PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 08/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 35
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người. A-di-đà Phật!
Nguyện
thứ hai mươi: nguyện lâm chung tiếp dẫn, nguyện văn như sau:
Nhất tâm niệm ngã, trú
dạ bất đoạn, lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ-tát chúng nghênh hiện
kỳ tiền, kinh tu du gian, tức sanh ngã sát, tác A-duy-việt-trí
Bồ-tát, bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Nếu phát tâm siêng tu như trên, niệm Phật không
gián đoạn thì người cầu sanh Tịnh độ đến khi lâm chung, “ngã”, ở đây
là chỉ cho A-di-đà Phật, cùng với rất nhiều đại Bồ-tát ở Tây
Phương đồng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người ấy vãng
sanh. Chỉ trải qua thời gian khoảng 48 phút thì đã sanh đến cõi nước
Cực Lạc, thành Bồ-tát bất thoái chuyển. Nếu như nguyện này không thành
tựu thì tôi không thành Phật.
Nguyện
lâm chung tiếp dẫn này vô cùng quan trọng, có lời nguyện này thì
chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh độ tâm được định rồi, không chút mảy
may nghi hoặc, lo lắng. Chúng ta không cần lo rằng hư không pháp giới
lớn như vậy, thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Đến giờ thì A-di-đà Phật sẽ
đến đón bạn, bạn hãy an tâm mà niệm Phật đi. Việc này, khi chị
tôi là lão Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh tôi đã thể hội được. Vì
trước khi chị vãng sanh đã nói với tôi: Chị lần này vãng sanh thế giới Cực
Lạc, hai bậc Đạo sư của hai cõi sẽ một người tiễn và một người
đón. Thích-ca Mâu-ni Phật tiễn chị, A-di-đà Phật đón chị. Đó là
lần đầu tiên tôi nghe thấy cách nói như vậy, sự thật đã nghiệm chứng
rồi. Khi chị ra đi, xác thật là hai vị đạo sư người tiễn người
đón.
Vì
sao nói nguyện lâm chung tiếp dẫn rất quan trọng? Vì con người đến khi lâm
chung sẽ cực kỳ mê loạn và điên đảo. Đại sư Linh Chi đời nhà Tống
nói: Phàm người lúc lâm chung, thần thức vô chủ. Đến lúc lâm
chung, thần thức của con người đã mê loạn rồi, không thể làm chủ. Nghiệp
thiện ác đã gieo thảy đều hiện hành. Những việc thiện, việc ác mà đời này
bạn làm đều ở trong ruộng tâm thức thứ tám của chính mình, những
chủng tử lưu trong đó đều hiện hành. Người ta khi sắp chết, những
điều họ làm trong đời đều hiện ra từ trong tâm, làm việc xấu thì tâm
vô cùng đau khổ, có khi sẽ khởi ác niệm, hoặc khởi tà niệm. Ví
dụ, có người cả đời ăn chay, lâm chung đột nhiên muốn ăn thịt, việc
này chính tôi đã thể hội sâu sắc. Năm 2005, tôi bị bệnh nặng, sau
khi bị bệnh tôi có một cảm giác đặc biệt, đặc biệt thèm ăn, thèm gì
vậy? Muốn ăn món chân giò rút xương, Hơn nữa chân giò đó sau khi thái
xong thành món chân giò rút xương, đều nhìn thấy được đường vân thớ thịt
rất rõ ràng, mùi thơm đó cứ lần lượt xông vào mũi tôi phảng
phất, lại còn nhìn thấy món chân giò rút xương ấy đang bốc khói, thèm
chết đi được, hận một nỗi không thể ăn một miếng. Lúc đó tôi
nghĩ, hay là nói với con, bảo chúng nó đi mua cho tôi. Sau đó,
tôi đã nhẫn được, không thể nói. Nếu như tôi vừa nói ra, các con sốt
sắng lập tức đi mua cho tôi thì việc ăn chay của tôi không thể nào
tiếp tục được nữa. Cho nên lần đó tôi đã rất khen ngợi bản thân, tôi
nhẫn được, tuy rằng thèm nhưng sau cùng tôi đã không ăn. Có
người tu hành mấy chục năm đến khi lâm chung thì mắng Phật, rất nhiều
loại người, hoặc tham luyến thế gian, không thể buông
xuống, hoặc giận dữ điên cuồng, đủ mọi tướng xấu, đều gọi là
điên đảo. Cho nên lúc lâm chung, đất lửa nước gió tứ đại phân
ly đã khổ không nói nên lời, lại còn thêm điên đảo, lúc này nghĩ
muốn dụng công thì phàm phu rất khó làm được. Nếu không có tu trì đặc
biệt thì không thể làm được, lúc này điều có thể tựa nương chỉ
có nhờ vào sự gia trì của đại nguyện Di-đà. Viên Trung Sao nói: Chúng
sanh thế giới Ta-bà, tuy có thể niệm Phật, thế nhưng kiến hoặc, tư
hoặc của họ cuồn cuộn như nước lũ, thật sự không ngừng
dứt. Chẳng những không đoạn dứt được, mà ngay cả phục cũng không phục
nổi, đè nén một chút cũng không làm được. Trong tình cảnh như
vậy, mà đến khi lâm chung tâm không điên đảo, có thể niệm
Phật thì điều đó hoàn toàn không phải tự sức mình làm chủ được, tức
là nói chỉ dựa vào sức của bản thân thì không có cách nào làm
được. Chỉ dựa vào tự lực thì không làm chủ nổi, cho nên hoàn
toàn nhờ vào A-di-đà Phật hiện đến trước mặt, nhổ trừ nghiệp chướng mà cứu
giúp. Lúc này hoàn toàn nhờ vào đại lực của A-di-đà Phật đến
tiếp dẫn, cứu vớt. Tuy vốn không phải chánh niệm nhưng có thể sanh
chánh niệm, nên tâm không điên đảo, vãng sanh Cực Lạc, đây toàn
nhờ vào sức gia trì của Phật.
