PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời gian: 09/12/2020
Địa điểm: Tiểu viện Lục Hòa
Tập 37
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người. A-di-đà Phật!
Nguyện
thứ 39: nguyện trang nghiêm vô tận. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vạn
vật, nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô
năng xưng lượng, kỳ chư chúng sanh, tuy cụ thiên nhãn, hữu năng biện
kỳ hình sắc, quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ
Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là, tất cả vạn vật trong nước đều trang nghiêm, thanh
tịnh, quang minh, mỹ lệ, hình và sắc đều kỳ diệu thù thắng. Hình là
hình dạng chỉ cho lớn nhỏ, vuông tròn, dài ngắn v.v. Sắc là màu sắc, chỉ
xanh vàng đỏ trắng tím đen v.v. Tất cả đều vô cùng tươi đẹp và kỳ
diệu, không còn gì hơn.
Cho
nên nói hình sắc thù đặc. “Vi” là tinh diệu, vi diệu là tinh diệu đến
cực điểm. “Cùng” là cùng tận, cùng vi là trọn phần xinh đẹp, vi
diệu tột cùng, không có khiếm khuyết, không có thiếu sót. “Cực diệu”
chính là tuyệt diệu, thần diệu. Đối với sự vi diệu của cõi nước Cực
Lạc, không có người nào có thể ngợi khen tán thán, suy tính đo
lường, cho nên gọi là “vô năng xưng lượng”. Giải thích của Hội Sớ rất
hay, mở rộng ra ý nghĩa mà giải thích như sau, trong một hạt cực
nhỏ, ví dụ như hạt neutrino cũng bao gồm toàn bộ lý thể mà
thành, tất cả sự tướng làm thể, hoàn toàn là tướng do diệu lý hiện
ra, cho nên tướng mà vô tướng, là tướng vô lậu, là tướng của
thật tướng. Hết thảy hình tướng đều là tâm thanh tịnh của đức
Di-đà. Trong chỗ cực vi, hoàn toàn là tướng do diệu thể hiện ra, đều
là thật tướng, thế nên gọi là “cùng vi cực diệu”. Do vì thế giới Cực
Lạc hoàn toàn hiển hiện pháp giới sự sự vô ngại, một hàm chứa nhiều, nhiều
có thể dung nhập vào một, nhỏ có thể chứa lớn, dung nhiếp lẫn
nhau, trùng trùng vô tận. Ví như đem hai tấm gương chiếu đối diện
nhau, bạn sẽ nhìn thấy được vô cùng vô tận lớp lớp tấm gương ở bên
trong. Cho nên không thể nói, không thể đo lường được, cách thức ở
thế gian đều không thể làm được. Cực Lạc Tịnh Độ chỉ có Phật và
Phật mới có thể rốt ráo, nên ngoài Phật ra thì tất cả chúng sanh
trong chín pháp giới đều không thể phân biệt hình sắc của vạn vật ở Cực
Lạc, bao gồm hình dạng, màu sắc, quang tướng tức tướng hảo của quang
minh, danh số tức số mục của danh tự, huống hồ có thể nêu lên được
tổng quát tổng cộng là bao nhiêu, tổng thể là như thế nào, đều không
thể làm được. Cho nên nói, nếu có thể phân biệt được hình sắc, quang
tướng, danh số, cho đến nêu ra được tổng thể thì đức Di-đà không thành
Phật.
Nguyện
thứ 40: nguyện vô lượng sắc thụ. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật
thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bá thiên
do-tuần, đạo tràng thụ cao tứ bá vạn lý. Chư Bồ-tát trung, tuy
hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri.
Đại
ý của lời nguyện là: trong nước có vô lượng sắc thụ. Sắc thụ là tất
cả các cây báu trong nước đều do bảy báu hợp thành, màu sắc sáng rỡ,
sắc đẹp mỹ lệ, độ cao hoặc mấy trăm do-tuần, mấy ngàn
do-tuần. Một do-tuần có người nói là 40 dặm, có người nói là 60
dặm, có người nói là 80 dặm, đây là đơn vị khoảng cách, nhưng
không quá chặt chẽ. Do lộ trình hành quân trong một ngày của đế vương
thời xưa là một do-tuần, nên có sự chênh lệch lớn. Nếu chúng ta lấy
con số lớn nhất là 80 dặm thì cây cao chín ngàn do-tuần sẽ là 720.000
dặm, bạn có thể tưởng tượng ra không? Một cây cao đến 720.000
dặm thì như thế nào vậy? Thù thắng hơn nữa là đạo tràng thụ, đạo
tràng thụ chính là cây Bồ-đề. Từ phía Tây Nam núi Chánh Giác ở Ấn
Độ, đi thêm 14-15 dặm có một cây Tất-bát-la, Phật ngồi ở dưới
cội cây này thành Phật, cho nên cây này được gọi là cây Bồ-đề. Kinh
Duy-ma-cật của ngài Tăng Triệu chú giải, cây này phóng quang thì
không có nơi nào không thể chiếu tới, hương thơm có thể xông khắp mọi nơi, hình
sắc vi diệu đến cực điểm, tùy theo ý thích trong tâm của người
nhìn, bạn thích cái gì thì nó hiện ra cái ấy. Cây không những có ánh
sáng, hương thơm mà còn thuyết pháp. Người ở thế giới Cực Lạc thích
nghe điều gì thì nghe điều đó. Chúng sanh nếu có thể thấy được cây
Bồ-đề thì tự nhiên ngộ nhập đạo Bồ-đề. Trong nước Cực Lạc có rất
nhiều cây Bồ-đề, đều có công đức không thể nghĩ bàn như vậy. Cây
Bồ-đề so với tất cả các cây báu thì cao gấp nhiều lần, độ cao là 400 vạn
dặm. Trong số nhân dân ở cõi Cực Lạc tuy là người thiện căn kém cỏi
cũng có thể biết được, cũng có thể đạt được lợi ích chân thật từ
cây.
