho mọi
người, khai thị chánh đạo. Con đường thông đến Phật quả gọi là đạo.
Mời xem kinh tiếp
theo:
Hữu đại quốc chủ danh Thế Nhiêu Vương, văn Phật thuyết
pháp, hoan hỷ khai giải, tầm phát vô thượng chân chánh đạo
ý, khí quốc quyên vương, hành tác Sa-môn, hiệu viết Pháp Tạng.
Đại ý của đoạn kinh
này là: vào thời kỳ Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai hoằng pháp lợi
sanh, có một vị đại quốc vương tên là Thế Nhiêu Vương. Vị quốc
vương này là tiền thân từ nhiều kiếp đến nay của A-di-đà Phật. Nghe
được Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai thuyết pháp, bỗng nhiên tâm khai
ngộ, hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai. Đối với người học giáo mà
nói, đây là sự đột phá quan trọng, gọi là đại khai viên giải. Sự
khai giải này đã vượt khỏi ý nghĩa thật sự của văn tự, vì khai
giải nên tự nhiên hoan hỷ, giống như câu cuối cùng trong hết thảy các
kinh đều là “nghe lời Phật dạy, đều rất vui mừng”
Thế là “tầm phát vô thượng chân chánh đạo ý”.
“Tầm” là ngay lập
tức. Sau khi khai ngộ thì phát tâm ngay lập tức, đây là tâm Vô Thượng
Bồ-đề. “Phát là phát tâm. Vô thượng chân chánh đạo, tiếng Phạn
là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tức là đạo mà đức Phật chứng đắc. Không
đạo nào hơn được đạo này, nên gọi là Vô Thượng”. Ngài phát tâm này là
tâm Vô Thượng Bồ-đề. “Chân là chân thật. Chánh là Thánh trí, vì
biết đúng như pháp tướng. Đạo là đạo vô ngại”, không có chướng ngại,
thông suốt rồi. “Ý là tâm năng cầu, tức là tâm cầu đạo Bồ-tát đạo gọi
là ý. Nên biết rằng: phát vô thượng chân chánh đạo ý chính là phát
tâm Vô Thượng Bồ-đề”. Tâm này là tâm thành Phật. Tại sao phải thành
Phật? Thành Phật phổ độ chúng sanh không chướng ngại. Chúng sanh
trong tất cả cõi nước chư Phật khắp pháp giới hư không giới, bạn đều có
trí tuệ, có năng lực đến giúp đỡ họ.
“Khí quốc quyên vương, hành tác Sa-môn, hiệu viết Pháp
Tạng”.
Thế Nhiêu Vương nghe
Phật thuyết pháp, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, phát
tâm làm Phật. “Khí quốc quyên vương, hành tác Sa-môn”, đây là
hành động thực tế của Thế Nhiêu Vương sau khi phát tâm Bồ-đề. “Quyên”
cũng có nghĩa là từ bỏ. Thế Nhiêu Vương đã từ bỏ ngôi vị quốc
vương, đây là tấm gương của chúng sanh. Quốc vương của xã hội phong
kiến là địa vị mà loài người sùng quý nhất, đồng thời giàu có nhất
nước, sự hưởng thụ cũng cao nhất trong thế gian. Sau khi nghe pháp
kiên quyết từ bỏ hết thảy, thể hiện tâm xuất ly chân thật, đây là căn
bản của việc học đạo. Mặc dù một người đang hoằng pháp lợi
sanh, giảng kinh thuyết pháp, nhưng sâu thẳm trong nội tâm vẫn
luôn hòa trộn với thanh sắc tài lợi, công danh phú quý, danh tiếng
địa vị, quyến thuộc ân ái hợp thành một khối, không thể xuất
ly, nếu muốn thành đạo thì bạn hãy đợi đến năm con lừa đi! Những
lời này là do lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói, lão cư sĩ khai ngộ vào năm 22
tuổi.
