PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc
giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời
gian: 07/12/2020
Địa điểm:
Tiểu viện Lục Hòa
Tập 33
Quý vị đồng tu tôn
kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật.
Nguyện thứ 14, nguyện
chạm quang minh được an lạc. Nguyện văn như sau:
Nhược hữu chúng sanh, kiến ngã quang minh, chiếu xúc kỳ thân,
mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc.
Nguyện này là từ
nguyện trước mà có, thể hiện Phật quang có đầy đủ diệu đức lợi ích chúng sanh.
Quang minh vô lượng chỉ là để làm ra vô lượng lợi ích, bất kỳ người nào thấy
Phật quang chiếu, hoặc được Phật quang chiếu đến thân thì lập tức được thân tâm
an lạc. Hơn nữa sự an lạc này bất kỳ sự an lạc nào trong thế gian cũng không
thể sánh bằng, đây là loại an lạc thanh tịnh chân thật cực thù thắng. Do đó tự
nhiên khơi gợi từ tâm của chúng sanh, họ tự nhiên dũng mãnh làm điều thiện,
càng quan trọng hơn là sanh khởi hoằng nguyện sanh về nước Cực Lạc, nhờ đó họ
có thể sanh đến Cực Lạc Tịnh Độ. Vì vậy người thật sự nhìn thấy quang minh của
A-di-đà Phật đều có được lợi ích thù thắng như vậy.
“Mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc”, ba câu kinh này vô
cùng quan trọng, là nhu cầu vô cùng bức thiết đối với chúng ta hiện nay. Vì sao
vậy? Chúng ta sống trong thời đại động loạn này, thân tâm bất an, giàu mà không
vui, sang mà không an, đã trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến. Làm thế nào
để thân tâm của chúng ta an ổn? Đọc kinh Vô Lượng Thọ, đem lời dạy trong kinh
hoàn toàn thực hiện vào trong cuộc sống thì tâm của bạn sẽ an. Vì sao vậy? Nhìn
thấu thế gian này rồi, biết thế gian này vì sao hỗn loạn đến như vậy, bất an là
do nguyên nhân gì tạo thành. Biết được nhân rồi thì bản thân chúng ta sẽ không
tạo nhân đó, chúng ta thay đổi bản thân chứ đừng thay đổi người khác, hãy
chuyển đổi chính mình. Chính mình thay đổi rồi thì an lạc biết bao, pháp hỷ
sung mãn. Chúng ta thấy lão hòa thượng Hải Hiền, tất cả những người đã gặp ngài
đều nói ngài từ bi, không ai nhìn thấy bộ dạng không vui vẻ của ngài cả. Bất
luận là khi nào, ở đâu, bạn tiếp xúc với ngài thì ngài đều rất hoan hỷ, khiến
họ cảm nhận được tâm yêu thương và sự ấm áp của ngài. Đây là gì vậy? Đây là
A-di-đà Phật mượn thân thể của ngài để phóng quang, phóng từ quang, phóng quang
minh bi mẫn, phóng quang minh cứu giúp hộ trì, từ trên thân ngài mà biểu diễn
ra. Kinh Vô Lượng Thọ, phẩm Quang Minh Biến Chiếu nói rằng người gặp được quang
minh này sẽ được cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Cấu là cấu ô, ác
trược, chỉ cho đủ loại phiền não. Những thứ này đều tiêu diệt rồi thì tự nhiên
sanh ra thiện nguyện cùng các chúng sanh đồng sanh Cực Lạc. Thân ý nhu nhuyễn,
nhược điểm lớn nhất của chúng sanh thế giới Ta-bà là cang cường khó giáo hóa,
chấp trước kiên cố vào tình kiến, không chịu buông xả, vì vậy rất khó hóa độ.
Nhưng một phen gặp được Phật quang thì thân và ý đều đồng thời nhu nhuyễn, chư
Phật mới có thể tiến hành dạy dỗ. Người thọ giáo thì mới có thể được độ, đây
chính là lợi ích thọ giáo pháp do gặp được quang minh.
Quán Kinh nói: Quang
minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ
không xả. Cho nên chúng ta nói rằng pháp môn niệm Phật là dựa vào tha lực, Phật
quang chiếu khắp tất cả chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, vĩnh
viễn nhiếp thọ họ, hơn nữa một người cũng chẳng bỏ. Phàm những người gặp được
quang minh đều có thể vãng sanh Phật quốc. Lợi ích của Phật quang, sự rộng lớn
của Phật nguyện, thâm ân của Phật đều không thể nghĩ bàn.
Nguyện thứ 15: nguyện
thọ mạng vô lượng. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng.