Nguyện
thứ 41: nguyện cây hiện cõi Phật. Nguyện văn như sau:
Dục kiến chư Phật tịnh
quốc trang nghiêm, tất ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ kỳ diện
tượng, nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Người ở thế giới Cực Lạc muốn thấy sự thanh tịnh
trang nghiêm trong các cõi nước của mười phương chư Phật thì không
cần rời khỏi nước mình, mà ở nơi cây có thể nhìn thấy rõ ràng, giống
như từ trong tấm gương trong sáng nhìn thấy khuôn mặt của chính mình
vậy. Cõi Phật mười phương rộng lớn vô số, nhưng có thể từ nơi cây nhỏ
hẹp mà hiện ra toàn bộ. Nhỏ có thể chứa lớn, từ nơi cây nhỏ
hẹp có thể hiện ra rất nhiều cõi nước rộng lớn trong mười phương, đây
là cảnh giới Hoa Nghiêm, đạo lý Thập Huyền của Hoa Nghiêm thảy đều
được phản chiếu ra từ nơi kinh Vô Lượng Thọ.
Nguyện
thứ 42: nguyện triệt chiếu mười phương. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật thời, sở
cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu
thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng
sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm, nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Khi tôi thành Phật, cõi nước Phật của tôi quảng
bác nghiêm tịnh, quảng là rộng rãi, bác là rộng lớn, nghiêm là
trang nghiêm, tịnh là thanh tịnh. Đồng thời cõi nước “quang oánh như
kính”, quang là quang minh, oánh là lóng lánh, quang minh thanh
khiết sáng trong như gương vậy. Triệt chiếu thập phương, có thể chiếu
đến hết thảy vật vi tế trong mười phương cho đến nơi cực xa, vô lượng
vô số thế giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm
nói: Trong tấm gương ấy thấy vô lượng cõi, hết thảy núi sông, hết
thảy chúng sanh, địa ngục ngạ quỷ, hoặc tốt hoặc xấu, hình loại thế
nào thảy đều hiện rõ. Tấm gương trong Kinh Hoa Nghiêm tương đồng với
tấm gương sáng nói trong lời nguyện này. Tất cả chúng sanh đến thế giới
Cực Lạc và chúng sanh trong tất cả mười phương thế giới nếu nhìn thấy
được tướng công đức không thể nghĩ bàn của thế giới Cực Lạc soi chiếu
tất cả cõi nước mười phương thì đều sẽ sanh khởi tâm hy hữu khó có
được. Kinh Niết-bàn nói: Ví như trong nước mọc lên hoa sen thì
không xem là hiếm có, từ trong lửa đỏ mà sanh hoa sen mới xem là hy
hữu. Kinh Niết-bàn chỉ ra tâm hy hữu là nói tâm hiếm có, như hoa
sen sanh ra từ trong lửa, không bao lâu thì có thể thành tựu Chánh Giác.
Nguyện
thứ 43: nguyện hương báu xông khắp. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật
thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì
lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo
hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh
văn giả, giai tu Phật hạnh, nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Khi tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên
đến hư không, thông trên suốt dưới, hết thảy những kiến trúc trong đó
như: cung điện, lâu quán, quán là lâu đài, đài tạ, ao báu tuôn nước,
mọi loại cây báu cho đến hết thảy vạn vật khác đều dùng vô lượng
hương báu hợp thành. Cho nên một bông hoa, một chiếc lá, một giọt
nước ở thế giới Cực Lạc đều là ức ức vạn vạn, không thể nói rõ là bao
nhiêu chủng loại hương báu hợp thành, đây là đạo lý tất cả trong một của
kinh Hoa Nghiêm. Cho nên bên trong một giọt nước suối, một cánh hoa
rơi trong đó đều bao gồm vô lượng vô biên hương báu, đây chính là đạo
lý một là tất cả của Hoa Nghiêm. Đồng thời mỗi một mùi hương đều là bảo
hương, hương thơm thế tục tuyệt không thể sánh, lại còn do vô lượng
bảo hương hợp thành, cho nên hương thơm này rất thù thắng. Hương xông
khắp mười phương thế giới, mười phương thế giới đều có thể ngửi
được. Tất cả chúng sanh chỉ cần ngửi được diệu hương của Cực
Lạc tự nhiên thân tâm thanh tịnh, tu tập tất cả hạnh thù thắng mà
Phật đã dạy, thế nên lại hiển hiện ra cảnh giới huyền diệu của Hoa
Nghiêm. Vô lượng bảo hương gom vào bên trong một mùi hương, hương là
hương trần, một hạt hương trần có thể xông khắp mười phương thế
giới, một này chính là trọn khắp mười phương, một trùm hết
thảy, một chính là nhiều, chính là tất cả, đều là không thể nghĩ
bàn. Hương vốn là bụi trần, hương ở Cực Lạc có thể tạo công
đức, điều này giống như Hương Tích Như Lai của nước Chúng Hương trong
Kinh Duy-ma-cật phái các Bồ-tát ở cõi Chúng Hương đến gặp ngài
Duy-ma-cật. Ngài Duy-ma-cật hỏi: Đức Hương Tích Như Lai của các ngài
thuyết pháp thế nào? Chúng Hương Bồ-tát trả lời: Đức Như Lai ở cõi
nước tôi không dùng văn tự để thuyết pháp. Đức Hương Tích Như
Lai không dùng văn tự nói pháp mà chỉ dùng các loại hương
thơm khiến chư Thiên nhân có thể hợp với giới luật. Mỗi vị Bồ-tát đều
ngồi dưới cây hương, ngửi diệu hương ấy liền có thể đạt được Nhất
Thiết Đức Tạng Tam-muội. Cho nên hương của thế giới Cực Lạc cũng như
vậy, chúng sanh ngửi hương đều tu Phật hạnh, có thể thấy thế giới Cực
Lạc nhiếp trọn hết thảy chỗ thù thắng trong 21 câu-chi cõi
Phật. Công đức mà Hương Tích Như Lai dùng hương để làm Phật sự thì ở
thế giới Cực Lạc cũng đều thu nhiếp được.