“Sa-môn”, các tôn giáo
trước đều gọi người xuất gia là Sa-môn, về sau trở thành danh từ
riêng của tăng lữ Phật giáo. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Thức tâm
đạt bổn, giải vô vi pháp, danh vi Sa-môn”. Thức tâm là nhận thức
bổn tâm của chính mình, đạt bổn là thông đạt bổn thể của vạn
pháp, cũng tức là bổn nguyên, có thể thấy, muốn làm một vị Sa-môn
danh xứng với thực thì không hề dễ dàng. Đoạn kinh văn vừa rồi, nói
đơn giản một chút chính là Thế Nhiêu Vương không làm quốc vương
nữa, xuất gia làm tăng, pháp danh là Pháp Tạng. Tỳ-kheo Pháp
Tạng chính là nhân địa của A-di-đà Phật, thành Phật là quả
địa. Khoảng thời gian gần đây, không biết từ đâu mà tôi có được chút
linh cảm, viết ra một đoạn giống thơ mà không phải thơ, giống kệ mà
không phải kệ, không giống cái nào cả, cúng dường cho quý vị đồng tu
cùng thưởng thức ý vị trong đó.
Cửa Phật vốn cõi Tịnh,
Hiện nay nhiều ô
nhiễm,
Người có chút lương
tâm,
Thực sự không nỡ nhìn,
Trà trộn cửa Phật
nhiều,
Không phải thật học
Phật,
Có tiền rất dễ dàng,
Thoải mái mà ăn uống,
Chúng sanh trồng phước
điền,
Bạn tặng họ sa mạc,
Hạt giống không nảy
mầm,
Nợ này ghi sổ trước,
Cúng dường của mười
phương,
Sao có thể tham chấp,
Nợ thì sẽ phải trả,
Sớm muộn không tránh
khỏi,
Ăn cơm của nhà Phật,
Không làm việc nhà
Phật,
Nói bạn trà trộn vào,
Tự mình kiếm chỗ ngồi,
Cửa Phật không giảng
kinh,
Lấy gì độ chúng sanh,
Toàn nhờ làm kinh sám,
Lo chết không lo sống,
Cửa Phật phải chỉnh
đốn,
Chuyện này là tất
nhiên,
Nếu còn không chỉnh
đốn,
Cửa Phật loạn thành ổ,
Nhất định phải thanh
trừ,
Những kẻ trà trộn vào,
Cửa Phật là cõi tịnh,
Sao cho phép làm càng,
Còn không mau hối cải,
Ba đường đang đợi đó,
Bạn là đệ tử Phật,
Làm theo lời Phật dạy,
Minh sư chỉ dạy bạn,
Không hề sai chút nào,
Khuyên người mau giác
tỉnh,
Dùng chân tâm học
Phật,
Chư Phật rất từ bi,
Không bỏ rơi người
nào,
Nếu bạn không hối cải,
Đức Phật cũng hết
cách,
Nói lời đại chân thật,
Đợi bạn công kích tôi,
Vi Đà Tôn Thiên hiện
oai thần,
Giơ cao kiếm pháp chém
quần ma.
Mời xem đoạn kinh tiếp
theo:
Tu Bồ-tát đạo, cao tài dũng triết, dữ thế siêu
dị, tín giải minh ký, tất giai đệ nhất. Hựu hữu thù thắng hạnh
nguyện, cập niệm tuệ lực, tăng thượng kỳ tâm, kiên cố bất
động. Tu hành tinh tấn, vô năng du giả.
“Tu Bồ-tát đạo”.
