PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Phúc
giảng lần thứ hai: Cô Lưu Tố Vân
Thời
gian: 13/12/2020
Địa điểm:
Tiểu viện Lục Hòa
Tập 45
Chư vị đồng tu tôn
kính, xin chào mọi người, A-di-đà Phật! Hôm nay bắt đầu giảng kinh văn
phẩm thứ 12.
QUANG MINH BIẾN CHIẾU ĐỆ THẬP NHỊ
Phẩm kinh văn
này nói về chánh báo trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực
Lạc, cũng chính là giới thiệu sự tốt đẹp của hoàn cảnh nhân sự nơi
thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chánh báo trang nghiêm và y báo trang
nghiêm đều là sự tướng, thế nên có người cảm thấy pháp môn Tịnh
độ và Kinh Kim Cang dường như là hai thứ khác nhau. Thế nhưng trong
Tịnh Tu Tiệp Yếu nói: Nhờ y chánh ấy hiển tự tâm ta. Nghĩa là nói
mượn y báo chánh báo của cõi ấy để hiển rõ tâm của chính mình. Cho
nên hết thảy y báo chánh báo, vô lượng thọ, vô lượng quang, suối ao cây
báu đều là nói tự tánh, không phải ngoài tâm cầu pháp. Trước
tiên chúng ta phải có nhận thức căn bản thì mới có thể thật sự tin và bước
vào pháp môn Tịnh độ.
Mời xem kinh văn tiếp
theo:
Phật cáo A-nan, A-di-đà Phật uy thần quang minh tối
tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật sở bất năng cập, biến chiếu đông
phương hằng sa Phật sát, nam tây bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc
phục như thị. Nhược hóa đỉnh thượng viên quang, hoặc nhất nhị tam tứ
do tuần, hoặc bá thiên vạn ức do tuần. Chư Phật quang minh hoặc
chiếu nhất nhị Phật sát, hoặc chiếu bá thiên Phật sát, duy A-di-đà
Phật, quang minh phổ chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát. Chư Phật
quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công
đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở
tác, bất vi dự kế. A-di-đà Phật quang minh thiện hảo, thắng ư nhật
nguyệt chi minh thiên vạn ức bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi
vương.
Đoạn kinh văn này khá
dài, chúng ta trước tiên nói đại ý của đoạn kinh văn này. Phật
nói với A-nan, uy thần và quang minh của A-di-đà Phật đứng đầu trong
các thứ tôn quý nhất, tất cả chư Phật mười phương đều không sánh
bằng. Phật quang chiếu khắp phương Đông đến các cõi Phật nhiều như số
cát sông Hằng, chiếu xa đến trăm ngàn cõi Phật. Duy chỉ quang minh
của A-di-đà Phật phổ chiếu đến vô lượng vô biên cõi Phật. Quang minh
của chư Phật chiếu ra có xa có gần là do đời quá khứ khi các Ngài cầu
đạo đã phát các nguyện lớn nhỏ không như nhau. Đến khi thành Phật mỗi
vị tự nhiên đắc được diệu quả, Phật quang không như nhau. Đều là tự
nhiên thành công, không dựa vào sắp xếp tạo tác. Quang minh của
A-di-đà Phật thiện lành tốt đẹp, vượt hơn ánh sáng nhật nguyệt của thế
gian ngàn ức vạn lần. Quang minh của A-di-đà Phật là tôn quý bậc
nhất trong tất cả Phật quang. A-di-đà Phật thật sự là vua trong các Phật.
Tiếp theo chúng tôi
xin giải thích đoạn kinh văn này.
Phật nói với
A-nan, uy thần quang minh của A-di-đà Phật là tôn quý bậc nhất, mười
phương chư Phật không thể sánh bằng. Bốn câu này không phải lời tự khen
của người tu Tịnh độ, là do kim khẩu của Thích-ca Mâu-ni Phật nói
ra, là sự tán thán của Thích-ca Mâu-ni Phật đối với A-di-đà
Phật. Kinh Kim Cang nói: “Như Lai là người nói lời chân thật, nói
đúng sự thật, sự thật như thế nào thì nói như thế đó, không nói lời lừa
gạt, không nói lời khác nhau”. Lời Phật nói ra không thêm vào một chút,
cũng không bớt đi một chút, mà trực tiếp thẳng thắn nói ra, không tăng
không giảm, đây là như ngữ. Cho nên chúng ta phải tin tưởng, uy
thần quang minh của A-di-đà Phật là tôn quý bậc nhất, mười phương chư
Phật thật sự không thể sánh bằng. Đọc bốn câu này rồi chúng ta vẫn
chưa thể tin tưởng, vẫn còn nghi vấn ư? Trong bổn nguyện của A-di-đà
Phật, lời nguyện thứ 13 nói rằng, khi tôi thành Phật quang minh vô
lượng, phổ chiếu mười phương, vượt hơn chư Phật, vượt hơn ánh sáng
nhật nguyệt ngàn vạn ức lần. Đoạn kinh văn này chính là lời nguyện đã
thành hiện thực, đã viên mãn rồi. Những nguyện đã phát trước đây hiện
nay đã trở thành sự thật.