Nguyện
thứ 44: nguyện được Phổ Đẳng Tam-muội. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật
thời, thập phương Phật sát chư Bồ-tát chúng, văn ngã danh
dĩ, giai tất đãi đắc thanh tịnh, giải thoát, phổ đẳng tam-muội. Chư
thâm tổng trì, trụ Tam Ma Địa, chí ư thành Phật.
Từ
nguyện này trở đi cho đến nguyện sau cùng, tức từ nguyện thứ 44 đến nguyện
thứ 48, 5 nguyện này đều chỉ cho trường hợp nghe danh được lợi ích ở
thế giới phương khác. Những người trong cõi Tịnh độ đều là đại tâm hành
giả đã đoạn kiến tư hoặc, phát Bồ-đề tâm, đều là Bồ-tát, không có
phàm phu. Thế nên lời nguyện gọi thẳng họ là chư Bồ-tát ở mười phương
cõi Phật, chỉ cần vừa nghe được danh hiệu Di-đà thì “giai tất đãi
đắc”, “đãi” nghĩa là theo kịp, đạt tới, cũng chính là theo đó mà đạt
được, đạt được ba loại tam-muội là: thanh tịnh, giải thoát và phổ
đẳng. Bản dịch thời Tống nói là: “Ứng thời chứng đắc”, đồng nghĩa với
“giai tất đãi đắc”. Thanh tịnh có nghĩa là gì? Không có hoài nghi,
cấu uế, nhiễm trước. A-di-đà Phật còn có tên là Vô Lượng Thanh Tịnh
Phật, trong kinh này, hành nhân nếu có thể làm được “nhất niệm
tịnh tâm, nhất niệm tịnh tín” cầu sanh Cực Lạc Tịnh Độ thì đều
được như nguyện. Có thể thấy thanh tịnh vô cùng quan trọng. Chánh
định trong thanh tịnh thì gọi là thanh tịnh tam-muội. Hiện nay rất
nhiều người khi nhập định thì có một chút tịnh cảnh, đạt được một chút
khinh an thì liền vui thích, đó chính là nhiễm trước, sắp sa vào con
đường sai lầm. Người có dụng công một chút đều biết niềm vui ở thế
gian chẳng đáng gì cả, so với pháp lạc thì không thể so sánh. Phải
biết thanh tịnh tam-muội là vô nhiễm vô trước tam-muội. Giải thoát
tam-muội là tam-muội lìa khỏi tất cả ràng buộc, tự do tự
tại. Nghe một câu nói không vừa tai liền tức giận thì bạn rất bị tác
động, bạn bị trói chặt rồi, họ vừa lôi kéo thì bạn chạy theo
rồi, làm gì có tự do tự tại. Đạt được giải thoát tam-muội thì
bạn không còn bị trói buộc nữa. Thế nên thế nào gọi là thiện tri
thức? Thiện tri thức chỉ giúp cho người cởi bỏ ràng buộc, nơi nào
dính chấp thì sẽ kéo ra, nơi nào ràng buộc thì sẽ cởi trói, cho nên
Thiền Tông nói: Trong Thiền môn thật không có một pháp nào để cho
người cả. Phổ đẳng tam-muội, phổ là phổ biến, đẳng là bình
đẳng, đừng xem thường bốn chữ “phổ biến bình đẳng” này. Tất cả mọi
thứ đều có thể phổ biến bình đẳng rồi thì sẽ là cảnh giới gì vậy? Là
đã đạt được pháp môn Bất Nhị. Không bình đẳng chính là hai thứ, tà và
chánh là hai thứ, thiện và ác là hai thứ, Phật và ma là hai
thứ, nhiều loại phân hai thứ. Thế gian phân thành hai thứ thì còn nhiều
hơn nữa, nam và nữ là hai rồi, nếu tất cả đều không có sai biệt thì
mới là bình đẳng, phổ biến mà không có sai biệt thì là phổ đẳng. Phổ
đẳng tam-muội là tam-muội rất sâu.
“Chư
thâm tổng trì”, tổng trì chính là Đà-la-ni. “Trụ Tam Ma
Địa” chính là an trụ ở chánh định, chánh thọ. Hiện nay rất nhiều
người luyện công không phải là chánh định, từ tà định mà phát ra tà
thông, đi vào đường tà, sau cùng đọa lạc, cho nên muốn lên mà
lại rớt xuống, càng luyện càng không tốt. Do nghe danh mà được phổ
đẳng tam-muội là ý chính của nguyện này, do đó tự nhiên đạt được
nhiều loại tổng trì thâm sâu, an trụ vào chánh định, sau cùng công
viên quả mãn, đạt được thành Phật.