Kinh
A-di-đà do đại sư Cưu-ma-la-thập dịch vào thời đại Diêu Tần có một
đoạn kinh văn nói như sau: Người ấy đến lúc lâm chung, A-di-đà Phật
cùng chư Thánh chúng, hiện ở trước mặt, lúc người ấy lâm chung tâm
không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của A-di-đà
Phật. Chúng tôi đã có sự thật để nghiệm chứng cho đoạn kinh văn
này, ví dụ, lần này tiễn lão Bồ-tát Đổng vãng sanh, thời khắc sau
cùng ông ấy nhìn thấy Phật chính là chư Phật và thánh chúng hiện ở trước
mặt, ánh mắt ấy của ông thật sự khiến tôi cả đời không quên, đây là
làm chứng chuyển. Đại sư La Thập, vì người dân Diêu Tần chuộng sự giản
kiệm, người Trung Quốc thích văn tự đơn giản nên lời văn ngài dịch
cực kỳ ngắn gọn nhưng vẫn có thể lĩnh hội được rằng lâm chung sở dĩ
có thể tâm không điên đảo, vãng sanh Cực Lạc là do Phật và Thánh
chúng hiện ở trước mặt người ấy. Bản dịch Kinh Xưng Tán Tịnh độ Phật Nhiếp
Thọ của đại sư Huyền Trang thời Đường văn tự khá chi tiết, nêu rõ
nghĩa kinh. Kinh văn như sau: Đến khi lâm chung, Phật Vô Lượng
Thọ cùng với vô lượng đệ tử Thanh văn, Bồ-tát đều vây quanh trước
sau, đến trước mặt người ấy, từ bi gia trì khiến tâm chẳng
loạn. Từ kinh văn có thể thấy là do A-di-đà Phật từ bi gia
trì, nên người lâm chung tâm không điên đảo mê loạn, chánh niệm phân
minh, theo Phật vãng sanh. Kinh Bi Hoa nói: đến khi lâm
chung, ta cùng đại chúng đúng lúc vây quanh, hiện ở trước mặt người
ấy, người ấy thấy ta lập tức nhờ vậy mà được tâm hoan hỷ. Ý nghĩa của
đoạn này là họ nhìn thấy Phật đến rồi nên hoan hỷ, yên tâm. Phật
vào lúc đó nhập Vô Ế Tam-muội, ế nghĩa là che chướng. Dùng sức
Tam-muội hiện ở trước mặt người đó mà thuyết pháp cho họ. Nhờ nghe
được pháp mà được đoạn trừ tất cả khổ não, tâm đại hoan hỷ. Do
tâm ấy hoan hỷ, nên đắc Bảo Trí Tam-muội, nhờ sức Tam-muội này khiến
tâm đắc Niệm Nhẫn và Vô Sanh Nhẫn, sau khi mạng chung, ắt sanh về cõi
ta. Do Phật đến tiếp dẫn nên người lâm chung sanh tâm đại hoan
hỷ, ngay lúc đó Phật nhập Vô Ế Tam-muội, nhờ sức gia trì của Tam-muội
này, Phật diễn nói diệu pháp cho người ấy, người ấy nghe pháp
xong lập tức đoạn trừ tất cả khổ não, như vừa tỉnh mộng, như
ngọn đèn chiếu sáng phá tan tăm tối tích tụ ngàn năm, cho nên người ấy
sanh tâm đại hoan hỷ. Chữ “đại” này không phải “đại” trái ngược với
“tiểu”, mà là đại của tuyệt đối, là chữ Đại trong Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh. Ngay lập tức chứng nhập Bảo Trí Tam-muội, nhờ
sức mạnh của Tam-muội này, tâm có thể an trụ chánh niệm và đắc vô
sanh pháp nhẫn, an trụ trong pháp vô sanh, Bồ-tát Bát Địa trở lên mới
có thể hoàn toàn khế nhập chứng đắc, nên sau khi mạng chung chắc chắn
vãng sanh thế giới Cực Lạc. Cho nên bản dịch thời Đường và Kinh Bi
Hoa giúp cho bản dịch thời Tần nêu rõ pháp môn Tịnh độ là pháp môn
tha lực, giáo phái thành quả, điều này cùng với lời nguyện trong kinh này
hoàn toàn đồng nhất. Phật phát nguyện lâm chung tiếp dẫn, đại nguyện
này rất là quan trọng, tâm cầu sanh Tịnh độ đã định, nghi hoặc âu lo
đều tiêu hết, A-di-đà Phật đích thân tiếp dẫn, khiến người lâm chung
không điên đảo, chánh niệm phân minh về Cực Lạc, nghe Phật thuyết
pháp thật vi diệu.