Uy là uy đức, thần
là thần thái. Uy thần quang minh của A-di-đà Phật là tôn quý bậc nhất
trong mười phương chư Phật, thế nên quang minh của Phật được gọi là ‘quang
trung cực tôn’, A-di-đà Phật là vua trong các Phật. Đã là Phật Phật
đạo đồng, các pháp bình đẳng không có cao thấp, vì sao lại xuất hiện
sự khác biệt có tôn quý nhất và đệ nhất vậy? Cổ đức Nhật Bản, sư Vọng
Tây trả lời rất hay, Ngài nói: thường đồng thường biệt. Thông thường
là như nhau, thông thường lại khác biệt, cho nên bốn chữ này đạo lý rất
sâu. Thượng Sư Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ nói rằng: Ngay nơi khác biệt
hiểu được ý không khác biệt, ngay chỗ không khác biệt hiểu được ý khác
biệt. Thông thường không khác biệt là thường đồng, thông thường có
khác biệt là thường biệt. Bây giờ xin ví dụ, bảo tàng châu báu ở Cố
Cung có rất nhiều món đồ bằng vàng, tôi nói với bạn, những thứ này
đều là như nhau, đều là vàng, câu nói này hợp lý. Lại nói với
bạn những thứ này không giống nhau, đây là cái chậu, đây là cái
chén, đây là tháp, đây là tượng Phật, vả lại tượng Phật cũng
không như nhau. Đây là Thích-ca Mâu-ni Phật, đó là A-di-đà
Phật, có đủ mọi khác biệt, câu nói này cũng hợp lý. Vừa rồi tôi
nói là giống, câu này hợp lý, bây giờ lại nói không giống, có khác
biệt, câu này cũng hợp lý, cho nên là thường đồng thường
biệt. Thế nên không hợp với hình thức logic, thừa nhận giống nhau tức
không thừa nhận khác biệt, thừa nhận khác biệt thì không thừa nhận giống
nhau. Diệu đức của chư Phật tương chứng, tương đồng, Bồ-tát thành
Phật mỗi người có nguyện lực riêng, cho nên tùy theo nội dung khác nhau
của bổn nguyện mà thành tựu tự nhiên khác nhau. Phát nguyện có lớn
nhỏ, nên quang minh có hơn kém. Bởi vì Pháp Tạng Đại sĩ trong nhân
địa phát nguyện chính là muốn: khi tôi thành Phật, quang minh vô
lượng, vượt hơn quang minh của chư Phật. Nên sau khi thành Phật, Phật
quang tôn quý bậc nhất. Pháp Tạng phát đại nguyện như vậy không phải
là muốn nổi trội, muốn vượt hơn tất cả chư Phật. Nếu có suy nghĩ như
vậy thì đó là ma rồi, đây là vì độ chúng sanh, muốn cho vô lượng
chúng sanh được lợi ích chân thật lớn nhất, nên Ngài mới cần quang
minh vô lượng. Chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở phương Đông, quang minh
của Phật có thể chiếu đến các cõi nước Phật ở phương Đông nhiều không
đếm hết như số cát sông Hằng Ấn Độ. Tam thiên đại thiên thế giới là một cõi
Phật. Nam tây bắc phương, trên dưới và bốn phương phụ chính là mười
phương. Có bốn phương chính, và có bốn phương phụ ở 4 góc, cộng
thêm trên và dưới thì là mười phương. Quang minh của Phật đều có thể chiếu
đến. Hào quang tròn hiện trên đảnh Phật, hào quang tròn lớn nhỏ trên
đảnh của Phật hoặc chiếu một hai ba bốn do tuần, hào quang tròn trên
đảnh Phật, có vị chiếu xa một hai do tuần, vài do tuần, có Phật chiếu
đến trăm ngàn vạn ức do tuần. Quang minh của Phật, có cái chiếu đến
một hai cõi Phật, có cái chiếu đến trăm ngàn cõi Phật, duy chỉ quang
minh của A-di-đà Phật là chiếu khắp đến vô lượng vô biên vô số cõi
Phật. Quang minh của chư Phật chiếu ra có xa có gần, là do đời trước
các Ngài cầu đạo đã phát nguyện có công đức lớn nhỏ không như
nhau. Đến khi thành Phật, sở đắc của mỗi vị không như nhau, cho nên
đã không phát nguyện suông. Thành tựu tự tại không phải do dự trù
trước, đến khi đắc đạo thành Phật thì tự nhiên hình thành nên như
thế, không phải do sự sắp xếp an bài trước đó.
Học tập đoạn kinh văn
bên trên, bạn có cảm ngộ gì? Tương lai chúng ta thành Phật thì
mong muốn quang minh chiếu đến một hai cõi Phật, hay là giống như A-di-đà
Phật, chiếu đến tận hư không khắp pháp giới. Sự việc này là do
mỗi người phát nguyện lớn hay nhỏ mà quyết định. Tâm lượng của bạn
nhỏ, tương lai thành Phật cõi nước sẽ nhỏ, quang minh cũng nhỏ. Tâm
lượng của bạn lớn, tương lai thành Phật cõi nước cũng sẽ lớn, quang minh
cũng lớn. Thế nên về mặt lý mà nói thì hoàn toàn tương đồng, nhưng về
mặt sự thì mỗi người ở nhân địa tu hành phát nguyện không như
nhau. Việc này chúng ta nhất định phải biết, phải ghi nhớ.
