PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 04/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 28
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật!
Mời
xem phần kinh văn tiếp theo:
Nguyện đương an trụ
tam-ma-địa
Hằng phóng quang minh
chiếu nhất thiết
Cảm đắc quảng đại
thanh tịnh cư
Thù thắng trang nghiêm
vô đẳng luân
Luân hồi chư thú chúng
sanh loại
Tốc sanh ngã sát thọ
an lạc
Thường vận từ tâm bạt
hữu tình
Độ tận vô biên khổ
chúng sanh.
Tám
câu này là Tỳ-kheo Pháp Tạng phát đại nguyện cầu thành Phật. Tám câu này là
tổng kết của hết thảy những lời nguyện trên cũng là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện
của A-di-đà Phật.
“Nguyện đương an trụ tam-ma-địa
Hằng phóng quang minh
chiếu nhất thiết”.
Tam-ma-địa
chính là niệm Phật tam-muội, chính là Chánh Định. Lúc an trụ trong Chánh Định,
không ngừng phóng hào quang rộng lớn chiếu khắp hết thảy. An trụ trong Chánh
Định là Tịch, là Thể; phóng hào quang chiếu khắp hết thảy là Chiếu, là Dụng. Có
Thể sẽ có Dụng, Thể Dụng luôn gắn liền nhau.
Hai
câu này cũng chứng tỏ định tuệ đẳng trì. An trụ tam-ma-địa là định, luôn phóng
hào quang là tuệ. Cho nên tu trì phải giống như chim có hai cánh, xe có hai
bánh, vận dụng cùng lúc, định tuệ phải đẳng trì. Luôn trụ tam-ma-địa lại phóng
hào quang chiếu khắp, Tịch và Chiếu cũng đồng thời. Có người sau khi nhập định
thì không thể chiếu; có người vừa chiếu, tâm có nơi trụ, thậm chí còn tán loạn,
không thể đồng thời. Trong giáo có một bài kệ nổi tiếng:
“Cảnh vi diệu giả quán vi không,
Năng sở lưỡng vong tức
thị trung,
Vong chiếu hà thường
hữu tiên hậu,
Nhất tâm dung tuyệt
mẫn vô tung”.
Cũng
là Vong Chiếu đồng thời. Người thật sự tu hành có thể bắt đầu từ chỗ này, từ
Vong Chiếu đồng thời khế nhập Tịch Chiếu đồng thời. Tịch là Thể, Chiếu là Dụng,
cũng tức là Thể Dụng không hai.
Lý
Thể và Sự Dụng không phải là hai, chính là lý sự vô ngại trong kinh Hoa Nghiêm.
Lý, tịch nhiên bất động; Sự, cảm nhi toại thông, thông là thông đạt, chính là
có sự thay đổi. Bất động và thông đạt, ở thân phận chúng sanh chính là mâu thuẫn,
có chướng ngại; chỉ có người đạt được Vong Chiếu đồng thời mới thật sự thể hội
được cảnh giới lý sự vô ngại.
“Cảm đắc quảng đại thanh tịnh cư
Thù thắng trang nghiêm
vô đẳng luân”.
“Cảm”
là cảm ứng, “cư” là cõi nước. Pháp Tạng Bồ-tát khẩn cầu: nguyện đem công đức
Tịch Chiếu đồng thời, Lý Sự vô ngại, định tuệ đẳng trì v.v… của chính mình
cảm được gia trì, có được cõi nước rộng lớn thanh tịnh. Thế giới Cực Lạc không
có biên giới, đúng là “rộng lớn”. Vãng Sanh Luận Chú nói: “Cõi Phật trang
nghiêm vào trong một câu thanh tịnh”. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ lại
nói: “Chẳng còn hết thảy sầu khổ nơi thân tâm, chỉ có vô lượng thanh tịnh hỷ
lạc, vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc”. Đúng như tâm nguyện của Pháp Tạng Bồ-tát,
Cực Lạc là một cõi nước thanh tịnh.
Cõi
nước mà Pháp Tạng Bồ-tát khẩn cầu không chỉ rộng lớn thanh tịnh, mà còn “thù
thắng trang nghiêm vô đẳng luân”. “Vô đẳng luân”, không gì có thể tương đồng,
sánh bằng. “Thù thắng” là vi diệu đẹp đẽ, cũng có nghĩa là siêu tuyệt.
Gia
Tường Sớ ghi: “Tu đạo nhanh chóng thành Phật nên gọi là siêu tuyệt”. Cho nên
thù thắng không những chứng tỏ cảnh sắc ở cõi nước đẹp đẽ không gì sánh bằng,
mà còn hiển bày sự diệu dụng đã bao hàm lợi ích chúng sanh. Vì vậy, nước, chim,
cây cối đều đang diễn diệu pháp, tùy theo nhận biết của họ mà ban cho pháp
tương ứng. “Trang nghiêm” có hai hàm nghĩa là cụ đức và nghiêm tịnh hoa lệ.