Trong nguyện thứ 15
thọ mạng vô lượng, trước tiên là đức giáo chủ của cõi ấy thọ mạng vô lượng: khi
tôi thành Phật thọ mạng vô lượng. Như kinh Pháp Hoa nói: Sơn Hải Huệ Như Lai
thọ mạng không hạn lượng là do thương xót chúng sanh. Vì sao thọ mạng của ngài
vô lượng? Duy chỉ thọ mạng vô lượng mới có thể độ chúng sanh, cho nên thọ mạng
không phải là vì bản thân cần, bản thân không cần, đó là vô lượng thọ chân
thật. Vì sao vậy? Pháp thân không có thọ lượng, pháp thân Phật vô lượng, pháp
thân của mỗi người chúng ta cũng là vô lượng. Pháp thân và Phật là một, không
phải hai. Trong Đại kinh có một câu nói: ba đời chư Phật mười phương cùng chung
một pháp thân, chẳng những là chung một pháp thân mà trí tuệ, đức năng đều bình
đẳng, đều đầy đủ. Do đây mà biết, ở đây nói thọ mạng vô lượng là nói điều gì?
Nói báo thân, nói ứng hóa thân. Ứng hóa thân cũng vô lượng. Thích-ca Mâu-ni
Phật ở thế gian này chúng ta, ba ngàn năm trước thị hiện trụ thế 80 năm, thì
sao vô lượng thọ được? 80 năm là hiện thân giáo hóa chúng sanh, trên địa cầu
ngài là vô lượng thọ, nhưng chúng ta không biết. Trong truyện sử có ghi chép,
đại sư Trí Giả là Thích-ca Mâu-ni Phật hóa thân tái lai. Đại sư Vĩnh Minh Diên
Thọ, đại sư Thiện Đạo là A-di-đà Phật hóa thân tái lai. Vì vậy chúng ta liền
biết hóa thân cũng không có sanh diệt, duyên của chúng sanh chín muồi rồi thì
ngài hiện, khi duyên của chúng sanh đã hết thì ngài không còn nữa. Bạn xem,
ngài vì ai? Vì chúng sanh. Chúng sanh thật sự nhớ đến ngài thì ngài hiện tiền,
chúng sanh quên ngài thì không thấy ngài nữa, tùy thời ở. Cho nên kinh Lăng
Nghiêm nói, ngay đó sanh ra và cũng ngay đó mà diệt mất, nói rất hay. Bạn có
tâm nguyện cầu ngài thì ngài hiện tiền, khi bạn không có tâm nguyện nữa thì
không thấy ngài nữa. Chúng ta có tâm cầu ngài, vì sao ngài không hiện tiền? Vì
tâm chúng ta không thanh tịnh, phải dùng tâm thanh tịnh cầu ngài, ngài lập tức
hiện tiền, tất nhiên là phải có tâm bình đẳng nữa.
Xin xem đoạn kế tiếp,
bởi vì giáo chủ trụ thế không lâu nên sự ứng hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó
gặp được, nếu giáo chủ trụ lâu dài thì hóa duyên vô cùng, lợi sanh vô tận. Pháp
sư Trừng Hiến tán thán rằng, thọ mạng của Phật vô lượng, đức giáo hóa cao tột.
Đệ nhất đức của việc giáo hóa chúng sanh là gì? Là thọ mạng của Phật dài, Phật
vĩnh viễn ở thế gian, ai mà không mong mỏi nguyện vọng này chứ, đó là điều
chúng sanh mong muốn. Hơn nữa, Di-đà lại là báo thân Phật, Cực Lạc là báo độ,
đức giáo chủ thọ mạng vô lượng là chân thật vô lượng, không phải vô lượng của
hữu lượng. Ở thế giới Cực Lạc có thể nói là rốt ráo chân thật, đây là điều vô
cùng hiếm có khó gặp. Lời nói này dùng ngôn ngữ hiện nay diễn đạt thì thọ mạng
vô lượng là chỉ vô lượng tuyệt đối, không phải vô lượng tương đối. Tương đối là
trái với vô lượng thì có hữu lượng. Hữu lượng đối lập với vô lượng, ở đây nói
với chúng ta không phải vô lượng tương đối, là vô lượng tuyệt đối. Cảnh giới
này không thể nghĩ bàn.
Nguyện thứ 16: Nguyện
Thanh văn vô số. Nguyện văn như sau:
Quốc trung Thanh văn, thiên nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô
lượng. Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên giác. Ư
bá thiên kiếp, tất cộng kế giáo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh
Giác.
A-di-đà Phật có quang
minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, đệ tử vô lượng. Có người có nghi hoặc thế
này, Kinh Bi Hoa nói rằng: cõi nước của Phật đó không có Thanh văn, Bích-chi
Phật thừa, tất cả mọi người đều là Bồ-tát, vô lượng vô biên. Kinh Bi Hoa giới
thiệu thế giới Cực Lạc toàn là Bồ-tát Đại thừa, không có Thanh văn, Duyên giác,
không phải tầm thường. Thể hội đoạn kinh văn này thế nào đây? Thanh văn, người
trời trong nước vô số, đối với vấn đề này, sư Trừng Hiến đã nói như sau: Kinh
này vì sao nói Thanh văn vô số? Là do hai nguyên nhân, lời văn tuy trái nhau
nhưng nghĩa thực không trái ngược, tức là ý nghĩa không đối lập nhau. Kinh này
nói ba bậc vãng sanh đều là phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm. Người vãng
sanh trong ba bậc thảy đều đã phát tâm Bồ-đề, cho nên nhất định là Bồ-tát thừa.