Vừa
rồi nói có người luyện công lạc vào tà đạo, đắc được ma
thông, việc này thật có, 20-30 năm trước đã có, những năm này
hưng khởi lên một phong trào, người luyện khí công rất nhiều, theo
thời cơ mà phát sinh ra đủ hình đủ loại thầy khí công, lại còn là cấp
bậc đại sư, những đại sư này đều là vị thần ngồi trên tòa cao. Còn
nhớ năm đó có biết bao người đối với các thần này đảnh lễ cúng bái, thậm
chí đến mức cuồng tín. Bây giờ nghĩ lại thật sự không thể nghĩ
bàn, những người này lúc đó bị sao vậy? Dây thần kinh nào của họ đã
đi sai đường vậy? Còn nhớ năm đó ở một nơi nọ có một bậc thầy khí
công lớn, danh tiếng nổi như cồn, chấn động một thời, không ai
chẳng biết, không ai chẳng hay, được tung hô lên đến tận mây
xanh, kiểu cách đó của bà ấy đã vượt trên cả mọi người, về sau không
biết vì nguyên nhân gì mà biệt tăm biệt tích. Tình hình hiện nay của
chúng ta so với thời đó vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác
biệt, hiện nay người luyện khí công ít rồi, người luyện những loại
công khác thì vẫn còn nhiều, chẳng phải nói luyện công không tốt, ý
tôi là bạn luyện công gì thì cũng phải lựa chọn cẩn thận, đừng lạc
vào ma đạo, đừng đắc thần thông của ma.
Những
năm đó người học Mật càng ngày càng nhiều, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ từ bi
đến cùng cực, ngài là Kim Cang Thượng Sư của Mật Tông, đó là vị Kim
Cang Thượng Sư thật sự có sư thừa. Ngài đã gióng lên hồi chuông cảnh
tỉnh cho chúng ta, ngài nói với chúng ta, vì sao nhiều người học Mật
đến như vậy?
Thứ
nhất là do tâm hiếu kỳ, những thứ này đều nhìn quen rồi, không còn kỳ
lạ nữa, nhìn đến Mật Tông thấy những tướng này rất lạ kỳ, tướng
uy mãnh, tướng song thân, đều xuất phát từ tâm hiếu kỳ, vậy
không được rồi.
Thứ
hai là mong nhanh chóng, nói Mật Tông thành tựu nhanh chóng, họ có
thái độ gấp gáp, muốn bản thân mau chóng thành tựu, vì cá nhân mà
tính toán, đây đều là tế bào ung thư.
Thứ
ba là muốn tìm đường tắt, muốn không tốn sức mà tìm được lối tắt để vào, lắc
mình một cái thì biến thành Phật, vậy thì bản thân đã có tà kiến
rồi.
Thứ
tư là muốn đắc thần thông, trong Mật pháp có thần thông, họ ưa thích
thần thông, truy cầu thần thông, đặc biệt là rất thích lối tu song
thân, rất nhiều người muốn học điều này, để đáp ứng nhu cầu
này thì có đủ loại chiêu bài được bày ra, nào là Phật sống, Pháp
Vương, Pháp Vương của các Pháp Vương.
Lão
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ từ bi, ngài nói với chúng ta làm thế nào để phân biệt
sư phụ, hãy nhớ kỹ tám chữ, phàm là người bàn đến thần thông huyền
diệu, đề xướng lối tu song thân thì nhất định phải tránh xa, bất kể
họ có bản lĩnh đến đâu thì người thầy như vậy rất nguy hiểm, nếu như
họ còn tham tiền tài thì càng phải tránh xa hơn.
Ba
loại tam-muội trong lời nguyện, sách Hội Sớ nói: thanh tịnh
tam-muội, giải thoát tam-muội, phổ đẳng tam-muội đều là niệm
Phật tam-muội, vì niệm Phật tam-muội được gọi là bảo vương
tam-muội. Bảo vương tam-muội là quý nhất trong tất cả tam-muội, là
vua trong tất cả tam-muội, có đủ công đức của tất cả tam-muội. Đã có
đủ công đức của tất cả tam-muội, đương nhiên cũng có đủ danh hiệu của tất
cả tam-muội. Niệm Phật tam-muội có thanh tịnh tam-muội, giải thoát
tam-muội, phổ đẳng tam-muội và các loại danh xưng tam-muội khác. Cho
nên sau cùng, Bồ-tát của các cõi Phật khác vừa nghe danh hiệu
Phật thì được tam-muội thù thắng cho đến thành Phật. Lợi ích của việc
nghe danh hiệu Phật vượt hơn các nguyện trước đó, đây là vì người
nghe danh hiệu là Bồ-tát, đã đoạn kiến tư hoặc, hiện đang đoạn trừ
trần sa và vô minh, hoặc chướng đã nhẹ, dễ tương ưng với
Bồ-đề, giống như tấm kính dơ đã được đánh bóng, tự nhiên dễ dàng hiện
ra hình ảnh soi chiếu. Một câu Phật hiệu, nhân quả đồng thời, có hết
thảy công đức của Bảo Vương tam-muội, cũng chính là công đức của tất cả
tam-muội. Bồ-tát phương khác nghe danh tương ứng, đồng khế nhập Bảo
Vương tam-muội, phổ đẳng tam-muội, tất cả tam-muội, đồng thời có
hết thảy công đức tam-muội.
Nguyện
thứ 45: nguyện trong định cúng Phật, nguyện văn như sau:
Định trung thường cúng
vô lượng vô biên nhất thiết chư Phật, bất thất định ý, nhược bất nhĩ
giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Bồ-tát phương khác do nghe danh mà trụ vào chánh
định, trong định thường cúng dường tất cả chư Phật, nói cúng dường
rộng khắp chính là ngay ở chỗ dụng công hối hả nhưng không hề mất
định ý. Cho nên nguyện này gọi là trong định cúng Phật. Đây là cảnh
giới thậm thâm của Bồ-tát Địa Thượng. Hội Sớ cho rằng: Những Bồ-tát
sơ phát tâm ở phương khác do nghe được danh hiệu Phật, nhanh chóng
đăng Địa Thượng, được các lực tam-muội, nên mới có thể cúng Phật
trong định. Luận Chú nói: Bồ-tát bát địa trở lên thường ở trong
tam-muội, dùng sức tam-muội, thân không rời bổn xứ mà có thể đi
khắp mười phương cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh. Nghe danh
nhanh chóng đăng Địa Thượng, nên công đức câu Phật hiệu không thể nghĩ
bàn, nguyện lực của đức Di-đà không thể nghĩ bàn.