Tác
A-duy-việt-trí Bồ-tát, A-duy-việt-trí là A-bệ-bạt-trí, phiên dịch
thành Hoa văn nghĩa là bất thoái chuyển, đây là giai vị của
Bồ-tát. Có ba loại bất thoái. Thứ nhất là vị bất thoái, địa vị
đạt được không còn bị hạ thấp nữa, đã trở thành bậc ngang hàng với thánh
nhân, chúng ta thường gọi là nhập vào dòng thánh, không còn thoái
chuyển xuống thành phàm phu nữa. Sơ quả của Tạng Giáo đã nhập vào dòng
thánh, họ không còn là phàm phu.
Thứ
hai, hạnh bất thoái, vĩnh viễn là hạnh độ sanh của Đại thừa, không
còn thoái chuyển xuống hàng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ, hạnh độ sanh không
thoái chuyển, Tạng Giáo căn bản không có tư cách này.
Thứ
ba, niệm bất thoái, là niệm niệm lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã, biển
Tát-bà-nhã chính là biển trí tuệ của Như Lai, chính vì niệm niệm đều
là trí tuệ của Như Lai, nên Địa Thượng Bồ-tát của Biệt Giáo mới có
thể đạt được cảnh giới này. Xa rời hai bên, khéo khế hợp trung
đạo, phá một phần vô minh, thấy một phần pháp thân mới có thể
bắt đầu chứng được niệm bất thoái.
Thế
nhưng trong nguyện này Phật nói mười phương chúng sanh được Phật tiếp
dẫn vãng sanh thế giới Cực Lạc đều là A-duy-việt-trí. Sách Yếu
Giải lại nói: ngũ nghịch thập ác nhờ mười niệm mà thành
tựu, mang nghiệp vãng sanh, người ở hạ hạ phẩm đều được tam bất
thoái. Ngũ nghịch thập ác mang nghiệp vãng sanh cũng ngang với Địa
Thượng Bồ-tát, cùng chứng tam bất thoái, đây quả thật là điều không
hề có trong mười phương thế giới, duy chỉ thế giới Cực Lạc mới
có. Phàm phu vãng sanh rồi thì thành A-bệ-bạt-trí, tuy họ là
A-bệ-bạt-trí, họ không thoái chuyển nữa nhưng họ vẫn là phàm
phu, tuy là phàm phu nhưng họ đã là A-bệ-bạt-trí. Chúng sanh cõi
này vãng sanh đến thế giới Cực Lạc thông thường đều sanh về cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, không phải sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo
Trang Nghiêm, cho nên vẫn là dễ đi. Sau khi vãng sanh đáng quý ở
chỗ là thành A-bệ-bạt-trí, vì vậy mười phương chư Phật tán thán chính
là như vậy, vừa dễ dàng vừa thù thắng. Thứ mà bạn dễ dàng đạt
được thông thường thì không thù thắng, thứ thù thắng thì luôn
luôn không dễ gì đạt được. Vãng sanh thế giới Cực Lạc là dễ dàng bậc
nhất, thù thắng bậc nhất, cùng lúc đạt được thứ cực dễ dàng, cực thù
thắng, việc này thật sự không thể nghĩ bàn. Thế nên đại sư Ngẫu Ích
tán thán rằng điều mà mười phương thế giới không có duy chỉ Cực Lạc
mới có, thắng dị siêu tuyệt như thế, thắng là thù thắng, dị là kỳ
lạ, siêu là vượt hơn, tuyệt là tuyệt diệu, lời nói suy nghĩ không
theo kịp. Nếu không nhờ chỗ cực trí của tâm tánh, công lao to lớn của
trì danh, đại nguyện của Di-đà thì sao được như vậy. Lời tán
thán của đại sư Ngẫu Ích là phát ra từ tận đáy lòng. Cõi phàm thánh đồng
cư của thế giới Cực Lạc vượt qua kiến giải thường tình như thế, đây
chính là chỗ cao siêu kỳ lạ độc đáo duy nhất của cõi Cực Lạc, phàm phu
vãng sanh đều không thoái chuyển, hơn nữa thọ mạng lại vô lượng, nên
đều là nhất định thành Phật. Đây không phải là điều mà phàm phu dùng
tâm tư duy tính toán ước đoán suy luận được. Nếu không phải nhờ chân tâm
diệu minh của người ấy, thì Phật tánh vốn có của chúng sanh đạt đến cực
điểm, công đức thần kỳ của trì danh, sức đại nguyện rộng lớn của
Di-đà thì làm sao có thể có được diệu quả thù thắng như thế. Đây
chính là công đức không thể nghĩ bàn của sáu chữ hồng danh Nhất Thừa
nguyện hải.