Vì vậy kinh Bi Hoa nói toàn là bậc Bồ-tát, là nói ở thế giới Cực Lạc. Lão pháp
sư thượng Tịnh hạ Không đối với vấn đề này đã giải thích khá tường tận. Ngài
nói như sau, chúng ta nên biết, nói Thanh văn, người trời đều là tùy thuận thế
gian của chúng ta mà nói. Thế giới Cực Lạc có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm, đều
là tùy thuận theo thế gian chúng ta mà nói. Trên thực tế bên đó không có, vì
sao nói không có? Bạn hãy nhìn 48 nguyện một cách viên mãn xem, bạn sẽ hoàn
toàn hiểu rõ. Thảy đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát, bất luận là người trời hay là
Thanh văn, là Duyên giác là Tam Thừa Quyền Giáo đến thế giới Cực Lạc thảy đều
là A-duy-việt-trí Bồ-tát, chẳng phải đều bình đẳng sao? A-duy-việt-trí Bồ-tát
là thứ bậc nào? Là Pháp Thân Bồ-tát, nên thảy đều minh tâm kiến tánh, việc này
không phải do Thanh văn và người trời vãng sanh đã tu được, họ không có tu, vì
sao lại trở thành Pháp Thân Bồ-tát? Uy thần của bổn nguyện A-di-đà Phật gia trì
cho họ, khiến họ trở thành như vậy. Có được hay không? Vì sao những vị Phật khác
không làm như thế? Phật Thích-ca có năng lực gia trì chúng ta thành
A-duy-việt-trí Bồ-tát hay không? Có năng lực. Có năng lực vì sao không làm? Nếu
chúng ta hỏi Thích-ca Mâu-ni Phật, Thích-ca Mâu-ni Phật nhất định nói rằng
A-di-đà Phật ở thế giới Cực Lạc đã làm rồi, ông hãy đến chỗ của ngài học là
được. Phật Thích-ca cử chúng ta đến thế giới Cực Lạc học, A-di-đà Phật ở thế
giới Cực Lạc nghênh đón chúng ta, đỡ việc biết bao. Phật Phật đạo đồng, Phật
Phật đều tán thán nhau. Phật không có đố kỵ chướng ngại. Ngài đã làm rồi, làm
tốt như vậy, viên mãn như vậy, người ở chỗ ta cang cường khó giáo hóa, nghiệp
chướng sâu nặng thảy đều đưa đến nước của ngài, đưa đến chỗ ngài rồi thì toàn
bộ được giải quyết, đây chính là tâm nguyện của Thích-ca và Di-đà. Chúng ta hiểu
rằng Phật Phật đạo đồng, Thích-ca, Di-đà là một không phải hai. Bên kia đã làm
tốt rồi thì bên này không cần làm nữa. Chư Phật Như Lai không tranh tín đồ, bạn
thấy đức Di-đà làm tốt như vậy, đức Thích-ca chỉ cần giới thiệu tín đồ của ngài
qua bên đó, chỉ cần chịu tin, chân thật tin tưởng thì bạn học pháp môn này nhất
định sẽ đi được, khẳng định là sự thật, không phải giả. Thích-ca Mâu-ni Phật
không lừa người, nếu chúng ta tin tưởng Phật thì đây là điều quan trọng hơn bất
cứ điều gì.
Thanh văn và người
trời trong nước vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Pháp sư Trừng Hiến người
Nhật Bản xưng tán đây là đệ nhất đức của Tịnh độ. Trong các công đức làm lợi
lạc chúng sanh của Tịnh độ, đây là công đức lớn đệ nhất. Ngài nêu ví dụ rằng,
thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng như vậy, thấy Phật nghe pháp, thân cận thánh
chúng, không có duyên thoái chuyển, thảy đều là tăng thượng duyên. Nếu như
không lâu sau đó người vẫn bị chết thì giống cái chén ngọc không đáy, chén ngọc
cực quý báu xinh đẹp tinh tế nhưng lại không có đáy thì có tác dụng gì, có tốt
đến mấy cũng vô dụng. Sanh đến thế giới Cực Lạc lẽ nào vẫn còn phải chết ư? Đó
là cái gốc của duyên thoái chuyển. Cho nên thọ mạng vô lượng là công đức đệ
nhất của Tịnh độ.