Nguyện
thứ 46: nguyện đắc Đà-la-ni. Nguyện văn như sau:
Ngã tác Phật
thời, tha phương thế giới chư Bồ-tát chúng, văn ngã danh
giả, chứng ly sanh pháp, hoạch Đà-la-ni.
Đại
ý của lời nguyện là, chư Bồ-tát ở thế giới phương khác, nghe được danh
hiệu của tôi liền chứng nhập ly sanh pháp. Ly sanh chính là lìa khỏi
sanh tử, hành nhân Tam Thừa đoạn kiến hoặc, tư hoặc, lìa khỏi sanh tử
trong ba cõi, chứng ly sanh pháp. Bồ-tát đoạn hoặc, đoạn kiến tư
hoặc là bước đầu tiên, còn có trần sa, vô minh hoặc, tổng cộng ba
hoặc. Nghe danh không những lìa sanh tử, mà quan trọng hơn là đắc
được Đà-la-ni.
Đà-la-ni
có 4 ý nghĩa. Thứ nhất, pháp Đà-la-ni, đối với tất cả giáo pháp của
Thế Tôn có thể nghe, có thể trì, vĩnh viễn không quên mất. Thứ hai là
nghĩa Đà-la-ni, đối với nghĩa chân thật của tất cả pháp đều tổng trì không
quên. Thứ ba là chú Đà-la-ni, chú còn gọi là minh và chân
ngôn, đối với tất cả chú đã từng nghe đều không quên. Thứ tư là nhẫn
Đà-la-ni, an trụ trong thật tướng của các pháp, gọi là nhẫn
Đà-la-ni, cũng chính là an trụ trong cảnh giới thật tướng, an trụ
trong cảnh giới pháp thân. Trong Thiền Tông gọi là phá trùng
quan, phá thêm một cửa nữa thì kiến giải đồng như Phật, gọi là pháp
thân mộc mạc, so với pháp thân của chư Phật chỉ là trong vạn đức còn
chưa viên mãn, thiếu sự trang nghiêm, nên gọi là pháp thân mộc
mạc. Bồ-tát mười phương nghe được danh hiệu Phật liền an trụ trong thật
tướng các pháp, thật là vô thượng thù thắng.
Nguyện
thứ 47: nguyện nghe danh đắc nhẫn. Nguyện văn như sau:
Thanh tịnh hoan hỷ,
đắc bình đẳng trụ, tu Bồ-tát hạnh, cụ túc đức bổn, ứng thời bất hoạch
nhất nhị tam nhẫn, ư chư Phật pháp bất năng hiện chứng bất thoái
chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
Đại
ý của lời nguyện là: Thanh tịnh nghĩa là vốn không nhiễm trước. Hoan
hỷ là trong tâm hỷ duyệt, lấy tịch diệt làm vui. Bình đẳng, Kinh Kim Cang
nói: pháp ấy bình đẳng không có cao thấp. An trụ trong pháp bình
đẳng, ba thứ: tâm, Phật, chúng sanh đều không có sai biệt, chính là
bình đẳng trụ. Pháp môn Tịnh độ dùng bình đẳng để phổ độ, tự giác,
giác tha, đều ban cho lợi ích chân thật, đó là tu Bồ-tát
hạnh. Tu hành như vậy tự nhiên đầy đủ tất cả gốc công đức của quả vị
Phật, đây gọi là “cụ túc đức bổn”. “Ứng thời” chính là ngay tức thì,
lập tức. “Nhất nhị tam nhẫn” là đệ nhất nhẫn, đệ nhị nhẫn, đệ tam
nhẫn. Bản dịch thời Ngụy nói: Sau khi tôi thành Phật, chúng sanh mười
phương nghe đến tên tôi, nếu không đắc được vô sanh pháp nhẫn của
Bồ-tát, trụ sâu tổng trì thì không ở ngôi Chánh Giác. Bản dịch
thời Tống nói: Người nghe tên tôi lập tức đắc được sơ nhẫn, nhị
nhẫn, cho đến vô sanh pháp nhẫn, thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Cho nên đệ tam nhẫn chính là vô sanh pháp nhẫn, chính là
trí tuệ chân thật, an trụ vào lý thể thật tướng không sanh không diệt
mà chẳng động thì gọi là vô sanh pháp nhẫn, cũng chính là như như bất
động địa, an trụ vào trí tuệ của lý thể thật tướng vốn không sanh
không diệt, gọi là vô sanh pháp nhẫn. Đại Trí Độ Luận nói: Vô sanh
pháp nhẫn là ở trong thật tướng không sanh không diệt của các pháp có
thể tín thọ thông đạt, vô ngại, bất thoái, thì gọi là vô sanh
nhẫn. Đại Trí Độ Luận nói rằng: Đối với thật tướng của các pháp vốn
là không có sanh diệt có thể tín thọ, nghe rồi thì sanh lòng
tin, y giáo phụng hành, thông đạt là dung thông hiểu rõ, vô ngại
là không có mâu thuẫn chướng ngại, bất thoái là tiến lên phía trước không
thoái chuyển, thì đây gọi là vô sanh pháp nhẫn. Căn cứ vào hai bản
dịch thời Ngụy và thời Tống thì đệ tam nhẫn chính là vô sanh pháp
nhẫn, chớ nên sanh nghi ngờ. Phẩm thứ 15 của kinh này có
câu “kiến Bồ-đề thụ cập tam chủng nhẫn”. Thứ nhất là âm hưởng
nhẫn, do âm hưởng mà ngộ ra chân lý. Thứ hai là nhu thuận
nhẫn, huệ tâm nhu nhuyễn, có thể tùy thuận chân lý. Thứ ba là vô
sanh pháp nhẫn, ba nhẫn này chính là ba thứ nhẫn trong nguyện thứ 47
này. Bồ-tát Long Thọ nói: Sơ địa Bồ-tát trở lên cũng có thể được vô
sanh nhẫn, nhưng căn cứ theo Kinh Nhân Vương và Địa Kinh thì vô sanh
pháp nhẫn là địa vị của thất địa Bồ-tát, bát địa Bồ-tát, cửu địa
Bồ-tát. Thế nên thường nói là bát địa Bồ-tát và Bồ-tát từ bát địa trở
lên mới thật sự chứng đắc vô sanh pháp nhẫn. Có thể thấy cõi Phật
phương khác, vãng sanh đến cõi Phật khác ngoài thế giới Cực
Lạc, trong đó sơ phát tâm Bồ-tát vừa nghe danh hiệu Di-đà thì
lập tức chứng vô sanh pháp nhẫn, trở thành Địa Thượng Bồ-tát, công
đức nghe danh không thể nghĩ bàn.