Ngày nay, nhà thiên
văn học biết rằng các tiểu hành tinh trong hệ Mặt Trời có đến hàng
vạn cái, tám hành tinh lớn thì tương đối lớn, còn hành tinh nhỏ thì
nhiều, [do] tâm lượng nhỏ nhiều, tâm lượng lớn ít. Địa cầu mà chúng
ta ở không xem là lớn, còn có tinh cầu đường kính chỉ có 20-30
dặm, còn nhỏ hơn một hòn đảo của chúng ta, nơi đó cũng có chúng
sanh, mắt thịt chúng ta nhìn không thấy, người có tâm lượng nhỏ hơn
chúng ta sống ở đó, đây là sự thật. Người có tâm lượng càng
lớn thì ở tinh cầu càng lớn. Thế giới Tây Phương Cực Lạc lớn không
thể nghĩ bàn, đều là những người tâm lượng lớn, tâm thanh tịnh, tâm bình
đẳng vãng sanh đến nơi đó. Phải biết, do công đức phát nguyện lớn nhỏ
không như nhau, thật sự là không như nhau, đến khi thành Phật, quả
báo hiện tiền, nhân và quả nhất định tương ứng. A-di-đà Phật quang
minh thiện hảo, thiện của quang minh, hảo của quang minh vượt hơn ánh
sáng nhật nguyệt ngàn vạn ức lần, cho nên quang minh của Ngài là tôn quý
nhất trong các quang minh, A-di-đà Phật là vua trong các Phật.
Mời xem kinh văn kế
tiếp:
Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, diệc hiệu Vô Lượng Quang
Phật, diệc hiệu Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đẳng Quang
Phật, diệc hiệu Trí Huệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang,
Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất
Tư Nghì Quang.
Trong đoạn kinh văn
này xuất hiện tên gọi của 12 quang minh, 12 quang minh này chính là quang
minh đại viên mãn, một quang minh vì sao lại có 12 tên gọi? Đây là
giải thích cho cụm từ “quang minh thiện hảo” phía trước, thiện ở chỗ nào,
hảo ở chỗ nào? Quang minh của Ngài là vô lượng, không bị suy
thoái, đây là một trong những thiện hảo. Đồng thời, trong vô lượng
quang hàm chứa vô lượng trí tuệ. Quang minh của nhật nguyệt chỉ có ánh
sáng, không có trí tuệ, còn ánh sáng mà Phật phóng ra tràn đầy trí
tuệ, Phật đem trí tuệ Bát-nhã xứng tánh mà chính Ngài tu
được, dùng quang minh chiếu tỏa ra mười phương. Phàm những ai tiếp xúc
được Phật quang thì tiếp xúc được trí tuệ Bát-nhã của Phật, thì đạt
được sự gia trì của trí tuệ trong bổn nguyện của Phật.
Tên của 12 quang minh
này cũng gọi là 12 vị quang Phật, tóm lại đều là danh hiệu của Phật Vô
Lượng Thọ. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Pháp Vương
Tử cùng với 52 vị Bồ-tát cùng địa vị với ngài cùng đến trước
Phật nói hằng sa kiếp quá khứ, cho nên chúng ta nói 10 kiếp là thị
hiện, ở đây lại thêm một chứng minh, có Phật xuất thế tên là Vô Lượng
Quang, bạn xem Phật Vô Lượng Quang chẳng phải đã thành Phật hằng sa
kiếp về trước rồi sao? Mười hai vị Như Lai nối tiếp trong một
kiếp, có 12 đức Như Lai lần lượt thành Phật trong một kiếp, vị Phật
sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang, đức Phật ấy dạy tôi niệm Phật
Tam-muội. Hằng sa kiếp quá khứ, Ngài từ nơi Phật Vô Lượng Quang học
được niệm Phật Tam-muội. Cho nên Đại Thế Chí Bồ-tát là sơ tổ của Tịnh
độ tông, Ngài chuyên tu trì danh niệm Phật.
Tiếp theo chúng tôi sẽ
giảng tương đối tường tận về 12 quang minh, giúp các đồng tu nhận
biết A-di-đà Phật thêm một bước nữa, tăng cường nguyện tâm và tín tâm niệm
Phật cầu sanh Tịnh độ, thân cận A-di-đà Phật của chúng ta.
Thứ nhất là Vô Lượng Quang, đại sư Đàm Loan có làm bài kệ tán A-di-đà
Phật, đối với 12 vị quang Phật, mỗi một vị Phật Ngài đều làm một bài
kệ. Kệ tán Phật Vô Lượng Quang là: quang minh trí tuệ không thể
lường, nên Phật có tên Vô Lượng Quang, các tướng hữu lượng nhờ quang
khai hiểu, thế nên cúi đầu đảnh lễ chân thật minh. Bốn câu này có ý
nghĩa thâm sâu. Lời tán thán này của đại sư khế hợp với bổn tâm của chư
Phật, chỉ ra thể tánh thù thắng của quang minh. Chúng ta đừng đem
quang minh xem thành sự tướng, nên biết rằng quang minh chính là trí
tuệ, trí tuệ và quang minh không hai, vì sao có thể nói như
vậy? Diệu nghĩa thù thắng vô thượng này có thể lý giải từ trong kinh
Thủ Lăng Nghiêm.