Nguyện cõi nước thù thắng trang nghiêm, vượt khỏi mười phương, không gì có thể
sánh bằng.
“Luân hồi chư thú chúng sanh loại
Tốc sanh ngã sát thọ
an lạc”.
Hai
câu này nói rõ cho chúng ta biết, đối tượng tiếp dẫn, đối tượng thành tựu của
ngài là chúng sanh lục đạo, là câu “luân hồi chư thú chúng sanh loại”. Chúng
sanh trong lục đạo là khổ nhất, càng là chúng sanh khổ nạn, thì càng được xếp
hàng đầu trong thứ tự độ thoát, như vậy mới thật sự là đại từ đại bi.
Tập
Chú của Niệm Lão nói rất hay: “Chỗ thù thắng siêu tuyệt của Tịnh tông, đầu tiên
là mau chóng thành Phật, phàm phu vãng sanh lên thẳng ngôi Bất Thoái, Bất Thoái
mới có thể mau chóng thành Phật”. “Nên phổ nguyện các loài chúng sanh luân hồi
trong các nẻo, mau sanh đến cõi ta hưởng an vui”. Những câu này rất quan trọng,
giúp chúng ta kiên định tín tâm, giúp chúng ta kiên cố hoằng nguyện, kiên định
chẳng rời cầu sanh Tịnh độ.
Bất
kỳ pháp môn nào cũng không nhanh bằng pháp môn này. Điều đáng tiếc là rất nhiều
chúng sanh không tin tưởng, không tiếp nhận. Tuyệt đối không phải A-di-đà Phật
không tới tiếp dẫn bạn, Phật mong muốn chúng sanh mau chóng tới thế giới Cực
Lạc hưởng an vui.
“Thường vận từ tâm bạt hữu tình,
Độ tận vô biên khổ
chúng sanh”.
Hai
câu này biểu thị hoằng thệ đại từ đại bi của Pháp Tạng Bồ-tát. “Thường” là chỉ
thời gian không bị gián đoạn, “vô biên” là nói về không gian. A-di-đà Phật độ
chúng sanh vào mọi lúc ở mọi nơi chưa từng gián đoạn. Sự từ bi này sanh ra từ
thanh tịnh, bình đẳng sanh ra, là hiển lộ của tự tánh. Nên nói tám câu kệ tụng
này là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện.
Mời
xem kinh văn tiếp theo:
Ngã hạnh quyết định
kiên cố lực
Duy Phật thánh trí
năng chứng tri
Túng sử thân chỉ chư
khổ trung
Như thị nguyện tâm
vĩnh bất thoái.
Bốn
câu kệ tụng này thể hiện quyết tâm kiên cố của Tỳ-kheo Pháp Tạng. Đại nguyện mà
ngài đã phát ra thì nhất định phải làm được, cầu Phật chứng minh cho ngài.
“Ngã hạnh quyết định kiên cố lực”.
Pháp
Tạng Bồ-tát phát nguyện, mở đầu dùng chữ nguyện, “nguyện ngã đắc Phật thanh
tịnh thanh”, nhưng mà phần kết thúc không nói tới ngã nguyện, mà nói ngã hạnh,
“ngã hạnh quyết định kiên cố lực”, đủ thấy nguyện của ngài Pháp Tạng đã trở
thành hành động, nên nói nguyện để bắt đầu hạnh, hơn nữa những gì ngài làm kiên
quyết không thể thay đổi, kiên cố không thể thay đổi. Sức mạnh vững chắc kiên
cố này, chỉ có thánh trí của Phật mới có thể chứng minh và hiểu rõ. Chỉ có Thế
Gian Tự Tại Vương Như Lai có Tam Giác viên mãn, ngũ nhãn sáng tỏ, trí tuệ vô
Ngại, chỉ có Phật mới có thể hiểu ngài, có thể làm chứng cho ngài. Bởi vì Hạ
Địa Bồ-tát không biết được chỗ nhấc chân đặt chân của Thượng Địa Bồ-tát, nên
không thể hiểu được.
Hai
câu sau cùng là
“Túng sử thân chỉ chư khổ trung
Như thị nguyện tâm
vĩnh bất thoái”.
Nói
rõ nguyện tâm của Tỳ-kheo Pháp Tạng kiên cố, cho dù đọa địa ngục thì hạnh này
nguyện này cũng chắc chắn không thoái chuyển. Nếu chỉ có nguyện, không có hạnh,
đó là nguyện giả; chỉ có hạnh, không có nguyện, đó là làm bừa. Cho nên nguyện
hạnh phải bổ trợ lẫn nhau, nguyện để khởi hạnh, hạnh để chứng nguyện mới có thể
viên mãn thành tựu đại nguyện.
Đối
chiếu với chính bản thân chúng ta một chút, học Phật nhiều năm như vậy, bạn có
thệ nguyện chưa? Thệ nguyện của bạn có kiên định không? Bạn đã thực hiện thệ
nguyện của mình như thế nào?