Sư Vọng Tây nói, cái
gốc của các sự vui chỉ ở nơi nguyện này. Thế giới Cực Lạc không có các khổ, chỉ
có hưởng niềm vui, căn bản là ở ngay đại nguyện thọ mạng vô lượng này. Ở nước
Cực Lạc thường gặp Di-đà, thường nghe diệu pháp, mọi lúc mọi nơi đều là tăng
thượng nhân duyên, đều là khiến bạn đi lên. Nước chảy, cây báu đều đang thuyết
pháp. Ngửi mùi hương, ăn cơm đều tăng trưởng thiện căn, tất cả mọi thứ đều
khiến bạn đi lên. Đồng thời bạn muốn nghe pháp gì thì nghe pháp đó, điều quan
trọng hơn là nghe qua liền hiểu. Nhân dân Cực Lạc nơi nơi đều tiến lên, không
có duyên thoái chuyển. Đặc biệt là thọ mạng vô lượng, lẽ nào không thành Phật!
Phật pháp khó được nghe, không chỉ là nói bạn không có cơ hội nghe thấy mà bạn
nghe rồi nhưng không hiểu. Do vậy, lúc khai kinh phải khẩn cầu “nguyện hiểu rõ
nghĩa chân thật của Như Lai”. Nhân dân Cực Lạc vừa nghe liền hiểu, lại không có
duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, cho nên bất luận căn khí thế nào lâm
chung niệm Phật có thể vãng sanh thì đều nhất định thành Phật. Thế giới Cực Lạc
thù thắng ở chỗ này. Nhân câu “vãng sanh thế giới Cực Lạc thảy đều là
A-duy-việt-trí Bồ-tát” mà bạn hãy nên hạ quyết tâm đời này vãng sanh Tịnh độ.
Vì thế giới Cực Lạc được vô lượng thọ nên bạn cũng nên hạ quyết tâm đời này
vãng sanh Tịnh độ.
Lão pháp sư đã kể một
việc như sau, một đồng tu tham dự buổi thọ giới ở Hong Kong nói với lão Pháp sư
rằng, Sư phụ ở giới đàn khuyên anh ấy nên tu pháp sám chiêm sát. Lão pháp sư
nói với anh ấy, chiêm sát sám pháp bao hàm ở trong câu Phật hiệu rồi, bạn niệm
câu Phật hiệu này thì đã tu toàn bộ pháp sám chiêm sát rồi. Đồng tu đó đã nghe
hiểu, không thể thấy cái này thì học cái này, thấy cái kia thì học cái kia, vậy
thì bạn loạn rồi, bạn đã bỏ mất thế giới Cực Lạc rồi. Chiêm sát sám pháp là nói
cho ai nghe vậy? Không phải nói cho người niệm Phật, không phải nói cho người
muốn cầu sanh Tịnh độ. Họ không muốn tu Tịnh độ, cũng không muốn vãng sanh thế
giới Cực Lạc thì tu sám chiêm sát được, giúp bạn sám trừ tội lỗi. Phải biết,
niệm A-di-đà Phật, mỗi một câu đều sám trừ tội chướng trong vô thủy kiếp, phương
pháp này tốt biết bao, đừng thay đổi nữa, đổi đề mục là sai rồi. Đừng học pháp
môn này lại muốn học cả pháp môn kia, vậy thì xong rồi. Phải học Thiện Tài Đồng
Tử, Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham vấn, vị đầu tiên mà ngài tham vấn là Tỳ-kheo
Kiết Tường Vân dạy ngài pháp môn niệm Phật, ngài niệm câu Phật hiệu đến cùng,
cả đời không thay đổi. Ngài tham vấn rất nhiều pháp môn khác là thế nào vậy?
Pháp môn này của ngài tôi đã hiểu rồi, tôi cảm ơn ngài, tôi không học, vẫn là
niệm A-di-đà Phật. Năm mươi ba lần tham vấn, Thiện Tài Đồng Tử vẫn một câu
A-di-đà Phật niệm đến cùng, niệm đến sau cùng thì Phổ Hiền Bồ-tát dùng mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc, ngài thành tựu viên mãn rồi. Ngài không nói tham
vấn một pháp môn thì học luôn pháp môn đó, tham vấn pháp môn nữa thì lại học
nữa, vậy thì ngài học loạn rồi. Tấm gương này đã được nêu lên ở đây, chúng ta
không thể không biết. Thiện Tài Đồng Tử thành Phật là tín nguyện trì danh mà
vãng sanh thế giới Cực Lạc thành Phật. Năm mươi ba lần tham vấn là làm ra tấm
gương cho chúng ta thấy, có thể học theo không? Có thể, tùy hỷ một chút, xem
thử xem họ tu pháp môn nào, còn pháp môn tu chính của chính mình thì như như
bất động, đó gọi là cảm ơn nhưng không học, đối với pháp môn đó thì mình hoan
hỷ tán thán bởi vì họ độ một loại chúng sanh, nên tùy hỷ tán thán nhưng không
học mà một câu A-di-đà Phật niệm đến cùng. Không thấy Thiện Tài Đồng Tử tham
vấn một môn thì học một môn, không có, vậy vì sao ngài phải tham vấn? Là để
chúng ta thấy, sợ chúng ta tham vấn một môn thì học một môn, tham vấn hai môn
học hai môn, kết quả học lộn xộn hết, nên ngài làm tấm gương cho chúng ta, nhất
định phải hiểu đạo lý này, nếu không thì sẽ phá hỏng mất Đại thừa. Kinh Kim
Cang chứng minh cho chúng ta, “pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp”. Pháp có thể
học, có thể nghe nhưng không tu. Khi nói ra thì cái nào cũng hiểu, còn khi làm
thì chỉ nhất môn thâm nhập. Điều này không thể không biết. Biết bao người không
hiểu rõ đạo lý này, học rất nhiều pháp môn, kết quả một môn cũng chẳng thành
tựu, việc này chúng ta cần phải chú ý.