Chương Quán Âm Viên
Thông trong kinh nói rằng: Một căn trở về nguồn, thì sáu căn được
giải thoát; Xoay tánh nghe, gốc lòa tiêu trừ; Trần tướng tiêu, giác
tánh viên tịnh; tịnh cùng cực, trí quang thấu suốt, thể tịch chiếu
trùm khắp hư không.
Đại ý trong Kinh
là: từ nhĩ căn quay về nghe nơi tự tánh, đạt đến ngọn nguồn, thì
sáu căn đồng thời đạt được giải thoát. Khôi phục lại tánh nghe thì
thì sáu căn tợ như lòa huyễn kia đột nhiên tiêu trừ, sáu trần ở bên ngoài
đồng thời diệt mất, hiển hiện giác tánh viên tịnh vốn có, thanh tịnh
đạt đến cùng cực thì quang minh vốn có tự nhiên hiện rõ ra, tịch mà
thường chiếu, trùm khắp mười phương hư không.
Đoạn kinh văn này nói
rõ khôi phục tánh nghe thì sáu căn giải thoát, trần tiêu giác tịnh, tịnh
cực quang thông, toàn bộ nêu rõ trí tuệ và quang minh là không hai và
diệu dụng của cả hai.
Những câu kinh văn kế
tiếp sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Vô Lượng Quang. Trong một niệm
trần cấu đều tiêu, chuyển thành tánh viên minh tịnh diệu, còn sót
trần cấu là học vị, sáng suốt cùng tột tức Như Lai.
Trí tuệ và quang minh
đều đến điểm cùng tột thì tức là Như Lai. Căn cứ vào kinh văn trích
dẫn từ Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của trí tuệ
và quang minh trong bài kệ của đại sư Đàm Loan.
Không thể
lường, do vì sáu căn của chúng sanh và sáu trần đều trở thành chướng
ngại, cho nên tất cả đều bị giới hạn, đều có chướng ngại. Phật
là căn và trần đều tiêu trừ, nên giác tánh viên mãn, cho nên tất cả đều vô
ngại, không bị giới hạn, không cách nào ước lượng, cho nên gọi là
không phải hữu lượng, thế nên Phật hiệu là Vô Lượng Quang. Phàm tất
cả căn-tâm-thế giới các tướng hữu lượng đều nhờ Phật quang mà được khai
hiểu, cho nên xin rập đầu đảnh lễ quang minh chân thật ấy, quang minh
ấy gọi là quang minh chân thật. Thế nên chúng ta thấy bài kệ của người
xưa, một chữ cũng không được bỏ qua, chân thật minh chính là nói
quang minh ấy chính là chân thật, cho nên phải lễ kính.
Đặc điểm của kinh Vô
Lượng Thọ chính là ba thứ chân thật: chân thật chi tế, chân thật chi
huệ, chân thật chi lợi. Ở đây đại sư Đàm Loan nói chân thật
minh, Phật quang cũng là chân thật, do đó có thể thấy, y báo chánh
báo của thế giới Cực Lạc là chân thật thuần nhất. Phần trước đã nói
bổn nguyện của đức Di-đà là “tất cả đều thành Phật”, cho nên quang
minh chính là chân thật, chính là Phật.
Thiền sư Đại Huệ của
triều Tống nói rằng: Chỉ dùng quang này tuyên diệu pháp, pháp ấy
chính là quang minh này, không rời quang ấy thuyết pháp này. Tất cả
mọi thứ ở thế giới Cực Lạc đều có thể khiến mọi người tăng trưởng thiện
căn, đều có thể làm Phật sự. Vạn vật trong nước tỏa hương, hương
có thể làm Phật sự. Bóng của cây Bồ-đề có thể khiến người nhìn thấy
được ba loại nhẫn, đều là đang làm Phật sự. Có thể thấy thế giới Cực
Lạc, tất cả đều có diệu dụng, nhưng chỉ có diệu dụng của quang minh là vô
cùng. Mười hai vị Quang Phật đều là hiển thị diệu dụng của Phật
quang. Phật quang là tôn quý nhất trong các quang minh, Phật là vua
trong các Phật, có thể thấy công đức của A-di-đà Phật vượt xa các
Phật khác, bởi vì diệu dụng của Phật quang vượt hơn tất cả.