Nguyện
thứ 48: nguyện hiện chứng bất thoái. Nguyện văn như sau:
Ư chư Phật
pháp, bất năng hiện chứng bất thoái chuyển giả, bất thủ Chánh
Giác.
Đại
ý của lời nguyện như sau: Tất cả Bồ-tát của cõi Phật phương khác vừa
nghe đến danh hiệu A-di-đà Phật liền chứng bất thoái chuyển, trở
thành A-bệ-bạt-trí. Kinh Nhân Vương nói: Bồ-tát Tín Vị của Biệt
Giáo được gọi là Thanh Mao Bồ-tát, giống như sợi lông chim trong
gió, theo gió lên xuống không định, chạy đông chạy tây. Kinh
Niết-bàn lại nói: Cá con, Am La Hoa, Bồ-tát sơ phát tâm, ba việc
có nhân nhiều. Nghĩa là gì vậy? Cá con trong bụng cá mẹ rất
nhiều, nhưng số cá con chào đời rất ít. Am La Hoa nở hoa rất
nhiều, kết quả rất ít. Bồ-tát sơ phát tâm rất nhiều, có thể
thành Phật rất ít, cho nên nói ba việc có nhân nhiều. Kinh Thập Trụ
Bồ-tát Đoạn Kiết lại nói: Xá-lợi-phất trong 60 kiếp đầu lên xuống
giữa địa vị sơ trụ và lục trụ, không đạt được bất thoái chuyển. Ngày
nay nhờ sức thệ nguyện lớn như biển của đức Di-đà, Bồ-tát phương khác vừa
nghe đến danh hiệu Phật liền chứng bất thoái chuyển, quả thật là Nhất
Thừa nguyện hải, diệu dụng phương tiện rốt ráo không thể nghĩ bàn.
Bất
thoái ở đây cùng với vô sanh pháp nhẫn là như nhau, có thể chứng
minh đó là niệm bất thoái trong bất thoái, niệm niệm lưu nhập biển
Tát-bà-nhã của Như Lai. Công đức, nguyện lực của A-di-đà Nguyện
Vương không thể nghĩ bàn. Do pháp môn này vô cùng thù thắng, nên
chúng sanh thời Mạt pháp quả thật khó sanh tín tâm, phải nên nghĩ
rằng Như Lai là bậc chân ngữ, thật ngữ, đâu cần lừa gạt chúng ta làm
gì, Ngài gạt chúng ta làm gì chứ? Ngài muốn làm quốc vương
ư? Ngài từ bỏ vương vị, trước khi thành Phật ngài tu khổ
hạnh, sau khi thành Phật vẫn đi khất thực, ăn gió nằm
sương, uống ăn trong gió đất, trú ngụ dưới vòm trời, đến bất cứ
nơi nào chẳng những không có máy bay, cũng không có ô-tô mà là
đi bộ, thường thường dẫn đệ tử đi hàng dài xin ăn, từ nơi này sang
nơi khác. Một vị thái tử từ bỏ tất cả là vì sao? Chỉ là vì độ chúng
ta, ngài gạt chúng ta để làm gì chứ? Cho nên đối với pháp môn
này chúng ta phải sanh lòng tin chân thật.
Đại
nguyện vương của A-di-đà Phật, 48 lời nguyện thù thắng chính là sự
lưu lộ của bổn tâm vạn đức viên minh của đức Di-đà, mỗi một nguyện
đều siêu tình ly kiến, chẳng phải vọng tâm suy nghĩ, tính toán của chúng
sanh, đây là phương tiện thù thắng triệt để, không có nguyện nào
chẳng phải vì lợi ích chân thật thù thắng vĩnh hằng của tất cả chúng
sanh. Cổ Đức nói: Mỗi lời nguyện đều vì làm lợi ích cho chúng hữu
tình, mỗi lời nguyện đều mong muốn cùng chúng sanh rốt ráo thành
Phật. Hai câu này chỉ rõ thánh tâm của đức Di-đà.