Để
tôi nói một chút trải nghiệm và cảm nhận của chính tôi trong 20 năm thọ trì bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ.
Năm
2000, tôi mới nghe được Phật pháp, sự tiếp xúc đầu tiên chính là bản hội tập
kinh Vô Lượng Thọ và đĩa giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ ba của lão pháp sư,
nghe được đọc được, nhận được lợi ích rồi. Từ thời điểm đó đến nay đã 20 năm
rồi, tôi chưa từng thay đổi đề mục, chưa từng chuyển hướng. 20 năm học Phật, tôi
trải qua vô số phong ba bão táp, vô duyên vô cớ bị phê bình, phê phán, mắng
nhiếc, hủy báng. Tôi không biết tại sao? Tôi không biết tôi đã làm sai điều gì?
Đặc
biệt là 10 năm gần đây, tôi vượt qua áp lực từ nhiều phía, tôi đường đường
chính chính, quang minh chính đại mà bước qua. Bởi vì hết thảy lời nói và hành
vi của tôi đều công khai, rõ ràng, tôi không trốn trong bóng tối làm những
chuyện mất mặt. Đời này, tôi chỉ muốn làm một người quang minh chính đại.
Bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ bị phê bình phê phán, hai mươi năm chưa từng gián
đoạn, có lúc xôn xao náo động, điều này chưa từng có trong lịch sử Phật giáo,
vậy mà thế hệ chúng ta gặp được, cũng coi như “may mắn” và “thu hoạch tốt nhất”
của thế hệ chúng ta.
Cảnh
ngộ và trải nghiệm của bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, tôi đã đích thân trải
nghiệm. Tôi tận mắt nhìn thấy, đây cũng là một gia tài bất ngờ trong đời này
của tôi.
Đối
với người thọ trì bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, hai mươi năm nay, tôi nhìn
thấy năm hạng người này:
Hạng
người thứ nhất: chuyển qua tu tôn giáo khác.
Tại
sao vậy? Họ không hiểu được tại sao bên ngoài không ngừng phê bình, phê phán,
mắng nhiếc bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ. Sao cửa Phật lại như vậy, không phải
phê bình cái này thì là mắng nhiếc cái kia, học Phật sao lại phiền phức như
thế? Dứt khoát không học Phật nữa, học tôn giáo khác thôi. Một người bạn tốt
của tôi, cả nhà họ học Phật, sau đó bởi vì tôi bị phê bình bị mắng nhiếc, họ
không hiểu được, cả nhà họ bèn chuyển sang học Cơ Đốc giáo.
Hạng
người thứ hai: không chịu được áp lực quá lớn từ bên ngoài, đánh mất tín tâm
đối với bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ.
Số người này cũng không ít, trạng thái tâm lý
của rất nhiều người là không muốn chuốc phiền phức, học cái nào chắc chắn vậy.
Nên có người chuyển sang tu bản dịch của Khang Tăng Khải, có người chuyển sang
tu kinh Phật Thuyết A-di-đà. Những người này có một đặc điểm chung, mặc dù họ
từ bỏ bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, nhưng không từ bỏ pháp môn niệm Phật Tịnh
độ và năm kinh một luận của Tịnh độ. Những người này, chúng ta không có gì đáng
trách, nhân duyên khác nhau mà, ai cũng có quyền tự do chọn lựa.
Hạng
người thứ ba: từ bỏ, hủy báng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ. Tôi từng gặp qua
người như vậy. Một người trí thức lớn tuổi, tu học Phật pháp nhiều năm, thọ trì
bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, theo lời ông ấy nói, đã tụng hơn bốn ngàn biến
kinh Vô Lượng Thọ.
Có
một hôm, đột nhiên ông nói với tôi, ông không đọc kinh Vô Lượng Thọ nữa, tôi
nghe xong rất kinh ngạc, nhưng tôi không ngăn cản ông, tôi biết tính tình của
ông ấy, ngăn cản cũng vô dụng.
Tôi
nói với ông: “Ông từ bỏ cũng được, nhưng nhất định không được hủy báng”. Ông ấy
đồng ý với tôi. Nhưng trên thực tế, ông ấy đã hủy báng, ông ấy nói ông tìm ra
hơn 100 chỗ sai trong bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ.
Không
tới một năm thì ông qua đời, qua đời rất thảm. Nằm trong bệnh viện, vợ của ông
gọi điện thoại cho tôi, kêu tôi tới tiễn ông ấy, tôi đã đến đó rồi. Bởi vì ông
từng nói với tôi, hy vọng lúc ông vãng sanh tôi sẽ tới tiễn, tôi đã đồng ý với
ông, tôi phải giữ lời. Lần đó chỉ có một mình tôi tới tiễn ông vãng sanh, như
vậy thật khó! Cả người ông cắm đầy ống dẫn, đôi mắt mở thật to, miệng còn đeo
máy thở, hơi thở hổn hển, lồng ngực phập phồng kịch liệt, thật sự là thê thảm
không nỡ nhìn.