Sư Trừng Hiến nói,
người tu hành Phật đạo, tử ma là điều đáng sợ, sanh tử ngăn cách là nguyên nhân
chính của duyên thoái chuyển. Chúng ta đối với câu này cần phải đề cao cảnh
giác. Phật đối với việc này hết sức xem trọng, người nào có thể đảm bảo ngày
mai bạn vẫn ở thế gian, sang năm vẫn ở thế gian, chưa chắc! trong Kinh nói với
chúng ta, mạng người trong hơi thở, một hơi thở ra không trở lại thì đời này
chấm hết, đi đến nơi đâu? Bản thân không biết, mê hoặc điên đảo, nên mới xem ba
đường ác là đường thiện. Nếu họ biết là đường ác thì sao dám đi, không biết mới
đi. Sau khi vào rồi thì không ra được, càng mê càng sâu, tạo tác tội nghiệp,
chính là khởi tâm động niệm càng ngày càng nghiêm trọng, vô cùng đáng sợ, đây
là nguyên nhân căn bản của thoái chuyển đọa lạc, sau khi chết thì rơi xuống
ngàn trượng.
Gặp Phật nghe pháp,
gặp được Thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận thiện hữu, tự nhiên khoái
lạc, không có các khổ, đức ấy chẳng phải là một, một đây là một loại, không chỉ
là một loại, mà đều cần thọ mạng, nếu thọ mạng ngắn ngủi thì đáng tiếc khôn
xiết, theo lời của Niệm Lão là không cách nào tính toán được. Nguyện này rất
quan trọng, nhắc nhở chúng ta cầu trường thọ, có thể cầu trường thọ được không?
Được. Cách cầu thế nào? Niệm Phật vãng sanh thế giới Cực Lạc sẽ được trường thọ
thật sự. Đời này của chúng ta, việc lớn nhất trong đời này là gì? Việc này có
lẽ là việc lớn nhất: chúng ta cầu trường thọ chân thật, không làm chuyện giả,
thứ giả thảy đều buông xuống, phải hạ quyết tâm này, phải thật sự hạ quyết tâm.
Nói đến đây, lão Pháp sư có một đoạn như sau, tôi đọc cảm thấy xúc động sâu
sắc, xin trích dẫn nguyên văn ở đây để tặng chư vị đồng tu: “Cho nên tôi từng
nói rằng mọi người phản đối bản hội tập, tôi không thể phản đối, vì sao vậy?
Thầy truyền cho tôi, tôi tin rằng thầy không hại tôi, tôi tin thầy yêu thương
che chở tôi, nên tôi sẽ không chịu bỏ thầy. Tôi nói dù người trên toàn thế giới
không tin tưởng thì tôi vẫn tin tưởng, không ai chịu học thì một mình tôi học.
Tôi đã bái sư rồi mà còn phản thầy, không nghe lời thầy đó chính là bội thầy
phản đạo. Bội thầy phản đạo có quả báo không tốt, rất khó thành tựu, không có
tâm chân thành cung kính đối với thầy. Ngày nay gặp được một vị thầy tốt không
dễ, thầy tốt gặp được học trò thật sự y giáo phụng hành, không phản thầy nghịch
đạo cũng không dễ tìm, rất khó tìm được. Thật sự tìm được một người thì pháp
được truyền tiếp rồi, giống như chạy tiếp sức vậy, cây gậy của bạn đã có người
tiếp nhận, thật không dễ tìm, người giao gậy không dễ tìm, người nhận gậy cũng
không dễ tìm, thế nhưng phát tâm chân thành thì sẽ gặp được.” Đoạn này là
nguyên văn lời của lão pháp sư, một chữ tôi cũng không sửa.