Lễ Tán nói: Di-đà Thế
Tôn, vốn phát thệ nguyện thâm trọng, dùng quang minh, danh hiệu nhiếp
hóa mười phương. Kinh A-di-đà do đại sư Huyền Trang đời Đường
dịch được gọi là Kinh Xưng Tán Tịnh độ Phật Nhiếp Thọ. Kinh nói rằng:
Đức Như Lai A-di-đà Phật ấy thường phóng vô lượng vô biên diệu
quang, chiếu khắp hết thảy cõi Phật mười phương, làm các Phật
sự. Dẫn chứng ở trên đủ chứng minh Cực Lạc chủ yếu dùng quang minh để
nhiếp hóa chúng sanh, làm các Phật sự, hoàn toàn tương hợp với
câu “chỉ dùng quang ấy tuyên diệu pháp” của Thiền Sư Đại Huệ của
thiền tông. Pháp ấy chính là quang minh này, chính là hiển thị pháp
và quang minh vốn không hai, tức là trí tuệ và quang minh không
hai. Pháp ấy chỉ cho Chân Như và thật tướng các pháp, chính là chân
thật chi tế. Đại sư Đàm Loan xưng Vô Lượng Quang là chân thật
minh, chân thật minh chính là chân thật chi huệ của kinh này, là
quang minh của chân thật chi tế phát ra, thế nên quang minh chính là trí
tuệ.
Không lìa quang ấy
thuyết pháp này, quang ấy chỉ cho Phật quang, là quang minh do bản
thể thanh tịnh phát ra, không lìa quang minh ấy mà nói pháp chân
thật. Quang minh chính là chiếu dụng của chân thật chi tế, chiếu dụng
của bổn thể chính là chân thật chi huệ, nêu rõ quang minh và trí tuệ không
hai. Chỉ dùng quang ấy tuyên diệu pháp, chính là ban cho chân thật
chi lợi, hiển rõ ba thứ chân thật của kinh này. Kinh này nói, người
được Phật quang chiếu đến thảy đều an lạc, từ tâm làm thiện, sanh đến
nước tôi. Lại nói, người gặp được quang minh ấy, cấu diệt thiện sanh,
thân ý nhu nhuyễn, nếu ở nơi ba đường ác thống khổ mà gặp được quang minh
này, đều được ngừng khổ, mạng chung đều được giải thoát. Quán Kinh
lại nói: Quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế
giới, nhiếp thủ chẳng xả, đều ban cho chúng sanh lợi ích chân
thật. Thế nên trong kệ của đại sư Đàm Loan nói rằng: các tướng hữu
lượng nhờ quang khai hiểu. Bởi vì đây là quang minh chân thật của trí tuệ
quang minh không hai, cho nên có thể khai hiểu tất cả tướng hữu
lượng. Từ “khai hiểu” trong bài kệ ở đây có nghĩa là hiển
hiện. Bởi vì chúng sanh cũng là một loại tướng trong tất cả các tướng
hữu lượng, cho nên Phật quang có thể khiến cho tất cả chúng sanh đều
được khai hiểu. “Khai hiểu” ở đây nghĩa là khai thị ngộ nhập Phật tri
kiến, nói cho dễ hiểu thì chính là khai thị cho chúng sanh tỏ ngộ nguồn
gốc, cũng chính là lợi ích chân thật nhờ quang khai ngộ của tất cả
chúng sanh. Do sự tỏ ngộ này mà triệt để hiểu rõ trí tuệ chân thật.
Vãng Sanh Luận Chú của
đại sư Đàm Loan nói rằng: Một chúng sanh nếu gặp được quang minh
củA-di-đà Như Lai, thì mọi thứ trói buộc về ý nghiệp đều có thể giải
thoát, sau cùng được bình đẳng ý nghiệp, sẽ đạt được ý nghiệp bình
đẳng rốt ráo của Như Lai, cũng chính là chính mình và Phật là tâm tâm
tương ấn. Nghĩa là gặp được Phật quang thì đạt được lợi ích chân thật. Cho
nên đại sư Đàm Loan sau cùng muốn cúi đầu đảnh lễ quang minh chân thật
ấy, muốn đảnh lễ Phật quang.
Thứ hai là Vô Biên Quang, Vô Biên Quang biểu thị cho bình đẳng giải
thoát, vạn pháp nhất như. Rất nhiều Cổ Đức giải thích chữ
“biên” là biên giới, vô biên, đó là hiển thị ý nghĩa Phật quang
phổ chiếu rộng lớn vô biên. Duy chỉ có giải thích của đại sư Đàm Loan là
cao hơn một bậc, giải thích chữ “biên” thành nhị biên, biên trong ‘biên
kiến’. Đại sư Đàm Loan trong bài kệ Tán Phật nói rằng: Vầng sáng giải
thoát vô hạn cực, nên Phật hiệu là Vô Biên Quang, nhờ quang xúc chạm
lìa hữu-vô, cho nên đảnh lễ bình đẳng giác.