Sau
khi ông qua đời, một mình tôi lạy Phật niệm Phật cho ông mười hai tiếng đồng
hồ, đầu gối và khuỷu tay đều bị thương, nhưng cũng không thể giúp được ông, trơ
mắt nhìn thân thể ông cứng đờ, khuôn mặt hung dữ đáng sợ, theo nghiệp lưu
chuyển rồi.
Quý
vị đồng tu, tuyệt đối đừng hủy báng Phật, Pháp, Tăng! Đây không phải là trò
đùa, đằng sau còn có nhân quả theo ta. Phải nghe lời khuyên! Không nghe lời
khuyên, ác quả hiện tiền, hối hận cũng không còn kịp nữa, ai cũng không cứu
được bạn, bạn tự làm tự chịu thôi!
Hạng
người thứ tư: sáng suốt giữ mình, không dám công khai thọ trì bản hội tập kinh
Vô Lượng Thọ.
Người
như vậy trong chúng tại gia, chúng xuất gia đều có. [đây cũng là] chuyện thường
tình của con người, có thể tha thứ được, có ai không muốn chính mình bình an vô
sự?
Hạng
người này luôn nhìn trước ngó sau, nhìn gió bẻ lái. Gió lớn thì ngừng lại; gió
nhẹ lại tiến lên.
Tương
lai hoàn cảnh được cải thiện thì sẽ xuất hiện một nhóm phần tử tích cực học tập
bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ. Thậm chí có người có thể giảng kinh thuyết pháp,
hoằng dương bộ kinh này.
Tương
lai hoàn cảnh chuyển biến xấu đi, những người này liền mai danh ẩn tích, họ rất
giỏi tự bảo vệ mình, nơi đầu sóng ngọn gió chắc chắn không nhìn thấy bóng dáng
của họ.
Tôi
nói lời thật lòng, sẽ đắc tội người khác. Đắc tội người khác cũng phải nói:
“Người như vậy chắc chắn không phải là bậc pháp khí cửa Phật, cũng tuyệt đối
không phải là trụ cột nơi cửa Phật”.
Hạng
người thứ năm: tín nguyện kiên cố, vĩnh viễn không thoái tâm.
Hai
câu kinh văn “dẫu thân tôi ở trong các khổ, nguyện tâm như thế mãi chẳng thoái”
là miêu tả chân thực về hạng người thứ năm. Ai là tấm gương? Lão pháp sư! Một
đời này của lão pháp sư trải qua nhiều lần trắc trở, rất nhiều khó khăn, nơi ở
không cố định, ngao du một đời, chính những trắc trở và sự tôi luyện này đã
thành tựu Thánh Tăng một thời.
Năm
2010, tôi mới gặp lão pháp sư ở Hồng Kông mà như đã quen thân, giống như tìm
thấy người thân thất lạc đã lâu, cũng tìm thấy tình cha đã mất đi từ lâu. Năm
1986, người cha thương yêu tôi đã qua đời, tình thương của cha trở thành một
chỗ trống, sau khi gặp được sư phụ, tình thương của cha đã được lấp đầy chỗ
trống ấy, tình cha ngày xưa đã trở lại.
Mấy
hôm trước, có người đề nghị, thỉnh sư phụ trụ thế, tôi cũng viết một đoạn,
không dám đưa ra ngoài, bản thân tôi cảm thấy, đoạn văn thỉnh sư phụ trụ thế
của tôi viết khác với mọi người, phong cách khác người, có chút khác người. Hôm
nay can đảm lấy ra cúng dường cho quý vị đồng tu, tiếp nhận phê bình phê phán
của mọi người. Tôi là người hồn nhiên trẻ thơ, văn viết ra cũng phong cách hồn
nhiên trẻ thơ:
Sư phụ sư phụ con nghe lời
Ngài nhất định đừng bỏ
con đi
Con vẫn còn chưa
trưởng thành
Trưởng thành cùng sư
phụ về nhà
Sư phụ sư phụ hãy đợi
con
Nhất định đừng bỏ con
ở lại
Sư phụ không dắt con
về nhà
Con sẽ lớn tiếng khóc
hu hu
Từ phụ nào không
thương con mình
Sao nỡ để con mình
khóc thương
Con biết rằng sư phụ
từ bi
Nhất định sẽ dắt con
về nhà.
Nghe
“văn thỉnh sư phụ trụ thế” mà tôi viết, mọi người có cảm nhận gì không? Nghe
xong quý vị khóc hay là cười? Khóc hay cười đều tốt, đều là sự lưu lộ của tự
tánh.
Kinh
văn phẩm thứ tư “Pháp Tạng nhân địa đệ tứ” đã giảng xong, kinh văn phẩm này
tổng cộng giảng hết năm tập, từ tập 24 đến tập 28. Chúng ta tổng kết lại một
chút trọng tâm của kinh văn phẩm thứ tư, tổng cộng có bốn trọng tâm.