Chư vị đồng tu, Các vị
đã nghe ngữ ý sâu xa trong đoạn này do lão pháp sư nói có cảm xúc gì? Quý vị có
hiểu được nỗi khổ tâm của ngài hay không? Một vị thánh tăng một đời, tâm luôn
mong chánh pháp cửu trụ, luôn mong chúng sanh lìa khổ, một vị lão nhân đáng mến
đáng kính, từ bi lương thiện, là vị ân sư khiến tôi kính ngưỡng, là người thầy
dẫn dắt tôi tiến lên phía trước trên con đường tu hành. Đời này có thể gặp được
minh sư, tôi đã mãn nguyện rồi.
Nguyện thứ mười bảy:
nguyện được chư Phật xưng tán. Nguyện văn như sau:
Ngã tác
Phật thời, thập phương thế giới vô lượng sát trung, vô số chư Phật nhược bất
cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức quốc độ chi thiện giả, bất thủ
Chánh Giác.
Nguyện này vô cùng
quan trọng, nếu không có nguyện này thì thế giới Tây Phương Cực Lạc có tốt đến
đâu chúng ta cũng không biết. Là ai đã nói với chúng ta có thế giới Tây Phương
Cực Lạc vậy? Là mười phương chư Phật nói với chúng ta. Dùng phương thức gì nói
với chúng ta? Dùng cách tán thán. Mười phương chư Phật cùng tán thán thế giới
Tây Phương Cực Lạc khiến chúng ta biết được thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đại ý
của lời nguyện này là khi tôi thành Phật vô số chư Phật trong vô lượng cõi Phật
mười phương thế giới nếu không đồng xưng tán danh hiệu của tôi, diễn nói công
đức của tôi và những điều tốt lành ở cõi nước tôi, tôi không thành Phật. Từ
“xưng” trong lời nguyện là xưng dương, tuyên xưng, “thán” là tán thán, tán
thưởng. Từ nguyện này chúng ta mới thấy rõ, khu vực giáo hóa của A-di-đà Phật
là tận hư không khắp pháp giới, nguyện này thể hiện rõ vô số chư Phật trong vô
lượng cõi nước mười phương thế giới, nói cách khác, một thế giới cũng chẳng
sót, một vị Phật cũng chẳng sót, không có thế giới nào, không có vị Phật nào
không xưng tán A-di-đà Phật, không xưng tán thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tán
thán thế nào? “Danh” là [nói] công đức danh hiệu và sự tốt lành của cõi nước,
chính là giảng giải kinh Vô Lượng Thọ. Đại đức tổ sư của Tịnh Tông Nhật Bản, sư
Vọng Tây nói, lục bát nguyện trung, lục bát chính là 48, trong 48 nguyện thì
nguyện này quan trọng nhất, quan trọng hơn hết thảy, nhược vô thử nguyện, y văn
thập phương, nếu không có nguyện này thì mười phương thế giới ai biết được có
A-di-đà Phật? Ai biết được có thế giới Cực Lạc. “Ngã đẳng kim trị vãng sanh
giáo giả, thiên thử nguyện ân, thiện tư niệm chi”, chúng ta đối với nguyện này
phải đảnh lễ, phải cảm ân. Vì sao vậy? Người thật sự tin tưởng thì đời này họ
sẽ thành Phật. Nếu bạn phê bình, khiến người mới tin thay đổi đức tin, nảy sinh
hoài nghi về việc này thì bạn đã đoạn mất cơ hội vãng sanh thế giới Cực Lạc
thành Phật trong đời này của họ rồi. Đây gọi là đoạn pháp thân huệ mạng của
người khác. Tội đoạn pháp thân huệ mạng của người khác so với tội sát sanh,
giết hại thân mạng của người khác còn nặng hơn. Giết thân mạng người thì đọa
địa ngục, đoạn pháp thân huệ mạng thì chắc chắn đọa Vô gián Địa ngục. Tương lai
sau khi trả xong tội báo trong địa ngục, lại được thân người, [nhưng] đời đời
kiếp kiếp ngu si, không nghe kinh pháp, tội này rất nặng! Bạn biết rằng, ngược
lại nếu tùy hỷ tán thán thì công đức này lớn, chẳng những thành tựu người khác
mà tương lai chính mình sẽ thành tựu.
Như Lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ nói, ý của sư Vọng Tây là nếu không có nguyện này thì chúng ta sống
trong lục đạo luân hồi nơi cõi Ta-bà uế độ, làm sao có thể nghe biết được đức
giáo chủ của cõi ấy và tên của cõi Phật ấy? Giáo chủ cõi ấy chính là A-di-đà
Phật, tên cõi nước Phật ấy là thế giới Cực Lạc. Phật ấy, cõi ấy, công đức thắng
diệu, thanh tịnh trang nghiêm, nếu chưa từng nghe thì làm sao phát khởi nguyện
thù thắng cầu sanh về cõi ấy, điểm then chốt chính là ở đây. Cho nên cổ đức
thường nói với chúng ta: thà động nước ngàn sông, đừng động tâm người tu đạo,
họ đã đi trên chánh đạo, bạn khiến họ cải đạo, khiến họ đi lầm đường, trách
nhiệm này không gánh nổi. Thế nên ngày nay chúng ta có thể nghe pháp môn Tịnh
độ, thật sự là nhờ lực của nguyện này.