Nguyện
thứ hai mươi mốt: nguyện sám hối được vãng sanh. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật thời,
thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, hệ niệm ngã quốc, phát
Bồ-đề tâm, kiên cố bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi
hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả. Nhược hữu túc ác, văn ngã
danh tự, tức tự hối quá, vi đạo tác thiện, tiện trì kinh giới, nguyện
sanh ngã sát, mạng chung bất phục canh tam ác đạo, tức sanh ngã quốc,
nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe
đến danh hiệu của tôi, liền chí tâm khát ngưỡng, nhất tâm tưởng nhớ
cõi nước Cực Lạc, và phát Bồ-đề tâm vô cùng kiên cố, không có thoái
chuyển, vun trồng các gốc công đức, siêng tu đủ mọi công
đức, rộng gieo thiện căn. Niệm Phật là vua trong các điều
thiện, đương nhiên cần phải siêng tu và dùng tâm chí thành hồi hướng
cầu sanh Cực Lạc thì không ai mà không vừa lòng toại nguyện. Từ câu
“ngã tác Phật thời” cho đến “vô bất toại giả”, so sánh đoạn này với
nguyện thứ 19 thì cả hai nguyện về cơ bản là như nhau. Khác biệt quan
trọng duy nhất là trong nguyện thứ 19 có câu “nhất tâm niệm ngã, trú
dạ bất đoạn”, đây là chuyên tu trì danh. Còn nguyện này là “thực
chúng đức bổn” là kiêm tu hoặc là lối tu trì khác không giống như
chuyên tu. Ở đây không thể vẫn xem “thực chúng đức bổn” thành chuyên
niệm danh hiệu được, như vậy trùng với nguyện thứ 19 rồi, không thể
xuất hiện việc như vậy. Hai nguyện thứ 18 và 19 đều là chuyên chú coi
trọng việc trì danh. Cương yếu, tông chỉ của kinh này cũng là phát
tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm, đủ để chứng minh rằng chuyên tu trì
danh là chánh tông của Tịnh độ. Nhưng từ xưa đến nay, người trì chú,
tụng kinh, tham Thiền cho đến kiêm tu đủ loại mà được vãng sanh, cũng
thường thấy trong nhiều loại trước thuật, đây chính là phạm vi mà nguyện
này nhiếp thọ. Ví dụ rõ ràng nhất, đại sư Ngẫu Ích nói: người
tham Thiền không cần bỏ Thiền mà tu niệm Phật, chỉ cần đem công đức
tham thiền hồi hướng Cực Lạc là được. Đại sư quả không hổ danh chân
thật có Phật nhãn, là bậc đại thiện tri thức nêu rõ bổn tâm của đức Di-đà. Đại
sư Ngẫu Ích thật có con mắt Phật, nêu tỏ bổn tâm của Di-đà, Thiền
Tịnh vốn là cùng một thể, Thiền tức Tịnh, Tịnh tức Thiền, tham Thiền
không ảnh hưởng niệm Phật, niệm Phật không chướng ngại bạn tham
Thiền, tham Thiền nếu niệm đức Di-đà, đời này chắc chắn thành Hiền
Thánh.
Nguyện
sám hối được vãng sanh, trọng điểm ở việc sám hối, sám hối là then chốt
của việc vãng sanh. Nửa phần sau của nguyện này, từ câu “nhược hữu
túc ác” trở đi nêu rõ đặc điểm sám hối được vãng sanh. Nhiều đời quá
khứ cho đến đời này, những tội ác đã tạo được gọi là túc ác, người
thông thường chắc chắn có, nhưng chính mình luôn không biết, nếu có
người nghe được danh hiệu Phật sự khác biệt giữa cung kính và không cung
kính cũng rất lớn, tội chỉ có từ sám hối mà diệt, không thể làm việc
tốt để chuộc tội. Làm việc tốt thì được phước báo, làm việc xấu thì
bị ác báo, bạn muốn tiêu trừ ác báo, bạn chỉ có cách sám
hối, thừa nhận tội ác của bản thân, kiền thành tu pháp sám
hối, thống thiết hối cải, thề không tái phạm, học đạo hành thiện, trì
kinh trì giới, phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, người này sau
khi mạng chung sẽ không còn đọa ba đường ác, lập tức sanh đến cõi
nước Cực Lạc. Chiếu theo tội ác lúc sanh tiền của họ, vốn phải đọa
vào ba đường ác, nhưng nhờ sự gia trì của đại nguyện Di-đà nên trực
tiếp vãng sanh Cực Lạc. Đã sanh đến Cực Lạc thì vĩnh viễn không còn
đọa vào ba đường ác, đây chính là công đức vô biên của Nhất Thừa Nguyện
Hải. Cho nên người dân cõi này dù có túc nghiệp trọng tội đều có thể
mang nghiệp vãng sanh.