Trọng
tâm thứ nhất: sơ phát tâm của Tỳ-kheo Pháp Tạng ở nhân địa là gì? Sơ phát tâm
của ngài có gì khác với mọi người? Hạnh của ngài sau khi phát tâm là gì?
Sơ
phát tâm của ngài là “phát vô thượng chân chánh đạo ý, tức thị phát tâm vô thượng
Bồ-đề dã”. Tâm này là tâm thành Phật. Tỳ-kheo Pháp Tạng lúc còn ở nhân địa đã
phát tâm thành Phật.
Sơ
phát tâm của ngài hướng thẳng đến Nhất Thừa, chẳng rơi vào Quyền, Tiểu, “tu
Bồ-tát đạo” trong kinh văn đã biểu đạt điều này. Ngài không bắt đầu tu từ Thanh
văn, Duyên giác mà trực tiếp tu Bồ-tát đạo, trực tiếp tu Đại thừa.
Hạnh
của ngài sau khi phát tâm là “bỏ nước bỏ ngôi vua, trở thành Sa-môn”. Hạnh của
ngài là thị hiện “buông xuống” cho chúng ta thấy. Sau khi phát tâm, ngài thật
sự tu hành.
Trọng
tâm thứ hai: hạnh nguyện thù thắng của Tỳ-kheo Pháp Tạng là gì? Tại sao ngài
được tôn xưng là Đại Nguyện Vương?
Tỳ-kheo
Pháp Tạng phát tâm Bồ-đề là nguyện, tu tâm Bồ-đề là hạnh, hạnh nguyện của ngài
là bốn mươi tám đại nguyện. Do đức Di-đà phát thệ nguyện rộng lớn như biển nên
gọi là Đại Nguyện Vương. Để chứng biển nguyện này, Tỳ-kheo Pháp Tạng tích lũy
công đức trong vô lượng kiếp, một lòng trang nghiêm Cực Lạc Tịnh Độ. Do đại
nguyện sanh ra đại lực, sanh ra đại hạnh, thành tựu vô số y chánh trang nghiêm
của thế giới Cực Lạc và pháp môn Tịnh độ phổ độ chúng sanh, mấu chốt trong đó
là “Nguyện”.
Trọng
tâm thứ ba: học tập sự phát nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng.
Nguyện
âm thanh giống như Phật; nguyện trí tuệ giống như Phật; nguyên đức giác tha
giống như Phật; nguyện cầu thành Phật, phổ độ chúng sanh.
Trọng
tâm thứ tư: kết hợp kinh nghiệm học Phật nhiều năm của chính mình, sau khi học
kinh văn phẩm này, bạn có cảm ngộ gì? Bạn học được điều gì từ Tỳ-kheo Pháp
Tạng?
Trọng
tâm của kinh văn phẩm thứ tư đã nói xong, cúng dường cho mọi người tham khảo.
Chúng
ta vẫn còn chút thời gian, để tôi nói một chút về thể hội tu học của chính mình
cúng dường cho mọi người.
Học
Phật 20 năm rồi, thời gian này nói dài không dài, nói ngắn cũng không ngắn, nếu
tính theo 80 tuổi, vậy thì chiếm một phần tư đời người.
Có
lúc tôi đang nghĩ một vấn đề, chú ý! Đây là tôi đang suy ngẫm, đang nghĩ. Đây
không phải là tự tánh lưu lộ, tôi không có cảnh giới cao như vậy, nhưng mà tôi
muốn nỗ lực hướng tới cảnh giới đó.
Tôi
đang nghĩ vấn đề này: bộ kinh Vô Lượng Thọ thỏa bổn hoài của Phật rốt cuộc đang
giảng điều gì? Hết thảy pháp mà Thích-ca Mâu-ni Phật đã thuyết trong 49 năm,
tam tạng thập nhị bộ rốt cuộc đang giảng điều gì?
Tôi
là phàm phu, tôi dùng tâm phàm phu để hỏi vấn đề này, lại dùng tâm phàm phu để
suy nghĩ và trả lời vấn đề này, dường như có chút buồn cười, cho dù như vậy,
tôi vẫn muốn trao đổi với mọi người, không trao đổi thì làm sao nâng cao được
chứ?
Phật
đang giảng “tâm”.
Dạy
chúng ta đổi vọng tâm xao động bất an thành chân tâm tịch nhiên bất động, chân
tâm đó chính là tự tánh.
Tôi
nhớ hai ngày trước khi lão Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh, chị nói với tôi và
các đồng tu, phải đổi tâm, nói xong chị còn che miệng cười.
Đổi
tâm gì? Đổi tâm phàm phu thành tâm Bồ-tát, đổi thành tâm Phật.
Tâm
không có tốt xấu, tâm là trung tính. Nhưng dụng tâm khác nhau thì có phân biệt.
Thể là một, Dụng thì phong phú đa dạng. Ví dụ như có người dụng tâm hiểm ác, có
người chân tâm diệu hữu. Tâm này giống như chiếc thuyền, phải xem người lái
thuyền theo hướng nào?