Đại
nguyện của đức Di-đà nếu phân biệt nêu rõ thì là 48 nguyện thành
tựu, nếu nói chi tiết hơn thì có thể là 480 nguyện, cho đến
48.000 nguyện v.v. hợp lại chính là biển đại thệ nguyện của đức
Di-đà, còn gọi là Nhất Thừa nguyện hải. Nhất thừa nguyện
hải chính là báu trong các báu, vua trong các vua, tâm của
tâm, diệu của diệu trong pháp môn Tịnh độ, cho dù có trăm ngàn cái
miệng, trăm ngàn cái lưỡi cũng không thể nói hết những lời tán
thán. Toàn bộ đại nguyện ví như một tấm vải gấm rực rỡ tươi sáng
tinh xảo tuyệt luân, mỗi lời nguyện chính là mỗi một hình vẽ hoa
văn trên tấm vải gấm ấy, ví dụ như trái bàn đào, bàn tay Phật, hoa
sen, mẫu đơn, hạc tiên, khổng tước, đều hết sức xinh đẹp, tuy
mỗi hình mỗi vẻ nhưng đều nhất tề quy ngưỡng, phối hợp tạo thành bức
tranh xinh đẹp hoàn chỉnh. Toàn bộ tấm vải gấm chỉ là hai sợi chỉ
chạy song song, một sợi thì trọn khắp mười phương hư không, tận
vị lai kiếp số, tất cả cõi nước, tất cả chúng sanh không phân
tộc loại, chẳng tính thiện ác trí ngu, cho dù là chúng sanh ác
đạo thảy đều bình đẳng nhiếp thọ, giáo hóa, gia trì, tiếp
dẫn, khiến lìa đường ác, chỉ thọ niềm vui. Một sợi kia
thì nguyện tất cả chúng sanh mảy trần chẳng nhiễm, chẳng lập một
pháp, viễn ly vọng tưởng chấp trước, khôi phục Như Lai bổn
tánh, sanh diệt chóng trừ, tịch diệt là niềm vui, chứng đại Niết-bàn, rốt
ráo thành Phật. Phàm phu ở thế giới Cực Lạc chính là A-bệ-bạt-trí. Vô
tình thuyết pháp, ao sen, cây báu tuyên diễn pháp âm, hương thơm
quang minh tỏa khắp mười phương, lợi ích rộng khắp hết thảy chúng
sanh, thảy đều là việc siêu tình ly kiến, hết sức hy hữu, tất cả
chỉnh thể đều không thể nghĩ bàn. Toàn bộ đều là cảnh giới Hoa
Nghiêm, mỗi sợi lông, mảy trần trong nước Cực Lạc đều tròn sáng đầy
đủ công đức, viên mãn đầy đủ, viên dung vô ngại, thanh tịnh
quang minh, chiếu trọn mười phương, hết thảy diệu đức đều có đủ.
Như
Vãng Sanh Luận nói: Phật, Bồ-tát, cõi nước ở nước Cực Lạc, ba loại
trang nghiêm đều nhập vào nhất pháp cú, nhất pháp cú là thanh tịnh
cú, thanh tịnh cú là trí tuệ chân thật, pháp thân vô vi. Đây
chính là nói rõ hết thảy mọi thứ trong nước thảy đều là trí tuệ và pháp
thân của đức Di-đà, cho nên không có thứ nào mà không tròn sáng đầy đủ
công đức, tuyệt diệu đặc biệt cả, có thể ban lợi ích chân thật cho
tất cả chúng sanh. Ba thứ chân thật của kinh này cùng với lời khai
thị của Thiên Thân Bồ-tát tương hợp với nhau, cùng nhau hô
ứng. Bồ-tát Pháp Tạng trụ chân thật huệ, nhất hướng chuyên chí trang
nghiêm diệu độ, tương hợp với cách nói ba loại trang nghiêm của Thiên Thân
Đại Sĩ nhập vào trí tuệ chân thật. Chỗ khai hóa hiển thị của kinh này
là chân thật chi tế, tương đồng với pháp thân vô vi của Thiên Thân
Đại Sĩ. Cho nên Cực Lạc vi diệu cùng cực, vượt hơn mười
phương, ban cho tất cả chúng sanh lợi ích chân thật, khiến cho tất cả
đều trụ chánh định tụ, chứng bất thoái chuyển, khế ngộ vô sanh, nhất định thành
Phật.
Đại
nguyện của đức Di-đà hiển bày sâu sắc cảnh giới lý sự vô ngại của Phật
pháp Đại thừa, bản thể của Cực Lạc là pháp thân vô vi, thế nhưng vạn
vật trong nước đều vi diệu đẹp lạ, trang nghiêm vô tận, đồng thời
khiến cho ai nhìn thấy, nghe thấy đều tăng tiến. Lý thể của pháp thân vô
vi hiển hiện vô lượng trang nghiêm, vô biên diệu dụng, đây chính
là lý không chướng ngại sự. Thêm nữa, nhân dân trong nước cúng dường
rộng khắp đến chư Phật trong mười phương mà không hề mất định ý, rộng
làm Phật sự nhưng vẫn ở trong định, đây là sự không chướng ngại
lý. Lý thể và sự tướng, các diệu cảnh không chướng ngại lẫn
nhau trọn khắp trong toàn thể lời nguyện của kinh. Mỗi một đóa hoa,
hương thơm, mảy trần, sợi lông ở Cực Lạc đều là viên minh cụ
đức, cũng đều là nét đặc trưng của Nhất Chân pháp giới trong Hoa
Nghiêm, cũng chính là tự tâm của đức Di-đà và hành giả tu
tập. Vì vậy cảnh giới Cực Lạc không thể nghĩ bàn, có đủ thập huyền
của Hoa Nghiêm, một tức là nhiều, lớn nhỏ dung hợp nhau, rộng hẹp tự
tại, co duỗi đồng thời, đều hiện ra rất rõ ràng trong lời nguyện.