Có
người cho rằng không thể mang nghiệp vãng sanh, tiêu nghiệp mới có thể
vãng sanh. Còn có người nói mang nghiệp vãng sanh là mang thiện
nghiệp, việc này đều không hợp với nghĩa của kinh. Không còn đọa vào
ác thú mà trong nguyện thứ nhất [nói] cùng với không còn trở vào ba đường
ác trong nguyện này đều cho thấy người vãng sanh tuy vẫn có tội
nghiệp đọa vào ba đường ác, nhưng hiện tại nhờ đại nguyện của đức Di-đà
gia trì mà vãng sanh Cực Lạc, không còn đọa ba đường ác. Cho nên
nói mang nghiệp vãng sanh là chính xác. Nói về đới nghiệp chắc chắn là chỉ
cho ác nghiệp, nếu mang theo thiện nghiệp thì không cần nói làm
gì. Mang nghiệp vãng sanh là thật, xin đừng hoài nghi việc này
nữa, chư Phật Bồ-tát nói lời thật, không có một câu nào là
giả, chư Phật đã chứng, mình chưa chứng, tin lời Phật nói thì đúng
rồi, tội nghiệp của bạn nhiều đến đâu, chư Phật Bồ-tát đều biết
rõ, đến khi vãng sanh đều mang theo, A-di-đà Phật đều nhận
hết. Câu sau cùng [mọi người] nghe có hiểu không? A-di-đà Phật đều
nhận hết, một chút cũng không chừa lại cho bạn, bạn còn chưa yên tâm
sao?
Nói
về tiêu nghiệp, xin xem lời của đại sư Ngẫu Ích nói, mỗi niệm tiêu
trừ trọng tội trong 80 ức kiếp sanh tử, nếu người nào mỗi ngày sáng trưa
tối, ba thời đều niệm Phật, mỗi niệm đều tiêu trừ trọng tội trong 80
ức kiếp sanh tử. Niệm được 100 năm có thể chỉ tiêu được tội
nhỏ như một chút đất trên móng tay, còn thứ không tiêu được thì
giống như đất trên toàn địa cầu. Xin hỏi nghiệp này làm sao tiêu? Cho
nên vạn phần không thể dùng tiêu nghiệp vãng sanh thay cho mang nghiệp
vãng sanh được. Nói như vậy thì không thể nói Tịnh độ tông là
đạo dễ hành được. Hai chữ ‘tiêu nghiệp’ cũng có tính quan trọng của
nó, việc hối cải trong nguyện này cho thấy rõ mong muốn tiêu
nghiệp, chỉ cần biết bản thân có nghiệp, chịu tiêu nghiệp, tu
trì phù hợp với lời dạy của nguyện này thì đời này những tội nghiệp chưa
tiêu hết, bất kể là bao nhiêu, đến lúc vãng sanh đều có thể mang
đi, A-di-đà Phật đều thu nhận hết toàn bộ, đều có thể vận chuyển đem
đi. Nếu như có nghiệp mà không chịu tiêu thì không vãng sanh
được, bởi vì tiêu nghiệp mới biểu thị cho hành động hối cải trong
nguyện này. Cho nên nếu chịu tiêu nghiệp thì bất kể còn lại bao nhiêu
nghiệp, những tội nghiệp chưa tiêu đều có thể mang đi. Nếu căn bản
không chịu tiêu nghiệp vậy thì không thể vãng sanh được. Đừng quên
rằng nguyện này là nguyện sám hối được vãng sanh. Trước tiên sám hối
sau mới được sanh, không sám hối thì không được sanh.
Nguyện
thứ 22: nguyện trong nước không có người nữ. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật thời, quốc
vô phụ nữ.
Đại
ý của lời nguyện là, khi tôi thành Phật, trong cõi nước của tôi không
có phụ nữ, đều là người nam, đây chính là một trong những nguyên nhân
chủ yếu khiến thế giới Cực Lạc không có duyên thoái chuyển. Trong Kinh
nói: ái dục giữa nam nữ trong thế gian là chướng ngại lớn nhất của
việc học đạo, may mà chỉ có một thứ này, nếu có chướng ngại khác
tương đương như vậy thì tất cả chúng sanh trong thế gian đều không có
hy vọng được giải thoát. Hiện tại thế giới Cực Lạc chỉ có người
nam, nên cũng không có loại chướng ngại chí mạng này. Bản dịch thời
Ngô nói: Khiến cho trong nước tôi không có phụ nữ. Bản dịch thời Hán
nói: Người nữ vãng sanh là hóa sanh, thảy đều làm người nam. Lại
nói, trong nước ấy đều là Bồ-tát, A-la-hán, không có phụ nữ. Câu này
nói rất hay, thế giới Cực Lạc hoàn toàn đều là Bồ-tát,
A-la-hán, không có phụ nữ. Luật sư Đạo Tuyên đời Đường trích dẫn từ
trong kinh rằng: mười phương thế giới, nơi nào có phụ nữ thì nơi ấy
có địa ngục. Nay thế giới Cực Lạc không có ba đường ác, cũng không có
phụ nữ, thuần là ba mươi hai tướng đại trượng phu. Vì giữa nam và nữ
dễ sanh tình ái, đó là duyên thoái chuyển, cho nên cõi đồng cư ở Cực
Lạc thù thắng hơn Ta-bà. Nguyện này hay, A-di-đà Phật đem phiền não
của chúng ta, phiền não nghiêm trọng nhất, cắt đứt gốc rễ
ấy. Tôi đặc biệt cảm kích nguyện này, A-di-đà Phật thật là đại trí
tuệ, có phụ nữ là có nhiều việc [rắc rối], không có phụ nữ thì thật
là quá tốt.
Nguyện
thứ 23: nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam. Nguyện văn như
sau:
Nhược hữu nữ nhân, văn
ngã danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ-đề tâm, yếm hoạn nữ thân,
nguyện sanh ngã quốc, mạng chung tức hóa nam tử, lai ngã sát
độ.