Đơn
giản mà nói, đó là “công” tâm và “tư” tâm. Công tâm là tâm phục vụ cho chúng
sanh, tư tâm là tâm mưu cầu lợi ích cho chính mình. Có một số chuyện bây giờ
nghĩ lại cảm thấy khá thú vị, có chuyện cũng khá trêu người. Để tôi kể một câu
chuyện có thật cho mọi người nghe:
Khoảng
năm chín mấy, trong cơ quan được tăng lương, đảng ủy của tôi có hơn 100 người
nhưng chỉ có hai vị trí. Tôi nhớ lần đó đánh dấu phiếu bầu chọn, tôi đã được
chọn, một người khác là anh Mã sở trưởng sở giao thông.
Sau
khi mọi việc xong xuôi, có đồng nghiệp cũ hỏi tôi: “Tố Vân à, lần này cô được
tăng lương có người không phục, nói Tố Vân khờ khạo vậy, sao hai vị trí đó lại
đến phiên cô ta chứ?” Qua mấy hôm sau, người nói tôi khờ khạo lại hỏi tôi: “Tố
Vân, sao lần này cô lại được tăng lương vậy?”, tôi nói “do được bầu chọn”. Cô
ấy lại hỏi: “Cô tìm vị lãnh đạo nào vậy?”. Tôi nói: “Không tìm vị lãnh đạo nào
cả”. Nhìn vẻ mặt cô ấy dường như không tin tưởng lắm. Nhưng mà lời tôi nói là
thật. Hai hôm nay tôi viết bản thảo, tôi nhớ ra chuyện này, tôi tìm ra câu trả
lời tại sao tôi lại được tăng lương rồi, bởi vì tôi khờ khạo, ha ha, người khờ
có số khờ!
Tôi
kể tiếp cho mọi người nghe một câu chuyện có thật: Năm đó, cũng vào khoảng năm
chín mấy, tôi được đề bạt làm chánh văn phòng. Có đồng nghiệp cũ tìm tôi hỏi
tôi: “Tố Vân, chị lớn tuổi hơn em, được đề bạt làm phó phòng sớm hơn em sáu
năm, bây giờ em được đề bạt làm chánh văn phòng, còn là chức vụ thực, chị vẫn làm
phó phòng. Lần này em có thể nhường cho chị được không, sau này em vẫn còn cơ
hội”. Tôi nói “được, vậy em tìm ai để nói?”. Chị ấy nói “em tìm chủ nhiệm đó
nói đi, là lãnh đạo đảng ủy chúng ta”.
Tôi
thật sự đi tìm chủ nhiệm nói chuyện nhường lại vị trí cho người khác, sau khi
nghe xong chủ nhiệm nói: “Phó phòng cũ chèn ép con 6 năm không được đề bạt, sao
chị ta không đứng ra nói lời nào cho con? Đề bạt là chuyện của đảng ủy, không
phải chuyện cá nhân của mọi người, quay về đi”. Tôi hỏi chủ nhiệm: “Vậy con trả
lời chị ấy thế nào?” Chủ nhiệm nói: “Bảo cô ta tới tìm chú”.
Tôi
trở về văn phòng, đồng nghiệp cũ đang đợi tôi trả lời, tôi đem nguyên văn lời
của chủ nhiệm nói với chị ấy, chị ấy không nói lời nào, đứng dậy bỏ đi, từ đó
về sau không còn nhắc lại chuyện đó nữa. Tôi thật lòng muốn nhường cho chị ấy,
nhưng lời tôi nói không được tính.
Làm
việc chung trong thời gian dài, đồng nghiệp đánh giá tôi như sau: Tính tình Tố
Vân bướng bỉnh một chút, nhưng tâm tốt, không làm khó ai. Có lẽ là tâm tôi tốt,
vận khí của tôi cũng tốt. Ví dụ như lãnh đạo gặp được đều đối xử với tôi rất
tốt, bao dung tính cách bướng bỉnh của tôi. Bây giờ nghĩ lại, tôi cũng vô cùng
biết ơn.
Tôi
muốn nhân cơ hội này giới thiệu một vài người tốt, một vài vị lãnh đạo tốt mà
tôi gặp được.
–
Vị đầu tiên là hiệu trưởng Vương Trị Quốc.
Năm
1964 tôi tốt nghiệp trung học phổ thông, tới trường Bảo Quốc Tứ làm giáo viên
dạy thay, năm đó tôi 19 tuổi.
Lãnh
đạo nhà trường thường tới các lớp nghe giảng, hướng dẫn cách dạy học. Hiệu
trưởng tới nghe, chủ nhiệm giáo vụ cũng tới nghe. Chủ nhiệm giáo vụ tới nghe
thì tôi không hồi hộp, bởi vì cô Triệu Ái Hoa là cô chủ nhiệm tiểu học của tôi;
hiệu trưởng tới nghe thì tôi hồi hộp, thầy ấy là nam, ngoại hình có chút già
trước tuổi, nhìn không ra tuổi thật của thầy, khóe mắt của thầy kéo hơi dài
xuống dưới, nhìn có vẻ nghiêm khắc.