Tỳ-kheo Pháp Tạng phát
tâm Vô Thượng Bồ-đề, tự nhiên sẽ thực hành sở hành của Bồ-tát, nên
“tu Bồ-tát đạo”. Câu kinh này “nói rõ Pháp Tạng Bồ-tát hướng thẳng
đến Nhất Thừa, chẳng rơi vào Quyền, Tiểu”. Ngài không tu từ Thanh
văn, Duyên Giác, mà ngài trực tiếp tu Bồ-tát đạo. “Chẳng rơi vào
Quyền, Tiểu”, Quyền là phương tiện thiện xảo, không phải là rốt ráo
viên mãn, Tiểu là Tiểu thừa. Hay nói cách khác, Tỳ-kheo Pháp
Tạng không tu hành giống người bình thường, từ Tiểu thừa đến Đại
thừa, từ Quyền Giáo đến Thật giáo, ngài không trải qua quá trình
này, mà ngài trực tiếp tu Đại thừa, hơn nữa là hướng thẳng đến Nhất
Thừa, Nhất Thừa là phương pháp trực tiếp thành Phật. Điều này biểu
thị điều gì cho chúng ta? Niệm A-di-đà Phật là hướng thẳng đến Nhất
Thừa, chẳng rơi vào Quyền, Tiểu. Những điều mà Tỳ-kheo Pháp Tạng
tu cũng là những điều chúng ta học. Tại sao chúng ta phải học Tịnh
tông? Chúng ta học theo Tỳ-kheo Pháp Tạng, Tỳ-kheo Pháp Tạng chỉ học
Nhất Thừa. Ngài là Thế Nhiêu Vương, công phu tu hành trong đời quá
khứ của Thế Nhiêu Vương cao tới mức độ nào? Nhiều kiếp lâu xa về
trước ngài đã thành Phật rồi. Lần này đến thế gian nên hóa thân quốc
vương mà được độ thoát, thì hiện thân quốc vương mà thuyết pháp cho chúng
sanh, ngài không phải là người bình thường, người bình thường làm sao
có thể gọn gàng dứt khoát tu đại pháp viên mãn Đại thừa bậc
nhất, Nhất Thừa Chân Như? Chuyện này là không thể nào. Cho nên
lúc ngài làm quốc vương ở thế gian đã thành đạo vô thượng. Lúc này
ngài tới biểu pháp, khuyên mọi người buông xuống, ngài làm tấm gương
buông xuống cho chúng ta thấy, vương vị mà người đời cầu không có
được, ngài có được nhưng lại từ bỏ, giống như Thích-ca Mâu-ni Phật
vậy, từ bỏ vinh hoa phú quý, xuất gia học đạo.
Ngài làm ra tấm gương
cho chúng ta, dạy chúng ta có thể thật sự buông xuống. Buông xuống
dục vọng, buông xuống tài sắc danh lợi, buông xuống ngũ dục lục
trần, buông xuống thất tình ngũ dục, buông xuống phiền não
chướng. Khi đức Di-đà ở nhân địa đã thị hiện buông xuống đại danh đại
lợi, từ bỏ đại phú đại quý. Không buông xuống, không từ bỏ, thì
không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, không thể thành tựu đạo vô thượng. Nhớ
kỹ chữ “bỏ” này, buông bỏ, từ bỏ, không cần gì nữa, chỉ cần
A-di-đà Phật, vậy thì đúng rồi. Chúng ta phát tâm học Phật, tu
học pháp môn niệm Phật Tịnh độ, mục đích là gì? Đáng để chúng ta suy
ngẫm phản tỉnh. Có phải hiện nay chúng ta đang tu Bồ-tát đạo hay
không? Nếu như không phải tu Bồ-tát đạo, muốn vãng sanh thế giới Tây
Phương Cực Lạc là chuyện không thể nào. Tại sao vậy? Bởi vì thế
giới Tây Phương Cực Lạc là Thuần Nhất pháp giới Bồ-tát, không chỉ là
pháp giới Bồ-tát, mà còn là pháp giới của Phổ Hiền Bồ-tát, là pháp
giới thù thắng bậc nhất không gì sánh bằng trong giới Bồ-tát. Chúng
ta muốn tới thế giới Tây Phương Cực Lạc, nếu như bạn không giống như các
ngài, vậy thì không thể tới đó. Chúng ta xem Tỳ-kheo Pháp
Tạng, sau khi ngài phát tâm thì thật sự tu hành. Phải chú ý! Sau
khi chúng ta phát tâm có thật sự tu hành không? Hay nói cách
khác, bạn học Bồ-tát, học có giống hay không? Hiện nay có rất nhiều
đồng tu, mỗi ngày tụng rất nhiều biến kinh Vô Lượng Thọ, niệm mấy vạn
câu Phật hiệu, lại thêm lạy Phật, có được coi là thật sự tu hành không? Trên
hình thức thì có chút giống, bộ dạng có chút giống. Thực chất thì
phải xem tâm của bạn, có phải mỗi ngày mỗi thanh tịnh hơn, mỗi năm
mỗi thanh tịnh hơn không? Nói cách khác, vọng tưởng, phiền não của
bạn có phải mỗi ngày mỗi giảm bớt. Mỗi ngày mỗi giảm bớt không dễ
dàng! Năm sau ít hơn năm trước, tháng sau ít hơn tháng
trước, phiền não nhẹ, trí tuệ tăng, như vậy mới là tu Bồ-tát đạo.