Đại
ý của lời nguyện là, nếu có người nữ, nghe tên của tôi, có thể đạt
được thanh tịnh vô nhiễm, vô nghi vô cấu, tín tâm xa lìa phiền não
lỗi lầm xấu ác, phát tâm Bồ-đề, nhàm chán và lo lắng đối với thân
nữ, cảm thấy thân nữ của mình đáng ghét đáng lo, vì vậy mong muốn xả
bỏ thân nữ, người nữ này tu hành có tín tâm thanh tịnh lại phát tâm
Bồ-đề, ắt có sự tu trì, lại còn cầu sanh Cực Lạc, sau khi mạng
chung lập tức hóa thành thân nam, vãng sanh cõi nước Cực
Lạc. Nguyện này biểu thị có nguyện ắt được mãn nguyện, có người nhàm
chán thân nữ của chính mình, đến khi vãng sanh tự nhiên hóa thành thân
nam. Lại biểu thị rằng trong nước Cực Lạc không có phụ nữ, phụ nữ
trong mười phương thế giới chỉ cần tu trì như pháp và nhàm chán thân nữ thì
lúc lâm chung tự nhiên chuyển thành người nam, tức thời vãng sanh. Ví
dụ trong kinh Pháp Hoa, Long nữ thành Phật, khi đó cũng là trước tiên hóa
thành thân người nam, sau đó lập tức thành Phật. Trong Mật giáo thân
nữ cũng có thể thành Phật. Chúng ta xem phần giải thích trong pháp môn
Quán Niệm: Đó là do bổn nguyện lực của đức Di-đà. Đây không phải là
công phu của chính mình, không phải năng lực của bản thân, mà do
nguyện lực của A-di-đà Phật gia trì. Người nữ xưng danh hiệu
Phật, đến lúc lâm chung lập tức chuyển thân nữ thành thân nam, Di-đà
dắt tay, Bồ-tát nâng thân, ngồi trên sen báu, theo Phật vãng
sanh. Lúc A-di-đà Phật tiếp dẫn bạn Ngài đưa tay ra đón, nhấc bạn đặt
lên hoa sen, lúc này bạn đã chuyển thành thân nam rồi. Bạn nói khi
nào chuyển vậy? Ngồi vào hoa sen thì thành thân nam rồi. Đại sư Thiện
Đạo nói: Tất cả người nữ nếu không nhờ nguyện lực của đức
Di-đà thì ngàn kiếp vạn kiếp, hằng hà sa đẳng kiếp cũng không
thể chuyển được thân nữ. Đây nói rõ điều gì? thân nữ chuyển
thành thân nam dựa vào tự lực chẳng dễ dàng. Nguyên nhân là gì? Tập
khí. Nguyên nhân là chấp trước kiên cố, gọi là tình chấp, không chịu
buông xuống, niệm niệm không quên. Chúng sanh trong lục đạo không gì
khác, người thông thường gọi là vận mệnh, vận mệnh chính là tập
khí, tập khí chính là vận mệnh, tập khí quyết định vận mệnh của đời
bạn. Học Phật rồi, biết là giả nhưng vẫn không buông được. Thứ
nên buông thì không buông được, cái cần nhấc lên thì nhấc lên không
nổi. Nguyên nhân là gì? Tình chấp quá sâu, tập khí quá nặng.
Xin
nêu một ví dụ là như nhân địa của Phật Thích Ca, Thích-ca Mâu-ni
Phật lúc ở nhân địa, cũng chính là lúc còn là lục đạo phàm
phu, hành Bồ-tát đạo. Bồ-tát đạo là lục độ, Ngài tu lục độ đã
lâu rồi, siêng năng tu hành trong một đại A-tăng-kỳ kiếp, dần dần lìa
được thân nữ, chuyện này thật không hề dễ. Vì sao cần thời gian dài
như thế? Việc này chứng minh chủng tử nghiệp tập trong A-lại-da
thức, sức mạnh ấy lớn mạnh như vậy, bạn rất muốn chuyển nhưng
chuyển không được. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, đây là công phu tu
hành chân thật. Trong quan hệ nam nữ, cần phải xem nhẹ chữ
tình, càng nhẹ càng tốt, mới nắm chắc việc vãng sanh của chính
mình. Nếu một khi rơi vào lưới tình, bị tình làm cho khốn
đốn thì nhất định phải xông ra thoát khỏi vòng vây. Bạn phải biết mục
tiêu cuộc đời của mình là gì? Tình chấp khó đoạn cần phải đoạn, đánh
mất thân người chẳng dễ được, cơ duyên lần này vuột mất rồi, vô lượng
kiếp sau mới gặp duyên.