Đại sư Đàm Loan dùng
từ ‘giải thoát’ để chú giải từ ‘vô biên’, đều thù thắng hơn so với người
khác. Giải thoát là một trong ba đức của Niết-bàn gồm: pháp thân đức,
giải thoát đức, Bát-nhã đức. Pháp thân là người người vốn có, không
thể khế hợp thực tế, hiểu được pháp Chân Như vốn không hai, bất giác
khởi niệm, cho nên rơi vào vô minh, lần lượt trở thành vô lượng phiền
não và trói buộc, nay muốn giải thoát, quay trở về nguồn, nhận ra
pháp thân vốn có, thì phải trừ sạch hết thảy sai biệt, viễn ly hai
bên, hợp với trung đạo, khế hợp Chân Như. Do đó, giải thoát chính là thể
hiện lìa các bên, tuyệt đối đãi. Cho nên đại sư Đàm Loan dùng giải thoát
quang trong 12 quang minh để hiển rõ ý nghĩa sâu xa của vô biên
quang, đây là tầng nghĩa thứ nhất.
Tầng nghĩa thứ
hai, luân nghĩa là vật tròn, ví dụ bánh xe của xe đạp, bánh xe
là hình tròn, trong bánh xe có rất nhiều căm xe, nếu thiếu đi vài căm
thì không dùng được, cho nên luân là biểu thị cho viên mãn, đầy
đủ. Vì vậy “vầng sáng giải thoát” chính là nói rõ sự đầy đủ viên mãn
của giải thoát đức. Vô hạn tề, hạn là giới hạn, tề là như
nhau, cho nên vô hạn tề là không có giới hạn, cũng không có sự vô
giới hạn nào có thể tương đồng với nó, thế nên gọi là vô biên, đây là
tầng nghĩa thứ hai.
Tầng nghĩa thứ
ba, nhờ quang xúc chạm lìa hữu-vô, hữu là một bên, vô là một
bên, con người đều ở trong biên kiến, hoặc là nói có, hoặc là
nói không, nhưng Phật quang vừa chiếu thì lìa khỏi hai bên
hữu-vô, lìa khỏi tất cả bên, các bên và chính giữa đều lìa
hết. Hết thảy đều không hai, khế hợp trung đạo, rốt ráo giải
thoát, cho nên gọi là giải thoát quang. Đây mới chính là bổn ý thù
thắng của vô biên quang, đây cũng chính là câu “được quang chiếu
đến thì đạt được ý nghiệp bình đẳng rốt ráo của A-di-đà Phật” mà Luận Chú
nói. Trong bình đẳng thì đương nhiên không có sai biệt của hết thảy
biên kiến.
Tầng nghĩa thứ
tư, “cho nên cúi đầu đảnh lễ bình đẳng giác”, bình đẳng giác chính là
A-di-đà Phật, Kinh Vô Lượng Thọ bản dịch thời Hán tên là Kinh Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác, cho nên vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác cũng
chính là danh hiệu của A-di-đà Phật. Giác chính là Phật, bản kinh
dịch thời Hán xưng A-di-đà Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, còn gọi
là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác, chính là Vô Lượng Thọ Phật, chính là
A-di-đà Phật.
Đại ý của bài kệ này
của đại sư Đàm Loan là: Vô Biên Quang chính là viễn ly hữu
vô, tất cả các bên v.v… mà được giải thoát, viên mãn đầy
đủ, chính là viên chứng giải thoát đức trong ba đức của
Niết-bàn. Diệu dụng của quang này không có giới hạn, hết thảy quang
đều không thể sánh bằng, sánh được với nó. Phàm người được quang này chiếu
chạm đến đều lìa khỏi các bên hữu-vô, đắc được lợi ích chân thật của
giải thoát, cho nên chúng ta đảnh lễ Vô Lượng Thọ Phật, bình đẳng giác.
Thứ ba là Vô Ngại Quang, là thể tịch. Thể là thanh tịnh tịch
diệt, diệu dụng tự tại, không có chướng ngại. Thế nên Phật quang soi
chiếu, thân tâm tự tại, nhập vào cửa giải thoát, được đại tự tại. Ánh
sáng nhật nguyệt soi chiếu thế nào cũng không thể chiếu ra sự tự
tại, đây chính là chỗ tốt lành của Phật quang.
Đại sư Đàm Loan có kệ
rằng: Mây quang vô ngại như hư không, nên Phật có hiệu Vô Ngại
Quang, hết thảy hữu ngại nhờ quang thấm nhuần, cho nên đảnh lễ Nan Tư
Nghì.
Vô ngại nghĩa là tự
tại vô ngại, không có chướng ngại mới có thể tự tại. Ngược lại, nơi
nơi đều bị ngăn lại, đều có ràng buộc, trói buộc thì không tự tại
rồi. Thứ vô ngại nhất trên thế gian là hư không, quang minh và mây mà
A-di-đà Phật phóng ra cũng giống như hư không vậy, không có bất kỳ
chướng ngại nào, cho nên Phật quang còn có hiệu là vô ngại quang.