Niệm Phật, tụng kinh,
lạy Phật là phương pháp. Vọng tưởng phiền não ít hơn, tâm địa thanh
tịnh, trí tuệ tăng trưởng là kết quả, là thành tích. Ngày ngày
niệm Phật, lạy Phật, tụng kinh, phiền não trong tâm không những không giảm
bớt mà còn tăng thêm, vậy cũng giống như ngày ngày đều học
bài nhưng thi cử vẫn rớt, không có tác dụng, không có thành
tích. Hạ công phu, nhất định phải có thành tích mới là Bồ-tát đạo
thật sự. Nếu như không có được thành tích, thì không phải là tu
Bồ-tát đạo. Ngài Pháp Tạng tu Bồ-tát đạo thật sự là làm Bồ-tát.
Học Bồ-tát, hành
Bồ-tát đạo, chúng ta phải thoát khỏi sự hiểu lầm, cho rằng nhất định
phải giống như Địa Tạng Bồ-tát, Quán Âm Bồ-tát, Văn-thù Bồ-tát, Phổ
Hiền Bồ-tát thì mới là Bồ-tát, cách nghĩ như vậy là sai
lầm. Trên thực tế, Bồ-tát chính là bản thân chúng ta, chính là
hết thảy chúng sanh, hoàn cảnh sống của các ngài và chúng ta không có
khác biệt, chỗ khác biệt chính là trong cuộc sống các ngài có thể làm
được không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp
trước, trong sinh hoạt, công việc không có phiền não. Các ngành nghề
đều có Bồ-tát, Bồ-tát có mặt trong mọi tầng lớp xã hội, không chỉ cửa
Phật có Bồ-tát, mà ngoại đạo cũng có Bồ-tát. Ở ngoại đạo, Bồ-tát thị
hiện thân ngoại đạo, mục sư của Cơ Đốc giáo, linh mục của Thiên Chúa
giáo, cũng có một số vị là Bồ-tát hóa thân. Chúng ta không nhận biết
được, các ngài nói chánh pháp, các ngài giác thì không mê, chánh
thì không tà, tịnh thì không nhiễm. Chư Phật Bồ-tát làm tấm gương tốt
nhất cho hết thảy chúng sanh. Chúng ta nhất định phải hiểu chân tướng
sự thật mới biết được chúng ta nên học Bồ-tát như thế nào, làm Bồ-tát
như thế nào, hành Bồ-tát đạo như thế nào. Còn có một sự hiểu lầm đó
là: có người thọ Bồ-tát giới liền cho rằng mình là Bồ-tát
rồi, tự cho rằng mình là cao nhân bậc nhất, không thích người khác
gọi là cư sĩ, thích người khác gọi họ là Bồ-tát. Chúng ta phải làm
Bồ-tát thật, không làm Bồ-tát giả trên danh nghĩa. Bồ-tát thật tuyệt
đối không có tâm cống cao ngã mạn.
Có người cho
rằng, làm Bồ-tát thì phải xuất gia, không phải như vậy, làm
Bồ-tát không nhất định phải xuất gia. Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham
bái, chỉ có năm vị là chúng xuất gia, những vị khác đều là chúng tại
gia. Bốn vị Đại Bồ-tát ở tứ đại danh sơn của nước ta, chỉ có một vị
thị hiện tướng xuất gia, ba vị còn lại đều thị hiện tướng tại
gia. Kinh Vô Lượng Thọ chỉ liệt kê ba vị thượng thủ trong chúng
Bồ-tát xuất gia: Phổ Hiền Bồ-tát, Văn-thù Bồ-tát, Di-lặc
Bồ-tát, nhưng thượng thủ trong chúng Bồ-tát xuất gia thì liệt kê mười
sáu vị Chánh Sĩ như Hiền Hộ, v.v… Cho thấy Bồ-tát tại gia
nhiều, Bồ-tát xuất gia ít. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thật
này, dùng lý luận, phương pháp, cảnh giới của bộ kinh này, ứng dụng
vào trong cuộc sống, trong công việc, trong đối nhân xử thế tiếp
vật, chính là Bồ-tát. Không cần phải thay đổi ngành nghề, ngành
nghề nào cũng có Bồ-tát, đều có thể làm Bồ-tát. Ví dụ như: Bồ-tát chủ
tịch, Bồ-tát nhân viên, Bồ-tát viên chức, Bồ-tát cảnh sát, Bồ-tát
hiệu trưởng, Bồ-tát học sinh v.v… Từ dây có thể biết, đức dụng của
giáo dục Phật pháp thật sự rộng lớn vô biên.
“Cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị, tín giải minh ký, tất
giai đệ nhất”.
Những câu kinh này tán
thán đức hạnh tu hành của Tỳ-kheo Pháp Tạng sau khi xuất gia.
“Cao tài dũng
triết”. Tịnh Ảnh Sớ nói, tài là tài nghệ, tài năng. Cao tài là
tài năng hơn người thường. Tâm chí rộng lớn kiên cường gọi là
“dũng”. “Nghèo hèn không đổi chí, quyền thế không khuất
phục, giàu sang không buông thả, hết thảy không dao động mới
thật sự là kẻ sĩ có chí, như vậy mới gọi là dũng. Triết, tâm sáng
suốt là triết, tự tâm hiển lộ gọi là triết. Triết của Tỳ-kheo Pháp
Tạng là hiểu rõ bản tâm của mình, thấy rõ bản tâm của mình. Gia Tường
Sớ nói, thế nào gọi là cao tài, “Xưng dật quần chi năng”, năng
lực, tài năng này của bạn xuất chúng, hơn hẳn quần chúng. Giống như
chạy đua, bạn chạy đến vị trí đầu tiên tức là vượt qua những người
khác, đã vượt qua tất cả mọi người thì bạn đứng đầu, bạn có thể
giành được huy chương vàng. Cho nên chữ “siêu” này, tài năng xuất
chúng gọi là cao tài. Gia Tường Sớ nói, dũng là tự thắng thắng
tha. Tự thắng là vượt qua chính mình, chiến thắng chính
mình. Chiến thắng chính mình gọi là dũng. Đây thực sự là đại
dũng. Chính mình là gì? Đối tượng của chiến thắng là gì? Là kiến
của chính mình, đặc biệt là thành kiến của chính mình.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ nói lời chân thành với một người bạn trước khi chia tay, lời nói
ấy là: “tôi nói, nếu như anh xem tư tưởng của chính mình là trọng
tâm, anh thường xuyên đọc kinh, cho dù đọc hết toàn bộ Đại
Tạng, anh chọn ra một số lời dạy hữu ích, thêm vào phần trọng tâm này
của anh để chau chuốt, tô điểm thêm, anh cho rằng đó là dụng
công, là nâng cao chính mình, thực ra anh không hề biết trọng
tâm này của anh chính là tế bào ung thư.
Tứ vô lượng
tâm: từ, bi, hỷ, xả. Xả tức là trừ bỏ hết thảy cách nhìn sai biệt
trong tự tâm. Nhưng chữ Xả này không dễ dàng, cho nên nói: “Xả thân
dễ, xả kiến khó”, nên trước tiên chúng ta phải chiến thắng chính
mình. Thắng tha, một, phải chiến thắng hết thảy sự quấy nhiễu bên
ngoài. Những thứ này từ bên ngoài tới, không phải của chính
mình. Nghèo hèn, quyền thế, giàu sang, sắc đẹp, vàng bạc đều là
Tha. Còn rất nhiều tà thuyết dị đoan, đều phải chiến thắng; hai,
giúp đỡ người khác phá tế bào ung thư, cùng đi trên đại đạo
Bồ-đề. Đây là thắng tha, như vậy mới gọi là dũng. Đọc những lời
chân thành mà lão cư sĩ nói với bạn mình trước lúc chia tay, không
biết các đồng tu có cảm xúc gì không? Cao tài dũng triết là gì? Hàm
nghĩa của hai chữ này rất sâu, lão cư sĩ giải thích cũng rất
sâu, không hổ danh là vị Thánh Triết đương thời được mọi người tôn
sùng.