Nguyện
thứ 24: nguyện hóa sanh trong hoa sen. Lời nguyện như sau:
Thập phương thế giới
chư chúng sanh loại, sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa
trung hóa sanh, nhược bất nhĩ giả bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: các loại chúng sanh trong mười phương thế
giới phàm sanh đến thế giới Cực Lạc đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao
thất bảo, từ trong hoa sen nơi nước tám công đức của ao thất bảo mà
biến hóa sanh trưởng ra, nên gọi là liên hoa hóa sanh, điều này vượt
hơn sự hóa sanh trong tứ sanh là: thai, noãn, thấp, hóa không cần cha
mẹ, không cần ngoại duyên, tức là chỉ cần công đức của người vãng
sanh tương ưng với nguyện lực của Di-đà thì tự nhiên hóa hiện mà có
thân. A-di-đà Cổ Âm Thanh Vương Đa-la-ni Kinh nói rằng: thuần tự
nhiên hóa sanh trong hoa sen tươi đẹp vi diệu thuần khiết, đầy đủ đại
thần thông, quang minh rực rỡ, nên không phải là thân máu
thịt, cũng không cần cha mẹ, đều hóa sanh ở trong hoa sen. Còn
vì sao phải dùng hoa sen? Căn cứ theo Đại Nhật Kinh Sớ thì thế gian
ưa thích hoa sen, vì hoa sen rất cát tường, rất thanh tịnh, mọc từ
bùn nhơ mà không nhiễm. Trên phương diện Mật pháp cũng cho rằng diệu
pháp liên hoa là bí mật cát tường nhất. Thiên Thai Tông lại nói
rằng hoa sen đại biểu cho đại pháp cực thù thắng.
Thứ
nhất là hoa nhiều, quả nhiều, có cây có hoa không quả, có cây có quả
không hoa, ví dụ như quả sung. Thế nhưng hoa sen là cây có hoa có quả, không
những có hoa có quả mà hoa nhiều quả cũng nhiều. Bạn xem, trong hoa
có rất nhiều cánh hoa, trong quả cũng có rất nhiều hạt sen.
Thứ
hai, nó không những là hoa nhiều quả nhiều mà ý nghĩa thù thắng nhất của
hoa sen là nhân quả đồng thời, biểu hiện pháp thù thắng
nhất, cũng chính là pháp rất khó tin, pháp rất khó nghĩ
bàn, nhân và quả đồng thời xuất hiện.
Cách
nghĩ thông thường của chúng ta là từ nhân đến quả, là nhân có trước rồi
sau mới có quả, đó chính là Tiệm Giáo thông thường. Vậy thì trong ba
đại A-tăng-kỳ kiếp không ngừng trồng nhân, không ngừng được
quả, không ngừng triển chuyển tăng thượng. Thế nhưng theo Viên Đốn
Giáo thì nhân quả đồng thời. Cho nên Tịnh độ tông nói: lúc niệm Phật
chính là lúc thấy Phật, lúc thấy Phật chính là lúc thành Phật. Vậy
lúc bạn niệm Phật chính là lúc thành Phật, nhân quả đồng thời, không
thể nghĩ bàn. Chín phẩm hoa sen ở thế giới Cực Lạc thể hiện rõ mật ý
của Đại Nhật Như Lai, hoa sen là bí mật nhất, cát tường nhất. Đại
Nhật Như Lai là vị bổn tôn của Mật giáo, tên tiếng Phạn là Ma Ha
Tỳ-lô-giá-na, nghĩa là quang minh chiếu khắp, nên ngài còn có tên là
Biến Chiếu Như Lai. Bí mật nói ở đây trên thực tế là thâm
mật, trong Phật pháp không có bí mật, bí mật thông thường là điều
không thể nói cho người khác, không thể nói ra. Gọi là bí mật là do
sự lý của nó quá thâm sâu, không phải người thông thường có thể hiểu
được, nên gọi là thâm mật. Đến khi nào mới có thể hiểu
được? Đoạn vô thủy vô minh phiền não rồi thì bạn sẽ hiểu rõ, sẽ
“nghĩa kia tự thấy”. Người thế gian thường nói đọc sách ngàn lần
nghĩa kia tự hiểu, là tiểu ngộ. Trên tiểu ngộ có đại ngộ, trên đại
ngộ có triệt ngộ, thế giới Cực Lạc là triệt ngộ. Đại ngộ so với sự
thâm mật này thì có thể thọ dụng sự cát tường nhưng vẫn không hiểu
rõ, cần phải đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì mới hoàn toàn
hiểu rõ, mới biết được sự cát tường bí mật tối thắng. Người vãng
sanh tuy vẫn chưa hiểu rõ, nhưng họ được thọ dụng, đạt được thọ
dụng. Hoa sen này là rất chân thật, là cung điện u huyền để hành nhân
thân tội nghiệt liễu thoát sanh tử, đây là ví dụ, là ngôi nhà thần
diệu để an dưỡng huệ mạng của đương nhân, là nơi chúng ta chuyển phàm
thành Thánh, chuyển bát thức thành tứ trí. Người thông thường tu các
pháp môn khác, chuyển thức thành trí phải dựa vào sức lực của chính mình, thật
không dễ dàng, người niệm Phật nương vào sự gia trì của uy thần bổn
nguyện của A-di-đà Phật, chính là nguyện này, trong một khảy ngón
tay từ thế giới Ta-bà đến thế giới Cực Lạc. Hoa sen vừa nở thì thấy
Phật rồi. Sau khi gặp Phật thì thân tướng, trí tuệ, thần thông, công
đức so với A-di-đà Phật là như nhau, vượt hơn tất cả Thanh văn, Duyên
giác, Bồ-tát, sự thù thắng này đi đâu mà tìm chứ? Đại nguyện của đức
Di-đà, lòng từ bi vô cực, diệu đức khó nghĩ bàn, chúng ta phải cảm ân
Phật, báo Phật ân.