Có
một lần hiệu trưởng tới nghe tôi giảng bài, đứng trước cửa phòng học, tôi nói
với hiệu trưởng: “Hiệu trưởng, thầy tới nghe giảng con rất hồi hộp”. Hiệu
trưởng nói: “Đừng hồi hộp, thầy tới nghe chỉ là hình thức thôi, con vừa giảng
thì thầy ngủ rồi”. Nghe thầy nói xong, tôi yên tâm hơn một chút. Một lát sau,
tôi thấy thầy hiệu trưởng thật sự ngủ, tôi hoàn toàn yên tâm rồi, tôi tự do
rồi! Tốt lắm, tiết học 45 phút giảng vô cùng náo nhiệt, chơi cũng vô cùng náo
nhiệt, lúc đó tôi dạy lớp 1 tiểu học.
Tôi
nhớ tiết học đó giảng nội dung “động vật trong rừng làm sao để chung sống hòa
thuận với nhau”. Các em có chuẩn bị, đã chuẩn bị một số đạo cụ, em thích con
vật nào trong rừng thì sẽ đóng vai con vật đó, dùng giấy vẽ rồi đeo trên đầu.
Tiết học hôm đó giảng đề tài này và chơi trò này. Tôi nhìn thấy hiệu trưởng ngủ
rồi, chơi thôi! Mặc kệ thầy ấy! Sau đó các em được chơi rất vui vẻ. Có một em
nhỏ khóc, hóa ra em ấy không chuẩn bị đạo cụ, nhìn thấy mọi người đều có, chỉ
mình không có nên em ấy khóc. Tôi nói: “đừng khóc nữa, cô đưa cho em cái của
cô, cái của cô lớn, cô là vua sư tử”.
Khi
đạo cụ của tôi đeo đạo cụ lên đầu em ấy, em ấy lại cười, nước mắt còn chưa khô.
Chúng tôi cứ như vậy chơi hết một tiết học, tiếng chuông báo hiệu hết giờ vang
lên, hiệu trưởng cũng tỉnh dậy.
Buổi
chiều, chủ nhiệm giáo vụ nói với tôi: “Hiệu trưởng Vương tìm con trao đổi ý
kiến nghe giảng”. Tôi nói: “Hiệu trưởng ngủ nên không nghe thấy gì”. Cô Triệu
Ái Hoa mỉm cười với tôi rồi nói: “Đứa trẻ ngốc này”.
Hiệu
trưởng Vương vừa mở miệng, tôi liền ngây người ra, không phải thầy ngủ sao, sao
đều nghe hết vậy? Hiệu trưởng Vương cười nói: “Thầy không ngủ, không phải con
sẽ hồi hộp sao? Mắt thầy nhắm lại nhưng tai thầy vẫn nghe! Hơn nữa tiết học đó
con giảng náo nhiệt như vậy, thầy có thể ngủ sao?”. Tôi nghe xong, gừng càng
già càng cay, hóa ra thầy ấy giả vờ ngủ.
Tôi
đã học chiêu này của hiệu trưởng Vương, sau khi tôi làm hiệu trưởng cũng nghe
giảng như vậy, hiệu quả rất tốt.
–
Vị thứ hai là: Tổng bí thư Lưu Khôn.
Năm
1984, tôi được điều đến chính quyền tỉnh làm việc, cơ quan làm việc cụ thể là
Phòng công tác cơ sở ủy ban kinh tế tỉnh, chủ quản lãnh đạo của chúng tôi là
tổng bí thư Lưu Khôn, tổng bí thư là cán bộ lâu năm có tính cách cương trực,
nói chuyện thẳng thắn, vô cùng yêu nghề.
Nhà
tôi ở Bình Phòng, là khu vực ngoại thành của Cáp Nhĩ Tân, cách nội thành Cáp
Nhĩ Tân hơn một giờ lái xe. Tôi ăn mặc rất quê mùa, có người gọi tôi là “đồ cổ
được khai quật”, thậm chí có người còn hỏi trưởng phòng chỗ tôi, chỗ các anh
đào được đồ cổ này ở đâu vậy?
Lúc
tôi được điều đến làm việc ở chính quyền tỉnh, không có cấp bậc gì, tôi là một
nhân viên bình thường của ban tuyên giáo đảng ủy nhà máy Đông An, gọi là trợ
lý. Năm 1985, đúng lúc đảng ủy chúng tôi đề bạt cán bộ, lúc đó tôi làm việc ở
đảng ủy chưa đủ hai năm, tôi 39 tuổi. Lần đề bạt cán bộ đó, tôi được thăng hai
cấp, vượt qua phó ban, trực tiếp được thăng lên làm chánh ban, chuyện này đã
gây ra sự náo động lớn trong đảng ủy, nghe nói chưa từng có tiền lệ như vậy. Có
người bắt đầu tìm hiểu bối cảnh của tôi, đáng tiếc là không thể tìm ra.