Từ đại sư Huệ Viễn xây
niệm Phật đường ở Lô Sơn, 123 người cầu sanh thế giới Cực Lạc, ai nấy đều vãng
sanh. Lúc Viễn Công vãng sanh nói với mọi người trước đó ngài đã thấy thế giới
Cực Lạc ba lần rồi, nhìn thấy trong định, lúc tĩnh tọa nhập định trong niệm
Phật đường đã nhìn thấy, nhưng không nói với bất kỳ ai. Đây là lần thứ tư, Phật
đến tiếp dẫn, ngài sắp vãng sanh, đồng thời nhìn thấy các đồng học ở Liên xã
trước đây vãng sanh thảy đều ở bên cạnh A-di-đà Phật, đồng đến tiếp dẫn. Ngài
còn nêu ra được tên của từng người, việc này làm chứng chuyển cho chúng ta.
Từ đại sư Viễn công
đến ngày nay, mỗi triều đại có biết bao người niệm Phật vãng sanh, số ấy không
kể xiết. Tông phái nào cũng không có được sự thù thắng của Tịnh độ, vì sao vậy?
Tịnh độ dễ dàng, Tịnh độ chủ trương đới nghiệp vãng sanh, bất kỳ pháp môn nào
khác đều không đới nghiệp, không cho mang theo nghiệp, bản thân nhất định phải
đoạn phiền não, nâng cao cảnh giới của chính mình, bạn không đoạn được phiền
não tập khí thì bạn không nâng cao được. Pháp môn này không cần như vậy, chỉ
cần bạn tin tưởng, chỉ cần bạn muốn đi, nguyện chính là tôi muốn đi, bạn xem
đơn giản biết bao. 84.000 pháp môn độ 84.000 chúng sanh căn tánh không như
nhau, không phải phổ độ, pháp môn niệm Phật là phổ độ, bất luận [tu] pháp môn
nào cũng đều được độ, một môn tức là tất cả môn, tất cả môn tức là một môn.
Phải hiểu điều này, nếu không hiểu điều này thì bạn uổng công học Phật rồi.
Cho nên tôn kính tất
cả pháp môn, giống như Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham vấn. Thiện Tài tu pháp môn
nào? Tu pháp môn niệm Phật, làm sao biết được? Thiện tri thức đầu tiên dạy
ngài, cái nào đến trước thì làm chủ, người Trung Quốc có ý thức này, người Ấn
Độ cũng vậy. Tỳ-kheo Đức Vân, Tứ Thập Hoa Nghiêm gọi là Tỳ-kheo Kiết Tường Vân,
chỉ là một người. Lần tham vấn đầu tiên, Ngài tu Bát Chu Tam-muội, chuyên niệm
A-di-đà Phật. 51 vị thiện tri thức trong số đó đại biểu cho vô lượng pháp môn,
đại biểu Đại thừa, Tiểu thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, đây là
người Trung Quốc phân ra, đại biểu tất cả pháp môn. Pháp môn sau cùng, vị thứ
53, Phổ Hiền Bồ-tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Pháp môn đầu,
pháp môn cuối, chúng ta liền hiểu rõ Thiện Tài Đồng Tử là tu pháp môn niệm Phật
vãng sanh thế giới Cực Lạc, thành tựu đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm.
Nguyện này cũng nhắc
nhở việc tán thán lẫn nhau quan trọng biết bao, pháp môn đều tốt, phải tán
thán, không thể so cao thấp, nếu so sánh thì đều đọa địa ngục, vì sao vậy? Hủy
báng pháp môn. Pháp môn đó là Phật nói, nếu bạn hủy báng nó thì hủy báng Phật
pháp, hủy báng Phật pháp nhất định đọa Vô gián địa ngục. Không những các pháp
môn khác nhau trong cửa Phật phải tán thán lẫn nhau mà đối với tôn giáo khác
cũng phải tán thán lẫn nhau. Vì sao vậy? Chỉ có tán thán lẫn nhau thế giới mới
được hòa bình. Phật giáo Trung Hoa là tam học nhất nguyên. Tam học, thứ nhất là
Luật, thứ hai là Thiền, thứ ba là Giáo. Luật, Thiền, Giáo đều do Thích-ca
Mâu-ni Phật truyền, bạn phê phán thứ nào cũng là phê bình Thích-ca Mâu-ni Phật,
phê bình tổ sư đại đức của các chi phái, phê bình tất cả người tu hành ở đây,
bạn không đọa địa ngục thì ai đọa địa ngục? Phải biết đều là cùng một nguồn
gốc, đều là Phật nói. Hết thảy pháp thế xuất thế gian đều lấy hòa làm quý, vì
sao không thể chung sống hòa mục chứ? Vì sao lại đấu tranh? Đấu tranh là hủy
hoại bản thân, cũng hủy hoại người khác, càng ảnh hưởng lớn đến mọi người trong
xã hội. Họ sẽ không tín nhiệm tôn giáo, đó không phải là điều tốt, bạn thấy họ
đấu tranh với nhau, cho nên chúng ta chỉ có tán thán, không có hủy báng. Vì sao
vậy? Chúng ta không thể báng Phật, không thể báng Pháp, không thể báng tổ sư
đại đức, phải làm tấm gương tốt cho mọi người trong xã hội. Căn tánh của mỗi
người không như nhau, Phật ứng cơ thuyết pháp, nói ra vô lượng pháp môn. Trong
vô lượng pháp môn đó bao gồm các tôn giáo khác nhau, vì vậy tôn giáo trên thế
giới là một nhà, việc tán thán rất là quan trọng.