Nguyện
thứ 25: nguyện được trời người lễ kính. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật
thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ
bái quy mạng, dĩ thanh tịnh tâm, tu Bồ-tát hạnh, chư thiên thế nhân,
mạc bất trí kính.
Đại
ý của lời nguyện là khi tôi thành Phật, chúng sanh mười phương nghe
đến tên tôi thì hoan hỷ tin nhận, kiền thành lễ bái quy
mạng, dùng tâm thanh tịnh tu hành pháp lục độ vạn hạnh của
Bồ-tát. Các loài hữu tình [ở] thế gian và cõi trời đối với người này
không ai mà không tôn kính. Người phàm đều thích được người khác lễ
kính, có thể được người trời lễ kính thì không phải là người bình
thường, thiên nhân đều tôn kính bạn, thiên nhân tôn kính người thế
nào? Tôn kính người có đạo đức, có học vấn, tôn trọng người có tâm từ
bi, người có thể giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, tôn kính con hiếu cháu
hiền của thế gian, tôn kính người niệm Phật, người tu Tịnh độ thì
thiên nhân càng cung kính. Vì sao vậy? Bởi vì bạn đời này có cơ
hội đến thế giới Cực Lạc làm Phật.
Nguyện
thứ 26: nguyện nghe danh hiệu được phước. Nguyện văn như sau:
Nhược văn ngã danh,
thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia, chư căn vô khuyết.
Đại
ý của lời nguyện là, trong các lời nguyện nhiều lần thấy chữ
“nghe”, chữ “nghe” này bao gồm tin tưởng và tiếp nhận. Bởi do tin
nhận nên nghe danh hiệu được phước, tuy không thể vãng
sanh nhưng sau khi hết thọ mạng sanh vào nhà tôn quý, các căn không
thiếu khuyết, sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý, then chốt nhất vẫn là
ý căn, người này rất sáng tỏ, không hồ đồ, không điên đảo, không bị
bệnh thần kinh.
Nguyện
thứ 27: nguyện tu thù thắng hạnh. Nguyện văn như sau:
Thường tu thù thắng
phạm hạnh, nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là, do nghe danh hiệu mà tin nhận nên được phước của
nguyện thứ 26, nhưng điều quan trọng hơn là thường tu thù thắng phạm
hạnh. Phạm hạnh là hạnh thanh tịnh, thông thường là chỉ cho hạnh ly
dục. Chữ “phạm” này chỉ cho Phạm Thiên, Phạm Thiên là trời Sắc
Giới, trời Phạm Thiên không còn dục nữa, Phạm Thiên tuy có hình
sắc, nhưng đã không còn là thân máu thịt nữa rồi, nên đã lìa khỏi dâm
dục. Theo sự tu trì thông thường mà nói, một người trong một
đời chỉ cần có một lần quan hệ xác thịt giữa nam nữ thì không có
tư cách sanh lên trời Phạm Thiên, có thể thấy sanh lên trời cũng không
dễ. Cho nên, ra khỏi tam giới theo chiều ngang là việc không thể nghĩ
bàn. Phạm hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục. Bản chú sớ kinh Pháp Hoa
của ngài Gia Tường nói: Theo cách nói thông thường thì tất cả giới đều gọi
là phạm hạnh, đặc biệt nói đoạn dâm là phạm hạnh. Một cách giải thích
khác càng thâm nhập hơn, Ngài [Gia Tường] nói: tướng của phạm hạnh, phạm
gọi là Niết-bàn, cho nên phạm hạnh chính là pháp luân căn bản đại
Niết-bàn, là ba đức viên mãn đại Niết-bàn: pháp thân đức, giải thoát
đức, Bát-nhã đức. Đạt đến hạnh của đại Niết-bàn chính là phạm hạnh
chân thật. Trong kinh nói “tu thù thắng phạm hạnh” bao gồm hai ý ở
trên, bởi vì công đức nghe danh tin nhận thật sự không thể nghĩ
bàn, cho nên đời sau có thể hy vọng đạt được cảnh giới thậm thâm như
vậy.
Ba
nguyện trên, nguyện được trời người lễ kính, nguyện nghe danh hiệu
được phước, nguyện tu thù thắng hạnh đều không nhắc đến việc vãng
sanh, có thể thấy chẳng phải tất cả người niệm Phật đều có thể vãng
sanh, chỉ có người nghiêm túc như pháp tu trì mới có thể được như
nguyện. Nhưng vẫn có một số người chắc chắn có thể đạt được lợi ích đó
là được trời người lễ kính, được phước, đời sau tu phạm
hạnh nhưng không thể vãng sanh. Thế nên ba nguyện này cho thấy
tuy rằng nghe danh hiệu, tuy cũng tin nhận ưa thích nhưng thiếu sót
phát Bồ-đề tâm và nhất hướng chuyên niệm nên công đức không đủ, không
thể được như nguyện.
Hôm
nay tiết học này xin giao lưu đến đây, cảm ơn mọi người. A-di-đà
Phật!