Ví
dụ, do các báu hợp thành một vật là nhiều gom vào một. Hương thơm của
vật ấy tỏa ra, chỉ là một bụi hương nhưng đầy khắp mười phương thế
giới, đây là một hòa vào trong nhiều. Một có thể nhập vào
nhiều, nhiều có thể gom vào một, đây chính là một và nhiều không
hai. Nước Cực Lạc như tấm gương có thể soi chiếu vô lượng vô số thế
giới chư Phật không thể nghĩ bàn trong mười phương, đó là nhỏ có thể
chứa lớn. Cõi nước Tịnh độ trang nghiêm của chư Phật tuy là
rộng nhưng đều có thể được nhìn thấy trong cây báu, cây báu là
hẹp, đây là rộng hẹp tự tại. Trong một niệm, trong một sát na
khởi ý niệm có thể hoàn thành việc đi khắp ức na-do-tha trăm
ngàn cõi Phật để cúng dường chư Phật. Việc này cần thời gian dài
nhiều kiếp mới có thể viên mãn Phật sự, cho nên đây là co duỗi tương
đồng, đã đột phá được thời gian. Thế giới Cực Lạc sâu xa huyền
diệu, nhưng cũng có thể liệt kê sự việc để làm ví dụ minh
họa. Ví như làn sóng trong ao, trái phải trước sau của làn sóng ấy
đều có sóng, nhưng bạn làm thế nào để vẽ rõ ranh giới của làn sóng ở
giữa với sóng ở bốn bề đây? Việc này không thể rồi. Bản thể của mỗi
làn sóng chỉ là nước, nước chính là nước trong toàn bộ tổng thể
ao, cho nên tất cả sóng đều ở trong bản thể của một làn
sóng, thế nên nói một làn sóng hàm chứa tất cả sóng, một là tất
cả, tất cả là một. Chính bởi vì một là tất cả nên một câu Phật
hiệu gồm đủ tất cả công đức, tất cả diệu dụng của vô biên pháp môn
như Hiển, Mật, Thiền, Tịnh. Thế nên phàm phu bị trói buộc chỉ
cần tín nguyện trì danh thì lâm chung tự nhiên được chư Phật tiếp
dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Sanh về nước kia rồi tuy vẫn còn là phàm
phu nhưng đã chứng địa vị bất thoái. Tuy các tội chưa tiêu nhưng
nhất định không đọa ba đường ác. Hoa khai kiến Phật, đốn ngộ vô
sanh, nhất định thành Phật trong cõi Thường Tịch Quang. Đây đều là
nhờ sáu chữ hồng danh viên minh cụ đức, Nhất Thừa nguyện hải viên
minh cụ đức. Đại sư Ngẫu Ích nói: Thật tướng không hai, cũng chẳng
phải không hai, cho nên nêu lên bản thể để tác y, tác chánh, tác
pháp, tác báo, tác tự, tác tha, cho đến năng thuyết sở
thuyết, năng độ sở độ, năng tín sở tín, năng nguyện sở
nguyện, năng trì sở trì, năng sanh sở sanh, năng tán sở
tán, không có cái nào chẳng phải là ấn chứng chân chánh của thật tướng
cả. Cho nên hễ bước vào cửa Tịnh Nghiệp thì thân đã ở trong biển lớn
thật tướng. Bất luận là bạn bơi sấp, hay bơi ngửa, bơi tự
do, bơi bướm hay lặn sâu, bất luận bơi đông bơi tây, hoặc chìm
hoặc nổi thì đều không rời khỏi biển lớn thật tướng này, cũng chính
là biển công đức đại thệ nguyện của đức Di-đà, cũng chính là biển đại trí
tuệ Tát-bà-nhã. Chỉ cần tin sâu nguyện thiết bèn nhập vào biển
này, tức là nhập vào biển trí tuệ công đức của A-di-đà, siêu tình ly
kiến, ngôn ngữ thế gian không cách nào nói tột, vọng tâm của chúng
sanh không thể suy lường nổi. Thế nhưng Di-đà Thế Tôn đại ân đại đức
đặc biệt ban cho phương tiện cứu độ rộng khắp nên mở ra pháp môn vi
diệu này, hết thảy chúng sanh nghe danh hiệu Phật, lòng tin nhận
sâu, thật thà niệm Phật, nguyện cùng chúng sanh cùng sanh Cực Lạc. Chỉ
cần tâm này chân thật thì người này tuy thân còn tại Ta-bà nhưng đã
được Di-đà nhiếp thọ, không còn thoái chuyển nữa. Đúng như Kinh
A-di-đà nói: Nếu có người đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát
nguyện, muốn sanh cõi nước của A-di-đà Phật, thì những người
ấy đều được không thoái chuyển nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Phẩm
kinh văn thứ sáu: phát đại thệ nguyện đệ lục, chúng tôi đã dùng thời
gian 5 giờ để giảng hết. Chúng ta phải biết rằng, người phát đại thệ
nguyện là Tỳ kheo Pháp Tạng, cũng chính là A-di-đà Phật. Bốn mươi tám
nguyện là A-di-đà Phật nói, là Thích-ca Mâu-ni Phật trong hội Vô Lượng
Thọ trần thuật lại cho chúng ta. Hai vị đạo sư của hai cõi, một vị
đích thân nói ra, một vị trần thuật nguyên văn lời nguyện cho chúng
ta, có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của 48 nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ, đây chính là nét bút điểm tròng con mắt của toàn bộ kinh.
Tiết
học này xin giao lưu đến đây, cảm ơn mọi người. A-di-đà Phật!