“Dữ thế siêu
dị”. Sách Hội Sớ nói “bất thường nhân sở cập”, điều này là người
thường không thể theo kịp. Tịnh Ảnh nói “dữ thế siêu dị”, bởi vì
Tỳ-kheo Pháp Tạng “thử đức cô xuất”. Cô là cô độc, cô đơn. Thử đức cô
xuất, phải hiểu từ “cô xuất” này, dùng câu “cô minh lịch lịch” của thiền
sư trong Lâm Tế Thiền tông để đối chiếu là tốt nhất. Lâm Tế nói “cô
minh”, Tịnh Ảnh nói “cô xuất”. Xuất là hiển xuất, hiển minh, nên
“cô xuất” chính là “cô minh”. “Cô” chính là “bất dữ vạn pháp vi
lữ” của Thiền tông, có nghĩa là không làm bạn lữ của bất kỳ pháp nào, không
có bất kì bạn lữ nào, đã chỉ ra hàm nghĩa của cô một cách linh
động. Thiền sư Bách Trượng nói: “Linh quang độc diệu, huýnh thoát căn
trần”, đây là cảnh giới chứng ngộ. Trong đó, “linh quang độc
diệu” và “cô minh”, “cô xuất” là cùng một lỗ thông gió. Cô là vô
sở trụ, minh là sanh kỳ tâm, vô sở trụ ắt lìa vọng duyên, lìa
vọng duyên thì tự nhiên chân tâm hiển hiện, vì vậy thiền sư Bách Trượng
nói: “Nếu lìa vọng duyên, là Như Như Phật”, chính là diệu nghĩa của
“cô minh”. “Lịch lịch” là rõ ràng sáng tỏ, thông suốt thấu triệt. Từ
sự so sánh với “cô minh lịch lịch” của tông môn, có thể hiểu được
diệu đức “thử đức cô xuất” và nguyên nhân “dữ thế siêu dị” của
Tỳ-kheo Pháp Tạng. “Dữ thế siêu dị” là xưng tán đại đức của Tỳ-kheo
Pháp Tạng.
Cô xuất, cô là một
người, người như vậy thật sự không nhiều, đặc biệt là trong xã hội
hiện nay, lại càng khó gặp được. Trên thế gian này, có ai không
tranh danh, có ai không chạy theo lợi? Trong biển người mênh
mông, khó mà tìm được người thanh nhàn. Người đời bận rộn chẳng
phải đều vì tranh danh trục lợi sao? Tại sao xã hội hiện nay lại động
loạn? Tranh danh trục lợi là điều không thể tránh khỏi của chúng sanh
trong lục đạo. Nhưng danh lợi phải lấy sao cho đúng đạo, điều này do
thánh hiền xưa dạy cho chúng ta, nếu như lấy không đúng đạo thì tuyệt
đối không thể tiếp nhận. Ngày nay không còn đạo nữa, tranh danh trục
lợi không từ thủ đoạn, cả xã hội đều loạn rồi. Do nguyên nhân gì mà
loạn tới mức độ này?
Hơn một thế kỷ gần
đây, khoa học kỹ thuật phát triển, người phương Đông hoài nghi
lời dạy của tổ tiên, vứt bỏ trí tuệ chân thật của tổ tiên; người
phương Tây tuyên bố Thượng đế đã chết, không cần tôn giáo nữa, đây là
nguyên nhân căn bản khiến trái đất hiện nay động loạn. Văn minh
phương Đông dựa vào lời dạy của thánh hiền, văn minh phương Tây hoàn toàn
dựa vào tôn giáo, hiện tại cả hai đều bị vứt bỏ, xã hội có thể không
loạn sao? Chúng ta đã phải chịu khổ mà vẫn chưa mau chóng tỉnh ngộ
sao? Chẳng lẽ chúng ta nhất định phải chịu hết khổ cực mới có thể
tỉnh ngộ sao?
Chúng sanh mạt pháp khó giáo hóa,
Không nghe lời thật
nghe lời giả,
Bị lừa bị gạt không
giác tỉnh,
Lúc nào mới có thể về
nhà,
Lão pháp sư thượng
Tịnh hạ Không,
Tận tình khuyên bảo
giảng Phật pháp,
Sáu mươi mấy năm không
gián đoạn,
Nhưng có mấy ai nghe
hiểu được,
Năm tháng vô tình vội
vã qua,
Quãng đời còn lại được
là bao,
Đại nạn trước mắt mới
giác tỉnh,
Tiếc rằng lúc đó đã
muộn rồi,
Hôm nay cất bước cũng
chưa muộn,
Bồ-tát từ bi không nỡ
bỏ,
Thuyền pháp khởi hành
không đợi khách,
Nhất định đừng để mình
sót lại.
Tiết học hôm nay giao
lưu tới đây. Cảm ơn mọi người, A-di-đà Phật!