Bổn Sư Thế Tôn nói
rằng: Ta là Pháp Vương, tự tại đối với pháp, cho nên Phật quang hết
thảy đều vô ngại. Chúng sanh đang mê, đang trong vòng trói buộc, nơi
nơi đều là chướng ngại. Những chúng sanh khổ nạn bị chướng ngại
này nếu có thể được Phật quang chiếu đến, đều nhận được ân trạch của
Phật quang thì chướng ngại tiêu trừ, đủ chứng minh cho bi tâm nguyện
lực của Phật, diệu dụng của Phật quang đều không thể nghĩ
bàn, cho nên chúng ta phải nên đảnh lễ.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ đối với 4 câu kệ của đại sư Đàm Loan giải thích như sau: Ý
nghĩa của nó là, quang minh như hư không, nên không chướng ngại, bổn
thể thường tịch, diệu dụng vô cùng, tự tại vô ngại, quang minh chiếu
khắp, tất cả hữu ngại, hữu ngại là hữu tình, chỉ cho chúng sanh
trong mười pháp giới. Chúng sanh trong mười pháp giới đều nhận được
lợi ích của quang minh, cho nên gọi là nan tư nghì, vì vậy đảnh lễ nan tư
nghì.
Nan tư nghì là không
thể nghĩ bàn, không cách nào tưởng tượng. Phật quang soi chiếu, gia trì
chúng sanh, chúng sanh rất nhiều, đạt được lợi ích gia trì không như
nhau, có người được lợi ích lớn, có người được lợi ích nhỏ, lợi
ích lớn là khai ngộ, lợi ích nhỏ tâm thanh tịnh bình đẳng, lợi ích
lớn là giác, những thứ này đều có thể giúp chúng ta kiên định tín tâm
đối với Tịnh độ, giúp chúng ta kiên định nguyện tâm cầu sanh Tịnh
độ, đây là không thể nghĩ bàn, đều nhận được lợi ích của quang
minh. Niệm Lão dùng bảy câu nói, hai mươi tám chữ giải thích bốn câu
kệ của đại sư Đàm Loan, [quả là] tinh diệu cùng cực, tuyệt diệu chí
cực. Giải thích này cũng là không thể nghĩ bàn, chúng ta cũng phải
nên đảnh lễ.
Thứ tư là Vô Đẳng Quang, là thắng nghĩa vô đẳng vô đối, chính
là thù thắng đến cùng cực, không có gì ngang bằng được, không có gì
sánh nổi được, hiển thị rằng nó thật sự là quang minh tôn quý
nhất. Hai bản dịch thời Đường và Tống đều dịch là Vô Đẳng Quang, bản
dịch thời Ngụy là Vô Đối Quang. Đối là so sánh, đẳng là ngang
bằng, đều có nghĩa là tương đương, tương đồng. Vô đẳng và vô
đối chỉ là dịch giả dùng từ không như nhau, cho nên có thể dẫn dụng
bài kệ tán thán Vô Đối Quang của đại sư Đàm Loan: quang minh thanh
tịnh không gì sánh, nên Phật có hiệu Vô Đối Quang, gặp được quang ấy
nghiệp đều trừ, thế nên đảnh lễ Tất Cánh Y.
Tâm Phật thanh tịnh,
cho nên Phật quang thanh tịnh, quang minh thanh tịnh của Phật, không
có bất kỳ quang minh nào có thể ngang bằng và sánh được, cho nên gọi
là Vô Đối Quang, không có thứ sánh bằng, đây là tuyệt đãi, thì
không có đối đãi. Dùng văn tự lời nói để giải thích từ tuyệt đãi thì
không rõ ràng, miễn cưỡng mà nói thì có chút giống với từ tuyệt đối
dùng trong thế gian, tuyệt đối thì không có đối đãi. Thế nhưng mọi
người phải biết, tuyệt đối mà bạn nói sớm đã là tương đối rồi, tuyệt
đối và tương đối chính là một cặp, nó có đối lập, việc này ngôn ngữ
diễn đạt không nổi, những đạo lý này chỉ có chính mình chân thật dụng
công, chân thật tham cứu, chứ thứ từ cửa đi vào thì chẳng phải của
báu trong nhà. Những thứ mà mọi người nghe được, thấy được đều từ các
cửa mắt, tai v.v… mà vào, đây không phải là trân bảo của nhà bạn.
Trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Phật hỏi ngài Văn-thù: “Ông có phải là Văn-thù
không?” Văn-thù Đại sĩ trả lời: “Con thật Văn-thù, không phải
Văn-thù, nếu là Văn-thù thì hai Văn-thù”. Ý nghĩa ở đây tuyệt
đãi rồi. Bồ-tát Văn-thù nói: Con thật là Văn-thù, không có gì gọi là
Văn-thù, nếu như là Văn-thù thì có hai Văn-thù rồi. Văn-thù thật thì
không có gì là phải hay không phải. Nói phải nói trái thì sớm đã rơi vào
hai ba thứ rồi, cho nên Vô Đẳng Quang không có đối đãi, nêu rõ chân
thật chi tế của kinh này.