Từ
đó trở đi, tôi được để ý gấp bội, một “đồ cổ được khai quật” không có chút bối
cảnh nào, dựa vào gì mà được thăng liền hai cấp? Tôi bị người ta nhìn chằm
chằm. Nói thật là tôi cũng muốn biết tại sao mình được thăng hai cấp? Mấy năm
sau, trưởng phòng cũ của tôi, trưởng phòng Mậu, trước khi nghỉ hưu ông ấy nói
với tôi, là do tổng bí thư Lưu Khôn hết lòng tiến cử tôi trong lúc họp nhóm
đảng. Tôi hỏi trưởng phòng Mậu, tôi và tổng bí thư không hề qua lại, tại sao ông
ấy lại hết lòng đề cử tôi? Trưởng phòng Mậu nói, tổng bí thư Lưu Khôn là người
yêu quý nhân tài. Haiz, tôi là nhân tài gì chứ? Đến báo cáo khảo sát còn viết
không xong. Vậy để tôi kể cho mọi người nghe chuyện viết báo cáo khảo sát của
tôi.
Lần
đầu tiên làm khảo sát nghiên cứu doanh nghiệp, tổng bí thư dẫn theo hai trưởng
phòng, còn có tôi, bốn người chúng tôi tới nhà máy sản xuất xe ở Tề Tề Cáp Nhĩ
để khảo sát nghiên cứu, đề tài là “quản lý theo mục tiêu”. Tôi thấy ba vị lãnh
đạo mang theo một tên lính như tôi, chắc chắn là không có việc của tôi, tôi
cũng không nghiêm túc nghe, không nghiêm túc ghi chép, nói thật là tôi nghe
cũng không hiểu.
Không
ngờ lúc ngồi trên xe đi về, tổng bí thư nói, báo cáo khảo sát nghiên cứu này do
tiểu Lưu viết bản thảo đầu tiên. Lúc đó tôi ngây người, tôi không nghiêm túc
nghe, cũng không nghiêm túc ghi chép lại, trở về tôi biết viết gì đây? Tổng bí
thư nói, trở về ngồi suy nghĩ kỹ lại rồi viết bản thảo đầu tiên, bảy ngày sau
nộp.
Tôi
trở về nhà bức bối mất bảy ngày, dù thế nào cũng phải viết được gì đó, bảy ngày
sau đi nộp. Tổng bí thư nhìn tới nhìn lui, sau đó nói một câu: “Chú nói này
tiểu Lưu, bản thảo con viết không phải là báo cáo khảo sát, sao lại giống như
báo cáo văn học vậy?”. Trong lòng tôi nghĩ, dù gì cũng có hai chữ “báo cáo” mà.
Hai vị trưởng phòng muốn cười nhưng không dám cười, tổng bí thư nói với hai vị
trưởng phòng, hai người đem ghi chép của mình đưa cho tiểu Lưu, trở về viết bản
thảo thứ hai, bảy ngày sau nộp.
Tôi
trở về nhà lại bức bối tiếp bảy ngày, dựa vào ghi chép của hai vị trưởng phòng
viết bản thảo thứ hai. Sau khi cầm bản thảo thứ hai, tổng bí thư nói một câu,
tiểu Lưu hoàn thành nhiệm vụ rồi, bản thảo thứ ba cho trưởng phòng Liễu viết.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, cuối cùng tôi cũng được tự do rồi.
Hai
vị trưởng phòng nói với tôi, tổng bí thư đang huấn luyện cô đó, làm việc ở
chính quyền tỉnh mà không biết viết báo cáo sẽ bị thiệt thòi đó. Tổng bí thư
nói với hai vị trưởng phòng, sau này nếu ra ngoài khảo sát nghiên cứu, nhất
định phải dẫn tiểu Lưu theo, để cô ấy mau qua được cửa ải viết tài liệu, phải
chỉ dạy cho tốt, tiểu Lưu là một nhân tài. Chú ấy không phê bình tôi câu nào,
nhưng tôi có thể không nỗ lực sao? Có lẽ là thấy tôi tiến bộ rất nhanh, cho nên
trong lúc họp nhóm đảng mới hết lòng tiến cử tôi thăng liền hai cấp. Chưa thông
qua sự kiểm chứng, không biết tôi nghĩ có đúng hay không?
Hai
mươi năm nay không nghe được tin tức gì của tổng bí thư, năm nay chắc chú ấy
cũng gần 90 tuổi rồi! Tổng bí thư à, tiểu Lưu năm đó không biết viết báo cáo
khảo sát nghiên cứu vĩnh viễn biết ơn chú!
Cảm ân lãnh đạo xưa
Dạy con viết bản thảo
Ân đức lớn của người
Con nhớ mãi trong
lòng.
Tiết
học hôm nay giao lưu tới đây. Cảm ơn mọi người, A-di-đà Phật!