Do đức Di-đà có đại
nguyện thứ 17 nên chúng ta đời này mới có thể gặp được pháp môn phương tiện thù
thắng như vậy. Mọi người nghĩ xem, ngài Pháp Tạng lập nguyện mười phương đều
nghe danh hiệu ngài là vì lý do gì? Tuyệt đối không phải là vì sự nổi tiếng của
mình, mà tâm tâm niệm niệm đều vì nhiếp trọn tất cả chúng sanh mười phương vãng
sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có nguyện này thì nguyện mười niệm
ắt sanh cho đến những nguyện khác cũng có mà như không. Nguyện mười niệm ắt
sanh vô cùng thù thắng, nhưng nếu căn bản không nghe được Phật hiệu thì sao
niệm mười niệm được, ngay cả một niệm cũng chẳng có. A-di-đà Phật là tánh đức,
là danh hiệu của tánh đức, tánh đức là thứ mà tất cả chúng sanh đều có như
nhau, dùng tánh đức chung của chúng sanh làm phương pháp tu hành thì thật là vi
diệu!
Cho nên chỉ cần niệm
A-di-đà Phật thì đã niệm hết thảy pháp rồi, không chỉ là Phật pháp, hai từ
“Phật pháp” cũng có thể khái quát tất cả pháp, trên thực tế “tất cả pháp” như
Đàn Kinh nói chính là “nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”, danh hiệu
chung của vạn pháp chính là câu A-di-đà Phật, là đệ nhất đức của tánh đức, danh
hiệu đệ nhất trong danh hiệu. Theo thứ tự sắp xếp chữ Hán của Trung Quốc chúng
ta, thứ tự đầu tiên là chữ nhất, nhất chính là đạo, đạo sanh nhất, nhất sanh
nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn pháp. Chữ nhất đại biểu cho đạo, cho nên
A-di-đà Phật chính là nghĩa của chữ nhất này. Vì vậy chúng ta biết được tâm của
đức Di-đà chỉ là vì nhiếp thọ rộng khắp hết thảy chúng sanh mười phương vãng
sanh thế giới Cực Lạc, rốt ráo thành Phật, bạn thấy hiếm có biết bao. Chúng ta phải
cảm ân, sao chúng ta có thể nhẫn tâm phá hoại được. Nhẫn tâm phá hoại là người
vô tri, là người không hiểu Phật pháp. Người thật sự hiểu Phật pháp, nhất định
sẽ không làm chuyện như vậy. Nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có Tăng tán thán
Tăng, hãy nhớ thật kỹ câu nói này. Đối với người đừng tranh, thứ gì cũng tốt,
tốt thật sự chính là tương lai vãng sanh, làm ra tấm gương tốt, đó chính là tốt
nhất, tốt viên mãn. Nếu trong cửa Phật hủy báng lẫn nhau thì thật sự không nên
làm, chư Phật dạy rằng hài hòa là phương pháp bậc nhất. Phật Phật phải tán thán
lẫn nhau thì Phật pháp mới hưng vượng. Thế gian dĩ hòa vi quý, bất hòa thì gặp
tai ương. Tôn giáo là một nhà, không phân bạn, tôi, họ. Tất cả đều thành Phật,
đại nguyện viên mãn rồi. Chúng sanh Mạt pháp cang cường khó giáo hóa, mỗi ngày
tạo nghiệp hủy báng Phật pháp, mở miệng chỉ nói những lời linh tinh, bậy bạ,
phê tổ mắng thầy, miệng đầy lời thô tục. Tông môn, Giáo hạ đều là pháp của đức
Thích-ca, pháp môn bình đẳng không có cao thấp, mỗi ngày tính toán anh thấp tôi
cao, mê hoặc điên đảo báng Phật, báng Pháp. Thế xuất thế gian pháp đều phải
buông xuống, pháp còn nên xả huống là chẳng phải pháp, hãy ghi nhớ thật kỹ: Tam
học chung một nguồn, tôn giáo trên thế giới vốn là một nhà.
Tiết học này xin giao
lưu đến đây, cảm ơn mọi người. A-di-đà Phật!