Chúng ta từ đâu mà thể
hội? Để có thể hiểu dễ dàng hơn một chút thì cần phải từ trên tánh
đức mà thể hội, trong tất cả pháp thế xuất thế gian, chỉ có tự tánh
là tuyệt đãi, là vô đẳng. Hết thảy pháp thế xuất thế gian đều lưu xuất
ra từ trong tự tánh, lìa khỏi tự tánh thì không có một pháp nào có thể
đắc. Đại sư Huệ Năng ở Hoàng Mai nói rằng: Xưa nay không một vật, nơi
nào dính bụi nhơ. Đây là tuyệt đãi, đây là vô đối, vô đẳng, đây
là thiên cổ tuyệt cú. Do đây có thể biết, cảnh giới của ngài Thần Tú
đã không thấp rồi, nhưng vẫn là hữu đẳng, hữu đối. Đại sư Huệ Năng
sau khi sửa lại thì quả thật là vô đẳng vô đối, sửa rất hay. Chúng ta
từ nơi này mà thể hội, khi chân thật thể hội được rồi thì phải dùng
được. Nếu học rồi mà không dùng được thì như học uổng công, học rồi
có thể dùng, vậy thì thật sự học hiểu rõ rồi. Dùng như thế nào? Buông
xuống. Chẳng những là hết thảy pháp hữu vi như mộng huyễn bọt bóng mà
pháp vô vi cũng không ngoại lệ. Vô vi từ đâu mà đến? Từ hữu vi kiến
lập nên. Đối lập với hữu vi là vô vi, thật sự có thể như lời đại sư
nói: xưa nay không một vật. Vô vi vốn không một vật, hữu vi vốn
cũng không một vật. Những hiện tượng này chỉ là huyễn tướng mà
thôi. Kinh Kim Cang nói rất hay: như mộng huyễn bọt bóng. Mộng huyễn
bọt bóng có hay không? Không thể nói nó có, cũng không thể nói nó
không có. Có câu: mở miệng liền sai, động niệm liền trật. Hễ bạn động
ý niệm thì nghĩ sai rồi, bạn khởi vọng tưởng rồi. Bạn muốn mở miệng
thì nói sai rồi, không được mở miệng, đây gọi là tuyệt đường ngôn ngữ, bặt
dấu tâm hành, diệu, rất là diệu. Ở đây dạy chúng ta điều gì? Dạy
chúng ta trong cuộc sống thường ngày, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu
trần, phải học vô đẳng quang. Chính là phải học: xưa nay không
một vật, chỗ nào dính bụi nhơ. Thế pháp, Phật pháp vốn là một pháp.
Xin nói một chút nhận
thức và thể hội của tôi đối với hai câu này của đại sư Huệ Năng. Tôi
vô cùng thích câu thiên cổ tuyệt cú này, đối với đại sư Huệ Năng khâm phục
năm vóc sát đất, người có thể có được cảnh giới như vậy, nói ra câu
nói tuyệt như thế là người như thế nào? Câu trả lời của tôi là: không phải
Phật thì là ai đây? Đẳng giác Bồ-tát cũng nói không ra nổi, chỉ có
Diệu Giác Bồ-tát có thể nói ra được. Vì sao tôi nói như vậy? Mọi
người nghĩ xem, nơi nào mà không một vật? Trong Thường Tịch Quang thì
không một vật. Chúng ta là từ trong Kinh Phật mà biết được, chứ không
phải do chúng ta đích thân chứng. Đại sư Huệ Năng không biết chữ, không
học qua Kinh Phật, Ngài có thể nói ra câu: Xưa nay không một vật, nói
rõ điều gì? Nói rõ Ngài đã khế nhập được cảnh giới ấy. Nói chính xác
hơn một chút là đích thân ngài đã chứng được. Cho nên Phật dạy chúng
ta tín giải hành chứng, chứng sau cùng rất quan trọng. Bài kệ này của
đại sư Huệ Năng mọi người đã quá quen thuộc rồi, theo thể hội của cá
nhân tôi, một là chẳng hiểu nghĩa chân thật của Như Lai, chỉ là đọc
hiểu trên văn tự, thật sự là quá cạn cợt. Thứ hai là chỉ thưởng thức
mà không biết dùng, xin nêu một ví dụ cho việc không biết dùng của
tôi.
Cách đây vài ngày đã
gặp một việc thế này, tôi đã sanh một chút phiền não nhỏ, tâm tình
phiền muộn mất mấy ngày. Nghe đến đây, có lẽ có đồng tu thấy kỳ
lạ, Cô Lưu, sao cô vẫn phiền não, vẫn phiền muộn vậy? Nói với
các bạn, tuyệt đối đừng mê tín tôi, đừng thần thánh hóa tôi, đừng
quên rằng, tôi cũng là một phàm phu xác thịt thai phàm, là một bà lão
bình thường ở vùng Đông Bắc đã về hưu, là một bà lão chăm chỉ nghiêm túc
học Phật. Đúng thật là vậy. Hai câu nói này của đại sư Huệ Năng đã
thật sự thức tỉnh tôi, xưa nay không một vật, lời ngài nói bạn đều
nghe không hiểu, vậy khác gì Ngài không nói đâu? Nghe hiểu rồi còn
không một vật huống gì nghe không hiểu, chẳng phải càng không có một vật
đó sao? Câu chuyện của tôi bạn đã nghe hiểu chưa? Xưa nay không một
vật, bạn cứ muốn đi tìm, tìm không ra một vật, bạn sanh phiền
não rồi. Thật không có trí tuệ, kẻ ngu tự chuốc phiền.
Tiết học hôm nay xin
giao lưu đến đây. Cảm ơn mọi người. A-di-đà Phật!